Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

Khỏe để sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ biển, đảo Tổ quốc.

 Thời gian qua, Lữ đoàn 167 (Vùng 2 Hải quân) đã đẩy mạnh phong trào rèn luyện thể lực, tập luyện thể thao rộng khắp trong toàn đơn vị. Hoạt động thể dục, thể thao không chỉ góp phần nâng cao sức khỏe của cán bộ, thủy thủ mà còn tạo dựng tinh thần lạc quan, hăng say học tập, huấn luyện, công tác cho bộ đội theo phương châm “Khỏe để sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ biển, đảo Tổ quốc”.

Cuối buổi chiều, trên sân thể thao trung tâm của Lữ đoàn 167, đông đảo cán bộ, thủy thủ đã ngay ngắn tập trung theo đội hình trung đội, sẵn sàng cho các bài huấn luyện ngoại khóa bổ sung như vượt hàng rào thép gai, vượt vật cản tường 1,1 m, chạy 100 m, nhảy xa, vượt vật cản Hải quân,… Sau các động tác khởi động theo quy định, những chiến sĩ trẻ tự tin thực hiện các nội dung rèn luyện thể lực một cách thuần thục, dứt khoát, bảo đảm an toàn luyện tập.

Được biết, đã thành nền nếp, hằng ngày, ở tất cả các sân chơi thể thao của Lữ đoàn 167, đội ngũ cán bộ chỉ huy các cấp đều cùng tham gia tập luyện, thi đấu với thủy thủ, chiến sĩ. Bên cạnh các môn thể thao phổ biến như bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông, đơn vị còn duy trì một số trò chơi thể thao quân sự trong giờ nghỉ, ngày nghỉ giúp hạn chế tình trạng “xả hơi” trong thời gian rảnh rỗi, ngăn chặn những nguy cơ dẫn đến vi phạm kỷ luật của bộ đội. Bên cạnh đó, các trò chơi thể thao quân sự còn giúp rèn luyện giác quan, ý chí quyết tâm giành chiến thắng và gắn kết tinh thần đồng đội.

Để phong trào rèn luyện thể lực, luyện tập thể thao có điều kiện lan tỏa sâu rộng, Lữ đoàn đã trích quỹ, đầu tư mua nguyên vật liệu, huy động công sức bộ đội tự gia công, thiết kế các trang thiết bị, hạng mục phục vụ nhu cầu tập luyện thể thao như: Sân tennis, sân bóng đá, sân bóng chuyền, khu tập thể lực, khu luyện tập vượt vật cản… Không chỉ duy trì luyện tập, các cơ quan, đơn vị còn thường xuyên tổ chức thi đấu giao lưu với nhau, với các đơn vị kết nghĩa.

Theo đồng chí Thượng tá Lê Đức Thảnh, Phó Lữ đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Lữ đoàn 167, xuất phát từ đặc thù của đơn vị tàu chiến đấu mặt nước hiện đại của Quân chủng Hải quân, rèn luyện thể lực, luyện tập thể thao là hoạt động không thể tách rời của huấn luyện chiến đấu tại Lữ đoàn. Việc tham gia chơi thể thao vừa để rèn luyện vừa là thời gian thư giãn. Đây cũng là dịp giúp đơn vị phát hiện những cá nhân có năng khiếu để bồi dưỡng, huấn luyện, xây dựng lực lượng nòng cốt tham gia hội thao các cấp.

Với sự quan tâm thường xuyên của lãnh đạo, chỉ huy các cấp, phong trào rèn luyện thể lực, tập luyện thể thao đã và đang lan tỏa rộng khắp trong toàn Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân; trở thành “món ăn” không thể thiếu hàng ngày của mỗi cán bộ, thủy thủ, chiến sĩ. Hiệu quả tích cực từ phong trào đã góp phần nâng cao sức khỏe của bộ đội, bồi dưỡng tinh thần lạc quan, hăng say học tập, huấn luyện; nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của toàn Lữ đoàn.

Dưới đây là một số hình ảnh về hoạt động rèn luyện thể lực, tập luyện và thi đấu thể dục thể thao tại Lữ đoàn 167, Vùng 2 Hải quân với phương châm “Khỏe để sẵn sàng chiến đấu và bảo vệ biển, đảo Tổ quốc”:

 Thi đấu bóng chuyền tại Lữ đoàn 167 (Vùng 2 Hải quân).
Hướng dẫn kỹ thuật xuất phát môn vượt vật cản hải quân.
Luyện tập vượt vật cản tường 1.1m.
Chiến sĩ trẻ Lữ đoàn 167 thi đấu nội dung chạy 100m. 
 Nỗ lực cán đích...
 Chiến sĩ luyện tập nội dung leo dây ngang.
Nỗ lực luyện tập nội dung vượt hàng rào thép gai.
Tích cực luyện tập nội dung nhảy xa. 
 Lực lượng Quân y luôn sẵn sàng để bảo đảm an toàn trong các giờ luyện tập và thi đấu thể dục, thể thao.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và chào mừng ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam có bài viết quan trọng "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Xuất phát từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam, bài viết của Tổng Bí thư đặt ra nhiều vấn đề vừa trước mắt vừa cơ bản, lâu dài. Một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cốt tủy của bài viết là tác giả chỉ rõ dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác, Ăng-ghen, Lê-nin sáng lập, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội và định hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nêu lên những gam màu chủ đạo như là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định "chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ðảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi". Một luận điểm căn cốt trong bài viết của người đứng đầu Ðảng ta là: "Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh".

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm cung cấp thêm những luận cứ khoa học để củng cố niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng phát triển một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường, cùng nhịp bước với thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc ta.

Như chúng ta đều biết, các phong trào giải phóng dân tộc theo con đường phong kiến và con đường tư sản cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều không giành được thắng lợi. Hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đó thiếu một giai cấp tiên tiến đủ sức lãnh đạo cách mạng, dẫn tới sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.

Trong khi các con đường cứu nước chưa tìm được lối ra, với lòng nồng nàn yêu nước thương dân, khát vọng giải phóng dân tộc, Nguyễn Tất Thành tự chọn con đường đi của mình. Thông qua tìm hiểu các con đường cứu nước khác nhau, khảo sát, hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận, đến tận các nước tư bản phát triển, sống trong phong trào công nhân và các dân tộc bị áp bức, nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới, cuối cùng sau mười năm tìm đường, Nguyễn Ái Quốc đã chọn giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định chỉ chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Nhớ lại con đường từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lê-nin, Người nói "Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những cuộc cách mạng tư bản, tuy thành công nhưng không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, nhưng kỳ thực thì nó vẫn đi tước đoạt công nông, áp bức thuộc địa, nhân dân vẫn cực khổ, lo tính cách mạng lần nữa. Từ thực tiễn sống động đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc".

Cần phải nhắc lại rằng 72 năm từ lúc thực dân Pháp xâm lược đến khi Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thời gian đủ để khảo nghiệm các con đường cứu nước. Trong các con đường đó có cả con đường tư sản với những gương mặt tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Nhưng như chính Phan Bội Châu đã tự nói về mình, "rằng đời tôi trăm thất bại mà không một thành công, là bởi tôi có lòng mà thật bất tài". Cái "bất tài" mà cụ Phan nói đến là cụ chưa nhận ra con đường tư sản không phù hợp với xu thế của lịch sử lúc bấy giờ, không hợp quy luật khách quan trong thời đại mới được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười. Phan Bội Châu nói đại ý rằng, hiện nay đã có người khác giỏi hơn chúng tôi nhiều đứng ra đảm đương công việc để làm trọn cái việc mà lớp chúng tôi không làm xong. Ðó chính là Nguyễn Ái Quốc. Nếu Nam Ðàn có Thánh thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ không phải là ai khác. Phan Châu Trinh cũng đặt kỳ vọng khi khẳng định Nguyễn Ái Quốc như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông. Nhắc lại sự kiện đó để chúng ta có cơ sở chắc chắn bác bỏ ý kiến cho rằng chúng ta đã chọn con đường đi sai.

Năm 1930, trong các văn kiện thành lập Ðảng, Hồ Chí Minh khẳng định "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Ðó chính là độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Một trong những vấn đề lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, với xã hội Việt Nam thuộc địa, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì, tức là độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.

Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam từ khi có Ðảng. Nhờ sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã giành được thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một đột phá lý luận rất cơ bản, thể hiện bản lĩnh, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng ta.

Cống hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ khẳng định tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và văn hóa, phát triển, tiến bộ không ai ngăn cản được, mà còn sớm trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", đi đến khẳng định đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Người, chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng; là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do; là gắn với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ không có người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con. Chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, địa vị cao nhất là dân;...

Chủ nghĩa xã hội trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội do nhân dân làm chủ và là chủ, quyền lực thuộc về nhân dân; một xã hội vì con người, do con người; con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Ðảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, bảo đảm tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội như vậy bao gồm phát triển kinh tế, văn hóa, đạo đức, xã hội và môi trường, cho hôm nay và mai sau. Với tầm nhìn khởi xướng sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu, phát triển kinh tế đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, chữa bệnh, Hồ Chí Minh đặt nền móng cho phát triển bền vững khi Người chú trọng ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường với những quan điểm về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, quan tâm giáo dục tiểu học, thực hiện bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, phòng, chống bệnh tật, chăm lo sức khỏe cho bà mẹ và nhân dân, hợp tác kinh tế quốc tế, thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Di sản Hồ Chí Minh đặt nền móng và là chỉ dẫn để Ðảng ta đề ra cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.

Hồ Chí Minh là một nhà lý luận - thực tiễn. Dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng và hành động của Người luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, nhận thức đúng và hành động theo quy luật khách quan. Người đưa ra hệ giải pháp khoa học để thực hiện có hiệu quả mục đích của chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do điểm xuất phát thấp của một nước nông nghiệp lạc hậu, khoa học - kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ chúng ta không được chủ quan, nóng vội, duy ý chí; không giáo điều, bảo thủ; không rập khuôn, máy móc. Phải làm dần dần từng bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Tự lực cánh sinh kết hợp với học hỏi sáng tạo kinh nghiệm các nước, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Ðảng. Xây dựng và phát huy nhân tố con người có hàm lượng cao về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, bản lĩnh, tư duy đổi mới, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học - kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng, nhân văn, hướng đến các giá trị chân - thiện - mỹ. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội phải gắn kết chặt chẽ giữa xây cái đúng, cái tốt, cái đẹp với chống cái sai, cái ác, cái xấu, đặc biệt phải xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu và những hư hỏng, bệnh tật khác.

Hồ Chí Minh là nhà tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn sâu sát, khoa học. Nhờ tư tưởng, đạo đức, phong cách và phương pháp của Người trong chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội mà chỉ trong khoảng mười năm (1954 - 1964), miền bắc đã tiến những bước dài chưa từng có. Ðất nước, xã hội và con người đều đổi mới. Thành quả của chủ nghĩa xã hội không chỉ là mong ước tốt đẹp của dân tộc ta, mà đó còn là giá trị đích thực của chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo nên sức mạnh và nguồn cảm hứng to lớn đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng bè bạn quốc tế.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được hình thành, từng bước phát triển từ thập kỷ 20 của thế kỷ 20, nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị, mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại. Qua 35 năm đổi mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước đã tiến những bước dài chưa từng có, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Ðại hội XIII của Ðảng khẳng định: "Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

Với tư cách là một nhà biện chứng, có tầm dự báo chiến lược thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước nhiệm vụ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là rất to lớn, nặng nề, khó khăn, phức tạp. Người coi đó là một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Theo Người, muốn giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ đó, phải tập trung trước tiên là chỉnh đốn lại Ðảng với tư cách là Ðảng cầm quyền; giữ gìn sự đoàn kết trong Ðảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; thực hành dân chủ rộng rãi; thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Phải chăm lo công việc đối với con người, chú trọng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vừa hồng vừa chuyên. Cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Ðó cũng chính là những khía cạnh căn cốt mà Ðại hội XIII của Ðảng đề cập, được Tổng Bí thư nhấn mạnh trong phần cuối của bài viết theo tinh thần "Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững đã và đang được những nhà cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học".

                                                                                        Nguon: nhandan.vn

Nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên.

 Trung tâm Bảo đảm kỹ thuật, Vùng 2 Hải quân tổ chức Hội thi Báo cáo viên năm 2024. Thượng tá Lại Thế Công, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Trung tâm dự và chỉ đạo Hội thi.

Thí sinh tham gia phần thi thực hành thuyết trình theo đề cương đã soạn

Tham gia Hội thi có 30 thí sinh là bí thư, phó bí thư chi bộ, đảng bộ bộ phận, các đồng chí là cán bộ chính trị của cơ quan, đơn vị trong toàn Trung tâm. Hội thi có 3 phần thi: Phần thi chuẩn bị đề cương, thi nhận thức, thi thực hành thuyết trình và trả lời câu hỏi của Ban Giám khảo.

Cùng với việc đánh giá thực chất hoạt động tuyên truyền, khả năng thuyết trình, đây còn là dịp để các báo cáo viên gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng, làm cơ sở để tuyển chọn những thí sinh tiêu biểu tham gia Hội thi báo cáo viên cấp Vùng… Do đó, Ban tổ chức và Ban giám khảo Hội thi yêu cầu các thí sinh duy trì, chấp hành đúng các quy định, quy chế đề ra, bảo đảm đúng mục đích, ý nghĩa, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền cho cán bộ, chiến sĩ tại các cơ quan, đơn vị và toàn Trung tâm.

 Trao giải cho các thí sinh đạt giải cao trong Hội thi

Trung tá Nguyễn Trường Thiệp, Chính trị viên Trạm 96 cho biết: “Từ ý nghĩa quan trọng của Hội thi, tôi có bước chuẩn bị đề cương nghiêm túc và nỗ lực luyện tập nên đã hoàn thành tốt phần thi của mình. Qua Hội thi, tôi đúc kết nhiều kinh nghiệm làm cơ sở để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ báo cáo viên, tuyên truyền viên tại đơn vị”.

Nhờ làm tốt công tác chuẩn bị, với tinh thần trách nhiệm và sự nỗ lực, quyết tâm cao, các thí sinh đã hoàn thành tốt các nội dung thi. Đặc biệt, trên cơ sở đề cương được chuẩn bị kỹ lưỡng, kết hợp minh họa bằng hình ảnh sống động và kỹ năng trình chiếu powerpoint; phần thi thuyết trình của các thí sinh được trình bày ngắn gọn, cô đọng, để lại ấn tượng sâu sắc cho Ban Giám khảo Hội thi.

Bế mạc Hội thi, Ban tổ chức đã trao 02 giải Nhất, 02 giải Nhì, 04 giải Ba và 02 giải Khuyến khích cho các thí sinh có kết quả cao. Đồng thời thành lập đội tuyển, tiếp tục ôn luyện và tham gia hội thi cấp Vùng năm 2024./.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và chào mừng ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam có bài viết quan trọng "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Xuất phát từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam, bài viết của Tổng Bí thư đặt ra nhiều vấn đề vừa trước mắt vừa cơ bản, lâu dài. Một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cốt tủy của bài viết là tác giả chỉ rõ dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác, Ăng-ghen, Lê-nin sáng lập, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội và định hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nêu lên những gam màu chủ đạo như là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định "chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ðảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi". Một luận điểm căn cốt trong bài viết của người đứng đầu Ðảng ta là: "Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh".

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm cung cấp thêm những luận cứ khoa học để củng cố niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng phát triển một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường, cùng nhịp bước với thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc ta.

Như chúng ta đều biết, các phong trào giải phóng dân tộc theo con đường phong kiến và con đường tư sản cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều không giành được thắng lợi. Hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đó thiếu một giai cấp tiên tiến đủ sức lãnh đạo cách mạng, dẫn tới sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.

Trong khi các con đường cứu nước chưa tìm được lối ra, với lòng nồng nàn yêu nước thương dân, khát vọng giải phóng dân tộc, Nguyễn Tất Thành tự chọn con đường đi của mình. Thông qua tìm hiểu các con đường cứu nước khác nhau, khảo sát, hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận, đến tận các nước tư bản phát triển, sống trong phong trào công nhân và các dân tộc bị áp bức, nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới, cuối cùng sau mười năm tìm đường, Nguyễn Ái Quốc đã chọn giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định chỉ chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Nhớ lại con đường từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lê-nin, Người nói "Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những cuộc cách mạng tư bản, tuy thành công nhưng không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, nhưng kỳ thực thì nó vẫn đi tước đoạt công nông, áp bức thuộc địa, nhân dân vẫn cực khổ, lo tính cách mạng lần nữa. Từ thực tiễn sống động đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc".

Cần phải nhắc lại rằng 72 năm từ lúc thực dân Pháp xâm lược đến khi Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thời gian đủ để khảo nghiệm các con đường cứu nước. Trong các con đường đó có cả con đường tư sản với những gương mặt tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Nhưng như chính Phan Bội Châu đã tự nói về mình, "rằng đời tôi trăm thất bại mà không một thành công, là bởi tôi có lòng mà thật bất tài". Cái "bất tài" mà cụ Phan nói đến là cụ chưa nhận ra con đường tư sản không phù hợp với xu thế của lịch sử lúc bấy giờ, không hợp quy luật khách quan trong thời đại mới được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười. Phan Bội Châu nói đại ý rằng, hiện nay đã có người khác giỏi hơn chúng tôi nhiều đứng ra đảm đương công việc để làm trọn cái việc mà lớp chúng tôi không làm xong. Ðó chính là Nguyễn Ái Quốc. Nếu Nam Ðàn có Thánh thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ không phải là ai khác. Phan Châu Trinh cũng đặt kỳ vọng khi khẳng định Nguyễn Ái Quốc như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông. Nhắc lại sự kiện đó để chúng ta có cơ sở chắc chắn bác bỏ ý kiến cho rằng chúng ta đã chọn con đường đi sai.

Năm 1930, trong các văn kiện thành lập Ðảng, Hồ Chí Minh khẳng định "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Ðó chính là độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Một trong những vấn đề lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, với xã hội Việt Nam thuộc địa, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì, tức là độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.

Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam từ khi có Ðảng. Nhờ sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã giành được thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một đột phá lý luận rất cơ bản, thể hiện bản lĩnh, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng ta.

Cống hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ khẳng định tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và văn hóa, phát triển, tiến bộ không ai ngăn cản được, mà còn sớm trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", đi đến khẳng định đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Người, chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng; là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do; là gắn với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ không có người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con. Chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, địa vị cao nhất là dân;...

Chủ nghĩa xã hội trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội do nhân dân làm chủ và là chủ, quyền lực thuộc về nhân dân; một xã hội vì con người, do con người; con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Ðảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, bảo đảm tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội như vậy bao gồm phát triển kinh tế, văn hóa, đạo đức, xã hội và môi trường, cho hôm nay và mai sau. Với tầm nhìn khởi xướng sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu, phát triển kinh tế đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, chữa bệnh, Hồ Chí Minh đặt nền móng cho phát triển bền vững khi Người chú trọng ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường với những quan điểm về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, quan tâm giáo dục tiểu học, thực hiện bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, phòng, chống bệnh tật, chăm lo sức khỏe cho bà mẹ và nhân dân, hợp tác kinh tế quốc tế, thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Di sản Hồ Chí Minh đặt nền móng và là chỉ dẫn để Ðảng ta đề ra cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.

Hồ Chí Minh là một nhà lý luận - thực tiễn. Dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng và hành động của Người luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, nhận thức đúng và hành động theo quy luật khách quan. Người đưa ra hệ giải pháp khoa học để thực hiện có hiệu quả mục đích của chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do điểm xuất phát thấp của một nước nông nghiệp lạc hậu, khoa học - kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ chúng ta không được chủ quan, nóng vội, duy ý chí; không giáo điều, bảo thủ; không rập khuôn, máy móc. Phải làm dần dần từng bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Tự lực cánh sinh kết hợp với học hỏi sáng tạo kinh nghiệm các nước, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Ðảng. Xây dựng và phát huy nhân tố con người có hàm lượng cao về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, bản lĩnh, tư duy đổi mới, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học - kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng, nhân văn, hướng đến các giá trị chân - thiện - mỹ. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội phải gắn kết chặt chẽ giữa xây cái đúng, cái tốt, cái đẹp với chống cái sai, cái ác, cái xấu, đặc biệt phải xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu và những hư hỏng, bệnh tật khác.

Hồ Chí Minh là nhà tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn sâu sát, khoa học. Nhờ tư tưởng, đạo đức, phong cách và phương pháp của Người trong chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội mà chỉ trong khoảng mười năm (1954 - 1964), miền bắc đã tiến những bước dài chưa từng có. Ðất nước, xã hội và con người đều đổi mới. Thành quả của chủ nghĩa xã hội không chỉ là mong ước tốt đẹp của dân tộc ta, mà đó còn là giá trị đích thực của chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo nên sức mạnh và nguồn cảm hứng to lớn đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng bè bạn quốc tế.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được hình thành, từng bước phát triển từ thập kỷ 20 của thế kỷ 20, nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị, mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại. Qua 35 năm đổi mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước đã tiến những bước dài chưa từng có, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Ðại hội XIII của Ðảng khẳng định: "Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

Với tư cách là một nhà biện chứng, có tầm dự báo chiến lược thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước nhiệm vụ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là rất to lớn, nặng nề, khó khăn, phức tạp. Người coi đó là một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Theo Người, muốn giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ đó, phải tập trung trước tiên là chỉnh đốn lại Ðảng với tư cách là Ðảng cầm quyền; giữ gìn sự đoàn kết trong Ðảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; thực hành dân chủ rộng rãi; thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Phải chăm lo công việc đối với con người, chú trọng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vừa hồng vừa chuyên. Cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Ðó cũng chính là những khía cạnh căn cốt mà Ðại hội XIII của Ðảng đề cập, được Tổng Bí thư nhấn mạnh trong phần cuối của bài viết theo tinh thần "Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững đã và đang được những nhà cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học".

                                                                                        Nguon: nhandan.vn

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, có nội dung rộng lớn, phong phú, phức tạp. Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng ta luôn bổ sung, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề này một lần nữa được làm sâu sắc hơn trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy chè Sen Cha, Công ty cổ phần đầu tư phát triển chè Tam Đường ở xã Bản Bo, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy chè Sen Cha, Công ty cổ phần đầu tư phát triển chè Tam Đường ở xã Bản Bo, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất nước, từng bước xây dựng, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có quan niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trước đây quan niệm về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn bộc lộ một số hạn chế; về cơ bản chưa đề ra được cách thức, biện pháp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hệ quả, kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX.


Để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới (năm 1986), mà trước hết là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chính vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lần đầu tiên Đảng ta phác thảo ra mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua các kỳ Đại hội sau đó, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(1). Vấn đề này một lần nữa được làm sáng rõ, sâu sắc hơn trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.


Trước hết, nội dung trong tác phẩm đã khẳng định tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”(2).


Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và bằng cách nào để đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam là một vấn đề không hề đơn giản cả về lý luận và thực tiễn, “đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam”(3). Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(4).


Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho rằng, để chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, lạc hậu lên hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ quá độ dài hay ngắn tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, cách thức, biện pháp đi lên xây dựng chế độ mới của từng quốc gia - dân tộc. Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào? Đây là vấn đề không đơn giản, bởi trước đổi mới chúng ta còn nhiều hạn chế trong nhận thức và hành động, muốn đốt cháy giai đoạn. Tổng kết thực tiễn cách mạng, nhất là thực tiễn của công cuộc đổi mới xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...”(5). Vì vậy, “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách chống phá nên càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”(6).


Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải thực hiện đồng thời các phương hướng, nhiệm vụ:


Một là, “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”(7). Đây là nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ, chuẩn bị đầy đủ điều kiện kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội. Để chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trước hết phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, trong đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là nội dung cốt lõi để thực hiện mục tiêu đó, nhất là trong điều kiện chịu tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thì vai trò của kinh tế tri thức ngày càng quan trọng. Để thực hiện mục tiêu này, phải phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.


Hai là, “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(8). Cùng với quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng đúng, đầy đủ, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, thì nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng từng bước được hình thành và phát triển. Theo đó, “đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”(9).


Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại cảng Hải Phòng_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn


Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại cảng Hải Phòng_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn chỉ rõ, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”(10).


Ba là, “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”(11). Xây dựng nền văn hóa và con người xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ quá độ lên xây dựng chế độ mới. Xóa bỏ những tàn dư, yếu tố văn hóa lạc hậu cản trở sự phát triển của xã hội; giữ gìn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”(12).


Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người. Vì vậy, trong phát triển kinh tế phải gắn với nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Theo đó, “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(13).


Bốn là, “bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(14). Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, phương châm đặt ra cần thực hiện là phải bảo đảm tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đây là điều kiện góp phần ổn định chính trị, xã hội để phát triển đất nước trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.


Năm là, “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(15). Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc và lợi ích của toàn nhân loại. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”(16).


Sáu là, “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại”(17). Dân chủ hóa đời sống xã hội đang là xu thế chung của sự phát triển loài người. Để thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo ra sự đồng thuận xã hội, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”(18). 


Bảy là, “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”(19). Cùng với quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì nhận thức về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng từng bước được hình thành và phát triển. Theo đó, “chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(20). Vì vậy, “chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”(21).


Tám là, “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”(22). Yếu tố quyết định nhất của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải xây dựng Đảng xứng đáng là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý phát triển đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa… Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa,... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”(23). 


Như vậy, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phải xác định đúng đặc điểm, nội dung, thực chất của thời kỳ quá độ, để từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện đúng định hướng. Đây là thời kỳ có sự đấu tranh, đan xen giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh thành tựu, những mặt tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. “Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(24). Đây là những chỉ dẫn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt trong nhận thức và hành động để từng bước hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

                                                                                                                        Nguon: Baokhanhhoa.vn