Không phải ngẫu
nhiên mà danh từ “Điện Biên Phủ” lại có tên trong từ điển bách khoa quân sự thế
giới. Bảy thập kỷ trước, với sức mạnh trí
tuệ và bản lĩnh anh hùng, quân và dân ta đã “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch
nhiều”, giành toàn thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm trường
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ba tiếng Điện Biên Phủ đã trở
thành niềm tự hào và biểu tượng của sức mạnh Việt Nam.
“Chín năm làm một Điện Biên”
Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử để Tổ quốc
quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của
thực dân Pháp. Trong đó, chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông (năm 1947) là đòn quyết
định làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch, bảo vệ
an toàn căn cứ địa cách mạng và đầu não kháng chiến; Chiến thắng Biên giới (năm
1950) đã tạo ra một bước chuyển cơ bản cho cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn
mới, chuyển hẳn sang liên tục tấn công và phản công địch. Quân ta càng đánh,
càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị
động, lúng túng. Vùng giải phóng mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được
củng cố.
Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu-Đông năm 1953, thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về binh lực và chi
phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ
lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương.
Trước âm mưu của địch, tháng 9-1953, Bộ Chính trị họp bàn và
quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân với phương châm: tích cực,
chủ động, cơ động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta,
chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà đánh, chọn những hướng địch có thể
đánh sâu vào vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động,
kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.
Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai
Châu và Thượng Lào, ngày 20-11-1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện
Biên Phủ với dự định xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh. Điện Biên Phủ là
một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở
giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc. Đối với địch,
đây có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu
xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á. Do đó, chúng liên tiếp cho tăng
cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất
Đông Dương. Cụ thể, chúng đã cho tập trung ở đây 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn
trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh,
1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới. Theo đó,
Điện Biên Phủ đã trở thành quyết chiến điểm của Kế hoạch Nava. Và thực dân Pháp
tin chắc lòng chảo này sẽ “nghiền nát” quân đội Việt Nam.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện
Biên Phủ. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, công việc chuẩn bị cho chiến
dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953. Trung ương Đảng quyết định thành
lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ủy
viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy và Chỉ huy
trưởng mặt trận. Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung
ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận
các cấp.
Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với
khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Bộ Chính trị và Tổng
Quân ủy đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với
tổng quân số trên 40.000 quân. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết,
ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến
công địch. Trên 260.000 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng
về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch...
Đến đầu tháng 3-1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch
đã hoàn thành.
“Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
17 giờ ngày 13-3-1954, quân ta tấn công tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ. Chiến dịch lịch sử bắt đầu.
Ngay phút đầu, trong trận tấn công cụm cứ điểm Him Lam, pháo
binh ta đã lập công, bắt chết tên quan tư Pêgốt - chỉ huy Him Lam và tên quan
năm Gôxê - chỉ huy phân khu trung tâm. Sau 2 giờ chiến đấu, ta tiêu diệt 2 cứ
điểm. Tại cứ điểm thứ 3 phía Tây Bắc Him Lam, từ một lô cốt ngầm, địch bắn ra
ác liệt. Một chiến sĩ mình đầy thương tích của ta đã trườn lên, dồn hết sức lao
vào lấp lỗ châu mai, dập tắt hỏa điểm địch. Đó chính là anh hùng Phan Đình
Giót.
Trận đầu phải thắng, đó là truyền thống của quân đội ta. Trong
ngày mở màn chiến dịch, ta tiêu diệt Him Lam, diệt 300 tên địch, bắt sống 200
tù binh. Liên tiếp các ngày từ 14 đến 17-3, ta tiêu diệt nhanh gọn 2 cụm cứ
điểm kiên cố vào bậc nhất của địch, đồng thời làm tan rã một tiểu đoàn địch.
Quân Pháp ở vị trí Bản Kéo sợ hãi kéo cờ trắng ra hàng. Cánh cửa phía Bắc vào
Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị phá toang.
Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được
củng cố. Từ ngày 30-3 đến 30-4-1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm, thắt
chặt vòng vây, chia cắt và kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của
địch cho các cứ điểm. Đây là đợt tấn công dài ngày nhất, quyết liệt nhất, ta và
địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta
và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2,
khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân
địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.
Từ ngày 1-5-1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta đánh chiếm
các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 6-5-1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và
địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng
thuốc nổ phá các hầm ngầm kiên cố của địch. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và
khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng.
17 giờ 30 ngày 7-5-1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ
Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải
ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm
chỉ huy của địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!
Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và
dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống
16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân
trang quân dụng của địch.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là biểu hiện rực rỡ sự trưởng thành
vượt bậc của quân đội ta. Mới gần 10 tuổi, quân đội ta đã ghi trên Quân kỳ hàng
nghìn chiến công, mà đỉnh cao và đời đời bất diệt là Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Đây là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất, trực
tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà
bình ở Đông Dương; tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng
lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao
là chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí
bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch
sử; là chiến thắng của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, độc lập dân
tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội; của đường lối kháng chiến trường kỳ, toàn
dân, toàn diện, biết đánh và biết thắng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn
bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Thời gian đã lùi xa, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu” mãi mãi là một mốc son chói lọi trong lịch sử và
niềm tự hào của dân tộc Việt Nam; là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ, động viên
to lớn, đồng thời để lại nhiều bài học quý giá đối với toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.