Kéo dài gần 5 năm, Hội nghị Paris là cuộc đấu trí quyết liệt
giữa một nền ngoại giao non trẻ với một nền ngoại giao lão luyện của siêu cường
hàng đầu thế giới.
Việc Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam được ký kết vào ngày 27/1/1973 đã tạo thế xoay chuyển có lợi
cho cách mạng Việt Nam, dẫn đến ngày toàn thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn
miền nam, thống nhất đất nước; đồng thời đánh dấu mốc son trong trang sử vàng
chói lọi của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam.
Hiệp định Paris là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên, toàn diện
và đầy đủ nhất ghi nhận các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, là sự công nhận
chính thức của thế giới đối với nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam.
Cuộc đàm phán để đi đến ký kết Hiệp định diễn ra chính thức
tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Kléber ở Paris, Pháp, kéo dài 4 năm 8 tháng 14
ngày. Ðây là cuộc thương lượng ngoại giao gắn liền với những diễn biến trên chiến
trường, hết sức cam go, dài nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam.
Sáng ngời bản lĩnh ngoại giao Việt Nam
Hội nghị Paris đã tôi luyện nên những nhà ngoại giao xuất sắc
trong thời đại Hồ Chí Minh, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của ngoại giao
cách mạng Việt Nam. Khó khăn đến ngay từ những phiên họp đầu tiên khi Mỹ cố
tình phủ nhận vai trò đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt
Nam.
Tuy nhiên, với sự cương quyết và khéo léo của các nhà đàm
phán, đoàn Việt Nam đã giành được ưu thế trong giai đoạn đầu của cuộc đấu
tranh, đấu trí đầy căng thẳng này.
Theo cuốn sách “50 năm Hiệp định Paris: Những bài học quý
giá”, do Bộ Ngoại giao chủ biên, Trưởng phái đoàn đàm phán Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình cho biết: “… từ tháng
5-10/1968, tại Hội nghị với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, phía Mỹ đã rất gay gắt về
vấn đề vai trò của đoàn Mặt trận, cho rằng Mặt trận là “người của miền bắc”.
Phía ta nêu rõ, Mặt trận là đại diện cho nhân dân miền nam
đang trực tiếp chống xâm lược Mỹ, đương nhiên phải là một bên đàm phán. Còn
chính quyền Sài Gòn là do Mỹ dựng lên, là tay sai của Mỹ. Do lập trường cương
quyết của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Mỹ buộc phải ngồi nói chuyện
chính thức với Mặt trận và từ tháng 6/1969 là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam”.
Ðây được coi là thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược, bởi
với thắng lợi này, dân tộc Việt Nam có hai đoàn đàm phán tại Hội nghị Paris, tạo
nên thế trận “tuy hai mà một, tuy một mà hai”, phối hợp chặt chẽ, góp phần quan
trọng củng cố sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh gian khổ nhưng đầy vinh
quang giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Hiệp định Paris là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh
trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, với việc vận dụng nhuần
nhuyễn sách lược “vừa đánh, vừa đàm” phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa đấu
tranh trên chiến trường với đấu tranh trên bàn đàm phán.
Hiệp định Paris là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh
trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, với việc vận dụng nhuần
nhuyễn sách lược “vừa đánh, vừa đàm” phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa đấu
tranh trên chiến trường với đấu tranh trên bàn đàm phán.
Tháng 12/1972, chính quyền Nixon tổ chức chiến dịch đánh phá
bằng máy bay chiến lược B52 với quy mô chưa từng có trong lịch sử chiến tranh
không quân ở miền bắc Việt Nam, nhằm gây tổn thất lớn nhất có thể, ép Việt Nam
Dân chủ cộng hòa chấp nhận điều kiện của Mỹ tại bàn đàm phán Paris.
Quân và dân Việt Nam kiên quyết giáng trả, đập tan cuộc tập
kích bằng không quân chiến lược 12 ngày đêm của đế quốc Mỹ, làm nên chiến thắng
lịch sử “Ðiện Biên Phủ trên không”. Bị thất bại nặng nề, ngày 30/12/1972, đế quốc
Mỹ buộc phải đơn phương tuyên bố ngừng ném bom miền bắc Việt Nam từ bắc vĩ tuyến
20 và đề nghị nối lại đàm phán ở Paris.
Ngày 23/1/1973, Mỹ chấp nhận ký Hiệp định Paris không điều
kiện; Cố vấn đặc biệt Ðoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa Lê Ðức
Thọ và Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Kissinger tiến hành ký tắt Hiệp định và 4 Nghị
định thư.
Với bà Nguyễn Thị Bình, ngày 27/1/1973 là “ngày không thể
nào quên”. Trong cuốn sách “Mặt trận Dân tộc Giải phóng - Chính phủ Cách mạng
lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam”, bà Nguyễn Thị Bình chia sẻ: “Ðặt bút
ký vào bản Hiệp định Paris lịch sử, tôi rất xúc động, nghĩ đến miền Nam, nghĩ đến
đồng bào, đồng chí, đến gia đình, đến bạn bè trên cả hai miền Nam-Bắc… Trong đời
tôi, đây là vinh dự lớn được thay mặt nhân dân và các chiến sĩ cách mạng miền
Nam Việt Nam đấu tranh trực diện với Mỹ tại Paris, được thấy niềm tự hào vinh
quang cùng với ân tình sâu đậm mà cả thế giới dành cho cuộc chiến đấu anh dũng
của nhân dân ta. Tôi vô cùng biết ơn Bác Hồ và cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Ðảng,
Mặt trận và Chính phủ Cách mạng lâm thời đã tin cậy giao cho tôi một nhiệm vụ
khó khăn nhưng rất vẻ vang này”.
Hiệp định Paris đã góp phần tạo nên bước ngoặt rất quan trọng
trong cuộc kháng chiến của dân tộc ta, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Từ
Hiệp định này, đế quốc Mỹ đã phải cuốn cờ rút khỏi Việt Nam, từ đó mở ra cục diện
chính trị và chiến trường thuận lợi để quân và dân ta giành thêm nhiều thắng lợi
hơn nữa, dẫn đến ngày toàn thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống
nhất đất nước.
Chiến thắng của niềm tin vào chính nghĩa
Những năm tháng gian khổ nhưng đầy hào hùng trong suốt quá
trình diễn ra Hội nghị Paris đã khắc họa nên hình ảnh một dân tộc Việt Nam anh
dũng, kiên cường, trong đó có những nhà ngoại giao ưu tú vượt qua mọi khó khăn,
vất vả nơi đất khách quê người để ngăn máu tiếp tục đổ trên quê hương.
Sự ủng hộ hết lòng của bạn bè quốc tế đối với cuộc đấu tranh
chính nghĩa của dân tộc Việt Nam cũng là điều mà các thế hệ lãnh đạo và nhân
dân Việt Nam luôn khắc ghi trong tim.
Sự ủng hộ hết lòng của bạn bè quốc tế đối với cuộc đấu tranh
chính nghĩa của dân tộc Việt Nam cũng là điều mà các thế hệ lãnh đạo và nhân
dân Việt Nam luôn khắc ghi trong tim. Ðiều đó được thể hiện rõ ràng khi làn
sóng biểu tình phản chiến đã diễn ra với quy mô lớn tại nhiều nước, cùng với sự
tham gia của hàng triệu nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế
giới.
Vượt qua mọi khác biệt về màu da, tôn giáo, ngôn ngữ và khoảng
cách địa lý, nhiều người dân tại các châu lục đã xuống đường biểu tình, ủng hộ
Việt Nam, yêu cầu Mỹ chấm dứt chiến tranh.
Ðáng chú ý, phong trào phản đối chiến tranh xâm lược Việt
Nam đã hình thành và phát triển mạnh mẽ ngay trong lòng nước Mỹ. Nhớ về những
năm tháng đó, bà Nguyễn Thị Bình kể lại: “Ðặc biệt là trên khắp nước Mỹ, phong
trào chống chiến tranh càng lên cao. Suốt tháng 4 và tháng 5 (năm 1971), hầu
như không ngày nào không có những cuộc đấu tranh của nhân dân Mỹ chống chiến
tranh bằng mọi hình thức…
Sự chống đối của các cựu chiến binh Mỹ càng nói lên cuộc chiến
tranh của chính quyền Mỹ ở Việt Nam không được lòng dân Mỹ và nhân dân thế giới”.
Sự ủng hộ nhiệt thành của bạn bè quốc tế đã truyền đi sức mạnh cổ vũ to lớn
giúp nhân dân Việt Nam ở cả hai miền vững tâm chiến đấu và đoàn đàm phán Hiệp định
Paris kiên trì giành được thắng lợi.
Nhà hoạt động cánh tả nổi tiếng người Mỹ Merle Ratner, người
đã tham gia nhiều hoạt động phản đối chiến tranh và xuống đường biểu tình chống
chiến tranh tại Việt Nam, từng chia sẻ: “Khi phong trào phản chiến ngày càng
lan rộng, nhiều người trong chúng tôi không chỉ đơn thuần phản đối cuộc chiến
tranh của Mỹ mà bắt đầu tìm hiểu lý do tại sao người dân Việt Nam đấu tranh cho
độc lập và tự do của họ.
Mặc dù sự ủng hộ của người dân Mỹ và quốc tế là một yếu tố
giúp Việt Nam đạt những mục tiêu đó, chúng tôi hiểu rằng chính là do người dân
Việt Nam đã có thể kết hợp đấu tranh vũ trang quần chúng, đấu tranh chính trị
và văn hóa trong một chiến lược thống nhất để có thể tăng cường sức mạnh cho
các lực lượng giải phóng của mình…”.
Hơn 50 năm đã trôi qua, nhưng những kinh nghiệm và bài học
quý giá đúc rút từ quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Paris vẫn
mãi trường tồn và có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển
và bảo vệ Tổ quốc ngày nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét