Thứ Tư, 19 tháng 11, 2025

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỆ THỐNG BẰNG CHỨNG TÊN GỌI “VIỆT NAM” TRƯỚC NĂM 1804!

     Tổng cộng 8 nguồn mạnh, trong đó có 4 văn bia, 1 bài thơ vua Lê Thánh Tông, 1 tác phẩm Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhiều văn chương hành chính.

I. NĂM 1470 - BÀI THƠ CỦA LÊ THÁNH TÔNG: BẰNG CHỨNG SỚM NHẤT

1. Hải Vân hải môn lữ thứ - Lê Thánh Tông (1470)

Nguồn: Bài thơ vua Lê Thánh Tông sáng tác khi thân chinh Chiêm Thành.
Tư liệu: Hải Vân hải môn lữ thứ 海雲海門旅次
Câu quan trọng:
海雲横界越南天
Hải Vân hoành giới Việt Nam thiên
→“Núi Hải Vân vạch ngang ranh giới trời Việt Nam.”
Ý nghĩa:
- Xuất hiện sớm nhất (1470).
- Do vua Lê Thánh Tông - người lập ra Hồng Đức - viết.
- Cách dùng xác định Việt Nam là tên quốc gia chứ không phải tên vùng.
Đây là bằng chứng “Kim chỉ nam”:
→ Danh xưng Việt Nam có trước triều Nguyễn hơn 330 năm.

II. THẾ KỶ 16 - DƯỚI TRIỀU MẠC

2. Bia Trùng tu Bảo Lâm tự bi ký - 1559 (triều Mạc)
Câu quan trọng:
越南大名藍不知其幾
“Danh lam nước Việt Nam không biết bao nhiêu mà kể.”
Ý nghĩa:
- Dùng bốn chữ Việt Nam đại danh lam.
 Văn bia do quan Đông Các hiệu thư soạn.
- Khẳng định ý thức quốc danh giữa thế kỷ 16.

3. Bài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - khoảng 1577

Tác phẩm: Quy lão ký Lại bộ Thượng thư Tô Khê Bá
Câu quan trọng:
前後相將照越南
“Trước hay sau cũng đều chiếu sáng khắp Việt Nam.”
Ý nghĩa:
- Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình) dùng Việt Nam như tên nước.
- Xuất hiện trong văn chương trí thức, không phải văn tế hay địa danh.

4. Bia Cam Lộ tự bi - 1590
Dựng đời Mạc Mậu Hợp.
Đoạn văn:
…向陽花草易為春, 直越南之第一
“…Thật là cảnh đệ nhất của nước Việt Nam.”

Ý nghĩa:
- Dùng trong văn bia ca ngợi danh lam.
- Cách dùng như quốc danh chính thức, không mơ hồ.

III. THỜI LÊ TRUNG HƯNG - THẾ KỶ 17

5. Bia Trùng tu Đại Bi tự - 1639

Do Tiến sĩ Ngô Nhân Triệt soạn.
Câu:
真越南, 第一也
“Thật là bậc nhất Việt Nam.”
Ý nghĩa:
- Lại một văn bia dùng Việt Nam như tên nước.
- Thuộc giới khoa bảng, người soạn là Tiến sĩ.

6. Bia Vân La tự bi - 1655

Do Tiến sĩ Dương Cảo biên soạn.
Câu quan trọng:
越南之貴, 京北承宣
“Ấy quý Việt Nam, thừa tuyên Kinh Bắc.”

Ý nghĩa:
- Kết hợp địa danh Kinh Bắc + Việt Nam → hoàn toàn theo cách đặt tên quốc gia.
- Khẳng định ý niệm Việt Nam = tên nước.

7. Bia Thể tồn bi ký (Thủy Môn đình bi ký) - 1670

Niên hiệu Cảnh Trị thứ 8, Lê Huyền Tông.

Câu đầu bài minh:
越南喉舌. 鎮北隘關.
“Yết hầu Việt Nam. Ải quan trấn Bắc.”

Ý nghĩa:
- Văn bia tại cửa ải biên giới, chức năng quốc phòng.
- Dùng Việt Nam trong văn bản mang tính hành chính - quân sự, chứ không phải thơ văn.
- Giá trị sử liệu đứng hàng đầu.

Đây là bằng chứng buộc phải dùng trong mọi nghiên cứu về quốc hiệu.

IV. THẾ KỶ 18 

8. Bài “Việt Nam vịnh” của Ngô Thì Nhậm (TK 18)

Dùng “越南詠” - bài thơ về Việt Nam.

 Ý nghĩa:
- Trí thức Bắc Hà dùng Việt Nam như tên quốc gia.
- Xu hướng ổn định trong văn chương và thư tịch.

V. Ý NGHĨA HỌC THUẬT – CHÍNH TRỊ

Việt Nam không phải tên mới năm 1804.

Tên gọi này đã xuất hiện liên tục hơn 330 năm trước triều Nguyễn.

Có mặt trong:
- Thơ vua
- Thơ trí thức
- Văn bia
- Văn bản hành chính

Không có bằng chứng nào cho thấy Gia Long “đặt” ra tên Việt Nam. Tấu chương 1804 chỉ là: 
- Gia Long xin Nam Việt
- Thanh triều đổi thành Việt Nam (đảo thứ tự)
- Một tên đã tồn tại hàng trăm năm.

VII. KẾT LUẬN 

Danh xưng Việt Nam là tài sản lịch sử của người Việt, xuất hiện từ thời Lê Thánh Tông (1470), được sử dụng suốt thời Mạc – Lê – Lê Trung Hưng, và được triều Nguyễn chính thức hóa lại vào năm 1804, chứ không hề được “khai sinh” bởi vua Gia Long./.

Yêu nước ST.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét