Thứ Năm, 7 tháng 5, 2020

Tài sản bất minh và những “ngọn đèn pha soi sáng”


Tài sản bất minh và những “ngọn đèn pha soi sáng”

 

Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn luôn là một giải pháp quan trọng trong tổng thể các biện pháp phòng, chống tham nhũng. Nhất là hiện nay, khi diễn ra đại hội đảng các cấp thì việc kê khai, kiểm soát tài sản của nhân sự cấp ủy, đặc biệt là cấp Trung ương luôn là vấn đề dư luận rất quan tâm.

Trong bài viết quan trọng mới đây về công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Không để lọt vào Ban chấp hành Trung ương khóa XIII những người kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc…”.
Lương hơn chục triệu đồng, sao nhiều tiền, nhiều nhà đất thế?
Nhấn mạnh của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về vấn đề tài sản của cán bộ không chỉ là căn cứ quan trọng để lựa chọn nhân sự đại hội, mà còn là sự khẳng định dứt khoát loại bỏ những người không đủ tư cách, đạo đức, nhất là người tham ô, tham nhũng vào trong bộ máy; qua đó, chọn lựa được đội ngũ cán bộ vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc.
Yêu cầu của người đứng đầu Đảng, Nhà nước là vấn đề cụ thể nhưng có tính định hướng cao về chiến lược cán bộ nói chung, nhân sự đại hội nói riêng. Bởi vì, qua kiểm chứng, để thấy được tư cách cán bộ là người có trung thực không; tài sản, thu nhập ấy có minh bạch, chính đáng, có nguồn gốc rõ ràng hay không; có tham ô, tham nhũng, có lợi dụng chức quyền để trục lợi hay không?… Ông Nguyễn Túc, Ủy viên Ðoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cho rằng, chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cũng chính là mong muốn của mỗi người dân. Bởi vì, trong thực tế, “nhiều người sau khi được bổ nhiệm làm cán bộ, với quyền cao, chức trọng, thay vì tu dưỡng đạo đức, ra sức phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân thì lại chỉ chăm chăm vun vén bổng lộc, tài sản cho cá nhân, gia đình và người thân”-ông Nguyễn Túc nêu.
Có thể thấy rằng, trong những năm qua, đặc biệt là nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta rất chú trọng công tác kiểm tra, kiểm soát tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì động cơ vụ lợi. Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ: “Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản, thu nhập theo quy định; xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải trình và giám sát việc tăng, giảm tài sản của cán bộ, đảng viên. Cơ quan đề xuất đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải tiến hành thẩm định, xác minh, đánh giá tính trung thực của việc kê khai tài sản, thu nhập và công khai theo quy định”. Ngày 23-5-2017, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 85-QĐ/TW về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, thể hiện tinh thần nêu gương và yêu cầu nêu gương đối với cán bộ cấp cao trong công tác kê khai và kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định pháp luật, bảo đảm thực hiện có hiệu quả việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ trong hệ thống công vụ…
Từ các chủ trương, quy định đó, việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức quyền trong những năm qua đã chuyển biến nhất định, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập vẫn tồn tại không ít hạn chế, bất cập. Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng (2006-2016) nhận định: “Việc kê khai tài sản, thu nhập còn nặng về hình thức; hầu hết các bản kê khai chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng; chưa giúp cho các cơ quan chức năng kiểm soát được những biến động về tài sản của người có chức vụ, quyền hạn”. Hằng năm, việc kê khai được làm rất nghiêm túc, đầy đủ. Số lượng người kê khai luôn đạt hơn 99%; kê khai đúng thời kỳ, đúng thời hạn nộp. Tuy nhiên, tính hiệu quả của việc kê khai, để phát hiện những bất thường, thậm chí tài sản tham nhũng để xử lý, thu hồi vẫn còn rất thấp. 
Trong khi đó, thực tế có nhiều cán bộ quyền cao, chức trọng, giàu nhanh chóng với khối tài sản lớn, sở hữu nhiều biệt phủ, siêu xe, vật dụng xa xỉ… Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ khoá XII đến nay, đã có gần 100 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý bị kỷ luật, thậm chí bị xử lý hình sự, trong đó có những cán bộ liên quan đến tham ô, tham nhũng với số tiền lên đến hàng triệu USD. Ông Nguyễn Túc nêu câu hỏi: “Cán bộ lãnh đạo, quản lý, hưởng lương theo quy định của Nhà nước chỉ có hơn chục triệu đồng, mà sao gia đình, con cái, người thân nhiều tiền, nhiều đất đai đến thế? Rồi, vợ, chồng, con cái cũng chỉ làm công nhân, viên chức mà lại sở hữu xe sang, biệt thự, thậm chí như dư luận từng phản ánh có trường hợp sở hữu cả resort? Có trường hợp cán bộ để vợ, con lợi dụng làm ăn, lập dự án, kiếm tiền thiếu minh bạch”.
Sở dĩ việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập theo quy định còn nặng về hình thức là do nhiều nguyên nhân. Trong đó, các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa đủ mạnh để kiểm soát; việc xác định đối tượng kê khai, trình tự, thủ tục giải trình, xác minh tài sản, thu nhập và thẩm quyền của cơ quan chức năng có trách nhiệm phát hiện, xử lý vi phạm… còn bất cập; chưa có cơ chế hữu hiệu trong việc công khai bản kê khai tài sản nhằm phát huy sự giám sát của xã hội đối với tài sản của người có chức vụ, quyền hạn… Thực trạng đó cần phải có giải pháp đồng bộ, đột phá để tạo chuyển biến trong công tác này ngay khi diễn ra đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng.
Dựa vào dân - “ngọn đèn pha soi sáng”
Trước hết, có thể khẳng định, tài sản do tham nhũng đem lại gắn liền với cán bộ có chức, có quyền và do bị tha hóa. Theo V.I.Lenin thì, nguyên nhân của quan liêu, tham nhũng bắt nguồn từ tư tưởng thích chức quyền, ham địa vị, ham lợi, ham giàu sang phú quý, “ăn trên ngồi trốc”... của một tầng lớp gồm những người trong ngành hành chính có chức, có quyền được hưởng một địa vị đặc quyền so với nhân dân. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo và lên án mạnh mẽ những biểu hiện của sự tha hóa quyền lực trong không ít cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Trong ba kẻ thù “nội xâm” là tham ô, lãng phí và quan liêu, Người coi tham ô là kẻ thù nguy hiểm nhất, bởi đó là hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội. Nó nguy hiểm đến mức mà Người từng xếp căn bệnh này ngang hàng với tội phản quốc.
Cũng đề cập về vấn đề này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã khẳng định: “Quyền lực luôn có nguy cơ bị "tha hóa", tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực, cho nên, phải thiết lập cho được một cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn theo nguyên tắc, mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu, trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao, trách nhiệm càng lớn. Do vậy, phải tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát để bảo đảm quyền lực được vận hành công khai, minh bạch, đúng đắn, không bị "tha hóa".
Việc kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập của những cán bộ có chức, có quyền chính là giải pháp để ngăn ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, chống lại sự “tha hóa quyền lực”. Một trong những kênh quan trọng hàng đầu để kiểm soát quyền lực nói chung và tài sản của cán bộ, công chức nói riêng là từ nhân dân. Thực tế vừa qua, chính người dân, có thể trực tiếp hoặc thông qua báo chí, công luận, thậm chí mạng xã hội, đã góp phần vạch trần những khối tài sản lớn, bất minh của một số cán bộ, giúp cơ quan chức năng đưa ra ánh sáng và xử lý người vi phạm. Sinh thời, Bác Hồ luôn đề cao vai trò của quần chúng trong đấu tranh chống “thứ giặc ở trong lòng”. Người chỉ rõ: “Làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng trăm, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”.
Để phát huy vai trò của nhân dân trong công tác giám sát việc kê khai, kiểm soát tài sản của cán bộ, điều tiên quyết là cần có cơ chế hữu hiệu, khả thi để người dân tiếp cận được với thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Mặc dù chúng ta đã có chủ trương về công khai bản kê khai tài sản của công chức nhưng khi thực hiện vẫn chưa rộng rãi, thông tin kê khai về cơ bản vẫn chỉ “khép kín”. Theo TS Đinh Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Thanh tra Chính phủ) thì có hai nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này: Một là, về mặt kỹ thuật, với một số lượng bản kê khai tài sản quá lớn như hiện nay thì việc công khai tại nơi cứ trú là điều không hề đơn giản. Công khai ở đâu? Hình thức như thế nào? Ai là người thực hiện? Chi phí sẽ là bao nhiêu để công khai hơn một triệu bản kê khai?... Thứ hai, quan trọng hơn, là sự lo ngại về việc bảo đảm an toàn cho người có tài sản cả về tinh thần và vật chất. Việc bất kỳ một người nào đó biết được tài sản của công chức sẽ có thể dẫn đến nguy cơ sử dụng thông tin đó với dụng ý xấu hay vào việc bất minh. 
Những khó khăn này rất cần được các cơ quan chức năng nghiên cứu để có cách giải quyết, vừa bảo đảm sự tiếp cận của người dân với thông tin về tài sản của công chức, cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa bảo đảm an toàn cho người kê khai.
Để khắc phục tình trạng kê khai tài sản còn mang nặng tính hình thức và kiểm soát chặt chẽ, hiệu quả hơn thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức cần phải có cơ quan đủ thẩm quyền, một đầu mối thống nhất để hoạt động. Đó phải là cơ quan hoặc đơn vị chuyên trách, có trách nhiệm và năng lực tiếp nhận, rà soát, xác minh thông tin tài sản của cán bộ, công chức.
Giải pháp rất cần thiết để tăng tính tự giác, trung thực của người kê khai tài sản là xử lý nghiêm minh nếu phát hiện vi phạm. Một trong những nội dung đáng chú ý trong dự thảo Nghị định về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ quyền hạn, đó là khi sự thiếu trung thực bị phát hiện, hình thức xử phạt sẽ rất nặng. Đối với cán bộ, công chức có thể bị buộc thôi việc; cán bộ lãnh đạo, quản lý có thể bị bãi nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Nói về việc kê khai và kiểm soát thu nhập, tài sản của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy, chúng ta cũng không được “đánh đồng” và “vơ đũa cả nắm” với những thu nhập, tài sản chính đáng, tường minh. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói rằng, vấn đề kê khai tài sản cán bộ là vấn đề rất khó, nhạy cảm bởi nó liên quan đến quyền đời tư, quyền bí mật cá nhân. Vì vậy, phải được tiến hành thận trọng, đúng quy định, nhất là trong bối cảnh đang diễn ra đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. "Chìa khóa" để giải quyết hiệu quả vấn đề này là phải dựa vào tai mắt và sức mạnh của nhân dân. Ông Nguyễn Túc khi đề cập đến kinh nghiệm này, đã khẳng định: “Để có thể phát hiện những người giàu nhanh, bất thường, nhiều nhà, nhiều đất thì không chỉ dựa vào bộ máy Đảng, Nhà nước mà quan trọng nhất là phải dựa vào dân. Bác Hồ đã từng nói: Có khó khăn gì, cứ về hỏi dân”.

Giữ gìn bản sắc văn hóa-bảo vệ nền tảng tinh thần xã hội


Giữ gìn bản sắc văn hóa-bảo vệ nền tảng tinh thần xã hội

 

Lợi dụng chủ trương hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới của Đảng, Nhà nước Việt Nam, các thế lực thù địch càng có cơ hội đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, nhằm phủ nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam, thay đổi theo chiều hướng tiêu cực nền tảng tinh thần của xã hội.

Từ đó, hướng tới âm mưu tạo ra những cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng nhung” nhằm thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. Hơn lúc nào hết, việc giữ gìn bản sắc văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội-cần được đẩy mạnh, củng cố niềm tin cho nhân dân vào con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.
Bài học lớn từ quá khứ
Năm 1991, Liên bang Xô viết chính thức sụp đổ. Đó là mất mát vô cùng lớn lao đối với phong trào cộng sản trên toàn thế giới. Tuy nhiên, đó cũng là bài học kinh nghiệm rất có giá trị đối với những đất nước tiếp tục vững bước tiến lên theo con đường CNXH như Việt Nam. Một trong những bài học kinh nghiệm rút ra từ việc Liên bang Xô viết sụp đổ là sự xâm thực về văn hóa, dẫn tới thay đổi về nền tảng tinh thần xã hội.
Cuối năm 1958, Liên Xô và Hoa Kỳ thống nhất việc tổ chức hai cuộc triển lãm tại thành phố New York và thủ đô Moscow nhằm thúc đẩy giao lưu văn hóa và sự hiểu biết lẫn nhau. Đây được coi là một sự kiện gây chấn động thế giới, bởi hai quốc gia siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ đối nghịch về nền tảng chính trị và có những khác biệt rất lớn về văn hóa. Sau này, triển lãm của Liên Xô tại thành phố New York không được đề cập nhiều nhưng triển lãm của Hoa Kỳ lại gây tiếng vang đáng kể.
Tại công viên Sokolniki ở thủ đô Moscow, Hoa Kỳ đã quảng bá văn hóa, công nghệ cũng như các sản phẩm tiêu dùng, từ ô tô, đồ uống đến nghệ thuật, thời trang và kiến trúc. Nhiều nhà tài trợ và doanh nghiệp lớn nổi tiếng của xứ cờ hoa, như: Disney, Dixie Cup Inc, IBM, Pepsi… đều có gian hàng trưng bày sản phẩm. Ngày 24-7-1959, trước khi triển lãm Moscow chính thức khai mạc, Phó tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã mời nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev tham quan các gian hàng. Họ dừng lại trước một căn bếp-nơi trở thành “hiện trường” cho cuộc tranh luận nổi tiếng trong chiến tranh Lạnh. Căn bếp này do các nhà thiết kế Hoa Kỳ dựng lên với đầy đủ tiện nghi, như: Máy rửa bát, lò nướng bánh mì, máy xay sinh tố… dường như là để “khoe” mọi người dân Mỹ đều có thể sở hữu căn bếp như thế. Lãnh đạo Liên Xô tỏ ý không vừa lòng, nói rằng các gia đình Liên Xô cũng có những thứ này. Cuộc tranh luận bắt đầu, chủ đề được mở rộng đến các vấn đề chính trị như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa tư bản (CNTB), chiến tranh hạt nhân... Ngày hôm sau, "Cuộc tranh luận trong bếp" là tin tức xuất hiện trên trang nhất của các tờ báo ở Hoa Kỳ. Và điều thú vị nhất của “Cuộc tranh luận trong bếp” là sau khi nó kết thúc, Nixon và Khrushchev cùng uống Pepsi. Một nhiếp ảnh gia đã bắt được khoảnh khắc Nixon và Khrushchev đứng cạnh nhau trong khi nhà lãnh đạo Liên Xô thưởng thức nước ngọt có ga của một thương hiệu… phương Tây.
Cùng các cuộc chiến về chính trị, ngoại giao, văn hóa là mũi nhọn được các thế lực thù địch phương Tây sử dụng nhằm tiêu diệt nhà nước Nga Xô viết. Dưới thời nhà lãnh đạo Khrushchev, các thế lực chống cộng và chính quyền phương Tây căn cứ vào tình hình đã tăng cường thực thi “diễn biến hòa bình”, âm mưu phương Tây hóa, phân hóa Liên Xô. Đến thời Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan (hai nhiệm kỳ-1981-1989), Chính phủ Hoa Kỳ càng đẩy mạnh chủ trương ngoại giao cân bằng, thẩm thấu tư tưởng, văn hóa với Liên Xô và các nước Đông Âu qua truyền bá quan điểm phương Tây về tự do, nhân quyền với hạt nhân là lợi ích cá nhân. Reagan cho rằng, trong cuộc đấu tranh giữa CNTB và CNXH, nhân tố quyết định cuối cùng không phải là đọ sức đạn hạt nhân và tên lửa mà là cuộc đọ sức của ý chí và tư tưởng.
Ở chiều ngược lại, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó là Mikhail Gorbachev lại ra sức cổ súy cho cái gọi là tư duy mới chính trị quốc tế. Lợi dụng thời cơ đó, các thế lực chống cộng ở phương Tây tài trợ cho một số cơ quan nghiên cứu lập phương án đánh vào những tình cảm nhân dân Liên Xô dành cho Lênin và Stalin. Các tác phẩm chống Lênin, Stalin xuất hiện đầy rẫy trên báo, đài phát thanh, đài truyền hình, phim ảnh... Họ kích động nhân dân Liên Xô đề nghị mai táng thi hài Lênin. Phương Tây còn ca tụng tư duy cải tổ của Gorbachev, nhằm làm suy yếu và hủy bỏ uy tín của Đảng Cộng sản Liên Xô, của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), tuyên truyền cho cái gọi là cuộc sống tươi đẹp ở phương Tây và tính ưu việt của chế độ tư bản. Phương Tây rất chú trọng dùng lối sống tiêu dùng để tác động và ảnh hưởng đến đông đảo người dân Liên Xô, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên.
Sau này, tổng kết về “thắng lợi” của chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với Liên Xô và Đông Âu, năm 1988, cựu Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã xuất bản cuốn sách “1999-Chiến thắng không cần chiến tranh”. Trong đó, R.Nixon xác định: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất, toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu, nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng!".
Nguy cơ hiện hữu
Từ năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cùng với âm mưu xâm lăng nước ta bằng quân sự, các nước đế quốc còn thực hiện âm mưu xóa bỏ những giá trị truyền thống, tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Cuộc đấu tranh này ở nước ta, theo thời gian, theo sự phát triển của xã hội ngày càng diễn ra rất phức tạp, gay go và quyết liệt.
Nguy cơ “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng diễn ra từ hai góc độ: Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và xu hướng “tự chuyển hóa” của những đối tượng yếu kém bản lĩnh chính trị trước sự biến động của xã hội.
Ở góc độ chống phá của các thế lực thù địch, biểu hiện rõ nét nhất là hoạt động xuyên tạc, bôi đen giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống XHCN, ra sức du nhập văn hóa, đạo đức, lối sống tư sản thực dụng, trụy lạc, tôn thờ đồng tiền là trên hết, sống ích kỷ, phi đạo đức. Cùng đó, các thế lực thù địch luôn khuyến khích khuynh hướng đòi văn hóa, văn nghệ hoạt động độc lập với chính trị, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực này.
Trong nhiều năm qua, đã có không ít văn nghệ sĩ lạc đường, từ bỏ lợi ích của quốc gia, dân tộc, chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng văn hóa, nghệ thuật phương Tây, hạ thấp, coi rẻ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, khuyến khích các giá trị văn hóa cá nhân cực đoan, đề cao giá trị dân chủ, tự do tư sản. Thậm chí, đã xuất hiện những sáng tác miêu tả cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta mang một màu đen tối, chết chóc, bi kịch, vô nghĩa; phủ định những sáng tạo văn hóa, văn nghệ trong thời kỳ chiến tranh, coi đó là “minh họa”, là tô hồng, là cao hơn, là đứng trên hiện thực. Chúng ta không phủ nhận những hạn chế lịch sử của mảng văn học, nghệ thuật trong chiến tranh nhưng không thể nhân danh đổi mới để bôi nhọ cuộc chiến đấu chính nghĩa của dân tộc bằng việc chỉ miêu tả mặt đen tối, sự chết chóc và tha hóa con người trong chiến tranh. Khuynh hướng này chỉ là phiến diện, chưa trung thực với lịch sử. Với vai trò văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, những sản phẩm đội danh văn hóa này đặc biệt nguy hiểm, có nguy cơ làm tha hóa thế hệ trẻ, tạo ra một thế hệ “mất gốc”, phủ nhận các giá trị truyền thống dân tộc, thích đua đòi, ăn chơi hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển.
Ở góc độ chủ quan những người “tự chuyển hóa”, khi đất nước mở cửa sâu rộng với thế giới, những yếu tố có khả năng tác động tới sự biến đổi về xã hội ùa vào theo là vấn đề tất yếu. Đó bao gồm hai sản phẩm cơ bản: Văn hóa và tiêu dùng. Cả hai sản phẩm này, dù được nhập khẩu chính ngạch nhưng đều mang tính hai mặt, đặc biệt với sản phẩm văn hóa. Những sản phẩm văn hóa được phép lưu hành đều mang những giá trị nhất định về chân-thiện-mỹ, cổ vũ lối sống lành mạnh, tốt đẹp. Tuy nhiên, đi kèm theo đó là việc phổ biến những giá trị văn hóa, hình ảnh xã hội khác biệt, thậm chí đi ngược với những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt. Dưới góc độ hội nhập, chúng ta không thể không tiếp thu những tinh hoa của văn hóa thế giới nhằm bổ sung, làm giàu thêm nền văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, nếu việc tiếp thu thiếu chủ động, không đủ bản lĩnh, năng lực để chỉ lựa chọn cái tốt, cái có ích cho đời sống văn hóa thì quá trình hội nhập về văn hóa sẽ trở thành nguy cơ làm “biến màu” nền văn hóa bản địa.
Đối với sản phẩm tiêu dùng, là những thứ vô cùng gần gũi trong cuộc sống mỗi người, như: Cái ăn, cái mặc, cái làm đẹp, sự tác động về văn hóa diễn ra âm thầm nhưng không kém phần mạnh mẽ. Bởi lẽ, bất cứ lĩnh vực nào, sản phẩm gì trong xã hội đều ẩn chứa yếu tố văn hóa. Một chiếc quần Jean gắn với hình ảnh chàng Cowboy miền Tây nước Mỹ. Một chiếc ô tô Mercedez gắn với văn hóa Đức. Một sản phẩm tiêu dùng tốt, bền, giá cả phải chăng thường gắn với hình ảnh đất nước Mặt trời mọc… Khi quen thuộc với những sản phẩm tiêu dùng ấy, đồng nghĩa với việc người sử dụng trở nên “thân thiết” với nền văn hóa làm ra chúng. Từ đó, tâm lý sùng bái hàng ngoại có thể tiếp biến thành sùng bái văn hóa ngoại.
Những tác động của văn hóa lên nền tảng tư tưởng xã hội thường không mang tính chất tức thời mà là một quá trình “mưa dầm thấm lâu”. Tuy nhiên, sự chuyển biến chậm rãi đó lại có khả năng thay đổi bền vững tư duy, tình cảm của mỗi người. Vì thế, nếu thiếu cảnh giác, để những tác động tiêu cực của văn hóa ngoại lai du nhập, thẩm thấu sâu vào đời sống xã hội Việt Nam, chúng ta sẽ phải trả cái giá rất đắt. Thậm chí, có thể là cả việc lạc mất con đường tiến lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân đã lựa chọn.

Chính sách “3 không” của Việt Nam vẫn hoàn toàn đúng đắn

Trước sự kiện vi phạm của Trung Quốc, các thế lực thù địch đã công kích, đòi Việt Nam phải thay đổi chính sách “3 không”, tiến đến hợp tác toàn diện, là đồng minh của Mỹ, Nhật Bản… để chống lại hành động xâm phạm chủ quyền từ phía Trung Quốc.
Thực tiễn cho thấy, mọi hành động của các quốc gia, xét đến cùng đều bắt nguồn từ lợi ích, lợi ích cao nhất, tối thượng nhất là lợi ích quốc gia, dân tộc.
Đặc biệt, với các quốc gia tư bản chủ nghĩa, nếu không có lợi ích, Việt Nam là đối tác toàn diện, là đồng minh của họ, đang bị các quốc gia khác đe dọa chủ quyền, họ cũng chẳng lên tiếng, huống hồ là giúp đỡ.
Lịch sử cho thấy, nhiều quốc gia đã bị các nước lớn “đi đêm” mặc cả với nhau trên lưng các quốc gia khác, sẵn sàng hy sinh quyền lợi của các nước nhằm bảo vệ lợi ích của quốc gia họ, trong đó có Việt Nam.
Do đó, với chính sách “3 không: không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng, Nhà nước ta về quốc phòng nói chung, công tác đối ngoại quốc phòng nói riêng, mang bản chất chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng, hướng đến sự hòa bình, thịnh vượng cho đất nước, khu vực và thế giới.
Chính sách quốc phòng, quân sự, xây dựng quân đội, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của Việt Nam chỉ nhằm mục đích duy nhất là để bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta không quên sự hợp tác, giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; song từ xưa đến nay, cha ông ta luôn nhất quán tinh thần độc lập, tự chủ, lấy sức ta mà giải phóng cho ta, không dựa dẫm, ỷ lại, trông chờ duy nhất vào sự hỗ trợ từ bên ngoài để bị lệ thuộc, bị chi phối.
Đảng ta luôn nhất quán quan điểm biện chứng trong đối tượng và đối tác, có hợp tác và có đấu tranh; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.
Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam luôn chủ động hội nhập và phát triển; tiến hành hội nhập sâu rộng trên các lĩnh vực, như: hội nhập kinh tế quốc tế; hội nhập quốc tế về văn hóa – xã hội, môi trường và hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 80 nước, bao gồm tất cả các thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; đã ký 50 hiệp định, bản ghi nhớ hợp tác tương trợ tư pháp hình sự chống tội phạm, phòng, chống ma túy với các nước. Quan hệ quốc phòng – an ninh đa phương có bước phát triển về số lượng, chất lượng và hiệu quả…
Quá trình hội nhập đó, Việt Nam vẫn giữ được chủ trương, đường lối và bảo đảm thực hiện tốt chính sách “3 không”, giữ đúng định hướng. Đến nay, chính sách “3 không” vẫn hoàn toàn đúng đắn.

Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc


Phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, quyết chiến, quyết thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Đã 65 năm trôi qua nhưng âm hưởng, ý nghĩa và bài học lịch sử của chiến thắng ấy vẫn còn vang vọng mãi, là động lực và tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đất nước ta trong những ngày đầu độc lập gặp muôn vàn khó khăn, thử thách trong bối cảnh “thù trong, giặc ngoài”-thực dân Pháp dã tâm quay trở lại xâm lược đất nước ta một lần nữa; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, tập trung diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 12-1946), dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã nêu cao tinh thần độc lập, tự do, quyết chiến, quyết thắng, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, nhất tề đứng lên thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, từng bước đánh bại các chiến lược quân sự của bè lũ thực dân, giành được những thắng lợi quan trọng, nổi bật là trên các mặt trận Việt Bắc 1947, Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng đề ra kế hoạch chiến lược Đông Xuân 1953-1954, quyết tâm giữ vững thế chủ động, đánh địch cả chính diện và sau lưng, với phương châm tác chiến “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, “đánh chắc thắng” để đánh bại kế hoạch Navarre của địch. Với tinh thần cả nước ra trận, quân và dân ta đã liên tục tiến công, giáng cho địch nhiều thất bại nặng nề, buộc chúng rơi vào thế bị động đối phó trên khắp các chiến trường. Trước nguy cơ kế hoạch Navarre bị phá sản, thực dân Pháp gấp rút điều động lực lượng nhảy dù, chiếm Điện Biên Phủ, tăng cường lực lượng, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương-“một pháo đài không thể công phá”, nhằm tạo bàn đạp chiến lược khống chế khu vực Tây Bắc, Thượng Lào và thu hút, “nghiền nát” chủ lực của ta.
Nắm chắc tình hình, âm mưu, thủ đoạn của địch, đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, “tập trung đại bộ phận lực lượng chủ lực thiện chiến của ta lên Mặt trận Điện Biên Phủ, mở chiến dịch tiến công tiêu diệt những lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo, đây là chiến dịch có ý nghĩa quân sự, chính trị, ngoại giao rất quan trọng; phải đánh thắng; chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo, quyết tâm chiến lược đó, quân và dân ta đã khẩn trương chuẩn bị tốt mọi mặt và bước vào trận quyết chiến chiến lược bằng khát vọng độc lập dân tộc cháy bỏng cùng ý chí quyết chiến, quyết thắng cao độ.
Trước thực tiễn chiến trường và quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” ngay trước giờ mở màn chiến dịch. Đây là một quyết định sáng suốt, thể hiện tài thao lược quân sự, phù hợp với thực tế diễn biến chiến dịch và chính là một trong những yếu tố mang tính quyết định đến thắng lợi cuối cùng. Trải qua “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn!”, ngày 7-5-1954, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho Quân đội nhân dân Việt Nam đã hiên ngang tung bay trên nóc hầm De Castries, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Đây là một trong những đỉnh cao chói lọi, kỳ tích vẻ vang trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, xứng đáng được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, của ý chí tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam; thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ nhân dân trên thế giới và của lương tri thời đại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các thế lực đế quốc, thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Geneva, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra trang mới cho cách mạng Việt Nam; đồng thời là một sự kiện quan trọng báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; chiến thắng của đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, của ý chí quyết chiến, quyết thắng, “dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng”; của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; đồng thời, là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu thủy chung, son sắt của quân, dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Chiến thắng Điện Biên Phủ vừa mang ý nghĩa lịch sử to lớn, vừa mang tầm thời đại sâu sắc, làm sáng ngời chân lý: Một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, nếu có một Đảng Mác-xít chân chính lãnh đạo, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ, thì nhất định đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, dù kẻ thù đó mạnh hơn nhiều lần. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là dấu mốc bằng vàng. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định bị thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”. Chiến thắng Điện Biên Phủ là mốc son chói lọi, là niềm tự hào dân tộc. Tinh thần của chiến thắng vĩ đại này đã được quân và dân ta tiếp nối, phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lập nên những chiến công hiển hách, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, xu thế chủ đạo của thế giới là hòa bình, hợp tác và phát triển nhưng vẫn còn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, chủ nghĩa dân tộc, dân túy, bảo hộ và các thách thức an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… gia tăng. Khoa học công nghệ phát triển nhanh và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng xuất hiện những thách thức mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, thế và lực của đất nước ta không ngừng được nâng lên; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế; năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa cao; nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu vẫn còn hiện hữu. Phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng nhiệm vụ đặt ra còn rất nặng nề. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, mạnh mẽ, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đã và đang đặt ra những yêu cầu mới và đứng trước không ít khó khăn, thách thức cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc; ý chí quyết chiến, quyết thắng và khát vọng hòa bình của nhân dân ta, thể hiện sâu sắc, đậm nét trong các cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh, theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, tạo nền tảng vững chắc để đất nước phát triển nhanh, bền vững hơn trong những năm tiếp theo; trong đó cần tập trung thực hiện tốt những định hướng chủ yếu sau:
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng. Đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đã được thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trước bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định, khó dự báo; cơ hội và thách thức, đối tượng và đối tác đan xen; trong khi đó các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh chống phá cách mạng nước ta thông qua “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, đòi hỏi chúng ta càng phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ của Đảng; lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong quá trình thực hiện, phải kiên định các mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh, lấy bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu tối thượng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội. Kiên quyết bảo vệ đường lối, quan điểm, nền tảng tư tưởng, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, toàn xã hội và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Hai là, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới; khơi dậy khát vọng vươn lên của dân tộc Việt Nam. Đây là một yêu cầu vừa cấp thiết, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với cách mạng Việt Nam; là nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Tập trung kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân. Tiếp tục xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, bồi đắp niềm tin, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc.
Lịch sử đã chứng minh, sự đoàn kết và kỷ luật là cội nguồn sức mạnh của Đảng và là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi vậy, chúng ta cần đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, từng tổ chức Đảng và từng đảng viên phải chủ động ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Qua đó, tập hợp lực lượng, tạo xung lực chính trị và tinh thần, phát huy trí tuệ, sức mạnh của toàn dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, sức mạnh dân tộc cần phải gắn kết chặt chẽ với sức mạnh thời đại. Chúng ta phải tập trung quán triệt, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại của Đảng với phương châm: Độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hướng tới đẩy mạnh, nâng tầm đối ngoại đa phương và song phương; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thông qua đó, tận dụng các nguồn lực và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tạo môi trường hòa bình, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta phải có ý chí, niềm tin, khát vọng vươn lên, xây dựng đất nước Việt Nam thịnh vượng. Biến quyết tâm thành hành động, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tập trung xây dựng Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước liêm chính, kiến tạo, hành động và phục vụ, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và quá trình hội nhập quốc tế. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tạo mọi thuận lợi để người dân và doanh nghiệp không ngừng đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Phát triển toàn diện, hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội, xây dựng con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, nhất là đối với người có công, đối tượng chính sách, người nghèo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, căn cứ cách mạng, vùng bị thiên tai. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với đổi mới phương thức quản lý, hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm thông thoáng, thuận lợi, công khai, minh bạch, phù hợp thực tiễn đất nước và thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Phát huy tốt tiềm năng, lợi thế, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.
Ba là, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại, tạo nền tảng bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, nền tảng chính trị-tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân Việt Nam được phát huy lên tầm cao mới. Để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi phải không ngừng củng cố, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng theo hướng mạnh toàn diện, ổn định lâu dài, ngày càng hiện đại. Trong đó, đặc biệt coi trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, nhất là trên các địa bàn chiến lược trọng điểm, biên giới, biển, đảo. Đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Các cấp, ngành, địa phương tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt chủ trương chiến lược của Đảng về xây dựng khu vực phòng thủ, trong đó cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ngay từ cơ sở; tạo nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh; phòng ngừa, xử lý hiệu quả các tình huống về quốc phòng, an ninh; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Từ kết quả, kinh nghiệm đã đạt được qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X), cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng; tăng cường công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; gắn kết chặt chẽ việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội với thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc và các chiến lược về quốc phòng, an ninh. Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế và đối ngoại về quốc phòng; tranh thủ cơ hội từ hội nhập để tiếp tục nâng cao năng lực quốc phòng, an ninh; tăng cường tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; xử lý hiệu quả những vấn đề quan trọng như an ninh biên giới, biển đảo, an ninh mạng, giải quyết hậu quả chiến tranh… góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, nắm vững đường lối chính trị, quân sự của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, trước hết là vững mạnh về chính trị, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, có cơ cấu, thành phần hợp lý, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng, bảo đảm thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, Nhà nước và nhân dân. Trong đó, đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Xây dựng Đảng bộ Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và các tổ chức đảng trực thuộc thực sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội; ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng và lực lượng; tổ chức, sắp xếp biên chế quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, phù hợp với điều kiện tác chiến mới.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; chăm lo thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, nhất là đối với người có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh. Các đơn vị lực lượng vũ trang phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, chủ động nắm, dự báo chính xác tình hình; phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ, xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ, cả về chiến lược và xử lý các trường hợp cụ thể. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Phong trào Thi đua Quyết thắng trong toàn quân; tăng cường kỷ luật quân đội, giữ vững sự đoàn kết, thương yêu, gắn bó giữa cán bộ và chiến sĩ, đoàn kết quân-dân; kiên quyết đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch.
Trải qua gần 76 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thể hiện rõ bản chất, truyền thống của một đội quân cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Quân đội ta cũng luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu cao tinh thần mưu trí, dũng cảm, quyết chiến, quyết thắng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng với danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ, là quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân luôn quan tâm, chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng vững mạnh về mọi mặt, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Quân đội nhân dân không chỉ hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, mà còn thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất, thiết thực góp phần xây dựng đất nước, nâng cao hình ảnh, uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng ta giữ được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ được môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước, là nhờ có công lao và sự đóng góp, hy sinh to lớn của các lực lượng vũ trang nhân dân, của những cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm canh giữ, bảo vệ vùng trời, vùng biển, biên giới, hải đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của người dân.
Chúng ta mãi mãi khắc ghi công ơn to lớn của Bác Hồ kính yêu, của các vị tiền bối, lão thành đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Chúng ta luôn ghi nhớ, tri ân các vị tướng lĩnh, cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và quân dân cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, đóng góp máu xương, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ và các chiến công vĩ đại khác trong các cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước.
Kỷ niệm 66 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý chí quyết chiến, quyết thắng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta chung sức, đồng lòng, gắn kết sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn./. 

Chủ trương, đường lối, chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại.

Trong xu thế hiện nay, thế giới là một mái nhà chung, các quốc gia đều có xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kể cả trong quan hệ song phương và đa phương; những điểm bất đồng giữa các quốc gia, dân tộc đều được giải quyết trên nền tảng hòa bình, đối thoại, cùng nhau tìm giải pháp chung và trên nền tảng nguyên tắc nhất định của luật pháp quốc tế.
Dĩ bất biến, ứng vạn biến, trong bối cảnh Trung Quốc vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn giữ được chủ trương: “Giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hoà bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển”.
Đảm bảo sự linh hoạt, mềm dẻo và giữ vững nguyên tắc không thể bác bỏ – chủ quyền quốc gia.
Chúng ta kiên trì đấu tranh trên các mặt trận, mọi cấp độ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các quốc gia trên thế giới, thẳng thắn đấu tranh kiên quyết, trao công hàm, tiếp xúc đại diện, lên tiếng phản đối Trung Quốc, yêu cầu tôn trọng chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Đồng thời, duy trì lực lượng chuyên trách, sử dụng biện pháp đấu tranh “hòa bình” không để xảy ra xung đột vũ trang. Bên cạnh đó, thường xuyên thông tin kịp thời tình hình diễn biến đến nhân dân, quản lý chặt chẽ tình hình an ninh trật tự và làm tốt công tác định hướng tư tưởng cho nhân dân.
Trước tình hình căng thẳng trên Biển Đông, nhờ đường lối đúng đắn, chúng ta vẫn bảo đảm và bảo vệ được lợi ích quốc gia dân tộc. Điều này cho thấy, chủ trương, đường lối, chính sách giải quyết bất đồng trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại.

Quân đội nhân dân Việt Nam đấu tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc

Các thế lực thù địch rêu rao: “Khi đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông, tại các vùng tranh chấp, Quân đội Việt Nam không dám nổ súng, không dám đấu tranh, để mặc Trung Quốc muốn làm gì thì làm…”. Những luận điệu đó là hoàn toàn xuyên tạc, không đúng sự thật, cố tình kích động gây căng thẳng tình hình với mục đích đẩy chúng ta vào cuộc đối đầu quân sự có thể dẫn đến hậu quả khó lường.
Thực tiễn cho thấy, trong suốt thời gian Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên biển, một trong những lực lượng thuộc biên chế của Quân đội Việt Nam luôn luôn có mặt 24/24h, thực hiện các hoạt động đấu tranh nhằm giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong mỗi tình huống, các phương án đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo luôn được lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam chuẩn bị, luyện tập nhuần nhuyễn và linh hoạt khi áp dụng vào thực tiễn đấu tranh, luôn giữ vững được định hướng, sự lãnh đạo của Đảng và tuân thủ nghiêm luật pháp quốc tế.
Bên cạnh lực lượng Cảnh sát biển, các thành phần khác của lực lượng vũ trang Việt Nam cùng lực lượng kiểm ngư luôn luôn sẵn sàng thực hiện phương án để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta luôn vì lợi ích quốc gia dân tộc, các chính sách, biện pháp giải quyết trong các tình huống tranh chấp trên Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta thể hiện nhất quán nguyên tắc, mục tiêu đó. Chủ trương, đường lối đó cần được sự đánh giá, nhìn nhận khách quan từ mọi thành phần trong xã hội, nhất là thế hệ trẻ ngày nay.
Tinh thần dân tộc, lòng yêu nước luôn cháy bỏng trong mỗi con dân đất Việt, hãy hiện thực hóa tinh thần đó bằng việc làm cụ thể để đưa đất nước ta ngày càng phát triển, giàu mạnh, tăng cường mọi tiềm lực, sánh vai được với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới đấu tranh, phản bác lại các quan điểm phiến diện, siêu hình, xuyên tạc tình hình Biển Đông của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước.
Mỗi người dân yêu nước cần tỉnh táo, bình tĩnh, kiên quyết, kiên trì, nhận thức rõ luận điệu xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch để có hành động đúng, góp phần bảo vệ Tổ quốc./.

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 - Sự kiện mang tầm vóc thời đại

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 - Sự kiện mang tầm vóc thời đại


Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đập tan một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới; giáng đòn nặng nề đầu tiên vào dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ.
Năm 1954, trên đại ngàn Tây Bắc đất nước, quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạp bằng mọi khó khăn thử thách, đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ, dựng lên mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử dân tộc, đồng thời làm “chấn động địa cầu”, tác động mạnh đến phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nhân kỷ niệm 66 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2020), Báo CAND trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tá Trần Tiến Hoạt, nguyên Phó Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Trận quyết chiến chiến lược
Đến năm 1953, sau 8 năm trở lại xâm lược Đông Dương, dù đã huy động tiềm lực kinh tế, quân sự đến mức cao nhưng thực dân Pháp vẫn không đạt được mục đích cơ bản đề ra là tiêu diệt chính phủ cách mạng và lực lượng kháng chiến, thiết lập lại nền cai trị trên toàn Đông Dương như trước năm 1945. Trái lại, chúng phải chịu những tổn thất nặng nề: Bị thiệt hại 390.000 quân, vùng chiếm đóng thu hẹp, mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng ngày càng sâu sắc...
Mặt khác, những khó khăn về kinh tế, tài chính và phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân trong nước ngày càng dâng cao đẩy chính phủ Pháp rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị mới. Lợi dụng tình thế này, đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào Đông Dương, tích cực viện trợ cho Pháp kéo dài và mở rộng cuộc chiến nhằm phục vụ cho chiến lược toàn cầu phản cách mạng.
Tháng 5-1953, chính phủ Pháp cử tướng Nava - người được đánh giá là “một nhà chiến lược văn võ kiêm toàn” sang làm tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương với hy vọng sớm giành thắng lợi quân sự quyết định, tìm “lối thoát danh dự” dứt điểm cuộc chiến tranh. Sau một thời gian tìm hiểu tình hình chiến trường, tháng 7/1953, tướng Nava đề ra kế hoạch quân sự mới ở Đông Dương (còn gọi Kế hoạch Nava), gồm hai bước.
Bước 1 (Thu Đông năm 1953 và Xuân năm 1954): Giữ thế phòng ngự chiến lược ở chiến trường miền Bắc, tránh giao chiến với chủ lực đối phương; tiến công chiến lược ở chiến trường phía nam, đánh chiếm các căn cứ kháng chiến, trước hết là vùng tự do Liên khu 5 và Khu 9 của cách mạng; đồng thời ra sức bắt lính mở rộng ngụy quân, tập trung xây dựng khối chủ lực cơ động mạnh.
Bước 2 (từ Thu Đông năm 1954): Dồn lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện các đòn tiến công chiến lược, tiêu diệt quân chủ lực đối phương để giành thắng lợi quyết định, buộc chính phủ kháng chiến phải đầu hàng, hoặc chấp nhận đàm phán kết thúc chiến tranh theo những điều kiện do Pháp đặt ra.
Cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều đánh giá kế hoạch Nava là “hoàn hảo, phù hợp”, sẽ mang đến thắng lợi trong vòng 18 tháng!
Thực hiện kế hoạch quân sự mới đề ra, thực dân Pháp mở nhiều cuộc hành quân đánh phá, càn quét bình định, ra sức bắt lính; đồng thời đưa thêm nhiều đơn vị quân viễn chinh vào Đông Dương. Chỉ sau một thời gian ngắn, địch đã củng cố, xây dựng được 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược, trong đó tập trung 44 tiểu đoàn ở đồng bằng Bắc Bộ.
Về phía ta, cuối tháng 9/1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn, đề ra chủ trương chiến lược cho hoạt động quân sự Đông Xuân 1953 - 1954: Sử dụng một bộ phận chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng địch tương đối yếu, có nhiều sơ hở, đồng thời tranh thủ cơ hội tiêu diệt địch ở những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do của ta; trong lúc đó, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch, tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích các vùng tự do để cho chủ lực rảnh tay làm nhiệm vụ. Phương châm, nguyên tắc chỉ đạo tác chiến chiến lược là: Tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt; đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.
Chấp hành chủ trương chiến lược đã đề ra, quân dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ cùng với quân dân hai nước bạn Lào và Campuchia mở các cuộc tiến công trên khắp chiến trường Đông Dương buộc Pháp phải phân tán lực lượng đối phó. Khối chủ lực cơ động của địch từ chỗ tập trung chủ yếu ở Đồng bằng Bắc Bộ, chỉ sau một thời gian ngắn, chính thức “bị xé nát” thành 5 mảnh, đứng chôn chân trên 5 khu vực (Đồng bằng Bắc Bộ, Tây Bắc, Trung Lào, Tây Nguyên, Thượng Lào) mà hầu như không thể hỗ trợ được cho nhau.
Phối hợp với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, ở chiến trường sau lưng địch, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích nhằm bảo vệ căn cứ kháng chiến, chia cắt giao thông, tiến công diệt thêm đồn bốt, căn cứ hậu cần, uy hiếp hệ thống phòng tuyến bên ngoài của địch... Sự phối hợp chiến đấu nhịp nhàng, rộng khắp đã đẩy quân Pháp lún sâu vào thế bị động. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản.
Tại mặt trận Tây Bắc, từ tháng 11/1953, trước sự tiến công của quân ta, bộ chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương quyết định điều quân xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Trong toan tính của tướng Nava, Điện Biên Phủ giữ vị trí chiến lược quan trọng nhằm bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào. Mặt khác, nơi đây là thung lũng phì nhiêu (dài 18km, rộng 6 – 8km), giàu có nhất vùng Tây Bắc. Không gian và địa thế đó cho phép xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh nhằm thu hút và đánh bại chủ lực đối phương.
Đến đầu tháng 3/1954, quân địch tập trung tại Điện Biên Phủ lên đến 16.200 tên, gồm những đơn vị bộ binh, pháo binh, công binh, xe tăng, không quân thuộc loại tinh nhuệ nhất ở Đông Dương; được bố trí thành hệ thống phòng ngự mạnh, gồm 49 cứ điểm, chia thành 3 phân khu. Cả Pháp và Mỹ đều đánh giá Điện Biên Phủ là “pháo đài không thể công phá”, công khai thách thức đối phương tiến công.
Về phía ta, sau khi phân tích kỹ tình hình mọi mặt, nhất là so sánh tương quan lực lượng địch - ta, Trung ương Đảng và Bộ chỉ huy tối cao đã quyết tâm mở chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ - đòn quyết chiến chiến lược nhằm kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp được giao trọng trách Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.
Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!”, cả nước dồn sức cho chiến trường Điện Biên Phủ. Lực lượng tham gia chiến đấu lên đến 55.000 quân, gồm 3 đại đoàn bộ binh (308, 312, 316), Trung đoàn bộ binh 57 (Đại đoàn 304), Đại đoàn công binh - pháo binh 351. Trên 260.000 dân công và 27.400 tấn gạo được huy động để cung cấp cho chiến dịch. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp cùng bộ đội công binh ngày đêm mở đường ra mặt trận dưới bom đạn địch, nên sau một thời gian ngắn, hàng ngàn ki-lô-mét đường được xây dựng, sửa chữa. Công tác chuẩn bị các mặt trên vượt ra ngoài mọi dự đoán, tạo bất ngờ lớn đối với cả Pháp và Mỹ.
Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tiến công, mở màn chiến dịch. Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng mãnh, vượt qua muôn vàn gian khổ, “gan không núng, chí không mòn”, chiều 7/5/1954, bộ đội ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống tướng chỉ huy De Castries (Đờ-cát), kết thúc thắng lợi trận quyết chiến chiến lược.
Ý nghĩa lịch sử trọng đại
Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 của quân dân Việt Nam đã đập tan những cố gắng quân sự cao nhất của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva (7/1954) công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Đông Dương, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài 9 năm (1945 - 1954). Đồng thời, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp kéo dài hàng thế kỷ, mở ra bước phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia.
Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đập tan một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới; giáng đòn nặng nề đầu tiên vào dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. 
Nhà sử học Pháp Jules Roy sau này đã thừa nhận, xét trên phạm vi thế giới “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn hãy còn vang vọng”.
Cũng từ đây, “tiếng sấm Điện Biên Phủ” có sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh giành độc lập, nhất là các nước châu Phi, châu Mỹ la-tinh; đồng thời góp phần làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin thời đại ngày nay: 
Một dân tộc bị áp bức, nhưng nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, biết phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân, sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có khả năng đánh bại những đội quân xâm lược hung bạo. 
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ nhiều nhân tố: Đó là đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng; từ tinh thần yêu nước nồng nàn và nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam được kế thừa và phát triển lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh; bắt nguồn từ tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, sự giúp đỡ quan trọng của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình, ủng hộ từ bè bạn quốc tế, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất chính là từ tình yêu quê hương đất nước, là khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng của mỗi con dân đất Việt.
Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học - kinh nghiệm rất quý báu: Giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng đắn, kịp thời nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước để giành thắng lợi quyết định; thực hiện tốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, không ngừng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực để sẵn sàng thực hiện tốt nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, những trận quyết chiến; không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công - nông làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây dựng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đều hướng đến mục tiêu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Những bài học - kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Ý nghĩa lịch sử trọng đại chiến thắng Điện Biên Phủ 1954

Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đập tan một mắt xích quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ, mở đầu cho sự sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới; giáng đòn nặng nề đầu tiên vào dã tâm xâm lược của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Nhà sử học Pháp Jules Roy sau này đã thừa nhận, xét trên phạm vi thế giới “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây, báo trước sự sụp đổ của các đế quốc thuộc địa và sự cáo chung của một nền cộng hòa. Tiếng sấm Điện Biên Phủ vẫn hãy còn vang vọng”.
Cũng từ đây, “tiếng sấm Điện Biên Phủ” có sức cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh giành độc lập, nhất là các nước châu Phi, châu Mỹ la-tinh; đồng thời góp phần làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lênin thời đại ngày nay: Một dân tộc bị áp bức, nhưng nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, biết phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân, sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có khả năng đánh bại những đội quân xâm lược hung bạo. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ bắt nguồn từ nhiều nhân tố: đó là đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng; từ tinh thần yêu nước nồng nàn và nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam được kế thừa và phát triển lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh; bắt nguồn từ tình đoàn kết và liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, sự giúp đỡ quan trọng của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình, ủng hộ từ bè bạn quốc tế, trong đó có nhân dân tiến bộ Pháp. Nhưng nguồn gốc sâu xa nhất chính là từ tình yêu quê hương đất nước, là khát vọng độc lập, tự do đến cháy bỏng của mỗi con dân đất Việt.
Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 để lại cho cách mạng Việt Nam những bài học - kinh nghiệm rất quý báu: giữ vững và tăng cường phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở chủ trương, đường lối đúng đắn, kịp thời nắm bắt thời cơ, chớp thời cơ, chỉ đạo chiến lược nhạy bén, sắc sảo nhằm tập trung sức mạnh cao độ cả nước để giành thắng lợi quyết định; thực hiện tốt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; phát huy thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, không ngừng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng lớn mạnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực để sẵn sàng thực hiện tốt nhiệm vụ, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, những trận quyết chiến; không ngừng chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công - nông làm nền tảng, tích cực đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây dựng tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đều hướng đến mục tiêu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Những bài học - kinh nghiệm ấy vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Thứ Tư, 6 tháng 5, 2020

TÍCH CỰC PHÒNG, CHỐNG DỊCH COVID-19


Dịch viêm đường hô hấp cấp (COVID-19) do chủng mới của virus Corona (SARS-CoV-2) gây ra đã và đang diễn ra hết sức phức tạp, đây là dịch bệnh mới, nguy hiểm, có khả năng lây lan nhanh, hiện chưa có vắc-xin, thuốc điều trị đặc hiệu. Tình hình khẩn trương đến mức ngày 11/3/2020 Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã phải công bố tình trạng y tế khẩn cấp toàn cầu về dịch COVID-19 và là sự kiện y tế công cộng khẩn cấp, gây quan ngại trên toàn thế giới. Tính đến ngày 07/5/2020 trên thế giới đã có 3,74 triệu trường hợp nhiễm COVID-19, trong đó 258.846 người đã tử vong ở 214 quốc gia và vùng lãnh thổ; riêng ở nước ta đã có 271 trường hợp nhiễm COVID-19 (trong đó 232 người đã được chữa khỏi bệnh, không có người nào tử vong).

học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh


ĐẶNG HỮU NAM THẰNG LINH MỤC KHỐN NẠN

Đặng Hữu Nam - thằng lm khốn nạn có vẻ đang cay cú chế độ, xã hội nên gần đây, trên trang facebook cá nhân, hắn thường xuyên chia sẻ nhiều bài viết có nội dung cực đoan, xuyên tạc tình hình đất nước, thậm chí còn xúc phạm, bôi nhọ đến hình ảnh, uy tín của Bác Hồ.

Đây không phải là lần đầu thằng lm khốn nạn này nói xấu về Bác, nhưng gần đây số lượng bài viết như vậy nhiều hơn bao giờ hết. Vấn đề này cũng thật trùng khớp với việc làm của một số người có tâm địa xấu xa, đạo đức, lương tri đã bị quỷ dữ gặm nhấm, điển hình như những thành viên của tổ chức khủng bố Việt Tân. Phải chăng Đặng Hữu Nam cùng một giuộc với những con người này. Nên nhân sự kiện cả dân tộc đang hướng về kỷ niệm 130 năm ngày sinh của lãnh tụ Hồ Chí Minh nên đây được xem là một chiến dịch để nhằm công kích, bôi nhọ uy tín của Bác Hồ? Dù biết rằng Đặng Hữu Nam luôn mơ tưởng về nước Mỹ xa xôi, hắn thường tỏ ra chán ghét xã hội tại Việt Nam nhưng giấc mơ đó đâu có dễ thực hiện.

Là lm lẽ ra hắn phải hiểu dù một giờ khi còn ở Việt Nam thì hắn vẫn mãi là một công dân nước Việt, mang trong mình dòng máu đỏ, da vàng. Dù hắn là người Công giáo hắn vẫn thuộc công dân Việt Nam, mà với mỗi người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mãi mãi là biểu tượng, là hạnh diện, là niềm tự hào và là Người đáng kính nhất.

Hắn có thể kính Chúa theo niềm tin của hắn và đông đảo người Công giáo. Nhưng hắn không được phép xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh – một con người cả cuộc đời vì nước, vì dân. Công giáo được hưởng cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc cho đến ngày hôm nay, được sinh sống, làm việc và tự do thực hiện các lễ nghi tôn giáo, thỏa nguyện đời sống tâm linh mà không sợ mưa bom, đạn lạc là công lao trời biển mà Bác Hồ đã dành cả đời để đấu tranh giành được.

Vậy nên, việc Đặng Hữu Nam và những người xấu kia đang làm là hành động đi ngược với đạo đức của người Công giáo. Hơn nữa, xúc phạm đến Chủ tịch Hồ Chí Minh là có tội với cả dân tộc Việt Nam và thậm chí việc chia sẻ những thông tin như vậy có thể còn vi phạm đến pháp luật Việt Nam, nhất là khi Nghị định 15/2020/NĐ-CP của Chính Phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử đã đi vào đời sống xã hội.
Đề nghị các cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý nghiêm tên Nam và đồng bọn của chúng, không để chúng tiếp tục điên cuồng xuyên tạc hình ảnh thiêng liêng của Bác  Hồ kính yêu của chúng ta.

TỰ HÀO TỔ QUỐC CỦA TÔI

Chúng ta có quyền tự hào bởi vì cho đến hôm nay một Việt Nam nhỏ bé lại một lần nữa khiến cho thế giới phải kinh ngạc, báo chí Mỹ còn không tin nổi, đã liên hệ 13 nhà tang lễ để điều tra. Cũng dễ hiểu thôi, họ hoài nghi vì đơn giản sự thành công trong cuộc chiến chống dịch COVICD -19 của Việt Nam ngoài sức tưởng tượng, nên họ nghi ngờ là đúng thôi !? Vàng đâu sợ thử lửa, sự thật vẫn là sự thật và niềm tin càng được cũng cố, vinh dự càng được lan tỏa khắp nơi trên thế giới .... !!!
Giặc COVCD -19 thứ giặc vô hình làm cho cả thế giới chao đảo, thiệt hại về kinh tế, cướp đi sinh mạng của bao người không có gì khủng khiếp hơn, nhưng Việt Nam cơ bản đã chiến thắng bởi chẳng có kẻ thù nào có thể ngăn nổi bước ta đi. Dân tộc Việt Nam này đã phải trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, chúng ta đã phải đương đầu với biết bao cuộc xâm lăng của các thế lực ngoại bang với nền kinh tế hùng mạnh, vũ khí tối tân, nhưng tinh thần yêu nước cùng với sự đoàn kết đã làm nên sức mạnh giúp dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn thử thách, không những không chịu khuất phục mà còn đương đầu, chiến đấu và chiến thắng.
Trong cuộc chiến chống giặc COVCD-19 dân tộc Việt Nam đã phát huy phẩm chất cao đẹp của người Việt Nam, cho đến hôm nay chúng ta cơ bản đã đi đến chiến thắng. Chiến thắng này là chiến thắng của cả một quốc gia đoàn kết. Là chiến thắng từ các quyết sách đúng và dứt khoát của Đảng, Nhà nước. Của đội ngũ y Bác sỹ tài năng, tận tâm, tận lực, chỗ dựa lớn nhất, vững chắc nhất của những “chiến sĩ áo trắng” trên tuyến đầu chống dịch là sự đồng sức, đồng lòng cùng vào cuộc của cả hệ thống chính trị và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp.
Rất nhanh chóng, ngay từ khi xuất hiện những ổ dịch đầu tiên, Ban bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị, người đứng đầu và các cơ quan Chính phủ rốt ráo chỉ đạo với quyết tâm "Chống dịch như chống giặc", "chấp nhận hy sinh, thiệt hại về kinh tế để bảo vệ người dân", "không để ai bị bỏ lại" trong cuộc chiến.... Một hệ thống Y TẾ CỘNG ĐỒNG, phên dậu quan trọng bảo vệ sức khỏe nhân dân được kích hoạt. Cùng với đó, hệ thống chính trị các cấp trong cả nước vào cuộc.. Những y bác sỹ tuyến đầu; những chiến sỹ bộ đội, công an; những doanh nhân, trí thức, nhà khoa học, ca sỹ, nhạc sỹ... thậm chí cô lao công, bác xe ôm, cháu học sinh.... tất cả đều vào cuộc .Báo chí dư luận thế giới một lần nữa chứng kiến một Việt Nam kiên cường, sáng tạo và đầy tính nhân văn . Sự hoà quyện giữa ý Đảng lòng dân làm cho mỗi chúng ta đều rưng rưng xúc động và tự hào .
Cả dân tộc với tinh thần tương thân tương ái, cùng nắm tay vượt qua gian nan thử thách, cho đến hôm nay dịch bệnh cơ bản đã được đẩy lùi, tuy nhiên chúng ta vẫn không được chủ quan, trên thế giới dịch bệnh vẫn đang còn diễn biến phức tạp khó lường, tự hào để chúng ta luôn giữ gìn và phát huy tinh thần dân tộc " đoàn kết đại đoàn kết, thành công đại thành công". Mong rằng tinh thần dân tộc mãi mãi tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác để Việt Nam phát triển vững mạnh, đi đến đâu chúng ta cũng cảm thấy tự hào khi là người Việt Nam ./