Thứ Hai, 3 tháng 7, 2023

Đòi đa nguyên, đa đảng ở Việt Nam - luận điệu sai lầm, lạc lõng - Bài 2: Không có lực lượng nào đủ sức thay thế sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Trong bối cảnh mới hiện nay, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò duy nhất lãnh đạo, thực hiện đa nguyên, đa đảng, tất yếu đất nước sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn, phân tán, mất ổn định do sự đấu đá, tranh giành quyền lực giữa các đảng phái, nhóm lợi ích.

Sự kiểm chứng đúng đắn từ lý luận đến thực tiễn

Xuất phát từ luận điểm khách quan, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của chính đảng vô sản trong tiến trình cách mạng ở các quốc gia. C.Mác và Ph.Ăngghen trong học thuyết cách mạng và khoa học của mình, đã chỉ ra rằng, giai cấp công nhân là giai cấp hiện đại, cách mạng nhất, tiên tiến nhất trong xã hội, nhưng giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi thành lập ra được chính đảng đảm đương vai trò lãnh đạo, dẫn dắt giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân tiến hành cách mạng thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò duy nhất lãnh đạo nhà nước, xã hội, là người định hướng sự phát triển trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội.

Thấm nhuần những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã xác định rằng, cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam muốn thắng lợi trước hết phải có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”.

Thực tế lịch sử ở Việt Nam và trên thế giới đã chứng minh tính tất yếu khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các giai đoạn của tiến trình cách mạng Việt Nam. Không có một tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò này của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi luận điểm nhằm hạ thấp hoặc muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam đều trái với điều kiện thực tế của nước ta.

Sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không phải tự nhiên mà có, nó là tất yếu của lịch sử.

Trong thời kỳ giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước đây, ngoài phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và dẫn dắt, đã có những phong trào cứu nước, giải phóng dân tộc của một số hội, đoàn thể, đảng phái khác như: Duy Tân hội, Việt Nam Quang Phục hội, Việt Nam Quốc dân đảng... Tuy nhiên, những tổ chức, đảng phái này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do đường lối, mục tiêu của các tổ chức, đảng phái đó không phù hợp với xu thế phát triển của dân tộc, thời đại, không quy tụ, tập hợp được quần chúng nhân dân... nên đã không thể lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam và dần tan rã, thất bại.

Đúc rút từ sự sụp đổ của Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu vào những năm cuối của thập niên 1980, 1990 cũng cho thấy, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ chế độ chính trị ở các nước này là đã từ bỏ, buông lỏng, phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, để cho các lực lượng thù địch, phản động lợi dụng, vô hiệu hóa, cướp chính quyền, đưa đất nước đi theo con đường khác khi có những biến cố về chính trị.

 Ảnh minh họa: TTXVN 
 Ảnh minh họa: TTXVN 

Đảng luôn đặt lợi ích của giai cấp, nhân dân và dân tộc lên trên hết

Bản chất, mục tiêu, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân và dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác

Các quốc gia trên thế giới đều có đảng cầm quyền lãnh đạo và nắm giữ nhà nước để tổ chức và quản lý đất nước, triển khai chủ trương, đường lối chính trị của đảng cầm quyền, thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị. Để đánh giá vai trò, khả năng lãnh đạo đất nước của một chính đảng cầm quyền cần phải dựa vào và xem xét bản chất, mục tiêu, đường lối lãnh đạo của đảng cầm quyền, đó là tiêu chí cốt lõi để đánh giá vai trò, khả năng lãnh đạo đất nước của chính đảng cầm quyền.

Về bản chất, Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của nhân dân và cả dân tộc. Mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của Đảng luôn thống nhất với mục tiêu, lý tưởng, lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam. Đảng một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự dân tộc, được nhân dân, dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình. Mục đích hoạt động, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Đảng hội tụ đủ bản lĩnh, tài năng, uy tín để lãnh đạo đất nước và xã hội

 Trong bối cảnh mới hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính Đảng duy nhất hội tụ đầy đủ phẩm chất, năng lực, tiêu chí để lãnh đạo đất nước, dân tộc Việt Nam phát triển.

Hiện nay, bên cạnh những cơ hội vẫn tồn tại nhiều thách thức ảnh hưởng tới sự phát triển của Việt Nam: Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh giữa các nước, nhất là các nước lớn diễn biến ngày càng phức tạp, có nguy cơ gây mất ổn định trên quy mô toàn cầu; chiến tranh sắc tộc, chiến tranh khu vực, xung đột tôn giáo và khủng bố quốc tế vẫn có khả năng bùng phát dưới những hình thức mới; tình hình Biển Đông có thể diễn biến phức tạp; kinh tế thế giới phát triển chậm lại, nguy cơ rơi vào khủng hoảng, suy thoái; chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân túy ngày càng nổi lên... Điều đó đòi hỏi chính đảng lãnh đạo quốc gia là đoàn kết, tập hợp được quần chúng nhân dân; có tính tiên phong, cách mạng; có sức mạnh và kỷ luật tập thể; toàn tâm, toàn ý vì lợi ích chung của nhân dân, dân tộc. Ở Việt Nam hiện nay, để có được những điều kiện, nhân tố nêu trên chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ nhất, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo đất nước trong bối cảnh mới.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong giác ngộ, có tổ chức chặt chẽ nhất, Đảng hình thành nên những sức mạnh, phẩm chất nổi trội và nhờ đó lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân ta, đất nước ta vượt qua các khó khăn, thử thách trên con đường phát triển, đó là:

Sức mạnh của sự đoàn kết, thống nhất thành một khối vững chắc cả về chính trị, tư tưởng và hành động trong Đảng, bảo đảm sự tập trung trong lãnh đạo của Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở mục đích, lý tưởng của Đảng, trên cơ sở lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, trên cơ sở phát huy dân chủ, tôn trọng ý kiến cá nhân. Sự thống nhất về tổ chức và phương thức hành động tạo ra sức mạnh lớn lao cho Đảng vượt qua được các khó khăn, thử thách.

Có tinh thần triệt để cách mạng, sức chiến đấu mạnh mẽ, được tôi luyện và ý thức kỷ luật cao, được tổ chức và hoạt động chặt chẽ, nghiêm ngặt theo tư tưởng, nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sự sẵn sàng hy sinh, chấp nhận những khó khăn, gian khổ, khả năng vươn lên không ngừng của Đảng vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam.

Thứ hai, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam mới gắn bó mật thiết với nhân dân, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân tin và đi theo Đảng.

Vai trò lãnh đạo của Đảng chính là trách nhiệm, nhiệm vụ cao cả mà nhân dân Việt Nam tin tưởng giao phó cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, từ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân đối với Đảng. Mục tiêu lãnh đạo của Đảng là để nhân dân thực sự là người chủ đất nước, để toàn bộ quyền lực “đều ở nơi dân”. Đảng luôn có trách nhiệm với dân và tăng cường mối quan hệ máu thịt với dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng được nhân dân tin yêu, giúp đỡ, thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình, là Đảng của chính mình. Nhân dân thấy rằng lợi ích căn bản của mình gắn liền với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo; mục đích, lý tưởng của Đảng cũng chính là ước mơ, nguyện vọng lâu đời của nhân dân, của dân tộc.

Đảng luôn cầu thị, không ngừng đổi mới để tự hoàn thiện

Đảng Cộng sản Việt Nam không hề bảo thủ mà luôn đổi mới, cập nhật, nhằm làm cho Đảng mạnh lên, có đường lối đúng đắn, giúp Đảng hoàn thành sứ mệnh, nhiệm vụ đặt ra, đưa Việt Nam vượt qua các khó khăn, thách thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác trong bối cảnh mới hiện nay.

Thực tiễn đất nước và thế giới không ngừng vận động, biến đổi, rất nhiều vấn đề mới, yếu tố mới xuất hiện đòi hỏi phải được giải quyết, Đảng ta luôn tìm tòi, học hỏi, tổng kết thực tiễn để đề ra đường lối, quyết sách đúng đắn, phù hợp, Đảng luôn quan tâm đến đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng để Đảng hoàn thành mọi trách nhiệm, nhiệm vụ trong các giai đoạn cách mạng, nhất là những trách nhiệm, nhiệm vụ mới nảy sinh từ thực tiễn hiện nay, để Đảng luôn giữ được bản chất cách mạng, khoa học, vì lợi ích của quần chúng nhân dân, trước sau giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chất lượng, năng lực của đội ngũ đảng viên có tính chất quyết định đối với chất lượng, năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, do vậy, Đảng chú trọng kết nạp những người ưu tú vào Đảng và luôn luôn làm trong sạch Đảng, loại bỏ những phần tử biến chất, xét lại, cơ hội chủ nghĩa ra khỏi Đảng.

Đảng luôn siết chặt kỷ luật Đảng để chống suy thoái, tiêu cực và tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Đảng ta ý thức rõ rằng, một đảng duy nhất cầm quyền, bên cạnh mặt thuận lợi là cơ bản cũng chứa đựng không ít nguy cơ, mà một trong số đó là dễ quan liêu, xa rời quần chúng, dễ chủ quan... Để tránh nguy cơ đó, Đảng luôn kiên định mục tiêu đã lựa chọn, thường xuyên tự đổi mới, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức mạnh về mọi mặt, giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng, phong cách công tác gần gũi với nhân dân.

Như vậy, lịch sử đã chứng minh và khẳng định vai trò, sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc và nhân dân Việt Nam tiếp tục phát triển, bắt kịp xu hướng của thời đại.

Do vậy, những luận điểm sai lầm, suy diễn về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước là quan điểm phản động, sai trái, không có cơ sở cả về lý luận và thực tiễn. Về lý luận, luận điểm này đã dựa trên những phân tích, nhận xét phi khoa học, không logic, không hệ thống và không toàn diện. Về thực tiễn, quan điểm này cũng hết sức phiến diện, quy chụp, phi thực tế khi không thấy rõ hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thừa nhận những thành quả phát triển đất nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt hơn 93 năm qua.

Tin giả, tin sai sự thật núp bóng những câu chuyện cảm động, nhân văn

 


Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ đã và đang là cơ hội để truyền thông lan tỏa, đó là một trong những điều kiện để mở rộng dân chủ. Thế nhưng, không ít tổ chức, cá nhân đã lợi dụng vấn đề này để tung tin thất thiệt, bịa đặt những tình tiết về các vụ việc hòng “câu view”, “câu like”, hướng lái dư luận và mục đích cuối cùng chính là nhằm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản; kiếm tiền từ mạng xã hội, thậm chí là chống phá Đảng, Nhà nước.

 

Còn nhớ trong đại dịch COVID-19, câu chuyện của vị bác sĩ tên Trần Khoa sau khi đăng tải trên mạng xã hội với nội dung về hình ảnh vị bác sĩ này đã rút máy thở của mẹ mình để nhường máy thở, sự sống cho sản phụ giường bên cạnh. Sau khi được đăng tải đã thu hút hàng triệu lượt “like”, chia sẻ, bình luận. Tuy nhiên, xác minh sự việc, cơ quan an ninh đã kết luận đây là những thông tin giả mạo và không có thật ở Việt Nam. Nhưng nhiều bình luận lại có quan điểm cho rằng đây là câu chuyện nhân văn, cần lan tỏa cũng không sao. Tuy vậy, bản chất của người đăng tải câu chuyện này lại không nhằm mục đích nhân văn mà chính là lợi dụng câu chuyện để thu hút cộng đồng, lòng tốt của mọi người để thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản và ai có lòng thương thì lại bị đặt sai chỗ, tiếp tay cho kẻ xấu. Nguy hiểm hơn việc đăng tải câu chuyện này gây ảnh hưởng xấu đến xã hội, gây hoang mang trong Nhân dân và có cái nhìn bi quan về tình hình dịch bệnh tại TP Hồ Chí Minh. Hay như tại Hà Nội xuất hiện câu chuyện được lan truyền chóng mặt trên mạng xã hội facebook. Người viết tự nhận là người trong cuộc và chia sẻ rằng buổi chiều vừa ăn cơm xong thì thấy một nam thanh niên ăn mặc rách rưới, dáng người yếu ớt, xiêu vẹo trước cửa. Nam thanh niên thều thào hỏi chủ nhà: “Cô còn chút cơm thừa canh cặn nào cho cháu ăn, cháu chết đói mất”. Chủ nhà hỏi chuyện thì cháu kể năm nay 18 tuổi, quê Thanh Hóa, đi làm phụ hồ cùng anh trai 21 tuổi, cả hai thuê trọ và từ hôm Hà Nội giãn cách đến nay đã tuần lễ nhưng không có miếng gì lót bụng. Cô chủ nhà thấy vậy liền pha mì tôm cho hai thanh niên và không quên tặng kèm ít gói nữa để đi đường. Ngay khi câu chuyện đăng tải kèm hình ảnh hai thanh niên ăn mì tôm (bức ảnh bị che mặt), hàng nghìn lượt chia sẻ và bình luận bày tỏ thương cảm.

Trong đại dịch, thực tế có rất nhiều câu chuyện thương cảm xảy ra và cũng đầy ắp tình người. Hình ảnh những người đi xin ăn vốn dĩ không hiếm nhưng đưa ra hoàn cảnh hai thanh niên thất thểu vào nhà xin “cơm thừa, canh cặn” lại là câu chuyện khác. Và sự thật đã hé lộ khi phần cuối người kể chuyện kết luận rằng: “Thủ tướng nói “Không để ai bị bỏ lại phía sau”, vậy mà ngay giữa Thủ đô lại để người dân cả tuần không có gì lót bụng”. Từ đó đưa ra lời lẽ phê phán, chỉ trích Chính phủ, cho rằng người dân đừng tin gì Chính phủ, chính quyền!. Thủ đoạn của các đối tượng xấu là tung những hình ảnh, những câu chuyện mà nghe qua tưởng như “tình người trong hoạn nạn”, từ đó đánh vào lòng trắc ẩn, sự thương xót, bi ai của con người trong đại dịch. Tuy vậy, đây chỉ là thủ đoạn “che mắt” bởi khi các đối tượng bịa đặt càng bi thương, càng xót xa thì càng lấy nước mắt nhân sinh để gieo thù hận lên chính quyền. Từ đó, các thế lực xấu sẽ lợi dụng những câu chuyện, hình ảnh bi đát này để bôi nhọ sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Theo các chuyên gia tại Trung tâm Xử lý tin giả Việt Nam (VAFC), tin giả được tung ra dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể nhằm vụ lợi nhưng cũng có thể chỉ để được lan truyền rộng khắp nhằm “câu view”, “câu like” trên mạng xã hội. Qua theo dõi và sàng lọc, VAFC phân loại các loại tin giả xuất hiện theo các nhóm thông tin gồm: Tin giả về y tế, sản phẩm y tế liên quan đến sức khỏe con người; tin giả về chính sách, pháp luật; kinh tế, tài chính; thiên tai, dịch bệnh; an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; tài khoản giả mạo; đường link lừa đảo và các lĩnh vực khác. Tùy theo mức độ, VAFC phân chia tin giả thành hai mức độ, gồm những thông tin không có thật, tin bịa đặt, vu khống và những thông tin có một phần sự thật nhưng không hoàn toàn chính xác, tin xuyên tạc, bóp méo sự thật; tin không có cơ sở được lan truyền trong xã hội và trên không gian mạng. Theo đó, không như quan niệm của một số người cho rằng tin giả chỉ mang nội dung tiêu cực thì hiện đang có xu hướng tin giả mang cả nội dung tích cực, nhân đạo và cũng đang được phát tán, lan truyền sâu rộng. Theo các cơ quan chức năng, không nằm ngoài xu thế chung của thế giới, mạng xã hội tại Việt Nam đang là “mảnh đất màu mỡ” giúp tin giả phát triển. Và nhiều ý kiến cảm thấy lo ngại khi nhiều tin giả ở Việt Nam khá đơn giản mà vẫn lừa được khá nhiều người, nhất là hiện nay trên các trang mạng xã hội vẫn liên tục xuất hiện những thông tin rất vô lý nhưng nhiều người vẫn xuýt xoa, phẫn nộ, mừng vui thật dễ dàng rồi còn kêu gọi bạn bè cùng trao đổi. Thực tế, trong bối cảnh thế giới ngày càng “phẳng”, không thể phủ nhận những tiện ích của mạng xã hội, nhưng cũng không loại trừ rất nhiều những rủi ro đã, đang và sẽ còn tiềm ẩn trên mạng xã hội. Bản chất của mạng xã hội không xấu, xấu hay không là ở chỗ, cách thức chúng ta đang sử dụng mạng xã hội như thế nào. Từ những thông tin đã nêu, cho thấy, giải pháp tuyên truyền, giáo dục nhận thức và kỹ năng để mỗi công dân trở thành một người dùng mạng xã hội thông thái, có “sức đề kháng” và khả năng phân biệt thông tin chính thống với thông tin giả mạo, bịa đặt là giải pháp cơ bản, quan trọng. Do vậy, đừng vội vàng chia sẻ, bình luận, lan truyền hình ảnh, thông tin chưa được kiểm chứng, nhất là dạng thông tin, hình ảnh chạm vào nỗi đau thương, mất mát, bi ai, trắc ẩn của con người bởi “khuất trong bóng tối” vẫn luôn có những kẻ xấu đang dùng chiêu bài tung tin giả đánh vào nhân tâm, vào nước mắt người dân nhằm gieo rắc tâm lý bất an và kích động chống phá đất nước.

 

Giao lưu, tiếp biến của Văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

 


Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mở rộng giao lưu văn hóa với thế giới, văn hóa Việt Nam đã có dịp tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của các châu lục trên toàn cầu. Nhân dân ta được tiếp nhận và hưởng thụ nhiều thành quả văn hóa, khoa học kỹ thuật, công nghệ, tác phẩm nghệ thuật của nhân loại. Nền văn hóa Việt Nam đang được xây dựng và phát triển trên con đường dân chủ, văn minh, hiện đại, nhân văn, tiên tiến và giàu bản sắc dân tộc. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam hướng tới sự phát triển bền vững của đất nước đòi hỏi văn hóa dân tộc phải có sự giao lưu, tiếp biến có chọn lọc tất cả những tinh hoa, giá trị văn hóa nhân loại. Bản thân sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một minh chứng hùng hồn về quy luật kế thừa, giao lưu và tiếp biến văn hóa. Chủ nghĩa Mác sở dĩ giành được ý nghĩa lịch sử trên toàn thế giới về mặt hệ tư tưởng của giai cấp vô sản cách mạng là vì chủ nghĩa Mác đã tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa trí tuệ, văn hóa nhân loại. Xuất phát từ quan điểm đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã khẳng định cần phải: Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người...[1].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.10.

Không để đứt gãy tinh thần “xây” và “chống”

 

Các cơ quan, đơn vị, địa phương vừa tổ chức sơ kết 2 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Một trong những bài học kinh nghiệm được rút ra là phải tiếp tục quán triệt, đẩy mạnh, làm sâu sắc thêm tinh thần, nhiệt huyết “xây” và “chống”...

Không thể tư duy kiểu “hớt váng”

Sau 2 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW (gọi tắt là Kết luận 01), trong quá trình tổ chức hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm, thực tiễn ở nhiều cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị các cấp ghi nhận không ít ý kiến băn khoăn. Một trong những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm đặt ra là: Tại sao Đảng ta càng đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì số lượng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật càng nhiều? Tại sao ở một số bộ, ngành, địa phương, mặc dù người đứng đầu mỗi lần đăng đàn phát biểu trong các hội nghị liên quan đều hô hào phải đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực, suy thoái, nhưng chỉ mới “dăm bữa nửa tháng” đã vướng vòng lao lý?

Một số cán bộ vừa mới hôm qua lên diễn đàn thuyết giảng đạo lý, hôm sau đã phải tra tay vào còng? Phải chăng, thực trạng đó chứng minh, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chỉ là hình thức, kém hiệu quả, trước hết là ở ngay trong hệ thống chính trị, ngay trong hàng ngũ cán bộ cấp cao? Phải chăng cán bộ càng được học cao, vi phạm càng nhiều...

Những vấn đề được một bộ phận dư luận xã hội đặt ra như trên một phần xuất phát từ những thông tin do các thế lực thù địch xuyên tạc, lèo lái. Thành tựu của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp luôn là đề tài được các đối tượng cực đoan, bất mãn có tư tưởng thù địch khai thác, thực hiện các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước trên không gian mạng.

Họ bám vào các vụ việc tiêu cực, các cán bộ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống bị xử lý kỷ luật đảng, truy tố trước pháp luật để suy diễn, xuyên tạc, phủ nhận thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; bóp méo, bôi đen tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thông tin sai trái, xấu độc trên không gian mạng đã tác động đến tâm lý, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng, dẫn đến kiểu tư duy “hớt váng”, thấy hiện tượng mà không hiểu bản chất; thấy cây mà không thấy rừng...

Ảnh minh họa: tuyengiao.vn
Ảnh minh họa: tuyengiao.vn

Để hiểu rõ những chuyển biến tích cực và kết quả đạt được sau 2 năm thực hiện Kết luận 01 cũng như thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện. Trước hết, đó là tinh thần, phương châm chỉ đạo kết hợp “xây” và “chống”.

Kết luận 01 nêu rõ nhiệm vụ: “Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn”.

Quá trình quán triệt, tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận 01 cần thấy rõ: Đảng ta đã đặt ra yêu cầu vừa khái quát, vừa cụ thể về việc phải gắn chặt, kết hợp việc học tập, làm theo Bác với thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp; trong đó có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái trong nội bộ. Như vậy, kết quả học tập, làm theo Bác cần phải được thể hiện cụ thể thông qua hành động, việc làm, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Nói cách khác, nó phải được lượng hóa cụ thể trên thực tế.

Trong các hội nghị chuyên đề và quá trình tiếp xúc cử tri, rất nhiều lần các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta đã lưu ý, việc có nhiều cán bộ suy thoái, tham nhũng bị điều tra, xử lý không phải là “càng chống càng sai”, “càng học càng kém”... mà bản chất của vấn đề là do càng ngày chúng ta càng làm mạnh, làm quyết liệt việc đấu tranh, chỉnh đốn đội ngũ theo tinh thần không có vùng cấm. Trước đây, ít có vụ việc bị xử lý không phải là không có tham nhũng, tiêu cực, mà bởi lúc đó công tác đấu tranh chưa quyết liệt như hiện nay nên việc phát hiện, xử lý tiêu cực chưa hiệu quả.

Với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “trị một người để cứu muôn người” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh, chúng ta cần thấy rõ, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái là những biểu hiện vô cùng tinh vi, vô cùng khó khăn để có thể lôi ra ánh sáng công lý. Chủ nghĩa cá nhân như sâu mọt đục khoét bên trong thân cây.

Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tiêu cực gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo Bác với tinh thần “lấy xây để chống” thời gian qua đã lôi ra được hàng loạt cán bộ suy thoái trong nội bộ Đảng. Đó là thành tựu của cuộc đấu tranh đầy cam go, phức tạp và không ít “hy sinh”. Thành tựu đó đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, ngày càng đạo đức, văn minh để xứng đáng với niềm tin và sự gửi gắm của nhân dân.

Sự phát triển của tư duy và đòi hỏi gắt gao từ thực tiễn

Việc học tập, làm theo Bác không phải đến bây giờ Đảng ta mới đặt ra, mà đó là một hành trình mang tính hệ thống, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng và những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ. Ngay sau khi Bác mất, trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9-9-1969 đã thể hiện sắt son lời thề: “Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người...”.

Từ đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và kiều bào yêu nước khắp nơi trên thế giới đã ghi nhớ khát vọng “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trải qua mỗi giai đoạn lịch sử, cách mạng dân tộc đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới, việc học tập, làm theo Bác cũng đòi hỏi có sự phát triển, bổ sung những nội dung, yêu cầu mới. Đó là sự phát triển tất yếu của tư duy biện chứng.

Trong 17 năm qua, kể từ khi Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đến nay, việc học tập và làm theo Bác không ngừng được điều chỉnh, bổ sung nội dung, hình thức, giải pháp thực hiện. Đảng ta đã cụ thể hóa sự phát triển tư duy lý luận và đáp ứng yêu cầu gắt gao từ thực tiễn của đất nước bằng các nghị quyết, chỉ thị, kết luận... Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc ban hành, triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận 01 đã thể hiện yêu cầu ngày càng cao đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Kết luận 01 chỉ rõ: Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Bác, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật. Việc thực hiện Chỉ thị 05 gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các khâu đột phá, các vấn đề cấp bách, bức xúc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao...

Công tác đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ; tự phê bình và phê bình có nơi, có lúc còn hình thức; tình trạng thiếu tự giác nhận khuyết điểm, đổ lỗi, nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi...

Với phương châm kết hợp chặt chẽ “xây” và “chống”, sắp tới chắc chắn sẽ còn nhiều cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong hệ thống chính trị bị xử lý kỷ luật, lôi ra trước ánh sáng công lý. Đặc biệt là hiện nay, khi hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh tiếp tục được củng cố, đẩy mạnh, số lượng cán bộ, đảng viên suy thoái, tham nhũng bị kiểm tra, điều tra, xử lý ở các cấp chắc chắn sẽ còn nhiều thêm.

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ tiếp tục diễn ra cam go, phức tạp, nhưng với tinh thần kiên trì, quyết liệt, không có vùng cấm, “lấy xây để chống”, chúng ta có niềm tin son sắt vào thắng lợi của Đảng.

Vấn đề cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp cần có là sự nhận thức thấu đáo, đầy đủ, sâu sắc bản chất của vấn đề bằng phép tư duy biện chứng. Tuyệt đối không tư duy kiểu “hớt váng” dẫn đến nghe theo, hùa theo, làm theo những luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội. Cán bộ, đảng viên có nhận thức thấu đáo, đầy đủ thì mới có cơ sở vững chắc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện ngày càng sâu rộng, hiệu quả việc học tập và làm theo Bác. Tinh thần “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” cần được củng cố, tiếp lửa thường xuyên, liên tục bằng “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”... không để đứt gãy vì bất cứ lý do gì, bất cứ hoàn cảnh nào.

Thực hiện đồng bộ giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. "Xây" là tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước; động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng của các địa phương, cơ quan, đơn vị đã đề ra. "Chống" là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... (trích Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị)

Những luận điệu xảo trá sau vụ khủng bố ở Đắk Lắk: Thêu dệt, bóp méo sự thật


Sau khi vụ án xảy ra, trên nhiều kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng hải ngoại, trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã tung ra thông tin sai sự thật, các hình ảnh được dàn dựng, cắt ghép… Một số bài viết cố tình đánh tráo bản chất, hướng vụ án sang nguyên do khác nhằm kích động tâm lý kỳ thị dân tộc, gây chia rẽ giữa đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên.

Liên quan vụ khủng bố do nhóm đối tượng trang bị vũ khí, tấn công trụ sở UBND xã Ea Ktur và Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk ngày 11/6 làm 4 cán bộ Công an xã hy sinh, 2 cán bộ xã và 3 người dân thiệt mạng, 2 cán bộ Công an xã bị trọng thương, CQĐT đã khởi tố vụ án, bắt giữ các đối tượng liên quan để điều tra, xử lý trước pháp luật; đồng thời triển khai các công tác ổn định tình hình tại địa phương. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử chống đối đã và đang lợi dụng vụ án để xuyên tạc sự thật, đưa các thông tin sai trái nhằm kích động chống phá, gây bất ổn từ bên trong, đồng thời tạo cớ để kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án, Người Phát ngôn Bộ Công an cũng như các cơ quan chức năng đã có các thông tin chính thức với báo chí và tại một số hội nghị, diễn đàn có liên quan. Việc thông tin đảm bảo tính chính xác, kịp thời, giúp người dân trong nước và dư luận quốc tế nắm được thông tin, bản chất vụ án, ủng hộ cơ quan chức năng tích cực điều tra, làm rõ để xử lý trước pháp luật; đồng thời lên án các cá nhân, tổ chức đứng sau vụ án, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu gây bất ổn tại khu vực Tây Nguyên. Tuy nhiên, sau khi vụ án xảy ra, trên nhiều kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng hải ngoại, trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã tung ra thông tin sai sự thật, các hình ảnh được dàn dựng, cắt ghép… Một số bài viết cố tình đánh tráo bản chất, hướng vụ án sang nguyên do khác nhằm kích động tâm lý kỳ thị dân tộc, gây chia rẽ giữa đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên. Báo điện tử BBC Tiếng Việt ngày 23/6 đăng bài “Câu chuyện Tây Nguyên và người dân sắc tộc của núi rừng trong lòng tôi” đã đưa nhiều thông tin sai sự thật, có các bình luận mang tính chụp mũ, suy diễn. Bài viết cố tình hướng lái sai mục đích, ý nghĩa của vấn đề di dân, phát triển kinh tế ở Tây Nguyên, từ đó quy chụp “không gian của các sắc tộc bị tan vỡ”! Người viết đưa ra những câu từ vừa trái bản chất, vừa mang tính kích động như “Sau biến cố 30/4/1975, Tây Nguyên bước vào kỷ nguyên bị phá vỡ”. Ngay như khái niệm “đồng bào” vốn là câu chữ thân thuộc, thiêng liêng với cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam thì bài viết cũng cố tình bẻ lệch ý nghĩa, cho rằng “việc gọi các sắc tộc Tây Nguyên bằng từ “đồng bào” không che giấu được toan tính chính trị”, đả kích thành “đây là cách áp đặt văn hoá và mị dân”! Bằng thủ đoạn vờ “đặt vào miệng” của một người không rõ thực hư ở đâu, bài viết này vu cáo “Người Kinh đang đối xử với các sắc tộc Tây Nguyên hơn cả thực dân, bởi thực dân không muốn chiếm đoạt và đồng hoá như thế”; “có quá nhiều người sắc tộc ở Tây Nguyên nói họ không được phép thực hành niềm tin tôn giáo họ chọn”.

Bằng những thủ đoạn đánh tráo bản chất dưới dạng hồi ức, kể lại, nhớ lại, tự bịa ra lời nói của những cá nhân không có thật, bài viết cố tình vẽ ra bức tranh với gam màu xám xịt ở Tây Nguyên rồi quy kết rằng “việc tấn công vào trụ sở Công an tại hai xã vừa qua rất có thể là phản ứng của sự phẫn nộ, phản kháng khi người sắc tộc bị dồn vào đường cùng”! Đây là thủ đoạn vu cáo hết sức nguy hiểm nhằm kích động chống phá từ bên trong và gây sự hiểu lầm, tạo sức ép từ bên ngoài. Đài Á châu tự do (RFA) đưa bài mang rõ tính kích động, xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta khi nói rằng, giải pháp cho các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo ở Tây Nguyên đều lặp lại điệp khúc cách đây hàng chục năm. Từ đó bôi nhọ: “Không chỉ nguội mà còn cuội. Cuội là vì trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đi ngược lại chính sách đại đoàn kết dân tộc và giờ đây lại còn đổ vấy trách nhiệm về biến cố xả súng ở huyện Cư Kuin”!

Trong một bài viết khác, đài này dùng những ngôn từ xảo trá để bóp méo bản chất vụ án khủng bố ở Đắk Lắk, “đánh lái” thành vấn đề xung đột, mâu thuẫn trong các dân tộc ở Tây Nguyên, vu cáo người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên “không chịu được sự áp đảo hiện nay bởi sự thống trị của người Việt đến từ đồng bằng”. Với cách dẫn dắt sai trái này, bài viết nhắm vào chỉ trích Đảng, Nhà nước: “Chính quyền của Đảng Cộng sản bị cáo buộc đàn áp các nhóm sắc dân này, những người đã từng chiến đấu với họ trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, Mỹ…”; “đồng bào thiểu số ở Tây Nguyên đã bị truất sở hữu đất đai của tổ tiên, nơi mà nhà nước áp dụng chính sách thuộc địa”! Đài này cũng đưa nhiều phỏng vấn những đối tượng tự xưng là người dân tộc HMong, người Thượng tự nhận là “nạn nhân bị đàn áp tôn giáo” phải bỏ chạy lưu vong hoặc dẫn lời những trường hợp không rõ địa chỉ cụ thể để bôi nhọ tình hình thực tế tại Đắk Lắk. Những đối tượng này cho rằng vụ việc ở Đắk Lắk là “hành động phản kháng của người Tây Nguyên theo đạo Tin lành bị áp bức về đức tin”, là “mâu thuẫn sắc tộc” âm ỉ từ lâu; xuyên tạc bản chất vấn đề bằng chiêu bài “người Kinh áp bức người Thượng”, “người Kinh chiếm đất của người Thượng”. Cũng với giọng điệu bịa đặt, đả kích, Đài VOA đưa nhiều bài viết đánh lừa người đọc dưới dạng người Thượng ở Tây Nguyên kể chuyện. Trong bài viết “Người Thượng tấn công chính quyền vì tức nước vỡ bờ”, bằng việc dẫn lời của hai trường hợp ở Hoa Kỳ có tên là Y Phíc và Aga – thành viên của tổ chức phản động “Người Thượng vì công lý”, bài viết trích dẫn những nội dung sai trái nhắm vào miệt thị chính quyền, quy cho nguyên nhân vụ khủng bố là “họ đã bị đẩy đuổi đến bước đường cùng”! Từ việc bịa chuyện mâu thuẫn trong làm ăn, lao động sản xuất giữa người Kinh với người Thượng, bài viết vu cáo “chính quyền không bao giờ cho người dân tự do bày tỏ niềm tin tôn giáo mà họ lựa chọn”; “người Thượng cũng đem những bức xúc của mình đi khiếu nại với chính quyền nhưng không những không được giải quyết mà còn bị bắt bớ, đánh đập”. Từ đó, bài viết đánh tráo bản chất, bôi nhọ thành “chính quyền cộng sản Việt Nam gần như không quan tâm gì đến đồng bào Tây Nguyên”; biện hộ cho hành vi của những kẻ khủng bố rằng “khi bị đẩy vào bước đường cùng thì người dân không còn cách nào khác là sẵn sàng đối diện với cái chết để làm liều”; “khi họ không còn con đường để sống thì họ phải chấp nhận cái chết”. Nội dung trong các bài viết, lời nói dù bằng cách này hay cách khác thì số này đều nhắm vào xuyên tạc, bôi nhọ chính sách của Đảng, Nhà nước với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, cho rằng đồng bào bị bỏ rơi, bị chèn ép, đẩy vào khốn cùng. Cùng với đó là xuyên tạc tình cảm, đời sống của đồng bào Tây Nguyên, đưa ra những nội dung sai trái để gây chia rẽ giữa người Kinh với người Thượng, giữa các đồng bào dân tộc thiểu số. Một số bài viết còn xuyên tạc việc chính quyền “lợi dụng vụ việc để đàn áp, truy bức người Thượng”, từ đó đưa ra cái nhìn sai lệch, nhất là gây hiểu lầm đối với dư luận ở nước ngoài, cố tình tạo ra những mâu thuẫn, bất ổn từ bên trong để kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế vào công việc nội bộ của Việt Nam…

 

Quy luật giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hóa trong quá trình phát triển

 


Quy luật phát triển khá phổ biến của văn hóa là sự giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hóa. Đây có thể xem là động lực thúc đẩy sự phát triển văn hóa. Khái niệm giao lưu (acculturation) giữa các nền văn hóa được hiểu là khi hai nhóm người có văn hóa khác nhau, tiếp xúc lâu dài và trực tiếp gây ra biến đổi mô thức văn hóa ban đầu của một hay cả hai nhóm. Giao lưu, tiếp biến văn hóa hiểu theo nghĩa Hán - Việt sự giao nhau, tiếp xúc với nhau giữa hai nền văn hóa dẫn đến sự tiếp thu và biến đổi các yếu tố hoặc cơ cấu của một hay cả hai nền văn hóa ấy.

Giao lưu, tiếp biến là quy luật phổ biến mang tính tất yếu khách quan của các nền văn hóa trên thế giới. J.Nêhru - nhà văn hóa lớn của Ấn Độ đã khẳng định: Không một nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối cổ xưa, thuần khiết và không bị ảnh hưởng bởi một nền văn hóa khác[1].

Các nhà nghiên cứu văn hóa đã chỉ ra tính khách quan của quy luật giao lưu, tiếp biến văn hóa được quy định bởi điều kiện và nhu cầu khách quan của đời sống các cộng đồng người. Các cộng đồng người dù sống trong các môi trường sinh thái khác nhau nhưng đều có chung một bản chất là tính người và đều có nhu cầu tương liên, tương giao với nhau.

Hơn nữa, vì các cộng đồng sống trong những môi trường sinh thái khác nhau, sản xuất ra các sản phẩm khác nhau, họ cần trao đổi các sản phẩm với nhau, tức là trao đổi kinh tế. Từ sự trao đổi kinh tế dẫn đến trao đổi văn hóa và tạo nên yếu tố truyền thống (thói quen và thị hiếu) sử dụng các sản phẩm của nhau. Bắt đầu từ sự trao đổi kinh tế và đồng thời với sự trao đổi kinh tế là sự giao tiếp chính trị, ngoại giao, hôn nhân… lại làm cơ sở cho sự giao lưu, tiếp biến văn hóa. Đời sống nhân loại càng phát triển thì sự giao lưu, tiếp biến văn hóa càng diễn ra mạnh mẽ do tổng thể các hoạt động giao lưu chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ, thông tin đại chúng giữa các quốc gia, dân tộc thúc đẩy.

Tóm lại, sự trao đổi kinh tế, tiếp xúc xã hội giữa các cộng đồng đã tạo nên sự tiếp xúc văn hóa và do đó, giao lưu, tiếp biến văn hóa đã được diễn ra. Từ đó, quy luật giao lưu, tiếp biến phát huy tác dụng của nó, làm cho một số yếu tố văn hóa ở cộng đồng này có thể truyền đến cộng đồng kia. Tùy theo mức độ khác nhau, các yếu tố văn hóa này được tiếp thu, được kết hợp với các yếu tố có sẵn làm biến đổi các yếu tố cũ của một hay cả hai nền văn hóa của các cộng đồng. Cùng với quy luật kế thừa, quy luật giao lưu, tiếp biến có tác dụng to lớn làm cho văn hóa của các cộng đồng nói riêng và văn hóa nhân loại nói chung vận động và phát triển.

Khi đề cập đến quy luật giao lưu, tiếp biến văn hóa chính là nói đến sự tác động của hai yếu tố nội sinh và ngoại sinh của một nền văn hóa. Vậy, vai trò của hai yếu tố này là như thế nào? Yếu tố nội sinh là yếu tố bên trong, có sẵn (hay được nội sinh hóa từ trước) có vai trò như điều kiện (cơ sở) cho việc tiếp nhận yếu tố bên ngoài (ngoại sinh), truyền thống hóa yếu tố bên ngoài. Yếu tố ngoại sinh, yếu tố bên ngoài từ một nền văn hóa khác là đối tượng của sự tiếp thu. Nó có vai trò kích thích, thúc đẩy sự giao lưu và biến đổi (nội sinh hóa) để tạo nên sản phẩm, giá trị văn hóa mới.

Do vậy, để quy luật giao lưu, tiếp biến văn hóa diễn ra một cách tích cực cần phải phát huy vai trò của cả hai yếu tố nội sinh và ngoại sinh của một nền văn hóa. Nhận thức rõ vai trò của quy luật giao lưu, tiếp biến văn hóa, Đảng ta nêu ra phương hướng kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phương hướng ấy cũng chính là sự vận dụng hai quy luật kế thừa và giao lưu, tiếp biến của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới ở nước ta hiện nay.

Thông qua giao lưu, tiếp biến, các nền văn hóa tiếp xúc, học hỏi lẫn nhau, biến yếu tố ngoại sinh thành yếu tố nội sinh. Vấn đề là cần biết chọn lọc, có phê phán để tiếp nhận những tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu cho văn hóa dân tộc, đồng thời quảng bá hệ giá trị văn hóa dân tộc làm phong phú thêm cho văn hóa loài người.



[1] J.Nehru: Văn hóa là gì? (Bài phát biểu tại buổi lễ thành lập Ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài của Ấn Độ CICCR, ngày 9-4-1950 đăng trên tạp chí Thời báo Ấn Độ (The time of India), số đặc biệt về văn hóa 10-1988.

Bóc mẽ cái gọi là giải thưởng dành cho người âm ỉ chống phá Việt Nam.

 

Chúng ta luôn trân trọng quá khứ, trân trọng những người góp phần làm nên giá trị Việt Nam, nhưng chúng ta cũng lên án việc làm sai trái của những ai đi ngược lại tương lai tốt đẹp của dân tộc. Người Việt rất ân nghĩa, ân tình: “Ăn quả nhớ người trồng cây”. Thế hệ đi trước đã “trồng” cây độc lập tự do, thế mà có những kẻ vô lương đi “chặt” cây ấy thì tất nhiên chúng ta phải lên án thì mới phần nào xứng đáng với tiền nhân. Còn nếu cứ dửng dưng, bàng quan thì lại là có lỗi, thậm chí đó cũng là một cách tiếp tay cho kẻ xấu và các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam.

1. Một “sự kiện” văn học vừa làm xôn xao văn đàn Việt: Viện Hàn lâm Pháp trao giải thưởng văn học Prix Mondial Cino Del Duca cho Dương Thu Hương, một nhà văn Việt Nam nhưng đã rời bỏ Tổ quốc sang sinh sống tại Pháp. “Sự kiện” tạo ra dư luận trái chiều không chỉ trong văn giới mà lan rộng ra xã hội, vì đây là “giải thưởng” của nước Pháp-một quốc gia có nhiều tác gia văn học lại nổi tiếng văn minh. Giá trị “giải thưởng” lại cao (200.000 euro), chỉ sau giải Nobel. Rất nhiều người băn khoăn: Liệu giải có mang màu sắc chính trị? Có kẻ cơ hội còn “tát nước theo mưa” rằng vì “trong nước không có tự do sáng tạo nên những nhà văn tài năng như Dương Thu Hương bị vùi dập”. Lại có người than thở “muốn mở mày mở mặt với thế giới thì nhà văn Việt Nam phải sang phương Tây”... Vậy bản chất của “giải thưởng” này là gì, việc trao giải có công tâm, khách quan, trung thực hay vì một lẽ gì khác?

Là người Việt Nam, chúng ta vui mừng trước những thành tựu của các văn nghệ sĩ Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Đã là người Việt thì ở đâu cũng là đồng bào. Nghĩa “đồng bào” của Việt Nam rất được thế giới chú ý. Dù ở trong nước hay ở ngoài nước, đã là người Việt Nam thì đều coi nhau là người trong một nhà. Thế nên Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới có ngày Giỗ Tổ. Do vậy, người mang dòng máu Việt thành công ở đâu cũng thật đáng quý, đáng tự hào. Dĩ nhiên “năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài”, có người thế này có người thế khác, chắc chỉ có người nào nhạt nghĩa nguồn cội, thờ ơ với lịch sử dân tộc mới đem lòng đố kỵ với thành công của đồng bào mình.

Hội thảo quốc tế: Di sản Hồ Chí Minh đối với nhân loại được tổ chức ngày 6-9-2022. Ảnh minh họa: quocte.vn

Hội thảo quốc tế: Di sản Hồ Chí Minh đối với nhân loại được tổ chức ngày 6-9-2022. Ảnh minh họa: quocte.vn

Trên thế giới có rất nhiều giải thưởng văn học, mỗi nơi có một tiêu chí riêng nên tất yếu sẽ có dư luận đồng tình hay phản đối. Đó là chuyện bình thường. Giải thưởng mang tên Prix Mondial Cino Del Duca của Viện Hàn lâm Pháp không phải là một giải thưởng chuyên về văn học mà còn trao cho nhiều người ở nhiều ngành nghề khác nhau, mà theo họ là có “đóng góp”. Là công dân Việt Nam, chúng ta tôn trọng việc làm ấy của họ, theo tiêu chí, quan niệm của họ. Tất nhiên, chúng ta cũng tiếp nhận những thông tin về giải thưởng, chất lượng và đóng góp cho sự tiến bộ, văn minh chung của giải thưởng theo quan niệm của chúng ta. Đó cũng là lẽ thường tình. Bởi một trong những căn cứ để hội nhập, toàn cầu hóa mà triết học văn hóa đề ra là “tôn trọng sự khác biệt”.

Ban tổ chức trao giải cho Dương Thu Hương với căn cứ đó là “một nhà văn lớn mà tác phẩm và nhân cách độc đáo chứa đựng thông điệp của chủ nghĩa nhân văn hiện đại”. Chúng ta thấy ngay cách dùng các khái niệm là thiếu chính xác, dễ gây ngộ nhận, dễ đánh lừa người đọc. Dương Thu Hương là nhà văn có thể có năng khiếu viết văn nhưng chưa phải là “nhà văn lớn”. Thế nào là nhà văn lớn? Xin phép không định nghĩa ở đây mà chỉ xin nói những điều được thế giới khẳng định. Dương Thu Hương có thể có nhiều “tác phẩm” nhưng rõ ràng bà ta chưa tương xứng với những nhà văn cùng thời, như: Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu...; càng chưa thể so sánh với Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Thế giới, và chính nước Pháp cũng khẳng định, những nhà văn lớn phải là những nhà tư tưởng, thì chỉ có là những Victor Hugo, Balzac... Nói Dương Thu Hương là “nhà văn lớn” thì vô hình trung lại hạ thấp những bậc đại văn hào ấy sao (?). Bà ta có thể có “cá tính” chứ chưa thể là “nhân cách độc đáo”.

Cũng không thể nói tác phẩm của Dương Thu Hương “chứa đựng thông điệp của chủ nghĩa nhân văn hiện đại”. Chủ nghĩa nhân văn nào thì cũng hướng con người tới chân-thiện-mỹ. Trong khi đó, một số “tác phẩm” đã công bố của Dương Thu Hương thì không như vậy. Thậm chí với thái độ bất mãn, hằn học, cực đoan, bà ta thể hiện rõ sự khinh bỉ, rẻ rúng, hạ thấp con người. Những cuốn sách (chứ không thể gọi là tác phẩm) như “Bên kia bờ ảo vọng”, “Những thiên đường mù”, "Đỉnh cao chói lọi", “Chốn vắng”... của bà ta chứng minh rất rõ điều đó. Nguy hiểm hơn, những cuốn sách này còn hàm chứa nội dung công kích, hạ bệ, phủ nhận thành tựu cách mạng, thể hiện ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam rất tinh vi, nham hiểm.

Xin nói về trường hợp “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương. Là người có nghiên cứu về tiểu sử, cuộc đời và trước tác Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi đọc cuốn này, chúng tôi khẳng định đây là cuốn sách xuyên tạc rất ác ý về Bác Hồ. Nhân đây xin cập nhật những đánh giá mới nhất của thế giới về Bác. Cuộc Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh gần đây nhất vào ngày 18-4-2023 tại thủ đô Roma (Italia) có tên “Quãng đời làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Italia”. Trước đó, ngày 14-5-2022 tại Ấn Độ có Hội thảo “Hồ Chí Minh và Ấn Độ” (Ho Chi Minh and India) tổ chức ở Kolkata. Trước nữa, tháng 10-2019, Hội thảo “Hồ Chí Minh toàn cầu” (Global Ho Chi Minh) được tổ chức tại thành phố New York (Mỹ). Các hội thảo đều khẳng định ở Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là sự hội tụ tuyệt đẹp ba luồng văn hóa: Văn hóa yêu nước Việt Nam; văn hóa hòa bình, bình đẳng, bác ái của nhân loại tiến bộ và văn hóa giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác. Các nhà nghiên cứu quốc tế đều khách quan nhấn mạnh Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là cầu nối giữa Việt Nam với thế giới và nhân cách của Người mang tầm ảnh hưởng toàn cầu. Điều này khẳng định sự tôn trọng của giới học giả thế giới đương đại với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng và những giá trị văn hóa cao đẹp của Người đang được cả nhân loại đón nhận. Thế mà có một người Việt Nam đã đi ngược lại thế giới thì thử hỏi người đó có lương tâm Việt Nam không?

Nhân “sự kiện” về Dương Thu Hương, có người “kêu gọi” cần “cởi trói” cho “tự do sáng tạo” của văn nghệ sĩ. Xin được nói rõ cần hiểu khái niệm “tự do” trong mối quan hệ rộng rãi ở bất kỳ chế độ xã hội nào sẽ đều thấy không có một “tự do tuyệt đối” mà chỉ có tự do trong khuôn khổ pháp luật. Nhà văn cũng là một công dân. Dù nhà văn có tài năng đến đâu, khi sáng tạo tác phẩm cũng chịu sự quy chiếu quyền lợi chung của quốc gia, dân tộc, con người. Không thể có chuyện lấy “quyền” nhà văn đi công kích, phủ nhận, chối bỏ dân tộc mình, đất nước mình. Có người còn kêu gọi “tự do tư tưởng” cho văn nghệ sĩ (!). Mục đích của “tự do tư tưởng” chẳng phải là để tìm ra chân lý sao? Ngày hôm nay thế giới càng khẳng định chân lý chẳng phải là cái gì trừu tượng, xa xôi mà chính là lợi ích của quốc gia, dân tộc và nhân dân. Điều này Bác Hồ đã nói 67 năm trước (năm 1956): “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân-tức là phục tùng chân lý”. Hãy viết về nhân dân, vì nhân dân, vì đất nước, dân tộc. Đó là tự do của văn nghệ sĩ. Trên thực tế đã có ai cấm hay ngăn cản văn nghệ sĩ quyền tự do sáng tạo theo chân lý ấy đâu?

2. Hôm nay thế giới đã vượt qua quan niệm nhà văn là “thư ký của thời đại” vì cho rằng thư ký là ghi chép thôi nên nhà văn phải là người góp phần “kiến tạo hiện thực”, tức là phải tạo ra một mô hình thế giới riêng. Mô hình này luôn thoát thai từ đời sống nên là mô hình của đời sống chứ không phải bản thân đời sống. Do vậy, chất lượng tác phẩm phụ thuộc chủ yếu vào chủ thể sáng tạo nhà văn. Gọi tác phẩm là “con đẻ tinh thần” của nhà văn là vì thế. Nhà văn sống với đời sống thế nào thì có tác phẩm như vậy. Cho nên “tự do sáng tạo” là khái niệm chỉ mối quan hệ tác giả với đời sống. Chỉ có “tự do” ngụp lặn xuống tận đáy dòng chảy cuộc đời, phải lam lũ sống cùng đời sống nhân dân, vui cái vui, đau cùng nỗi đau của người lao động mới có “vật liệu” để xây dựng tác phẩm. Lịch sử văn chương thế giới cho thấy chưa có nhà văn lớn nào thành công mà thoát ly thực tế đời sống lao động của nhân dân, tách ra khỏi số phận của đất nước họ.

Đạo lý Việt Nam là “Uống nước nhớ nguồn”, “Chim có tổ người có tông”... Người Việt trân trọng những anh hùng liệt sĩ và bao người con ưu tú đã hy sinh cuộc sống vì hạnh phúc của nhân dân, tương lai của đất nước, nhưng cũng khinh bỉ những kẻ vô ơn bất nghĩa. Chúng ta ghi nhớ công ơn những người đã làm nên chiến thắng năm 1975. Họ đã hy sinh một phần tuổi trẻ, có người hy sinh một phần thân thể, có người mãi mãi ngã xuống để mang lại độc lập tự do cho Tổ quốc, mở ra tương lai rạng rỡ cho dân tộc. Nhưng với riêng Dương Thu Hương, trong một lần trả lời phỏng vấn về ngày Giải phóng miền Nam 30-4-1975, thì ngay cách nói của bà ta đã cho thấy bà sớm đi ngược lại dân tộc mình, nhân dân mình: “Mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc”. Như vậy bà ta đã nhận thức sai từ rất sớm, ngay sau ngày giải phóng miền Nam.

Chúng ta trân trọng quá khứ, trân trọng những người góp phần làm nên giá trị Việt Nam, nhưng chúng ta cũng lên án việc làm sai trái của những ai đi ngược lại tương lai tốt đẹp của dân tộc. Trong số đó có bà Dương Thu Hương. Tất nhiên, chúng ta không chấp nhận việc tung hô, cổ xúy những con người như bà Hương. Người Việt rất ân nghĩa, ân tình: “Ăn quả nhớ người trồng cây”. Thế hệ đi trước đã “trồng” cây độc lập tự do, thế mà có những kẻ vô lương đi “chặt” cây ấy thì tất nhiên chúng ta phải lên án thì mới phần nào xứng đáng với tiền nhân. Còn nếu cứ dửng dưng bàng quan thì lại là có lỗi, thậm chí đó cũng là một cách tiếp tay cho kẻ xấu và các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam.

3. Quay trở lại vấn đề trên thì giải thưởng nói chung ở bất kỳ đâu vì luôn đặt ra tiêu chí, mục đích riêng nên tự giới hạn không gian, thời gian. Do vậy có những giải thưởng không thể tồn tại ý nghĩa lâu dài. Chưa nói tới việc giải thưởng bị lạm dụng ý nghĩa. Ví như giải Nobel tầm quốc tế thế mà có thời điểm còn bị điều chỉnh để thiên về mục đích chính trị. Chúng ta nhớ lại Giải Nobel Hòa bình năm 1973 từng được Ủy ban Nobel trao cho đồng chí Lê Đức Thọ và cho cả ông Henry Kissinger, tức họ “đánh đồng” kẻ đi xâm lược và người bị xâm lược, để thế giới hiểu rằng người Mỹ “đem lại hòa bình cho Việt Nam” chứ không hề xâm lược. Sự phi lý này, đã qua nửa thế kỷ mà cho đến hôm nay vẫn còn dư luận bàn tán chế giễu, chê bai. Là bạn của nước Pháp, chúng ta tôn trọng họ, ủng hộ những việc làm của họ vì hòa bình, vì tương lai tốt đẹp của nhân loại. Chúng ta coi việc họ trao giải cho Dương Thu Hương là quyền của họ và họ chịu trách nhiệm trước việc làm ấy. Nhưng chúng ta không coi việc đó là có giá trị đối với dân tộc, đất nước Việt Nam chúng ta.

“Ngoại giao cây tre” vì độc lập, tự cường và hữu nghị

 

Dựa trên tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, kết hợp với truyền thống văn hóa đặc sắc và chính sách ngoại giao hòa bình của dân tộc, trường phái “ngoại giao cây tre” của Việt Nam không chỉ phù hợp với điều kiện Việt Nam và đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, mà còn phù hợp với mọi thời đại.

 

Ðó là nhận định của nhà báo Khamvisan Keosouphan, nguyên Trợ lý Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương Ðảng Nhân dân Cách mạng Lào khi chia sẻ với phóng viên TTXVN. Là một nhà báo thường xuyên theo dõi về Việt Nam, ông Khamvisan có ấn tượng mạnh khi đọc bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ trương xây dựng trường phái “ngoại giao cây tre” của Việt Nam. Theo ông, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã làm rõ bản chất và đường lối ngoại giao Việt Nam, đó là nền ngoại giao được đúc kết trong suốt quá trình hàng nghìn năm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước của dân tộc Việt Nam, dựa trên nguyên tắc bất biến và tư tưởng xuyên suốt là độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia. Ðó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước, văn hóa dân tộc, truyền thống Việt Nam với tinh hoa văn hóa và kinh nghiệm ngoại giao thế giới. Trong đó, luôn đề cao mục tiêu độc lập dân tộc, tinh thần hòa hiếu, hữu nghị; dùng ngoại giao để ngăn chặn, đẩy lùi xung đột; gắn với thực tiễn của thế giới, đưa Việt Nam hòa nhập dòng chảy của thời đại… Trong khi đó, Giáo sư Go Ito, thuộc Ðại học Meiji (Nhật Bản) nhận định, cách gọi “ngoại giao cây tre” là một phép ẩn dụ thú vị. Theo ông, những nét chính của đường lối ngoại giao này là khả năng phục hồi, tính linh hoạt và sự khiêm tốn. Giáo sư nhấn mạnh, sự linh hoạt tồn tại trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, trong việc duy trì mối quan hệ với các nước. Chuyên gia Nhật Bản cho rằng, Việt Nam đang trong một môi trường thuận lợi để đạt được vị thế quan trọng trong ASEAN, đồng thời có sự gắn kết về chính trị và kinh tế với các nước trong khu vực, như Nhật Bản và Hàn Quốc. Theo Giáo sư Go Ito, Việt Nam là quốc gia Ðông Nam Á gần Nhật Bản nhất, đồng thời kết nối với bán đảo Ðông Dương, đây là một yếu tố quan trọng thúc đẩy quan hệ Việt Nam-Nhật Bản. Chủ tịch Hội Hữu nghị Israel-Việt Nam, cựu Ðại sứ Israel tại Việt Nam Amikam Levy cho rằng, đường lối “ngoại giao cây tre” là một chính sách, sáng kiến tuyệt vời, cho thấy phong cách lãnh đạo và cam kết của Ðảng Cộng sản Việt Nam vì lợi ích của nhân dân Việt Nam. Bày tỏ ngưỡng mộ về trường phái “ngoại giao cây tre”, ông Levy cho đây là sự kết hợp tài tình, bởi cây tre luôn linh hoạt và mạnh mẽ, có tính cộng đồng cao; cây tre mềm dẻo, nhưng cũng mạnh mẽ, đáng tin cậy. Chủ tịch Hội Hữu nghị Israel-Việt Nam bày tỏ ấn tượng tốt đẹp về vai trò của Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước đạt được những thành tựu kinh tế-xã hội vượt bậc. Theo nhà ngoại giao Israel, lãnh đạo Việt Nam có tầm nhìn và tinh thần cống hiến vì lợi ích của người dân, đưa đất nước trở nên hùng mạnh./.