Về cơ bản, khái niệm “tự chủ chiến lược” phản ánh khả năng của một quốc gia trong việc theo đuổi, triển khai chính sách đối ngoại phục vụ lợi ích quốc gia và các ưu tiên đã xác định mà không bị ràng buộc, tác động bởi bất kỳ quốc gia nào khác(4). Hay nói một cách khác, tự chủ chiến lược là việc các nước đưa ra những lựa chọn chỉ “đơn thuần dựa trên lợi ích quốc gia”(5). Song, tự chủ chiến lược không có nghĩa là tự cô lập, hay theo đuổi chính sách biệt lập. Khả năng tự chủ của các quốc gia cũng không phải trạng thái cố định hay độc lập một cách tuyệt đối. Có nhiều mức độ tự chủ được ghi nhận, trải rộng từ không có quyền tự chủ (thấp nhất) đến tự chủ về mặt chiến lược (cao nhất), và có thể với những cấp độ giữa là tự chủ mang tính hạn chế, tự chủ đáng kể nhưng vẫn bị giới hạn và tự chủ trong nhiều vấn đề, thậm chí có tầm ảnh hưởng tới các quốc gia nhỏ hơn, nhưng vẫn bị giới hạn khi tương tác với các nước lớn hơn(6). Ngoài ra, tự chủ chiến lược cũng có nhiều khía cạnh, như tự chủ về chính trị, về kinh tế…
Do
tính chất đặc điểm có phần trái ngược mà các xu thế về tự chủ chiến lược cùng
các mối đe dọa ANPTT đã tạo ra tình thế tiến thoái lưỡng nan cho các quốc gia
trong khu vực. Các quốc gia dường như phải đối mặt với lựa chọn: hoặc duy trì
quyền tự chủ truyền thống dựa trên sự tự lực, hoặc xây dựng các chính sách hợp
tác nhằm xử lý các thách thức chung đến từ các vấn đề ANPTT. Điều này làm thay
đổi cách tiếp cận truyền thống về quyền tự chủ, buộc các quốc gia phải cân bằng
giữa nhu cầu bảo vệ chủ quyền và sự phụ thuộc lẫn nhau.
Tại
khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nơi có sự đa dạng về năng lực và lợi ích
quốc gia, các thách thức ANPTT không chỉ làm xói mòn các khái niệm tự chủ truyền
thống mà còn thúc đẩy sự hợp tác khu vực như một chiến lược cần thiết để tăng
cường khả năng ứng phó. Ví dụ, biến đổi khí hậu (BĐKH) đã đẩy các quốc đảo nhỏ
phải tìm kiếm hỗ trợ từ các nước lớn, đồng thời tham gia vào các khuôn khổ hợp
tác quốc tế nhằm tăng cường khả năng chống chịu. Tương tự, sự gia tăng các cuộc
tấn công mạng buộc các quốc gia, như Nhật Bản, Ấn Độ và Australia phải đầu tư
vào các sáng kiến đa phương, như hợp tác an ninh mạng trong khuôn khổ Đối thoại
an ninh tứ giác (QUAD)(7). Thực tiễn đó đặt ra câu hỏi, liệu có phải
các thách thức ANPTT là trở ngại cho khả năng tự chủ và rộng hơn là xu thế tự
chủ chiến lược của các quốc gia? Tuy nhiên, có một thực tế khác không thể không
thừa nhận, khả năng tự chủ của các quốc gia cũng sẽ không được bảo đảm nếu như
các thách thức an ninh, trong đó có ANPTT, không được giải quyết một cách hiệu quả.
Mọi thách thức an ninh đều là những uy hiếp đối với sự tồn tại của quốc gia,
các thách thức ANPTT cũng vậy. Do đó, sự tự chủ của quốc gia cần phải được xây
nên trước tiên bằng những nỗ lực giải quyết các thách thức đó. Vô hình trung, hợp
tác để giải quyết các thách thức ANPTT trở thành tiền đề cho sự tự chủ của quốc
gia. Nói cách khác, khả năng tự chủ của các quốc gia và chủ thể trong khu vực cần
được xác định không chỉ bởi sự tự lực mà còn bởi khả năng phối hợp để giải quyết
các thách thức phi truyền thống mang tính toàn cầu. Vấn đề sẽ là, sự phối hợp
và hợp tác quốc tế trong đối mặt với các thách thức ANPTT cần ở mức độ nào,
theo phương cách ra sao để không cản trở khả năng tự chủ chiến lược của các quốc
gia; đâu là những nhân tố có thể tác động để hỗ trợ hài hòa hai mặt của vấn đề.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét