Thứ Tư, 2 tháng 8, 2023

Công tác kỷ luật của Đảng là thường xuyên, nghiêm minh

Trước sự công khai, minh bạch của Đảng về tình hình kỷ luật cán bộ trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch được đà lớn tiếng đặt điều, cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang bị biến chất trầm trọng. Cùng với đó, chúng chủ ý bám víu vào các sự vụ, sự việc kỷ luật một số cán bộ để lật lọng, quy chụp rằng “thanh bảo kiếm” bảo vệ Đảng, Nhà nước đã không còn “sắc bén”.

Thực chất, đây là những chiêu trò hết sức thâm độc hòng gây hoang mang dư luận; làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng; phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt và nhất là cố tình gây cản trở công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng vốn đã và đang gặt hái nhiều thành tựu to lớn!

Trước hết cần khẳng định, việc thi hành kỷ luật Đảng là công tác đặc biệt hệ trọng của Đảng - một công việc thường xuyên như thể “đánh răng, rửa mặt” hằng ngày. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: "Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính". Do vậy, Người yêu cầu từng tổ chức đảng phải duy trì chặt chẽ kỷ luật, giữ nghiêm kỷ cương, nền nếp tổ chức, làm cho Đảng ngày càng xứng đáng với vai trò, vị trí và sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt hơn 91 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta luôn nhất quán duy trì kỷ luật tự giác, nghiêm minh. Vụ xử tử Trần Dụ Châu vì tham ô (năm 1950); tử hình Nguyễn Hữu Giộc (Mười Vân), nguyên Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai tham nhũng vàng (năm 1988)... là những ví dụ cho thấy sức mạnh của kỷ luật thép trong Đảng. Cố Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng cho rằng, Đảng ta có truyền thống tự chỉnh đốn và thực hành kỷ luật nghiêm minh từ rất sớm. Trong Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, Đảng đã tự phê bình, nhận ra sai lầm “tả khuynh” của mình. Thời đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư, Đảng ta còn non trẻ nhưng đã “Tự chỉ trích” rất nghiêm khắc. Rồi cải cách ruộng đất có những sai lầm, Bác Hồ đã khóc và xin lỗi quốc dân đồng bào. Thậm chí, có thời điểm, Trung ương chủ trương “đóng cửa Đảng”, tập trung sức chỉnh đốn Đảng... Điều đó cho thấy, không phải đến bây giờ Đảng mới siết chặt kỷ luật và việc tiến hành kỷ luật không nằm ngoài mục tiêu làm cho tổ chức mạnh hơn, cán bộ tiến bộ thêm; giúp Đảng hoàn thành trọng trách lãnh đạo cách mạng, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Đặc biệt, những năm gần đây, đứng trước đòi hỏi của thực tiễn, Đảng chủ trương tập trung sức lãnh đạo, chỉ đạo, quyết tâm siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, rơi vào suy thoái, biến chất, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thực hiện quyết liệt, kiên trì, bài bản, nghiêm minh và cũng rất nhân văn. Nhiều vụ việc tồn đọng, phức tạp kéo dài đã lần lượt được đưa ra ánh sáng và xử lý đúng người, đúng tội. Hàng loạt cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước như bí thư, chủ tịch UBND tỉnh, thành phố, bộ trưởng, thứ trưởng, tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang, đến Ủy viên Bộ Chính trị vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước đã bị xử lý nghiêm minh. Ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực, việc thi hành kỷ luật cán bộ được tiến hành công khai, đúng pháp luật; không còn “trên nóng, dưới lạnh”, “vùng cấm, ngoại lệ”; với quyết tâm chính trị làm trong sạch Đảng thì việc kỷ luật một số cán bộ, đảng viên cũng như “chặt cành để cứu cây”, giúp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trước yêu cầu mới. 

Cũng qua đó, thực hành kỷ luật Đảng đã giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng tiến bộ, trưởng thành, đúng như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Phải kỷ luật chính đồng chí mình là điều không ai muốn, nhưng kỷ luật một vài người là để vừa giữ nghiêm kỷ cương phép nước, vừa cảnh tỉnh, cảnh báo, giáo dục, răn đe người khác tránh xa vết xe đổ của đồng chí mình”.

Quả đúng vậy, việc thi hành nghiêm kỷ luật Đảng có tác dụng giáo dục, răn đe rất lớn. Khi bị kỷ luật hay xét xử, có những cán bộ cấp cao đã hối hận, xin lỗi tập thể và nhân dân vì đã làm những việc sai trái, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng và mong đồng chí, đồng đội không nên như mình. Đáng quý hơn là có không ít cán bộ, đảng viên từng mắc sai lầm, từng chịu kỷ luật Đảng nhưng đã kịp thời sửa chữa, khắc phục khuyết điểm; tiếp tục được tổ chức quan tâm, giúp đỡ, dìu dắt, rồi trưởng thành, phát triển; có người sau này được giữ các chức vụ quan trọng, cao cấp của Trung ương.

Không những vậy, việc kỷ luật trong Đảng còn góp phần cảnh tỉnh cả một thế hệ, hàng ngũ trong Đảng; giúp khắc phục, sửa chữa dứt điểm nhiều hạn chế, khuyết điểm trong mỗi tổ chức và từng cá nhân. Từ đó từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, lập lại trật tự, kỷ cương trong Đảng, hệ thống chính trị và lan ra toàn xã hội. Cũng qua đó, tổ chức đảng kịp thời nhận diện, khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ, trong thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã quan tâm, coi trọng việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác; chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn; có những đổi mới về lề lối và phong cách làm việc; nghiêm khắc hơn với bản thân trong sinh hoạt và công tác; tạo được uy tín đối với nhân dân.

Xin nhắc lại rằng, mục đích trong sáng, cao nhất của việc duy trì nghiêm kỷ luật Đảng là ngăn chặn cán bộ, đảng viên vi phạm chứ không phải là sự “thanh trừng”, "bài xích", "hạ bệ" nhau trong hàng ngũ nội bộ. Ở khoản 1, Điều 2, Quy định số 181-QĐ/TW ngày 30-3-2013 về quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm của Bộ Chính trị, xác định: "Tất cả đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Đảng viên ở bất cứ cương vị, lĩnh vực công tác nào, nếu vi phạm kỷ luật của Đảng đều phải được xem xét, xử lý kỷ luật nghiêm minh". Có nghĩa là mọi cán bộ, đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật Đảng; không có bất kỳ lực lượng, thành phần, cá nhân ngoại lệ, đứng ngoài, đứng trên kỷ luật Đảng. Thế nhưng, việc giữ nghiêm kỷ luật Đảng tuyệt nhiên không phải thi hành kỷ luật thật nhiều, thật nặng mà chính là một cách xây dựng, duy trì ý thức tổ chức kỷ luật trong mỗi tổ chức, cá nhân. Những con số về cán bộ bị kỷ luật đã được thống kê dẫu khiến chúng ta đau xót nhưng cũng chỉ là những “con sâu làm rầu nồi canh” so với 5,3 triệu đảng viên của Đảng luôn giữ vững lý tưởng cộng sản, nhiệt huyết cách mạng, kiên định mục tiêu duy nhất và trên hết là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; góp phần đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng.

Nét “chân quê” đâu rồi?

Chẳng phải ngẫu nhiên mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại dành thời gian đọc thơ Nguyễn Bính trong phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đó thực sự là thông điệp để mỗi cán bộ, đảng viên suy ngẫm, nhìn lại chính mình trong hoạt động thực tiễn.

Nhìn vào thực tiễn cuộc sống những năm qua, nhất là trước những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, điều khiến không ít người lo lắng chính là tình trạng suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, không chỉ ở cấp cơ sở, mà nó còn hiện hữu trong một bộ phận cán bộ cấp cao. Số lượng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, bị xử lý là điều rất đáng báo động trong công tác quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền các cấp. Sự nguy hại của tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự lành mạnh của đời sống xã hội; tác động tiêu cực đến lối sống, nếp nghĩ của giới trẻ trong xã hội.

Bởi vậy, đã có không ít lần các nhà nghiên cứu, các nhà xã hội học cảnh báo: Mở cửa và hội nhập quốc tế tạo ra những điều kiện thuận lợi để thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng vấn đề đạo đức xã hội đang đặt ra những điều hết sức đáng lo ngại. Vì vậy, nếu không sớm có những giải pháp ngăn chặn quyết liệt, hiệu quả sẽ rất nguy hại đến sự tồn vong của đất nước, của chế độ. Bởi con người, theo bản năng tự nhiên sự hưởng thụ bao giờ cũng dễ tiếp nhận hơn so với sự nỗ lực cần phải phấn đấu để vượt qua.

Nhận thấy rõ sự nguy hại ấy đối với đời sống xã hội, đối với sự tồn vong của chế độ, Đảng ta liên tiếp ban hành rất nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định nhằm từng bước hạn chế, ngăn chặn những hiện tượng đánh mất đi phẩm giá, cũng như những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai kết luận và quy định của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thẳng thắn chỉ rõ: “... không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vẫn thiếu tu dưỡng và rèn luyện, vẫn sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ luật của Đảng và xử lý hình sự...”.

Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã minh chứng, trước sự xâm lăng của giặc ngoại bang, trước những biến cố của dịch bệnh, thiên tai, dân tộc ta đều biết cách vượt qua mà phần lớn chính là nhờ vào việc phát huy cao nhất giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Đó là giá trị “thương người như thể thương thân”; đó là lòng yêu nước nồng nàn; đó là tinh thần lao động cần cù, sáng tạo; đó là sự thủy chung, trong sáng... Giá trị truyền thống ấy đối với những người cộng sản còn là đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của cá nhân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng bày tỏ: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Người cũng dạy: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh... Nói tóm lại, muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”.

Sự nguy hại của việc đánh mất những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc không chỉ tác động trực tiếp đến những hành vi trong đời sống xã hội, mà nguy hại hơn nó từng bước gặm nhấm, hủy hoại vai trò lãnh đạo của Đảng, phụ bạc lại những cống hiến, hy sinh quên mình của lớp lớp thế hệ người Việt Nam để giành lại độc lập, tự do của dân tộc, sự thống nhất Tổ quốc.

Nét “chân quê” đâu rồi? một câu hỏi thật giản dị nhưng để tìm được câu trả lời thích đáng là điều không dễ. Bởi để có được câu trả lời đòi hỏi sự phấn đấu, nỗ lực rất lớn của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cán bộ, đảng viên. Đó còn là sự đòi hỏi lòng danh dự, tự trọng; sự cống hiến, hy sinh hết mình của mỗi cán bộ, đảng viên cho mục tiêu cao cả nhất: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trả lời được cho câu hỏi nêu trên nhanh hay chậm, dễ hay khó hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức, thái độ, tình cảm và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trên từng cương vị công tác của mình.

Giữ lại nét “chân quê” không phải là cố giữ sự bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, không dám đổi mới, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thời buổi chúng ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, thì việc tận dụng những tiến bộ của nhân loại để thúc đẩy xã hội và đất nước phát triển là rất cần thiết, nhưng phải dựa trên những giá trị văn hóa truyền thống cốt lõi của dân tộc. Suy cho rộng hơn, sâu sắc hơn là tiến hành sự nghiệp đổi mới nhưng kiên quyết không làm đổi màu; hòa nhập nhưng dứt khoát không hòa tan. Hội nhập quốc tế là tìm kiếm cơ hội để thúc đẩy đất nước phát triển, mang lại hạnh phúc thực sự cho nhân dân, mà dứt khoát không biến mình trở thành công cụ cho người khác.

Dân tộc ta đã trải qua hàng nghìn năm sống dưới sự đô hộ, chèn ép, bóc lột của chế độ phong kiến và thực dân. Cái giá của sự mất tự do, độc lập dân tộc hẳn không ai không hiểu, nhất là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đề cập đến vấn đề này, bởi đâu đó đã xuất hiện tình trạng, mới học được vài chữ, vài câu ở nước ngoài là về áp dụng nguyên xi vào công việc mà không thấy được những yếu tố nội tại bên trong là chưa phù hợp. Bởi vậy, với cách áp dụng máy móc, cho rằng như thế mới là hội nhập, mới là hiện đại không những không đem lại bất kỳ một chút hiệu quả nào, mà còn gây hại đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhất là trong lĩnh vực xây dựng thể chế, ban hành các chủ trương, chính sách...

Dân tộc ta đã kinh qua những giai đoạn lịch sử khó khăn nhất, trở thành hình mẫu trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thành quả đó minh chứng tinh thần đoàn kết, phát huy cao nhất giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, trước sự biến đổi mau lẹ, khó lường của tình hình thế giới, cùng với những âm mưu hết sức thâm độc của các thế lực thù địch hằng ngày, hằng giờ chống phá cách mạng nước ta thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì nếu cứ say sưa trên vòng nguyệt quế, chủ quan, lơ là mất cảnh giác, chúng ta sẽ phải trả cái giá rất đắt. Bởi vậy, để lường trước những điều xấu nhất, cần sự tỉnh táo, trách nhiệm của mọi người dân mà trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nét “chân quê” đâu rồi? Một thông điệp rất nhiều ý nghĩa khi mà cuộc sống của mỗi người, của từng cán bộ, đảng viên chịu không ít những tác động của đời sống xã hội.


Nền tảng vững chắc cho sự phát triển của đất nước

Ngay từ những ngày thành lập, Đảng ta đã xác định chính sách dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, là một yếu tố mang tính quyết định góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Trong mỗi giai đoạn lịch sử, chính sách dân tộc không ngừng được Đảng, Nhà nước ta quan tâm bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện để phù hợp tình hình thực tiễn và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đặc biệt trong những năm gần đây các nguyên tắc, vấn đề cơ bản về vấn đề dân tộc tiếp tục được khẳng định và bổ sung nhằm phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Vừa qua, lợi dụng sự việc một nhóm đối tượng gây mất an ninh trật tự ở Đắk Lắk, các tổ chức, cá nhân chống phá, thù địch, thiếu thiện chí với Việt Nam lập tức khai thác triệt để nhằm vu cáo chính quyền, xuyên tạc các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Đáng chú ý, chiêu bài vu cáo “Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền” tiếp tục được các đối tượng chống phá triệt để sử dụng như cho rằng nguyên nhân của vụ việc là do “người dân tộc không khuất phục, không quy thuận người Kinh”, “do căng thẳng sắc tộc, tôn giáo”. Có thể thấy, đây là một trong những chiêu trò quen thuộc của chúng nhằm cố tình xuyên tạc bản chất của vụ việc, hướng lái dư luận theo những ý đồ đen tối.

Trong khi đó, dựa trên những kết quả điều tra thực tế, cơ quan chức năng đã đánh giá đây là vụ khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của các đối tượng rất man rợ, mất nhân tính, thể hiện quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng.

Lực lượng công an đã có tài liệu, chứng cứ chứng minh vụ án xảy ra còn do có sự hậu thuẫn, chỉ đạo từ một số tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, thậm chí cử đối tượng từ nước ngoài xâm nhập trái phép về Việt Nam dàn dựng, chỉ đạo tấn công khủng bố. Hiện nay các cơ quan chức năng đang tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật. Thông tin về vụ việc đã được công bố kịp thời trên các phương tiện truyền thông đại chúng để người dân chủ động nắm bắt, hiểu rõ bản chất vấn đề, tuyệt đối không tin, nghe theo những luận điệu xuyên tạc của các đối tượng xấu.

Vụ việc nêu trên một lần nữa cho thấy các thế lực thù địch, phản động luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chính sách dân tộc ở Việt Nam.

Thực tế, nhiều năm qua, mỗi khi xảy ra vấn đề nào có liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số thì các đối tượng này đều tìm cách triệt để lợi dụng với mục đích kích động mâu thuẫn, xung đột, làm căng thẳng tình hình, từ đó tìm cách mua chuộc, lôi kéo những người thiếu hiểu biết, bất mãn thực hiện các hành vi chống phá, gây rối theo sự điều hành, dẫn dắt của chúng. Bằng cách này chúng âm mưu tạo ra những mầm mống ly khai, chia rẽ nội bộ từ bên trong, gây bất ổn về chính trị, làm suy yếu chính quyền địa phương.

Thí dụ việc một số đồng bào dân tộc thiểu số do chưa nắm rõ thông tin nên chưa đồng tình với một vài chính sách ở các địa phương, đã được các đối tượng phản động lập tức xuyên tạc thành “chính quyền đàn áp người dân tộc thiểu số, vi phạm quyền tự do tôn giáo, nhân quyền của đồng bào du canh du cư”, nhằm kích động người dân bất hợp tác, chống đối cơ quan chức năng, hủy hoại tài sản của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự trên địa bàn.

Bên cạnh đó các đối tượng chống phá thường xuyên khai thác sự chênh lệch về mức hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần giữa các vùng miền để khoét sâu những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, những nơi xảy ra thiên tai, dịch bệnh từ đó xuyên tạc rằng “Đảng, Nhà nước ta thiếu quan tâm”, “đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam bị ngược đãi, phân biệt đối xử”...

Chưa kể, lợi dụng một số yếu kém, sai phạm trong công tác quản lý, điều hành ở một số địa phương, các đối tượng chống phá lập tức lu loa, biến thành vấn đề chính sách dân tộc của Việt Nam là thiếu bình đẳng, không công bằng. Mưu đồ sâu xa là từ việc gây ra những “đốm lửa nhỏ” như vậy các đối tượng chống phá hy vọng sẽ thổi bùng lên thành những “đám cháy” lớn để kích động lôi kéo, tập hợp lực lượng chống phá Đảng, Nhà nước, kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế nhằm “quốc tế hóa” các vấn đề nội bộ, từ đó lật đổ chế độ, cản trở sự phát triển của Việt Nam.

Cần khẳng định rằng, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán về chủ trương, chính sách dân tộc, theo nguyên tắc đã được xác định trong Hiến pháp 2013 đó là: nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước (Điều 5).

Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước ta còn thường xuyên có những chủ trương, chính sách, văn bản chỉ đạo, định hướng đối với công tác dân tộc nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc đều bình đẳng, được tôn trọng như nhau, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Tiêu biểu có thể kể đến Nghị quyết số 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội miền núi.

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Đảng ta đã ban hành nghị quyết riêng về công tác dân tộc (Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 12/3/2003). Quốc hội đã ban hành các luật khung và luật chuyên ngành nhằm góp phần hoàn thiện khung pháp lý cho việc bảo đảm và thúc đẩy các quyền cũng như chính sách hỗ trợ phát triển cho đồng bào dân tộc thiểu số. Thống kê sơ bộ cho thấy từ năm 2010 đến 2022 Chính phủ đã xây dựng, ban hành 118 văn bản chính sách; 54 đề án, chính sách dân tộc trực tiếp hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Trong đó có các nhóm chính sách: về giảm nghèo bền vững; giáo dục, đào tạo; y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là người dân tộc thiểu số, miền núi và nhóm chính sách, cơ chế đặc thù về truyền thông và tuyên truyền vận động, phổ biến giáo dục pháp luật,...

Đáng chú ý, ngày 28/1/2022 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 10/NQ-CP về chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó tiếp tục nhấn mạnh quan điểm kiên trì và nhất quán thực hiện các quan điểm của Đảng về công tác dân tộc. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng phát triển; phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào dân tộc trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, hướng tới mục tiêu vì một Việt Nam thịnh vượng.

Từ những chủ trương, chính sách đúng đắn, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao của Đảng, Nhà nước, những chính sách dân tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính trị ngày 30/10/2019 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới ghi nhận: công tác dân tộc có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh đoàn kết các dân tộc, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố lòng tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước. Các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp đã cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết phù hợp với điều kiện của địa phương, đơn vị.

Nhà nước đã ban hành chính sách, pháp luật, bố trí nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tăng cường vận động, tuyên truyền, động viên đồng bào dân tộc thiểu số tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, phát huy nội lực để phát triển kinh tế, cải thiện và nâng cao cuộc sống, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được quan tâm đầu tư, góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số được cải thiện rõ nét.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo và chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ; các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống được bảo tồn và phát huy. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản được bảo đảm; đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc, miền núi được tăng cường, đội ngũ cán bộ được kiện toàn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ. Quốc phòng, an ninh, chính trị được giữ vững, ổn định.

Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, Đảng ta khẳng định: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được triển khai mạnh mẽ, chuyển từ cách tiếp cận đơn chiều sang đa chiều, tập trung vào nhóm, hộ nghèo nhất.

Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, bình quân giai đoạn 2016-2020 giảm hơn 1,4%/năm. Kết cấu hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường. Đời sống người dân không ngừng được cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Trong suốt các chặng đường phát triển của đất nước, Đảng ta luôn đưa ra nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp quan trọng để tiếp tục củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, chú trọng chăm lo đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, động viên nhân dân phát huy tinh thần năng động, sáng tạo xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền.

Tuy vậy trong quá trình thực hiện có lúc, có nơi vẫn còn một số hạn chế, bất cập, một vài chính sách dân tộc chưa thật sự phát huy hiệu quả, vẫn còn những mâu thuẫn, vướng mắc chưa được giải quyết dứt điểm. Từ đây đòi hỏi hệ thống chính quyền cơ sở, các cơ quan, ban, ngành liên quan tiếp tục nâng cao trách nhiệm, kịp thời khắc phục những yếu kém, khuyết điểm. Không phủ nhận những hạn chế, nhưng chúng ta cũng kiên quyết phản bác những luận điệu xuyên tạc thành tựu của Việt Nam đã đạt được trong thực hiện chính sách dân tộc.

Sự phát triển của đất nước về mọi mặt, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn được cải thiện và nâng cao, niềm tin của người dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được củng cố... là minh chứng thuyết phục về sự đúng đắn trong những chủ trương chính sách của Đảng ta về công tác dân tộc, tạo nền tảng quan trọng để đất nước tiếp tục vững bước tiến về phía trước./.

Cậu em... cả tin!?

Tối cuối tuần, đang ngồi đọc tài liệu thì cậu em là cán bộ trẻ cùng quê gửi cho tôi đường link tài khoản Facebook kèm lời nhắn: “Anh vào xem, người này có nhiều bài viết hay lắm, phản biện rất sắc sảo”.

Tôi tò mò truy cập vào tài khoản và nhận ra ngay chủ nhân là một cán bộ bất mãn, vi phạm đạo đức công vụ đã bị xử lý kỷ luật cho ra khỏi ngành mấy năm trước. Thời gian gần đây có rất nhiều bài viết tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước. Lướt qua một số bài viết, còn thấy cậu em ấn nút “like”, thể hiện sự đồng tình, ủng hộ. Thấy lạ, tôi nhắn tin hỏi: “Em biết chủ nhân Facebook ấy là ai không mà like các bài viết của họ?”. Cậu em trả lời rất thản nhiên: “Em không! Có bạn giới thiệu nên em vào đọc, thấy nhiều bài hay nên ấn theo dõi và “thích” các bài viết thôi. Sao tự nhiên anh lại hỏi thế?”.

Tôi đành gọi điện để trực tiếp nói cho cậu em biết về lai lịch, thành tích “bất hảo” của chủ tài khoản Facebook kia. Những tưởng, sau khi được tôi cung cấp thông tin, cậu em sẽ vỡ vạc, hiểu ra vấn đề, nào ngờ, cậu ấy còn lý luận: “Em nghĩ, người viết bài là ai không quan trọng, mình chỉ quan tâm xem bài của họ viết như thế nào, có đúng không thôi. Anh ta viết đúng về thực trạng xã hội, kể ra những câu chuyện có thật, kèm theo những lập luận, lý lẽ rất sắc sảo để vạch trần sai trái của đội ngũ cán bộ công quyền ở địa phương, như vậy là tốt mà, có gì xấu đâu?”.

Thấy cậu em nói lý, tôi hỏi vặn: “Cậu dựa vào đâu để khẳng định những điều người ta viết là đúng sự thật? Thế thông tin trên đó là sai hoặc bị cắt cúp, chỉ phản ánh một phần sự thật để đánh lừa người đọc thì sao? Cậu chưa kiểm chứng thông tin bài viết sao đã vội đặt niềm tin vào người có lai lịch xấu như thế?”. Bị hỏi khó, cậu em ấp úng rồi cố vớt vát: “Nhưng em chỉ ấn nút thích và vào đọc để có thêm nhiều thông tin đa chiều thì làm sao?”. “Việc em “thích” bài viết như vậy là thể hiện mình ủng hộ quan điểm ấy, dù chưa biết nó đúng sai. Hơn nữa, hành động “thích” đó sẽ góp phần trực tiếp làm lan tỏa cho nhiều người khác đọc. Nếu bài viết ấy sai, thì chính em đã góp phần lan tỏa cái xấu, cái sai rồi đó!-Tôi ôn tồn nói.

Nghe vậy, cậu em “vâng” rất nhẹ rồi tắt máy, tỏ vẻ chưa thuyết phục. Chỉ ít ngày sau, chủ nhân tài khoản Facebook mà cậu em khen nức nở kia bị bắt vì tội nhận tiền để cắt cúp thông tin, đăng tải bài viết sai sự thật, làm ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ chính quyền địa phương. Chắc cậu em cũng đọc được thông tin đó nên gửi cho tôi đường link bài báo kèm lời nhắn: “Em xin lỗi vì hôm trước nóng vội, chủ quan, cả tin quá! Từ nay, khi tham gia mạng xã hội em sẽ thận trọng, tỉnh táo hơn anh ạ!”.

Phòng chống, đấu tranh thói ba phải và thái độ “im lặng đáng sợ”

Một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị là: "Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”. Thực tế thấy rằng những thiếu sót, khuyết điểm này đã được gọi đúng tên, cái nọ liên quan đến cái kia, thậm chí là nơi trú ẩn, là chỗ để ngụy biện cho những điều sai trái. Vì vậy, phải đồng thời phân tích, chỉ rõ biểu hiện, nguyên nhân và cách khắc phục nó thế nào cho hiệu quả, để hướng tới xây dựng một bầu không khí trong lành, tin cậy, chân thành, vô tư trong mỗi cơ quan, đơn vị.

Xưa nay có nhiều cách nói về những người dĩ hòa vi quý. Nào là ông ba phải, gió chiều nào che chiều ấy. Nào là ông mũ ni che tai, khôn ăn người. Nặng nề hơn thì cho rằng đó là kẻ “ngậm miệng ăn tiền”. Thời hiện đại, còn có những cụm từ mới xuất hiện: “tai lành tai điếc”, “đi giữa hai hàng”...

Năm 1947, tại Chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn “Sửa đổi lối làm việc”. Bác gọi những kẻ khôn ăn người như thế là “bọn thứ ba”. Đó là những kẻ cơ hội, là khôn mà không ngoan, làm gì cũng nghĩ đến cái lợi riêng mình mà quên đi lợi ích chung, quyền lợi của người khác. Thời nay, "bọn thứ ba" là người ta ám chỉ những người "dĩ hòa vi quý".

Thật ra thành ngữ “dĩ hòa vi quý” khởi thủy của nó là thiện ý tốt. Nôm na rằng, lấy hòa thuận làm vui. Chịu khó nhẫn nhịn một chút, hòa là quý, nhẫn là cao. Đừng vội nổi xung lên, phỉ báng, nhiếc móc nhau, bé xé ra to, mà nên “biến đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự”. Đúng như cái nghĩa ngọn nguồn này thì quá hay. Thế nhưng, theo thời gian, theo những diễn biến phức tạp trong đời sống hiện đại mà dần dần cái nghĩa của thành ngữ này bị hiểu chệch, hiểu sai, lắm khi chỉ còn được hiểu theo nghĩa đó là tính cách khôn lỏi, chả bao giờ nêu chính kiến, “tránh voi chả xấu mặt nào”, tránh mất lòng người khác, nhất là mất lòng cấp trên.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Trong đó có một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị là: "Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”. Thực tế thấy rằng những thiếu sót, khuyết điểm này đã được gọi đúng tên, cái nọ liên quan đến cái kia, thậm chí là nơi trú ẩn, là chỗ để ngụy biện cho những điều sai trái. Vì vậy, phải đồng thời phân tích, chỉ rõ biểu hiện, nguyên nhân và cách khắc phục nó thế nào cho hiệu quả, để hướng tới xây dựng một bầu không khí trong lành, tin cậy, chân thành, vô tư trong mỗi cơ quan, đơn vị.

"Ngậm miệng" tức là ngược lại với những anh hay phán xét, phách lối, a dua, nói năng văng mạng. Đương nhiên, cả hai thái cực này đều cần phê phán. "Ngậm miệng" mà là “một sự nhịn chín sự lành”, giữ kín chuyện nội bộ, khỏi tổn thương người khác thì hẳn là điều tốt. Cái nguy hại ở chỗ “ngậm miệng ăn tiền”, tức là đã có chủ ý xấu rồi. Ở một cơ quan nọ, mấy người bảo nhau, cái ông X lúc nào mồm cũng như rùa ăn sung, chả có chính kiến gì. Khi anh ta có ý kiến thì toàn dựa ý cấp trên, dựa ý tập thể, mong “làm rõ thêm” và “hy vọng rằng”. Còn khi cần nói rõ, vấn đề này sai chỗ nào, đúng chỗ nào, thái độ của anh, sẽ xử lý ra sao, thì anh ta sẽ “ném cát bụi tre” bằng những câu chữ mập mờ, nước đôi, đại loại như: "Cần tính toán thêm, nên hỏi lại cơ sở, vấn đề này nhạy cảm, có thể lùi đến phiên họp sau được không?". Hoặc có anh nói ráo hoảnh: “Tôi biểu quyết theo đa số”. Thế nhưng lúc giải lao thì vẫn là anh, rỉ tai người này, vỗ vai người khác: “Ông nói đi, ông nói khách quan hơn tôi. Tội cậu này đáng chém”. Hoặc: “Oan cho nó quá! Đồng chí gần nó lâu sao không nói. Sau này nó oán chúng ta”. Cái kiểu bày tỏ, vận động hành lang này đã cũ lắm, nhưng nó sống dai dẳng và biến ảo rất tinh vi. Nhất là từ khi nó được sự "phù phép" của chiếc điện thoại thông minh vốn chả có tội vạ gì.

Vì sao căn bệnh này tồn tại dai dẳng thế? Vì sao mà không ít cán bộ, trong đó có cán bộ cấp cao cũng mắc thói tai lành tai điếc. Thậm chí có vị chủ trì cuộc họp sắp diễn ra cũng “khó” nói sự thật, bèn nghĩ ra cách gọi điện cho cấp dưới: "Mai chú đề xuất nhé. Anh nêu 3 phương án, chú theo phương án này. Việc này là anh vì chú!". Nó khiến cho người trong cuộc trằn trọc, mất ngủ không đáng có. Nó là mảnh đất cho cái “cây” suy diễn nảy mầm, suy bụng ta ra bụng người, chủ quan và phiến diện.

Vì sao dai dẳng thế, còn là do thái độ cầu an. Nói ra lúc này thế nào đây, khen cũng chết, chê cũng chết. Đại hội đến nơi rồi, bầu bán sát gần rồi, mất phiếu có khi chỉ vì “lộ thiên cơ”, thế là đành trốn vào một cái tham luận vô thưởng vô phạt “mạnh bước trên đường phát triển”. Im lặng còn vì một thỏa thuận ngầm nào đó, lợi ích của tôi, của anh, của “nhóm tôi”, “nhóm anh”. Và người ta đã chọn im lặng.

Vì sao dai dẳng thế? Vì cái chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người, cái tôi lớn quá. Có khi là vì quá đam mê quyền lực, quá ham muốn về vật chất nên đánh mất mình. Quyền lực và danh vọng thường làm hư hỏng con người. Vụ Việt Á gần đây nhất, cái vô lương hoành hành trên nỗi đau khổ của đồng loại là một minh chứng rõ nhất. Có người rao giảng về đạo đức nhưng đã “im lặng” cho thuộc cấp, cho những đơn vị liên quan nhân danh khoa học vi phạm pháp luật.

Rất mừng là, bên cạnh những chuyện kể trên, có rất nhiều gương sáng quanh ta. Trong các cơ quan, đơn vị có rất nhiều những tấm gương sáng-tấm gương trung thực, dám nói thẳng, nói thật. Thấy đúng thì bảo vệ để khuyến khích người tốt, việc tốt, lên án những kẻ cơ hội, đố kỵ, thúc đẩy công việc hoàn thành. Thấy sai thì lên tiếng mạnh mẽ để làm rõ đúng sai, vạch trần tham nhũng, tiêu cực. Có những cán bộ quân đội, cựu chiến binh suốt mấy chục năm không chịu im lặng, kiên quyết đấu tranh vạch trần cái xấu, cái ác, mặc dù có thể nguy hiểm tới bản thân, gia đình. Như trường hợp cựu chiến binh Trần Văn Bính (sinh năm 1946), 20 năm kiên trì đấu tranh chống tham nhũng và cuối cùng đã thành công. Ông đã thẳng thắn nêu vấn đề tiêu cực ra trước Đại hội Đảng bộ phường Hoàng Liệt (quận Hoàng Mai, Hà Nội). Bị đe dọa, bị đánh trọng thương ông vẫn không lùi bước. Các cán bộ tiêu cực cũng không mua được sự “im lặng” của ông, dù họ trả “giá” rất cao. Thấy sai mà mình im lặng thì càng sai, ông Bính trả lời đơn giản như vậy.

Một câu hỏi đã có nhiều dịp được trả lời, rằng làm sao đây để chống được căn bệnh “điếc có chủ ý”? Xin thưa, chúng ta vẫn phải tiếp tục trả lời, vì thực tiễn luôn vận động, vì sự diễn biến phức tạp của tình trạng này. Thẳng thắn và trung thực, nói như vậy mà làm thì khó thay! Nhưng nhất định phải làm. Trước hết là phải xây dựng được khối đoàn kết, thật sự dân chủ trong sinh hoạt đảng và các tổ chức chính trị-xã hội. Người đứng đầu đơn vị phải thật sự gương mẫu, đề cao trách nhiệm cá nhân, phải có con mắt tinh đời để nhận ra ai chân, ai giả, ai tạm thời im lặng vì cái chung, ai “ngậm miệng ăn tiền”? Khi anh không nói ra, không hẳn mọi người không biết, vì còn có một nhân chứng nữa, đó chính là lương tâm anh. Và điều không bao giờ cũ: Nghiêm túc tự phê bình và phê bình để nội bộ thật sự đoàn kết, hiểu nhau, tin nhau, hướng đến những giá trị tốt đẹp, nhân văn, vì sự phát triển, vững mạnh của cơ quan, đơn vị; đồng thời cũng vì sự tiến bộ, trưởng thành của mỗi cán bộ, đảng viên./.

Nâng cao cảnh giác với những chiêu trò lợi dụng mạng xã hội để chống phá đảng, nhà nước

Hiện nay, mạng xã hội bùng nổ với số lượng người tham gia ngày càng lớn. Đặc biệt là các trang mạng như: Facebook, Zalo. Vì vậy, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các công cụ này để đẩy mạnh các hoạt động chống phá từ bên ngoài, tạo dựng lực lượng chống đối từ bên trong. Các phần tử phản động xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thổi phồng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. Đồng thời móc nối, cấu kết với những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, biến chất nhằm lôi kéo, mua chuộc, tạo lực lượng chống phá từ bên trong. Trong đó, số hoạt động ở nước ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động, các đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài vu cáo, xuyên tạc tình hình đất nước. Lợi dụng internet, mạng xã hội để lan truyền các clip, tài liệu xuyên tạc, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và địa phương,... nhằm gây hoang mang, hoài nghi, suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.

Trên địa bàn huyện Nam Trà My, trong thời gian qua lợi dụng tình hình chiến sự Nga - Ucraina diễn biến phức tạp, làm giá cả thị trường leo than, nhất là giá xăng dầu tăng cao; một số cán bộ, đảng viên cấp cao của Đảng bị bắt, khai trừ Đảng do liên quan đến công tác phòng, chống dịch Covid-19. Các thế lực thù địch, phản động lưu vong nước ngoài thường xuyên cập nhật thông tin, viết bài chia sẽ những hình ảnh về chiến sự Nga – Ucraina, sự ưu việc về chính sách của các nước phương tây, thiệt hại của người dân Ucraina, sự tàn phá của Nga liên quan đến dân thường,… hay làm nhiều phóng sự, video về những quan chức cấp cao của Đảng suy thoái, biến chất vì tham nhũng, một số nội dung liên quan đến tôn giáo, dân chủ, đăng lên Youtube, Facebook, Zalo,… với mục đích lôi kéo cán bộ, đảng viên, nhân dân xem, thích, bình luận, chia sẻ, gây rối loạn thông tin, tạo tâm lý hoang mang, ngờ vực trong cán bộ, đảng viên, nhân dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hầu hết thông tin được đăng tải sai sự thật, pha lẫn với một số sai phạm của một số cán bộ, đảng viên nên cán bộ, đảng viên, người dân khi cập nhật thông tin, không sáng suốt, không có lập trường, quan điểm vững vàng sẽ rơi vào âm mưu chống phá của bọn chúng.

 Để làm tốt nhiệm vụ đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, các quan điểm xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, của các thế lực phản động trong và ngoài nước trên mạng xã hội, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần nâng cao khả năng nhận diện với các thông tin xấu, độc, nguy hại đối với bản thân và xã hội. Đồng thời, xây dựng phong cách văn hóa khi tham gia trên không gian mạng; có ý thức cảnh giác, không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật quốc gia…. Phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch trên không gian mạng, chỉ cập nhật những thông tin chính thống, không xem và chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình,… không để đồng nghiệp, người nhà của mình bị lôi kéo, dụ dỗ mà cố ý hoặc vô tình ủng hộ, chia sẻ, lan truyền những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.

Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần sử dụng trang mạng xã hội như một kênh thông tin, tuyên truyền những thông tin chính thống về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, chủ động và thường xuyên tham gia bình luận, chia sẻ các bài viết về những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những mô hình mới, cách làm hay của các cơ quan, đơn vị, địa phương và cá nhân trong tham gia thực hiện các phong trào thi đua yêu nước.

Đấu tranh phòng, chống hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta là công việc khó khăn, phức tạp, lâu dài. Vì vậy, hơn bao giờ hết, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần phải tỉnh táo, sáng suốt trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình; phải luôn xây dựng khối đại đoàn kết ngày càng vững mạnh, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi những thông tin sai lệch trên không gian mạng.

Hành trình theo chân Bác Hồ

Ngày 01 tháng 8

“Đào tạo con người là vấn đề chiến lược”.

Cách đây 101 năm, ngày 1-8-1922, Báo La Paria (Người Cùng Khổ) đăng 3 bài báo của Nguyễn Ái Quốc. Bài “Sở thích đặc biệt” tố cáo cuộc sống xa hoa và tính cách khác thường của vua Khải Định. Bài “Khai hóa gi.ết n.gười”, thông qua cái ch.ết của một nhân viên Sở Hỏa xa Nam kỳ để lên án: “Trong lúc ở Marseille người ta triển lãm cảnh phồn thịnh giả tạo của xứ Đông Dương thì xứ An Nam đang có những người bị ch.ết đói. Ở bên này người ta ca tụng lòng trung thành, còn ở bên kia người ta đang gi.ết người”.

Còn bài “Phụ nữ An Nam và sự đô hộ của Pháp” thuật lại vụ án binh lính Pháp h.ãm hi.ếp một bé gái và 2 phụ nữ Việt Nam rồi gi.ết h.ại, và kết luận: “Chế độ thực dân, tự bản thân đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó, đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ, lại càng bỉ ổi hơn nữa...”.

Ngày 1-8-1941, Nguyễn Ái Quốc ra số báo “Việt Nam Độc Lập” đầu tiên nhằm tuyên truyền đường lối của Mặt trận Việt Minh. Báo đăng lời kêu gọi “Khuyên đồng bào mua báo Việt Nam Độc Lập” bằng văn vần: “Báo “Độc lập” hợp thời đệ nhất/Làm cho ta mở mắt mở tai/Cho ta biết đó biết đây/Ở trong việc nước, ở ngoài thế gian/Cho ta biết kết đoàn tổ chức/Cho ta hay sức lực của ta/Cho ta biết chuyện gần xa/Cho ta biết nước non ta là gì...”.

Ngày 01-8-1942, cũng trên báo này, đăng bài thơ “Nhóm lửa” của Nguyễn Ái Quốc, ví sự nghiệp cách mạng như việc nhóm lửa để có ngày: “Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi/Chiếu lá cờ độc lập, tự do!”.

Ngày 01-8-1945, tại chiến khu Tân Trào, Đại đội Việt-Mỹ, đơn vị vũ trang hỗn hợp được thành lập giữa 200 chiến sĩ Việt Minh và đơn vị “Con Nai” của tổ chức OSS bước vào đợt huấn luyện sử dụng các loại v.ũ k.hí mới, để tổ chức chống phát xít Nhật.

Ngày 01-8-1949, Bác ra “Lời kêu gọi thi đua chuẩn bị tổng phản công”, khẳng định: “Trong việc thi đua ái quốc, cần phải nêu rõ tinh thần cần, kiệm, liêm, chính. Khẩu hiệu thi đua ái quốc hiện nay là: Tất cả để chiến thắng. Chiến thắng thực dân. Chiến thắng giặc dốt. Chiến thắng giặc đói. Chiến thắng mọi tính xấu trong mình ta...”.

Ngày 1-8-1951, Bác viết lời điếu đồng chí Hồ Tùng Mậu với tình cảm “thân thiết hơn anh em ruột”: “Mất chú, đồng bào mất một người lãnh đạo tận tụy. Chính phủ mất một người cán bộ lão luyện. Đoàn thể mất một người đồng chí trung thành, và tôi mất một người anh em chí thiết. Mấy nguồn thương tiếc, cộng vào trong một lòng tôi!... Tôi lại hứa với chú: toàn thể đồng sự và đồng chí sẽ cố gắng noi gương đạo đức cách mạng của chú đã tận trung với nước, tận hiếu với dân”.

Ngày 01-8-1959, kết thúc chuyến thăm Liên Xô, trên đường về, bay ngang ngọn Thiên Sơn (Trung Quốc), Bác cảm tác một bài thơ chữ Hán và tự dịch: “Xa trông cảnh đẹp núi Thiên San/Ráng đỏ vây quanh, tuyết trắng ngần/Sáng dậy mặt trời như lửa tía/Muôn hào quang đỏ chiếu nhân gian”.

Ngày 01-8-1969, tiếp Thứ trưởng Bộ Văn hóa Hà Huy Giáp bàn về việc xuất bản sách “Người tốt việc tốt”, Bác căn dặn: “Đào tạo con người là vấn đề chiến lược, phong trào “Người tốt việc tốt” chính là một biện pháp quan trọng của chiến lược đào tạo con người đó”.

Thanh xuân của những người lính đáng giá bao nhiêu?

Thi thoảng, mình vẫn thấy thường thấy người ta dùng hai chữ “thanh xuân” nói về chuyện này chuyện kia, chuyện gia đình, chuyện yêu đương… Nhưng, đại đa phần chúng ta còn được sống với “thanh xuân”, làm bất cứ điều gì chúng ta thích làm hoặc muốn làm. Còn có những lớp người “thanh xuân” của họ chỉ là hai chữ Tổ Quốc và cũng với rất nhiều người, không hề được trải qua thanh xuân một cách trọn vẹn.

Họ dùng “thanh xuân” của họ để chúng ta có được “thanh xuân”... Có một đoạn thơ rất hay của Thanh Thảo:

Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?

Có một câu nói đầy xúc động trong Mùi Cỏ Cháy: "Mùa hè năm ấy hy sinh nhiều quá, toàn là lính trẻ". Trong trường Bách Khoa, có Tượng đài Sinh viên lên đường bảo vệ Tổ quốc nhằm tri ân lớp sinh viên lên đường vào mùa hè 1972...

Trên dãy Trường Sơn có một ngôi đền gọi là Đền Vọng, nơi này dùng để thờ tự cho hương hồn của hơn 13 ngàn người lính, thanh niên xung phong, dân quân đã hy sinh ở Trường Sơn trong chiến dịch 6000 ngày trên tuyến đường Hồ Chí Minh mà không thể tìm được thi hài. Lý do mà không thể tìm được có thể do thịt xương đã hòa tan vào với đất, có thể bị chôn vùi ở nơi đâu, bị lũ quét cuốn trôi đi, bị thú rừng đào bới …. Linh hồn của những chiến sĩ luôn cần được sưởi ấm. Sự hy sinh nào cũng là máu xương!

Mình có một người bạn vừa đi viếng Nghĩa trang Quốc gia Đường 9 cùng với gia đình, khi bạn ấy tìm đến khu mộ của tỉnh Hải Dương thì thấy trên bia mộ của một chiến sĩ binh nhất thuộc sư đoàn 308, có ghi năm sinh là 1955 và hy sinh vào năm 1972, tức là chiến sĩ ấy hy sinh khi chỉ vừa mới 17. Một độ tuổi còn quá trẻ, quá nhiều hoài bão, quá nhiều khát khao… Một độ tuổi 17 mà với thế hệ hiện nay, nhiều khi còn chưa vững bước được trên cuộc đời mà những con người ấy đã phải gánh vác trên vai sự sinh tồn, tính an nguy của một quốc gia, một dân tộc.

Có một câu chuyện mà mình nghe được rằng, khi một bà mẹ Việt Nam anh hùng nhận được tiền trợ cấp, bà mẹ “trách” nhẹ rằng: “Tiên sư, nó chết rồi mà vẫn nuôi mẹ”. Chàng trai ấy ra đi vào năm 18 tuổi và hy sinh ở mặt trận Trị Thiên sau đó một năm. Một bà mẹ khác khóc rơi nước mắt: “Con đi thì tôi dễ mất con, giữ con lại thì mất nước”... Thanh xuân của những người mẹ, người vợ, người con khi đợi chồng, đợi cha đầy mòm mỏi và ám ảnh, luôn phải trong tình trạng xác định “đi là sẽ hy sinh”. Và có những người mất cả cuộc đời cũng chẳng thể đón được người thân trở về, dù chỉ là một nhánh xương khô hoặc một nắm tro cốt…

Mình nhớ hồi bé khi đi qua nghĩa trang liệt sĩ, có một bà dọa mình và đám bạn rằng: “Vào đó ma bắt đi đấy”. Sau này lớn hơn vào tuổi, học được lịch sử của dân tộc và hiểu những lời dạy của ông bà cha mẹ, mình nghĩ rằng, những người đã nằm xuống đều là những anh hùng, họ đã hy sinh cho chúng ta thì sẽ không bao giờ bắt hay muốn làm hại chúng ta… Ngược lại, họ luôn sống mãi và che chở cho chúng ta...

Lịch sử thì vẫn trôi qua từng giây từng phút, cuộc sống vẫn phải tiếp diễn cho dù điều gì đã đang hoặc sẽ diễn ra. Mình biết rằng, những con người ấy đã có một thanh xuân rất đẹp... 

Tiếp tục củng cố, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế

Nhìn lại nửa nhiệm kỳ Đại hội khóa XIII của Đảng, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung có bài viết: “Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đạt nhiều kết quả quan trọng; tiếp tục củng cố, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế"

“Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1/2021) xác định mục tiêu tổng quát của giai đoạn mới trong sự nghiệp đổi mới là phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở hoàn thành các mục tiêu phát triển cụ thể đến năm 2025, 2030 và 2045.

Đại hội XIII xác định nền ngoại giao toàn diện, hiện đại gồm ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Nhiệm vụ của đối ngoại là phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sát sao việc triển khai thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng.

Phát biểu tại Hội nghị Trung ương 7 (Khóa XIII, ngày 17/5/2023) về kết quả công tác giữa nhiệm kỳ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá: Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đạt nhiều kết quả quan trọng; tiếp tục củng cố, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Các kết quả đạt được như trên càng có ý nghĩa trong bối cảnh tình tình chính trị, kinh tế thế giới trải qua nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp như cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, xảy ra cuộc xung đột tại Ukraine, kinh tế, xã hội toàn cầu gặp nhiều khó khăn lớn và sự bùng phát, kéo dài của đại dịch COVID-19.

Hội nghị toàn quốc đầu tiên về công tác đối ngoại (ngày 14/12/2021) do Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức theo ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, là sự kiện lịch sử, phương thức mới và mang ý nghĩa lâu dài, sâu sắc trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đại hội XIII trong lĩnh vực đối ngoại. Tại Hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng chỉ rõ: Đối ngoại ngày nay không chỉ là sự tiếp nối của chính sách đối nội mà còn là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc.

Trong bài phát biểu, Tổng Bí thư đã đúc kết truyền thống đối ngoại của dân tộc, những tư tưởng, nguyên tắc, quan điểm lớn về đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Đồng chí nêu rõ, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc ‘cây tre Việt Nam’. “Đó là ‘gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển’. Mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường”. Về những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của đối ngoại, Tổng Bí thư nhấn mạnh “chúng ta cần xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong ứng xử và xử lý mối quan hệ với các nước song phương cũng như đa phương”. Theo đó, “phải đẩy mạnh đổi mới tư duy, mạnh dạn đột phá, sáng tạo trong công tác, tìm ra cách làm mới, mở rộng sang các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới… trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, chắc chắn, thận trọng, kiên định mục tiêu và chân thành, khiêm tốn”.

Nổi bật trong thời gian qua là những kết quả trong công tác theo dõi, dự báo tình hình và tham mưu chiến lược, nhất là trước đòi hỏi của những diễn biến ở khu vực và trên thế giới. Đầu năm nay, Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết số 34-NQ/TW về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng. Đây là Nghị quyết toàn diện đầu tiên của Bộ Chính trị đối ngoại kể từ Nghị quyết số 13 (Khóa VI) vào tháng 5/1988. Bên cạnh đó là các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với việc phát triển, nâng cấp quan hệ với một số đối tác quan trọng và nhiều lĩnh vực hoạt động quan trọng như đối ngoại đảng đến năm 2025, ngoại giao kinh tế, bảo đảm an ninh trong hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, công tác người Việt Nam ở nước ngoài, thông tin đối ngoại, đối ngoại nhân dân trong tình hình mới. Các cơ quan liên quan đã theo sát tình hình, kịp thời báo cáo lãnh đạo Đảng, Nhà nước để xử lý đúng những vấn đề nảy sinh trong quan hệ song phương, liên quan đến biển đảo, đề ra các chủ trương phù hợp đối với các diễn biến quốc tế phức tạp như cuộc xung đột tại Ukraine hoặc những quan tâm quốc tế lớn, đồng thời tác động trực tiếp đến lợi ích của đất nước như biến đổi khí hậu và các thách thức an ninh phi truyền thống khác.

Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai ngày càng đồng bộ theo hướng Bộ Chính trị đã xác định, đối ngoại đảng giữ vai trò nòng cốt trong định hướng chiến lược, chủ trương, đường lối đối ngoại, phát triển quan hệ tốt đẹp với các chính đảng, góp phần xây dựng, củng cố nền tảng chính trị, tạo thuận lợi cho quan hệ của Việt Nam với các nước, đối tác; ngoại giao Nhà nước (bao gồm cả ngoại giao nghị viện) đóng vai trò nòng cốt trong thể chế hóa, tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng; đối ngoại nhân dân đóng vai trò nòng cốt trong việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước, xây dưng dựng nền tảng xã hội tích cực và thuận lợi cho quan hệ của Việt Nam với các nước. Gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa.

Chỉ tính riêng về hoạt động đối ngoại, từ sau Đại hội XIII đến đầu tháng 7/2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì, tham gia 98 hoạt động đối ngoại, gồm chuyến thăm chính thức đến Trung Quốc, các cuộc hội đàm trực tiếp hoặc trực tuyến, các cuộc tiếp, làm việc, dự hội nghị quốc tế với các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tổ chức quốc tế. Bên cạnh những hoạt động đối ngoại của các lãnh đạo cấp cao của Đảng lãnh đạo, công tác tại Chính phủ, Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư đã chủ trì, tham gia trên 50 hoạt động đối ngoại. Cùng với đó là hoạt động của các Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Ban Bí thư đứng đầu các ban, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị, các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương, lãnh đạo các thành ủy, tỉnh ủy trực thuộc Trung ương.

Bên cạnh hoạt động đối ngoại cụ thể, các tổ chức đối ngoại nhân dân nỗ lực xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động lâu dài phù hợp với những thay đổi của đối ngoại nhân dân trên trường quốc tế và nhiệm vụ mới đặt ra.

Về nhiệm vụ đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ song phương, chúng ta đã chủ động, tích cực triển khai nhiều hoạt động lớn thể hiện ưu tiên hàng đầu đối với quan hệ với các nước láng giềng. Cuộc gặp đầu tiên sau 30 năm giữa ba Nhà Lãnh đạo đứng đầu ba Đảng của Campuchia, Lào, Việt Nam đã được tổ chức tại Hà Nội ngày 26/9/2021. Từ ngày 30/10 - 1/11/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Trung Quốc theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một vị lãnh đạo nước ngoài sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (16-22/10/2022), là sự kiện đối ngoại đặc biệt quan trọng, đạt kết quả tốt đẹp trên các phương diện. Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, các Lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc và các Lãnh đạo các nước bạn đã thực hiện các chuyến thăm, gặp gỡ nhân dịp các hội nghị quốc tế và điện đàm trực tuyến. Ta và các nước bạn chú trọng nâng cao hiệu quả của các cơ chế hợp tác. Các ngành, địa phương đã nỗ lực thực hiện các thỏa thuận cấp cao, thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực. Theo đó, sự hiểu biết lẫn nhau và tin cậy chính trị với Lào, Campuchia và Trung Quốc được nâng cao, hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo có những phát triển mới, hợp tác quốc phòng, an ninh phát huy vai trò là trụ cột của quan hệ. Những kết quả đó có ý nghĩa quan trọng, góp phần giữ vững hòa bình, an ninh ở khu vực láng giềng và tranh thủ những thế mạnh, tiềm năng bổ sung lẫn nhau cho phát triển của mỗi nước.

"Quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á khác được quan tâm thúc đẩy. Giữa Việt Nam và hầu hết các nước Đông Nam Á đều có các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao. Việt Nam đóng góp tích cực vào việc phục hồi đối thoại, ổn định ở Myanmar, giải quyết các vấn đề nảy sinh trên cơ sở vì lợi ích lâu dài của nhân dân Myanmar, các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và ASEAN, vì hòa bình, ổn định ở khu vực.

Quan hệ quốc phòng, an ninh tiếp tục được đẩy mạnh, mở rộng sang một số lĩnh vực mới. Các khuôn khổ hợp tác kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học giáo dục đều được tăng cường có những phát triển mới. Chúng ta cũng tiếp tục liên kết hợp tác trong ASEAN với việc thúc đẩy quan hệ song phương với các nước Đông Nam Á. Những kết quả tích cực trong quan hệ với các nước Đông Nam Á củng cố môi trường hòa bình, an ninh ở khu vực phía Nam của đất nước, cùng với các nước ASEAN phát huy thế mạnh chung của cả nền kinh tế ASEAN đứng thứ ba ở châu Á và đứng thứ năm trên thế giới.

Chúng ta tiếp tục phát triển quan hệ với các nước lớn và các đối tác quan trọng khác. Với Nga, Chủ tịch nước ta đã sớm sang thăm Nga trong năm đầu tiên sau Đại hội XIII; Phó Chủ tịch Đảng Nước Nga thống nhất cầm quyền Medvedev, Phó Chủ tịch Hội đồng An ninh quốc gia và các quan chức Chính phủ, Quốc hội Nga sang thăm Việt Nam; Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế và các cơ quan liên quan của hai bên trao đổi tháo gỡ khó khăn, duy trì hợp tác trong các lĩnh vực phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi bên. Quan hệ với Mỹ tiếp tục đà phát triển trên tất cả các lĩnh vực; Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng điện đàm cấp cao với Tổng thống Mỹ Joe Biden ngày 29/3/2023, Phó Tổng thống Kamala Harris thăm Việt Nam vào tháng 8/2021, Lãnh đạo cấp cao hai nước nhiều dịp gặp gỡ khi tham dự các hội nghị quốc tế, các quan chức của nhiều bộ, ngành quan trọng thực hiện các chuyến thăm, trao đổi cùng xử lý vấn đề nảy sinh, mở rộng hợp tác.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, các lãnh đạo chủ chốt, Thường trực Ban Bí thư đã hội đàm qua chuyến thăm lẫn nhau với EU, các nước thành viên chủ chốt của EU như Anh, Pháp, Đức; các nước Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zeland; các nước có các thế mạnh hợp tác chuyên ngành như Thụy Sĩ, Bỉ, Phần Lan. Ý nghĩa thực chất và hiệu quả của các quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và hợp tác truyền thống đều được nâng cao, qua đó tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, nâng cao vị trí của mỗi bên trong chính sách đối ngoại và phát triển của nhau, thích ứng quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học, công nghệ trong tình hình mới, trong đó có các yêu cầu mới đặt ra về khẳng định vị trí của đất nước ta trong chuỗi cung ứng của các nền kinh tế lớn trên thế giới, tranh thủ những tiến bộ của Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số.

Quan hệ của Việt Nam với các nước bạn bè, đối tác truyền thống tiếp tục phát triển tốt đẹp. Các đồng chí đứng đầu hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Cuba đã bốn lần hội đàm cấp cao trực tuyến; hai nước đã triển khai các chuyến thăm cấp Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội, nhiều chuyến thăm của các đồng chí Lãnh đạo cấp cao khác của Đảng, Nhà nước, hoạt động của cơ chế Ủy ban liên chính phủ, các tổ chức chính trị, địa phương; quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau mở rộng trên các lĩnh vực. Quan hệ với Đảng, Nhà nước Triều Tiên được duy trì phù hợp với điều kiện khó khăn của đại dịch COVID-19. Việc thúc đẩy quan hệ của Đảng ta với các đảng cầm quyền, tham chính đã góp phần tăng cường quan hệ với nhiều nước ở Đông Âu, Mỹ Latinh, châu Phi.

Thực hiện chủ trương của Đại hội XIII về nâng tầm đối ngoại đa phương, các hoạt động trong lĩnh vực này đã tiếp tục được triển khai tích cực, hiệu quả, thể hiện trách nhiệm quốc tế và vị thế, tâm thế mới của Việt Nam. Nổi bật là việc Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm kỳ hai năm là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2020 - 2021), được bầu vào một số cơ chế quan trọng của Liên hợp quốc như Phó Chủ tịch Đại hội đồng, Hội đồng Nhân quyền và tại Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa (UNESCO); thể hiện vai trò chủ động, tích cực trong việc cùng các nước ASEAN duy trì đoàn kết, giải quyết các vấn đề phức tạp mới đặt ra, xây dựng tầm nhìn mới, phát triển quan hệ với các đối tác, nâng cao vai trò của Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA); phát huy vai trò của Diễn đàn Kinh tế châu Á -Thái Bình Dương (APEC) và các cơ chế hợp tác Mekong.

Sự tham gia thể hiện trách nhiệm cao của Việt Nam trong các nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế về phòng, chống và ứng phó với biến đổi tiêu cực của khí hậu vì lợi ích chung và lợi ích lâu dài của đất nước, các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và khắc phục hậu quả động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ (tháng 2/2032) được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đảng ta cũng đã tham gia, đóng góp tích cực tại các cơ chế đa phương chính đảng như: Cuộc gặp quốc tế giữa các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế (IMCWP), Diễn đàn Sao Paulo, Hội nghị Quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP) và những hội nghị quốc tế quan trọng do các đảng bạn tổ chức. Việt Nam là nước chủ nhà cùng tổ chức Đại hội lần thứ 22 của Hội đồng Hòa bình thế giới vào tháng 11/2022; các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của Việt Nam đã tham gia nhiều hoạt động đa phương quốc tế, qua đó góp phần giới thiệu về đất nước, dân tộc, trao đổi kinh nghiệm và huy động tri thức, nguồn lực cho sự phát triển của đất nước.

Trong tổng thể những hoạt động đối ngoại song phương và đa phương, chúng ta đã cùng các nước láng giềng quản lý tốt, duy trì đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị và phát triển; kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, các quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển, nỗ lực thúc đẩy hợp tác, đàm phán phân định biển, trong đó có việc hoàn tất đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia. Sự phát triển tích cực trong quan hệ song phương, đa phương tạo điều kiện thuận lợi cho những nỗ lực triển khai công tác ngoại giao kinh tế để tham mưu chính sách, tranh thủ và xây dựng mới các khuôn khổ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư song phương hoặc đa phương, huy động các nguồn lực quốc tế. Chúng ta đã tranh thủ sự hỗ trợ quan trọng của cộng đồng quốc tế về tri thức, kinh nghiệm, thuốc men, trang thiết bị y tế trong việc kiểm soát đại dịch COVID-19 ở Việt Nam, đồng thời có những đóng góp với các nước, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Trong năm 2021, tổng vốn đầu tư đăng ký của nước ngoài đạt thêm trên 31 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 668 tỷ USD; trong năm 2022, các con số tương ứng là trên 27 tỷ USD và trên 730 tỷ USD.

Công tác thông tin đối ngoại đã được triển khai tích cực, hiệu quả trong việc xây dựng các chiến lược, kế hoạch tổng thể, đi cùng với những nỗ lực định hướng kịp thời, có chất lượng ngày càng tốt về thông tin, đấu tranh với các thông tin sai trái và đổi mới phương thức thông tin. Đảng, Nhà nước đã quan tâm xây dựng các chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật mới và triển khai nhiều biện pháp cụ thể với sự tham gia của nhiều địa phương, nhân dân đối với cuộc sống, nâng cao địa vị pháp lý và hội nhập của người Việt Nam ở nước ngoài vào xã hội sở tại và tạo điều kiện thuận lợi để họ về thăm gia đình, đất nước, sinh sống, học tập và làm ăn ở đất nước.

Cùng với những thành tựu đạt được, thực tế triển khai công tác đối ngoại cũng cho thấy những hạn chế cần tiếp tục khắc phục, như cần đảm bảo tốt hơn sự kịp thời, khả năng phát hiện, đánh giá những xu thế, diễn biến mới và kiến nghị, đề xuất trong công tác nghiên cứu, tham mưu, tranh thủ tốt hơn các quan hệ đối ngoại song phương và đa phương, đổi mới phương thức quan hệ đảng, đối ngoại nhân dân, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại.

Những kết quả quan trọng của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế trong nửa nhiệm kỳ vừa qua của Đại hội XIII thể hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước, được sự quan tâm, lãnh đạo và chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp. Kết quả đạt được về đối ngoại gắn liền với thực lực các mặt ngày càng tăng của đất nước, thành quả trực tiếp của sự vào cuộc cả hệ thống chính trị, trong đó có sự tham gia, phối hợp tích cực của các cơ quan liên quan đến công tác đối ngoại. Một yếu tố đóng góp quan trọng nữa là sự ủng hộ của bạn bè, đối tác quốc tế. Những kết quả đạt được là cơ sở quan trọng để công tác đối ngoại tiếp tục góp phần tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong nửa cuối của nhiệm kỳ Khóa XIII của Đảng như Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ đã xác định, thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội XIII của Đảng./.

Hành trình theo chân Bác Hồ

Ngày 02 tháng 8

“Chúng nhất định thất bại”

Cách đây 104 năm, ngày 2-8-1919, Báo L’Humanité (Nhân Đạo) của Đảng Xã hội Pháp đăng bài “Vấn đề dân bản xứ”, nhắc lại những nội dung cơ bản của “8 yêu sách của nhân dân An Nam” đã gửi tới Hòa hội Versaille (6-1919) để nhấn mạnh rằng: “Rất ôn hòa cả về những nội dung và hình thức, các nguyện vọng của chúng tôi nhằm vào những cải cách chủ yếu cho việc giải phóng chúng tôi và nhằm vào những quyền tự do, mà nếu không có chúng thì con người ngày nay chỉ là một kẻ nô lệ kh.ốn n.ạn. Không ai có thể phủ nhận rằng nếu không có các quyền tự do ấy, thiết yếu cho việc truyền bá những tư tưởng và kiến thức mà đời sống hiện đại đòi hỏi, thì không thể trông mong tiến hành bất cứ một công cuộc giáo hóa nghiêm chỉnh nào cả”.

Đầu tháng 8-1942, lãnh tụ Việt Minh Nguyễn Ái Quốc sáng tác “Bài ca du kích” để vận động các tầng lớp tham gia vũ trang đánh Tây, đuổi Nhật, trong đó có đoạn: “Kẻ có s.úng dùng s.úng/Kẻ có dao dùng dao/Kẻ có cuốc dùng cuốc/Người có cào dùng cào/Thấy Tây cứ chém phứa/Thấy Nhật cứ chặt nhào/...Chúng nhất định thất bại/Mình sức càng dồi dào”.

Tháng 8-1943, Bác tiếp tục bị Trung Hoa Quốc dân Đảng giam cầm tại Cục Chính trị Đệ Tư chiến khu. Tại đây, Bác đã sáng tác nhiều bài thơ chữ Hán như “Thu cảm 1 và 2”, “Nhân đỗ ngã” (Nhân lúc đói bụng), “Trần khoa viên lai thám” (Khoa viên họ Trần tới thăm), “Hầu chủ nhiệm ân tặng nhất bộ thư” (Chủ nhiệm họ Hầu tặng một bộ sách), “Mông thượng lệnh chuẩn xuất lung hoạt động” (Được lệnh trên cho đi lại ngoài buồng giam). Những bài thơ này góp vào tập “Ngục trung nhật ký” được tập hợp lại sau này.

Ngày 2-8-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang ở thăm nước Pháp, đã tiếp nhiều nhà báo Pháp và Trung Quốc, cựu Thủ tướng Herriot, Thống chế Leclerc, một số nghị sĩ và lãnh đạo Đảng Xã hội Pháp.

Ngày 2-8-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 7 do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì, bước sang ngày thứ 2, đang sôi nổi thảo luận vấn đề Đảng ra công khai và lấy tên là Đảng Lao động, đồng thời cũng chuẩn bị nội dung cương lĩnh Đại hội II sẽ triệu tập trong thời gian tới. “Nhật ký bộ trưởng” của Lê Văn Hiến thuật lại: “Buổi tối họp tại hội trường, Hồ Chủ tịch chủ tọa. Cụ lần lượt trả lời tất cả các thắc mắc của anh em và cuối cùng tuyên bố hội nghị có nhiệm vụ phải nghiên cứu phương pháp thi hành cho được việc Đảng ra công khai với tên là Đảng Lao động. Toàn thể hội nghị yên lặng tuân theo. Tên Đảng tuy là Đảng Lao động, nhưng nội dung không khác trước bao nhiêu... Vấn đề đặt ra là cần có chiến thuật mềm dẻo, linh động để thống nhất giai cấp công nhân, lôi kéo các tầng lớp dân tộc dân chủ, cô lập các tầng lớp phát xít, tiến tới lập một mặt trận dân tộc, dân chủ... Sự đổi tên của Đảng chẳng những chỉ có lợi cho cuộc chiến đấu trong một nước mà cũng cùng theo chiến lược chung của mặt trận dân chủ thế giới”.

Ngày 2-8-1969, Bác họp Bộ Chính trị để nghe báo cáo về quy hoạch xây dựng thủ đô, nhắc nhở đã quy hoạch thì phải làm đúng theo quy hoạch. Tiếp đó, cuộc họp bàn về vấn đề đấu tranh ngoại giao và tình hình miền Nam.