Thứ Ba, 1 tháng 8, 2023

Không thể xuyên tạc nhiệm vụ của Ban Tuyên giáo Trung ương

Việc xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đi đến đòi xóa bỏ chủ nghĩa xã hội để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa là điều mà các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, phản động thường xuyên muốn làm; đã và đang tiếp tục tiến hành.

Những luận điệu phản động, thâm độc

Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Tuyên giáo Trung ương theo Quyết định số 88-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Ban Tuyên giáo Trung ương do đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư ký ngày 1/12/2022 là “Tham mưu công tác tuyên truyền, giáo dục, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về học tập, nghiên cứu về ý nghĩa vai trò, tầm quan trọng, sự cần thiết học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” (Quyết định số 88-QĐ/TW). Cho nên, dù là thực thi nhiệm vụ theo Quyết định số 113-QĐ/TW ngày 9/7/2012 của Bộ Chính trị khóa XI về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban Tuyên giáo Trung ương hay theo Quyết định số 88-QĐ/TW, thì các vụ chức năng của Ban Tuyên giáo Trung ương cũng luôn làm đúng, làm tròn nhiệm vụ được giao như nội dung đã nêu trên.

 Thực tế, việc nghiên cứu, tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự tham mưu, chỉ đạo hệ thống truyền thông, báo chí, xuất bản, báo cáo viên, tuyên truyền miệng (gọi chung là các cơ quan tuyên truyền của Đảng) trong quá trình  tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; trong việc nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng, sự cần thiết học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều đã, đang và tiếp tục được triển khai sâu rộng từ Trung ương đến địa phương.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại coi việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi việc các cơ quan tuyên truyền của Đảng tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người; về việc thấu triệt để vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là “tuyên truyền cái chủ nghĩa Mác - Lênin đã chết yểu từ lâu”, là “tuyên truyền láo vì làm gì có tư tưởng Hồ Chí Minh” hay “dù chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa đất nước đến tụt hậu và tham nhũng tràn lan, song “tuyên giáo” vẫn ra rả phải kiên định, phải bảo vệ, vì đó là nền tảng tư tưởng của Đảng”… Không dừng ở đó, các thế lực thù địch còn cho rằng, việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người ở Việt Nam theo chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương chính là một kiểu “tuyên truyền không có ý thức, bất chấp thủ đoạn”; là “việc tuyên truyền ở cấp độ thấp kém để lôi kéo đối tượng tiếp nhận thông tin một cách lệch lạc”...

Việc xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đi đến đòi xóa bỏ chủ nghĩa xã hội để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa là điều mà các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, phản động thường xuyên muốn làm; đã và đang tiếp tục tiến hành. Đồng thời, Việt Nam lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là điều mà họ thường xuyên chống phá bằng các chiêu trò xuyên tạc, kích động, bẻ cong sự thật…

Tất yếu phải kiên định chủ nghĩa mác - lênin, tư tưởng hồ chí minh

Trước những luận điệu phản động, thâm độc này, cần phải khẳng định rằng:

Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đã kiên cường đấu tranh và giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước, trong các cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới Tây Nam và phía Bắc để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nếu không có chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của một Đảng Mácxít Lêninnít trong sạch, vững mạnh thì không thể có những thành tựu mà đất nước Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đạt được về mọi mặt trong những thập niên qua cũng như “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay”(1) như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định.

Vì thế, việc mỗi cá nhân, tập thể cần phải nghiên cứu, học tập, quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người - coi đó là nhu cầu tự thân, tự giác; việc các cơ quan tuyên truyền của Đảng tham mưu, chỉ đạo, đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cả hệ thống chính trị - coi đó là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài chính là để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thấm nhuần và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào thực tiễn cuộc sống. Thực tế, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sẽ giúp mỗi người có được thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, phương pháp luận khoa học; bồi dưỡng, củng cố lý tưởng cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin; giúp rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị để sống và làm người cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Cho nên, thế giới càng đổi thay, mọi khó khăn, thách thức càng diễn tiến khó lường, thì các cơ quan tuyên truyền của Đảng càng phải chủ động, kịp thời tham mưu, chỉ đạo tăng cường công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cả hệ thống chính trị. Thông qua đó, để mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền; mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị: 1) Trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, tháng 2/1930; 2) Chủ động phòng, chống, đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; 3) Phòng và chống các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi người, mỗi tổ chức, địa phương, cơ quan, đơn vị từ sớm, từ xa; 4) Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, để kịp thời giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống một cách khách quan, logic, biện chứng.  

Trong bối cảnh tình hình và nhiệm vụ cách mạng ngày càng phải đối diện với nhiều khó khăn, phức tạp hơn trước; công tác phòng và chống sự suy thoái, biến chất, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ cũng phải đối diện với nhiều thủ đoạn, nhiều bẫy "dân chủ", "nhân quyền"; đòi quyền "tự do", xã hội dân sự, đa nguyên, đa đảng, tam quyền phân lập… hơn trước, thì  các cơ quan tuyên truyền của Đảng càng phải tham mưu, chỉ đạo và đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch chủ động và sắc bén hơn. Mọi cấp ủy, cán bộ, đảng viên trong cả hệ thống chính trị càng phải chủ động nhận diện đúng, kịp thời âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị để kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chúng.

Trước mỗi luận điệu xuyên tạc, công kích về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và đòi xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng; phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bôi nhọ Ban Tuyên giáo Trung ương và các cơ quan tuyên truyền của Đảng trong việc thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thì công tác tuyên truyền, đấu tranh và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng phải thể hiện rõ giá trị không thể phủ nhận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đối với con đường cách mạng Việt Nam, với tiến trình phát triển của sự nghiệp cách mạng, để góp phần củng cố sự thống nhất, vững chắc trong nội bộ Đảng; để hạn chế và chống lại sự tấn công của các thế lực thù địch từ bên ngoài, đồng thời, ngăn chặn sự suy thoái, biến chất, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong và bác bỏ/xử lý những thông tin sai lệch, xuyên tạc về Đảng, về chủ nghĩa xã hội bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bằng hiện thực sinh động của cách mạng Việt Nam hơn 93 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Gần nhất, có thể thấy sự ổn định về chính trị, sự phát triển về kinh tế, văn hóa, an sinh xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… của Việt Nam trong 37 năm đổi mới và hội nhập quốc tế trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của Việt Nam chính là minh chứng bác bỏ những thông tin sai lệch, bịa đặt, vu khống, quy chụp của các thế lực thù địch về các cơ quan tuyên truyền của Đảng đã “tuyên truyền sai”, “tuyên truyền láo” không đúng sự thật về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Rõ ràng, việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng; việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cả hệ thống chính trị mà Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan tuyên truyền của Đảng đã, đang và tiếp tục tham mưu, chỉ đạo và tổ chức thực hiện là đúng đắn.

Mọi luận điệu xuyên tạc, bẻ cong sự thật, bôi nhọ Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan tuyên truyền của Đảng đều là phản động, là nhằm xuyên tạc về lý tưởng của Đảng, về chủ nghĩa xã hội… để chống phá Đảng và chế độ. Điều đó cũng có nghĩa là, Đảng và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, chứ không phải do Đảng đã “cưỡng chế” nhân dân “phải chấp nhận chủ nghĩa ngoại lai cộng sản Mác - Lênin” và “tư tưởng Hồ Chí Minh” để “tự chiếm quyền lãnh đạo”, để “duy trì sự độc tài cai trị đất nước”. Đồng thời, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh dần trở thành nhu cầu tự thân, nền nếp của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, chứ không phải Đảng “bắt ép nhân dân phải học tập và làm theo Hồ Chí Minh dù nhân dân không muốn” như các thế lực thù địch đã quy chụp, vu khống!.

Các cơ quan tuyên truyền của đảng càng phải kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(2) và “chế độ cộng sản là ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang. Trừ những bọn phản động quá sá, thì chắc ai cũng tán thành chế độ cộng sản”(3). Thực tế, “chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa và chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”(4) và thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới là sự thật lịch sử không thể phủ nhận.

Cho nên, không phải ngẫu nhiên trong hành trình khảo nghiệm thực tiễn cuộc sống, các tổ chức mô hình Nhà nước, các cuộc cách mạng để tìm ra con đường cứu nước phù hợp yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đúc kết và khẳng định rằng: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai”(5); còn Pháp thì “cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”(6), cho nên, để tất cả quần chúng nhân dân đều được thụ hưởng giá trị thực sự của độc lập, tự do, dân chủ… thì chắc chắn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng tư sản mà phải là con đường cách mạng vô sản như Cách mạng Tháng Mười Nga đã thành công. Và cũng vì thế, sau khi quyết định đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, người chiến sĩ cộng sản quốc tế, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam mà Người còn lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành sự nghiệp cách mạng theo đúng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930).

Vì mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người; là tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện trong một chế độ xã hội hòa bình, hữu ái, không có áp bức, bóc lột, bất công, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn… thực sự vì con người, cho nên chế độ xã hội đó không chỉ là khát vọng, mong ước tốt đẹp của nhân dân Việt Nam mà là của cả nhân loại tiến bộ. Tuy nhiên, vì những điều kiện cụ thể của mình, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa…) phù hợp điều kiện cụ thể của đất nước, chứ không phải là bỏ qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đồng thời, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ (nhằm chuẩn bị điều kiện vật chất, kỹ thuật, đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội; tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội…), chứ không phải là các cơ quan tuyên truyền của Đảng đã “lừa bịp đưa ra những cột mốc hoang tưởng để lừa gạt người dân” như các thế lực thù địch xuyên tạc.

Thực chất, thời kỳ thời kỳ quá độ theo C.Mác là “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia”(7). Đó “không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”(8), mà chính là “thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”(9). Còn theo V.I.Lênin thì “không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”(10).

Vì thế, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là sự lựa chọn của lịch sử từ năm 1930. Thực tế, từ những năm 60 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, dù phải “xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh vốn là thuộc địa, một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh xâm lược tàn phá. Hoàn cảnh ấy, cố nhiên gây cho chúng tôi rát nhiều khó khăn. Song, những thắng lợi bước đầu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cho phép chúng tôi tin tưởng chắc chắn ở sự cần thiết và khả năng của một nước như nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách thắng lợi không phải qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa”(11), chứ không phải chủ nghĩa xã hội là “thiên đường ảo”, nên các cơ quan tuyên truyền của Đảng đã “vẽ ra một cái bánh đẹp đẽ để câu giờ cho Đảng” như các thế lực thù địch đã bịa đặt.

Cuối cùng, có thể khẳng định rằng: Trong 9 thập niên Đảng lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dù vẫn còn hạn chế, thách thức trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bổ sung và hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam, song giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với con đường cách mạng Việt Nam, với sự phát triển trường tồn của dân tộc là không thể phủ nhận.

Từ những kết quả đạt được trên thực tế, có thể thấy, dù mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu có sụp đổ, song con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam lựa chọn từ năm 1930 là phù hợp và đúng đắn.

Đặc biệt, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng là một xã hội hướng tới các giá trị đích thực vì con người; trong xã hội đó, không có “sự cạnh tranh chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm”, không có kiểu “cạnh tranh bất công, cá lớn nuốt cá bé” và nhất là không có việc chỉ vì “lợi nhuận mà bóc lột chà đạp lên phẩm giá con người” như lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người mà Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan tuyên truyền của Đảng đã tham mưu, chỉ đạo, tiến hành tuyên truyền, đấu tranh và bảo vệ (thường xuyên, liên tục, lâu dài) là quan trọng và cần thiết. Đó mới là sự thật và sự thật này bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, bôi đen, đầy sự kích động của các thế lực thù địch./.

Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội theo tinh thần cuốn sách của Tổng Bí thư

Ngày 18/7/2023, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật giới thiệu cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cuốn sách gồm 39 bài viết, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Bí thư Quân ủy Trung ương về quan điểm chỉ đạo, phương hướng, giải pháp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Một trong những nội dung được Tổng Bí thư nhắc đến khá nhiều trong cuốn sách là kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Đây là một quan điểm chỉ đạo rất quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng trong Quân đội nói riêng và bảo vệ nền tửng tư tưởng của Đảng trong Quân đội nói chung.

Thực chất âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội

Thuật ngữ “phi chính trị hóa” quân đội xuất hiện vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Đó là một trong những nội dung quan trọng mà các thế lực thù địch nhắm vào các nước xã hội chủ nghĩa. Xu hướng đòi “phi chính trị hóa” Quân đội ban đầu xuất hiện ở các nước xã hội chủ nghĩa, trước tiên là Liên Xô, Đông Âu, sau đó lan sang cả Việt Nam. Luận điệu chủ yếu mà các thế lực thù địch thường đưa ra là: “Quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị, không chịu sự lãnh đạo, chi phối của bất cứ chính đảng, lực lượng chính trị nào”, hay “Quân đội do nhà nước nuôi dưỡng nên chỉ phục tùng nhà nước, không phục tùng đảng phái nào”(1).

Gần đây, khi Đảng ta đưa ra chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, các thế lực thù địch đã xuyên tạc, quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng “quân đội hiện đại”, “quân đội nhà nghề”. Từ đó, các thế lực thù địch cho rằng “không có quân đội nhà nghề nào lại do một đảng chính trị lãnh đạo”; cho nên “cần phải tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của đảng”(2). Đây là những luận điệu rất nguy hiểm, không thể coi thường, xem nhẹ.

Trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Thực chất, “phi chính trị hóa” Quân đội là thủ đoạn cực kỳ nham hiểm của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng nước ta, tách rời Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho Quân đội không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước ta”(3).

Sở dĩ Tổng Bí thư coi đây là “thủ đoạn cực kỳ nhan hiểm” bởi các thế lực thù địch đã thực hiện thành công âm mưu này ở Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội ở Liên Xô, các thế lực thù địch đã sớm cài cắm các phần tử phản động vào các cơ quan của Đảng Cộng sản khiến cho từ năm 1987, Liên Xô bắt đầu thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội.

Đầu tiên là việc Đảng Cộng sản Liên Xô tự xóa bỏ cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội. Chỉ trong khoảng 2 năm (1987-1989), gần 50% cán bộ chiến lược của quân đội, 30% tướng lĩnh bị sa thải hoặc tự ý rời bỏ hàng ngũ. Hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch, chiến lược bị cách chức với lý do “không ủng hộ cải tổ”. Năm 1990, Đại hội bất thường của Đảng Cộng sản Liên Xô tiếp tục “tự trói tay mình” với việc từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội đã ghi trong Hiến pháp, chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Chỉ đợi có thế, tháng 7/1991, Tổng thống Liên bang Nga ra sắc lệnh “phi đảng hóa” và cấm các đảng chính trị hoạt động trong các cơ quan nhà nước. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô ra lệnh buộc mọi quân nhân là đảng viên cộng sản phải trả thẻ đảng... Bi kịch “phi chính trị hóa” xảy ra đã khiến quân đội Xô Viết - một quân đội hùng mạnh từng đánh bại chủ nghĩa phát xít, với gần 4 triệu quân thường trực, vũ khí trang bị rất hiện đại bỗng chốc mất phương hướng chiến đấu dẫn đến “thảm họa chính trị” tất yếu vào năm 1991.

Trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”, nhiều lần Tổng Bí thư nhắc lại sự kiện này như một lời cảnh tỉnh đối với chúng ta trong việc không được coi thường, xem nhẹ âm mưu “phi chính trị hóa” của các thế lực thù địch: “Bài học từ Liên Xô và các nước Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay vẫn còn nguyên giá trị với chúng ta”; hay “Bài học đắt giá về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu cho đến nay vẫn còn vẹn nguyên giá trị”(4). Đây chính là điểm nhấn quan trọng trong cuốn sách và đây cũng chính là quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong việc kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội.

Kiên quyết đấu tranh với âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội

Trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”, Tổng Bí thư cũng phân tích rõ bối cảnh quốc tế, trong nước tác động đến tính hình chính trị, tư tưởng trong Quân đội và đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục tăng cường đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó dự báo: các thách thức an ninh phi truyền thống gia tăng; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; tình hình biển Đông ngày càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động sâu sắc đến nhiều quốc gia trên nhiều phương diện khác nhau…

Ở trong nước, mặc dù sau 35 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nhưng tốc độ tăng trưởng chưa cao, chưa vững chắc; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ, sĩ quan Quân đội vẫn còn nan giải… Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ra sức thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội. Do đó, cần phải kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá đó để tiếp tục bảo vệ Đảng, Nhà nước, Quân đội.

Quan điểm chỉ đạo về đấu tranh với âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội được Tổng Bí thư nhắc đến nhiều lần trong các bài viết như “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi và sự trưởng thành, phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam”, “75 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng vững bước dưới lá cờ vinh quang của Đảng”, “Nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”… Trong các bài viết, Tổng Bí thư cũng đưa ra các giải pháp để kiên quyết đấu tranh, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Những giải pháp đó là:

Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với Quân đội. Như đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Sự lãnh đạo của Đảng với Quân đội được khẳng định ngay từ khi Quân đội thành lập, thông qua một cơ chế, phương thức chặt chẽ, phù hợp, đảm bảo cho Quân đội thực sự là “tổ chức quân sự của Đảng”, luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân”(5). Do đó, bất luận trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn kiên định với nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội. Nếu tách rời sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội sẽ mất phương hướng chiến đấu, phân rã về chính trị, tư tưởng, tổ chức, không còn sức mạnh để chiến đấu chống lại những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Hai là, tập trung nâng cao chất lượng tổ chức và hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị trong Quân đội, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội. Đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, làm tốt công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội”(6). Theo đó, cần làm tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, hướng dẫn công tác đảng, công tác chính trị để nâng cao nhận thức, ý thức đấu tranh, khả năng “miễn dịch” cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, trong đó có âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Quan tâm và tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, khắc phục những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc, góp phần giữ vững bản chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ” trong tình hình mới.

Ba là, phát huy vai trò của công tác thông tin, tuyên truyền, báo chí, xuất bản để tuyên truyền, định hướng nhận thức, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn quân cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, chiến sĩ thấy rõ sự nguy hiểm của âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội; chủ động thông tin tích cực, kịp thời nhằm định hướng tư tưởng, nhận thức trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm góp phần nâng cao sức đề kháng, tinh thần cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ. Các cơ quan báo chí, truyền thông cũng cần chú trọng hơn nữa đến việc tuyên truyền, định hướng thông tin kịp thời cho cán bộ, chiến sĩ, tránh để những “khoảng trống” thông tin khiến các thế lực thù địch có cơ hội xuyên tạc, dẫn dắt thông tin nhằm mục đích chống phá.

Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải luôn nhận thức đầy đủ và sâu sắc bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam là đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam và có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Mục tiêu chiến đấu của Quân đội cũng chính là mục tiêu, lý tưởng của Đảng - vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên, sĩ quan quân đội phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén và kiên quyết đấu trnh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Đồng thời, nhanh chóng, tỉnh táo, kịp thời xử lý những tình huống bất ngờ, phức tạp diễn ra trong thực tiễn theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và quy định của Quân đội, không để kẻ địch lợi dụng, lôi kéo, thao túng vào các hoạt động chống phá.

Có thể khẳng định, “phi chính trị hóa” Quân đội là một âm mưu thâm độc, nguy hiểm, không thể coi thường, xem nhẹ vì nó liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và liên quan đến bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Những quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” vừa là một lời cảnh báo, nhắc nhở song cũng là chỉ đạo, định hướng cho mỗi chúng ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch.

Đẩy lùi thái độ thờ ơ, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp để giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo (KNTC) của công dân. Bởi KNTC là quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, được pháp luật bảo vệ.

Tuy nhiên, tình trạng đơn thư KNTC sai sự thật vẫn chiếm tỷ lệ lớn (hơn 50%), thậm chí còn phổ biến hiện tượng đơn thư nặc danh, sai sự thật, vu khống người khác gây ra nhiều hệ lụy đối với xã hội.

KNTC đúng có giá trị rất lớn, giúp cơ quan chức năng phát hiện, xử lý kịp thời những cá nhân, tập thể sai phạm, bảo đảm kỷ cương phép nước. Thông qua giải quyết KNTC, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật, từ đó để ngày càng hoàn thiện hơn.

Tuy nhiên, ở khía cạnh ngược lại, việc KNTC sai sự thật, thậm chí KNTC vu khống với mục đích cá nhân không trong sáng lại gây ra rất nhiều hệ lụy cho xã hội. Hệ lụy dễ nhận thấy nhất là bất ổn về an ninh, chính trị, trật tự xã hội, kìm hãm sự phát triển mọi mặt. Nội dung đơn thư sai sự thật gây lãng phí thời gian, công sức và chi phí cho các cơ quan chức năng vào cuộc xác minh giải quyết, cũng như của chính người KNTC. Nguy hiểm hơn cả là những nội dung KNTC vu khống với mục đích nhằm hạ bệ, làm mất uy tín của người khác, lan truyền ra dư luận những điều không đúng sự thật. Khi cơ quan chức năng vào cuộc xác minh, dù kết luận là không đúng, nó cũng khiến người bị KNTC ảnh hưởng rất nhiều. Có những người không thể chịu nổi sức ép dư luận dù điều đó hoàn toàn sai. Không ít trường hợp cứ đến những kỳ chuẩn bị nhân sự đại hội, bầu cử, quy hoạch... lại xuất hiện đơn thư tố cáo nặc danh hoặc tố cáo sai sự thật.

Xã hội văn minh không chấp nhận kiểu KNTC chủ ý sai sự thật hay vu khống người khác, bởi tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Để hạn chế tình trạng đơn thư KNTC sai sự thật, cần tuyên truyền cho mọi công dân trong xã hội hiểu biết, nâng cao kiến thức về pháp luật và có ý thức thượng tôn pháp luật. Thượng tôn pháp luật cũng có nghĩa là tôn trọng quyền nhân thân, quyền lợi của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội và cao nhất là tôn trọng sự thật. Khi có hiểu biết pháp luật thì công dân mới nhận thức được việc mình làm, nhận thức được đúng-sai khi thực hiện quyền KNTC của mình. Trên thực tế, vẫn còn hiện tượng nhiều người dân không nắm vững các quy định của pháp luật, hiểu sai và vận dụng sai trong thực tiễn thi hành, đòi hỏi quá mức quyền lợi của mình trong khung khổ luật pháp.

Đối với những trường hợp KNTC sai sự thật, vu khống, xúc phạm người khác, kích động, đánh tráo dư luận... với động cơ mang tính cá nhân cần được xử lý nghiêm khắc theo đúng các quy định của pháp luật. Theo Điều 156, Bộ luật Hình sự 2015, người thực hiện hành vi vu khống tùy vào mức độ vi phạm pháp luật mà bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 7 năm tùy từng trường hợp. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý cá nhân tố cáo sai sự thật ở nước ta vẫn còn xem nhẹ, hiếm khi bị áp dụng đúng chế tài pháp luật nên chưa có tính răn đe. Đây cũng là nguyên nhân dẫn tới tình trạng đơn thư tố cáo sai sự thật, tố cáo vượt cấp không giảm, tính chất ngày càng phức tạp. Nhiều chuyên gia luật pháp cho rằng, đối với trường hợp cố ý tố cáo sai sự thật có dấu hiệu tội phạm cần đề nghị chuyển cơ quan chức năng để điều tra, truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hệ thống pháp luật của chúng ta với mục đích bảo vệ quyền của công dân thì việc xử lý nghiêm những trường hợp KNTC sai sự thật, vu khống cũng nhằm bảo vệ quyền của công dân khác trong một xã hội bình đẳng, thượng tôn pháp luật. Vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng là hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi nghiêm luật pháp. Bởi suy cho cùng, luật pháp là hành lang điều chỉnh các hiện tượng, các mối quan hệ và các vấn đề xã hội. Khi luật pháp nghiêm minh, hiện tượng KNTC sai sự thật, vu khống sẽ giảm.

Đẩy lùi thái độ thờ ơ, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Tư tưởng XHCN là một hệ thống những quan niệm phản ánh nhu cầu, ước mơ, nguyện vọng của các giai cấp lao động về một xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều bình đẳng và có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; là những thành tựu của con người đạt được trong quá trình đấu tranh giải phóng giai cấp; là chế độ xã hội không có áp bức bóc lột, mọi người đều được tự do, bình đẳng, có điều kiện phát triển toàn diện.

Nhìn từ góc độ bản chất, niềm tin CNXH chính là niềm tin khoa học, phát triển trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng, gắn bó chặt chẽ với hoạt động của những người cộng sản. Trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, những người cộng sản luôn phấn đấu vì hạnh phúc của toàn thể nhân loại, nhân dân lao động, vì lợi ích của giai cấp và dân tộc. Do đó, xét đến cùng, niềm tin CNXH mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc, là sự thống nhất và biện chứng của tri thức-niềm tin-tình cảm-ý chí-hành động. Đặc trưng cơ bản nhất của niềm tin CNXH là sự nhận thức đúng đắn các quy luật phổ biến và quy luật đặc thù trong sự phát triển của tự nhiên và xã hội. Có niềm tin về CNXH, cán bộ, đảng viên luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Hiện nay, vẫn còn tình trạng một số cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động với nhiều vấn đề của xã hội, trong đó có thờ ơ, dao động với tư tưởng CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Biểu hiện rõ nhất của việc thờ ơ, dao động về tư tưởng XHCN là những phát ngôn mơ hồ về CNXH. Giọng điệu của họ là ngợi ca chủ nghĩa tư bản như hình mẫu của sự phát triển hiện đại và xem cuộc khủng hoảng của CNXH thời gian qua là "bằng chứng khách quan" của một thử nghiệm thất bại. Một số thái độ dao động đáng lên án hơn là lên tiếng phê phán Đảng, Bác Hồ đã không lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa để Việt Nam sớm “hóa rồng”, “hóa hổ” như một số nước Đông Bắc Á. Họ cố tình lãng quên rằng, trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, các chí sĩ yêu nước Việt Nam đã từng thử nghiệm những con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước khác nhau, trong đó có con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng tất cả đều không thành công. Trước tình hình đó, đất nước và nhân dân đòi hỏi một con đường khác, con đường dẫn nhân dân Việt Nam đến độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khai mở từ mùa xuân năm 1930.

Một biểu hiện khác của thái độ thờ ơ, dao động đối với tư tưởng XHCN là phủ nhận giá trị bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới. Có người lập luận rằng, học thuyết do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin sáng lập là kết quả của việc tổng kết lịch sử châu Âu thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nên không còn sức sống trong thời đại mới. Học thuyết đó chỉ là sản phẩm của thời đại công nghiệp, không còn phù hợp trong thời đại toàn cầu hóa, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo... Thực chất đây là sự phủ nhận toàn bộ giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-một biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng đã chỉ ra.

Đây chính là kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Bởi các thế lực thù địch luôn ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá những nước CNXH, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu sự nghiệp xây dựng CNXH của Việt Nam. Tính chất thâm độc của các thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta trong những năm gần đây là triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội với các chiêu trò “đổi trắng thay đen”, đưa các thông tin đúng-sai lẫn lộn và xây dựng các “ngọn cờ” chống phá từ bên trong, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nếu cán bộ, đảng viên thờ ơ, dao động sẽ dễ sa vào những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch.

Trước tình hình trên, việc làm rõ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là cơ sở phản bác thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng CNXH nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Hiện nay, đa số cán bộ, đảng viên là những người có tri thức, được học tập, công tác, lao động trong điều kiện thuận lợi, do đó, cần hết sức tỉnh táo trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc về CNXH và con đường đi lên CNXH dưới những hình thức khác nhau, trên những diễn đàn khác nhau, nhất là internet và mạng xã hội. Khi thấy những thông tin trên mạng xã hội, cần tỉnh táo nhận diện nguồn tin, tránh bình luận, chia sẻ tùy tiện. Điều này vô tình tuyên truyền cho các luận điệu sai trái, thù địch. Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên cũng cần biết lợi dụng thế mạnh của internet, mạng xã hội để tuyên truyền, lan tỏa những thông tin tốt về tính ưu việt của CNXH, sự đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”. Đối với cán bộ, đảng viên có trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cao, cần nêu cao tinh thần đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, thù địch thông qua việc viết bài trên các sách, báo, tạp chí hay tham gia những diễn đàn báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng xã hội… Những sản phẩm đấu tranh trực diện đó thường có tính lan tỏa mạnh mẽ đối với cán bộ, đảng viên, tác động trực tiếp đến tâm lý, tư tưởng và định hướng dư luận trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.

Thái độ thờ ơ, dao động của một bộ phận cán bộ, đảng viên về tư tưởng XHCN là đáng phê phán và cần có những biện pháp để chấn chỉnh kịp thời, nếu không xử lý dứt điểm dễ dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc loại bỏ thái độ thờ ơ, dao động của một số cán bộ, đảng viên về tư tưởng CNXH là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn trong bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN trong tình hình hiện nay.

Để kiên định con đường đi lên CNXH cần thực hiện một số yêu cầu sau:

Một là, thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước theo tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng

Phải thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về quan điểm, đường lối của Đảng, nhất là về các mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện được yêu cầu này, phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho các chủ thể nhận thức rõ ý nghĩa, trách nhiệm trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ. Cần có các biện pháp thông tin, tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, phải thường xuyên quán triệt, phổ biến đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng về triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng gắn với trách nhiệm, vị trí công tác. Đối với quần chúng nhân dân, phải có nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền phù hợp, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, sát với điều kiện, trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân.

Hai là, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các nguồn lực phát triển đất nước

Quán triệt tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng về khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các nguồn lực vật chất và tinh thần phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Khơi dậy và phát huy ý chí tự lực, tự cường của con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, giá trị văn hóa, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

Phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường. Khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Theo đó, cần hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; làm cho kinh tế - xã hội phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. 

Ba là, đấu tranh ngăn chặn, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng

Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã, đang và tiếp tục làm mọi cách để chống phá, xuyên tạc quan điểm, đường lối phát triển đất nước mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ phải luôn quán triệt tinh thần kết hợp giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Một mặt, phải tổ chức thực hiện hiệu quả quan điểm, đường lối của Đảng, không tạo khoảng trống để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ âm mưu, bản chất, tác hại của các quan điểm sai trái, thù địch để chủ động phòng ngừa, đấu tranh.

 Bốn là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện mới của đất nước

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Mọi biểu hiện xét lại hoặc giáo điều trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều là những lệch lạc, sai lầm cần phòng tránh và phê phán. Kiên định, vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng, xuyên suốt, nhất quán trong quá trình đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong bất kỳ điều kiện, tình huống nào cũng phải kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác định các bước đi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Nhận diện hoạt động của các hội, nhóm tín ngưỡng, "tôn giáo mới" gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cho thấy, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh đó, ở Việt Nam còn xuất hiện một số loại hình tín ngưỡng, tôn giáo mới pha tạp những yếu tố mê tín dị đoan như: Hội Thánh đức Chúa trời mẹ, đạo bà Điền, đạo Dừa… Có những hiện tượng tôn giáo mới nhưng mang đậm chất tà đạo, tạp đạo như “Thanh Hải vô thượng sư”, “tà đạo Hà Mòn”, “Bà Cô Dợ”, “Tin Lành Đề Ga”, “Dương Văn Mình”… Ngoài ra, nhiều địa phương nổi lên hoạt động mê tín dị đoan trá hình dưới hình thức xem tử vi, bói toán, đoán vận mệnh kết hợp với “đuổi tà ma”, “trục vong đeo bám”… Những hiện tượng, tín ngưỡng tôn giáo này đều có một điểm chung là không được Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân hoặc buộc phải chấm dứt hoạt động do được lập ra với mục đích xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Nhưng vì nhiều lý do khác nhau mà các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo trên vẫn được một số cá nhân, tổ chức tìm cách nuôi dưỡng, lén lút hoạt động, thậm chí có lúc, có nơi, các đối tượng còn tìm cách “công khai hoạt động”.  

Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa có 04 tôn giáo hợp pháp, được công nhận tư cách pháp nhân đang hoạt động gồm: Công giáo, Phật giáo, Tin Lành và Cao Đài. Các tôn giáo này cơ bản đã có mặt hầu hết ở 27/27 huyện, thị, thành phố của tỉnh, kể cả ở vùng cao, khu vực biên giới, vùng đặc biệt khó khăn. Số lượng đồng bào theo các tôn giáo khoảng 300.000 người, chiếm tỷ lệ khoảng 8,5 % dân số toàn tỉnh. Thực tế cho thấy, các tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đều mang những nét đặc trưng riêng nhưng có một điểm chung đó là hướng đến các giá trị chân - thiện - mỹ và có sự dung hợp, đan xen, hòa đồng với truyền thống, văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, qua rà soát hiện nay trên địa bàn tỉnh có 07 hội, nhóm tín ngưỡng, hiện tượng tôn giáo mới hoạt động bao gồm: Thanh Hải vô thượng sư, Âm thanh - Ánh sáng, Long hoa di lặc, Ngọc phật Hồ Chí Minh, Năng lượng gốc Trống đồng Việt Nam, Hội thánh Đức Chúa trời mẹ và Pháp luân công với khoảng hơn 1.300 người ở 24/27 huyện, thị xã, thành phố tham gia tại 60 điểm nhóm với 76 đối tượng cầm đầu, cốt cán.           

Hoạt động của các hội, nhóm tín ngưỡng, tôn giáo mới có nhiều tác động, ảnh hưởng, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, tiềm ẩn phức tạp tình hình ANTT trên địa bàn như: 

- Tập trung đông người sinh hoạt trái phép tại nơi công cộng (công viên, nhà văn hóa…), nhà riêng số cầm đầu, cốt cán hoặc thuê nhà hàng, khách sạn, khu du lịch, nghỉ dưỡng…

- Tuyên truyền, tán phát các tài liệu chưa được cấp phép lưu hành hoặc chưa rõ nguồn gốc, nội dung chưa được kiểm định nhằm lôi kéo người tham gia (sách, tạp chí, ấn phẩm…).

- Các nội dung tuyên truyền có sự pha tạp, vay mượn, chắp vá từ các tôn giáo chính thống và tín ngưỡng khác, đồng thời thần thánh hóa người sáng lập; làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế gia đình, tác động xấu đến thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, là tác nhân chính nảy sinh, gây mâu thuẫn, bức xúc trong gia đình và xã hội (đập bỏ bàn thờ, bát hương, không thờ cúng ông bà, tổ tiên; gia đình ly tán, bỏ bê công việc, học hành, mang tiền bạc đi phụng sự tổ chức; khi ốm đau không đi khám điều trị chữa bệnh tại các cơ sở y tế, chữa bệnh bằng nước lã…).

          - Thành phần tham gia đa dạng, trong đó có nhiều người là công chức, viên chức, đảng viên, giáo viên và cán bộ nghỉ hưu, đây là thành phần có uy tín, ảnh hưởng nhất định trong xã hội, hoạt động của họ được nhiều người quan tâm, chú ý, được các đối tượng cầm đầu các hội, nhóm triệt để tuyên truyền, lôi kéo tham gia và lợi dụng số này để tuyên truyền, quảng bá phát triển tổ chức. 

- Hoạt động của các hội, nhóm tín ngưỡng, tôn giáo mới dễ bị các thế lực thù địch, phản động bên ngoài lợi dụng lôi kéo, tập hợp lực lượng gây phức tạp về ANTT hoặc xuyên tạc, vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Cá biệt, có những đối tượng trong các hội nhóm tín ngưỡng, tôn giáo mới còn trở thành tay sai, quân cờ của các thế lực thù địch để tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam; kích động, lôi kéo tín đồ cực đoan, quá khích chống lại chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lợi dụng vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng để gây rối, phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc, gây bất ổn trong nội bộ nhân dân. Một số đối tượng cầm đầu trong các tổ chức như “Tin Lành Chrish”, “tà đạo Hà Mòn”, “Tin Lành Đề Ga”, “đạo Bà Cô Dợ”, “tà đạo Dương Văn Mình”… còn lợi dụng vấn đề tôn giáo để lừa bịp, kích động bà con đồng bào dân tộc thiểu số tham gia các hoạt động ly khai tự trị, chống đối chính quyền. Hành động này không chỉ xâm phạm đến trật tự trị an tại địa phương mà còn  gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ…

Chính vì vậy, cần nhận diện đúng đắn những loại hình tín ngưỡng, tôn giáo có yếu tố mê tín dị đoan, các tà đạo, tạp đạo nêu trên, nâng cao nhận thức của mỗi người dân. Qua đó, giúp chúng ta hiểu rõ đâu là chính đạo, đâu là tà đạo, nắm được tác hại của các tà đạo, tạp đạo đối với đời sống vật chất, tinh thần của người dân và những ảnh hưởng xấu đến an ninh, an toàn xã hội, từ đó hình thành tính tự giác trong công tác phòng ngừa, tham gia đấu tranh ngăn ngừa hoạt động của các tà đạo. Đây cũng là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng nhận được sự đồng tình, ủng hộ từ nhân dân, tạo thế trận lòng dân trong việc tẩy chay các hiện tượng tà đạo; xử lý nghiêm số đối tượng cầm đầu, cốt cán lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, tín ngưỡng vi phạm pháp luật, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng nhân dân ngay tại cơ sở, tuyên truyền vận động người dân tuân thủ theo pháp luật, đảm bảo đời sống tín ngưỡng, tôn giáo đúng đắn, lành mạnh./.