Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2024

Chiến thắng Điện Biên Phủ - niềm tự hào và biểu tượng của sức mạnh Việt Nam

 

Không phải ngẫu nhiên mà danh từ “Điện Biên Phủ” lại có tên trong từ điển bách khoa quân sự thế giới. Bảy thập kỷ trước, với sức mạnh trí tuệ và bản lĩnh anh hùng, quân và dân ta đã “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, giành toàn thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ba tiếng Điện Biên Phủ đã trở thành niềm tự hào và biểu tượng của sức mạnh Việt Nam.

“Chín năm làm một Điện Biên”

Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Trong đó, chiến thắng Việt Bắc Thu-Đông (năm 1947) là đòn quyết định làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch, bảo vệ an toàn căn cứ địa cách mạng và đầu não kháng chiến; Chiến thắng Biên giới (năm 1950) đã tạo ra một bước chuyển cơ bản cho cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn mới, chuyển hẳn sang liên tục tấn công và phản công địch. Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp càng ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng. Vùng giải phóng mở rộng, chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố.

Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu-Đông năm 1953, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Nava tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương.

Trước âm mưu của địch, tháng 9-1953, Bộ Chính trị họp bàn và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân với phương châm: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà đánh, chọn những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng.

Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai Châu và Thượng Lào, ngày 20-11-1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ với dự định xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh. Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây Nam Trung Quốc. Đối với địch, đây có thể trở thành một căn cứ lục quân và không quân rất lợi hại trong âm mưu xâm lược của chúng ở vùng Đông Nam châu Á. Do đó, chúng liên tiếp cho tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương. Cụ thể, chúng đã cho tập trung ở đây 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới. Theo đó, Điện Biên Phủ đã trở thành quyết chiến điểm của Kế hoạch Nava. Và thực dân Pháp tin chắc lòng chảo này sẽ “nghiền nát” quân đội Việt Nam.

Trước tình hình đó, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ cuối năm 1953. Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy và Chỉ huy trưởng mặt trận. Chính phủ quyết định tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp.

Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000 quân. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch. Trên 260.000 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch...

Đến đầu tháng 3-1954, công tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.

“Nên vành hoa đỏ,  nên thiên sử vàng”

17 giờ ngày 13-3-1954, quân ta tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Chiến dịch lịch sử bắt đầu.

Ngay phút đầu, trong trận tấn công cụm cứ điểm Him Lam, pháo binh ta đã lập công, bắt chết tên quan tư Pêgốt - chỉ huy Him Lam và tên quan năm Gôxê - chỉ huy phân khu trung tâm. Sau 2 giờ chiến đấu, ta tiêu diệt 2 cứ điểm. Tại cứ điểm thứ 3 phía Tây Bắc Him Lam, từ một lô cốt ngầm, địch bắn ra ác liệt. Một chiến sĩ mình đầy thương tích của ta đã trườn lên, dồn hết sức lao vào lấp lỗ châu mai, dập tắt hỏa điểm địch. Đó chính là anh hùng Phan Đình Giót.

Trận đầu phải thắng, đó là truyền thống của quân đội ta. Trong ngày mở màn chiến dịch, ta tiêu diệt Him Lam, diệt 300 tên địch, bắt sống 200 tù binh. Liên tiếp các ngày từ 14 đến 17-3, ta tiêu diệt nhanh gọn 2 cụm cứ điểm kiên cố vào bậc nhất của địch, đồng thời làm tan rã một tiểu đoàn địch. Quân Pháp ở vị trí Bản Kéo sợ hãi kéo cờ trắng ra hàng. Cánh cửa phía Bắc vào Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị phá toang.

Về phía ta, qua hai đợt chiến đấu, lực lượng không ngừng được củng cố. Từ ngày 30-3 đến 30-4-1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm, thắt chặt vòng vây, chia cắt và kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho các cứ điểm. Đây là đợt tấn công dài ngày nhất, quyết liệt nhất, ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.

Từ ngày 1-5-1954, ta mở đợt tiến công thứ ba. Quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 6-5-1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm kiên cố của địch. Tên quan Tư chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải đầu hàng.

17 giờ 30 ngày 7-5-1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng!

Sau 55 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là biểu hiện rực rỡ sự trưởng thành vượt bậc của quân đội ta. Mới gần 10 tuổi, quân đội ta đã ghi trên Quân kỳ hàng nghìn chiến công, mà đỉnh cao và đời đời bất diệt là Chiến thắng Điện Biên Phủ. Đây là một trận quyết chiến chiến lược, một trận tiêu diệt điển hình nhất, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương; tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; là chiến thắng của đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ta, độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội; của đường lối kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, biết đánh và biết thắng, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.

Thời gian đã lùi xa, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” mãi mãi là một mốc son chói lọi trong lịch sử và niềm tự hào của dân tộc Việt Nam; là sức mạnh tinh thần, nguồn cổ vũ, động viên to lớn, đồng thời để lại nhiều bài học quý giá đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau.

Chủ tịch nước: Sức mạnh của dân tộc nằm ở những con người có trí tuệ và phẩm giá

 

Chủ tịch nước cho rằng phát triển và phát huy vai trò to lớn của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một việc rất quan trọng, cần thiết.

Chiều 29/2, tại Trụ sở Trung ương Đảng đã diễn ra Hội nghị gặp mặt đại biểu trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ nhân dịp đầu Xuân Giáp Thìn 2024.

Dự Hội nghị có các Ủy viên Bộ Chính trị: Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng; Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai; Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn.

Cùng dự còn có Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà.Đặc biệt, Hội nghị có sự tham dự của 210 đại biểu đại diện tiêu biểu cho giới trí thức, các nhà khoa học, văn nghệ sỹ có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác, đóng góp xây dựng nền khoa học công nghệ, giáo dục, đào đạo của đất nước và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Tại cuộc gặp mặt, với tình cảm chân thành, sâu sắc, tinh thần trách nhiệm cao, các đại biểu đã trao đổi, chia sẻ cởi mở về những kinh nghiệm, kết quả nổi bật và quyết tâm cống hiến, khát vọng của bản thân, của ngành, của giới mình.

Các đại biểu bày tỏ tình cảm, niềm vui, vinh dự và ấn tượng sâu sắc trước việc lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan đã tổ chức gặp mặt lần này; nhấn mạnh đây là minh chứng sinh động thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước đối với các trí thức, nhà khoa học và văn nghệ sỹ.

Nhiều ý kiến mong muốn Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm, động viên, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ không ngừng lớn mạnh, đóng góp nhiều hơn nữa, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.

Phát biểu tại Hội nghị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đánh giá cao các ý kiến tâm huyết, trách nhiệm, nặng lòng với đất nước, thể hiện tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và những hiến kế quý báu của các đại biểu cho Đảng, Nhà nước để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đất nước ta ngày càng đổi mới và phát triển bền vững.

Đề cập đến thành tựu quan trọng của đất nước trong năm 2023 dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước nêu rõ, trong các thành quả đáng tự hào ấy có sự đóng góp quý báu, rất quan trọng của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ trên nhiều lĩnh vực.

Chủ tịch nước cho rằng, bằng hoạt động của mình, đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ đã làm gia tăng chất lượng nguồn nhân lực; tham mưu, tư vấn, phản biện, cung cấp nhiều luận cứ khoa học, góp phần hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gặt hái nhiều thành tựu trong những lĩnh vực chuyên ngành, chuyên sâu; góp phần đẩy mạnh Chuyển đổi Số trong nhiều lĩnh vực, cải thiện năng suất lao động, hiệu quả sản xuất-kinh doanh, góp phần nâng cao đời sống cho người dân, bảo đảm an sinh xã hội…

Nhiều trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ là những tấm gương trong lao động, học tập, nghiên cứu và sáng tạo, dấn thân vì dân, vì nước, vươn lên ngang tầm khu vực và thế giới, được quốc tế vinh danh, được công chúng yêu thích và mến mộ.

Thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng bày tỏ sự trân trọng, cảm ơn sâu sắc đến lớp lớp những thế hệ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ – những người tài của đất nước đã cống hiến trí tuệ và tâm sức, lao động không mệt mỏi bằng tình yêu con người và đất nước, luôn đồng hành cùng Đảng, dân tộc và nhân dân, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay.”

Nhấn mạnh, năm 2024 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tăng tốc trong thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII, bắt đầu chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng, Chủ tịch nước cho rằng, khát vọng và mục tiêu cao đẹp cùng những đòi hỏi ấy đặt ra nhiệm vụ quan trọng, mang đến cảm hứng lớn lao cho đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ trong lao động, nghiên cứu và sáng tạo, tiếp tục đồng hành với Đảng, với dân tộc và nhân dân, vượt qua mọi thách thức, khó khăn, đạt nhiều thành tựu to lớn hơn nữa.

Chủ tịch nước khẳng định, dân tộc Việt Nam ta vốn có truyền thống quý trọng hiền tài, yêu mến trí thức. Đảng, Nhà nước ta luôn coi giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; luôn đề cao, trân trọng, đặc biệt quan tâm, chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức, các nhà khoa học và văn nghệ sỹ; tạo mọi điều kiện để đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ phát triển vững mạnh, toàn diện, đóng góp nhiều hơn nữa trí tuệ, tài năng, sức sáng tạo cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Điều đó thể hiện xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng, nhận thức và hành động của Đảng và Nhà nước.

Lịch sử phát triển của các quốc gia thịnh vượng đã làm sáng tỏ một chân lý, sức mạnh của một dân tộc không phải nằm ở tài nguyên trong lòng đất, lòng biển mà ở những con người có trí tuệ và phẩm giá. Ở Việt Nam ta, chính đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ, đặc biệt là những hiền tài – “nguyên khí của quốc gia,” giàu khát vọng, dám nghĩ, dám làm, đổi mới và sáng tạo, bằng tình yêu Tổ quốc và nhân dân đã giữ vai trò tiên phong, quan trọng, thắp lên những đốm lửa của đổi mới, đặt nền tảng cho phát triển, khai mở những tiềm năng, tạo ra những đột phá, đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách trong từng giai đoạn, Chủ tịch nước nêu rõ.

Do đó, tiếp tục xây dựng, phát triển và phát huy vai trò to lớn của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một việc rất quan trọng, cần thiết cả trước mắt và lâu dài.

Chủ tịch nước đề nghị các cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị tiếp tục quán triệt sâu sắc, triển khai đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết của Đảng về trí thức, khoa học công nghệ, giáo dục-đào tạo, về văn hóa, văn học nghệ thuật. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ; tích cực thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, tạo môi trường thuận lợi để phát huy tốt nhất vai trò, sự đóng góp của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, nhất là đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực then chốt, trọng yếu, lĩnh vực mới; đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước; vun trồng các tài năng văn học-nghệ thuật; khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khát vọng và ý chí vươn lên, sẵn sàng dấn thân, cống hiến trí tuệ, tài năng, gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, lan tỏa những điều lành, điều thiện; tích cực xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ.

Đặc biệt, cần phát huy dân chủ, tôn trọng tự do tư tưởng, tự do sáng tạo, đề cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp; tạo mọi điều kiện tốt nhất để giải phóng tiềm năng, phát huy trí tuệ và năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ. Có cơ chế hiệu quả để đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ tham gia tư vấn, giám sát, phản biện, giám định xã hội, tham mưu cho Đảng, Nhà nước có những quyết sách đúng đắn, kịp thời, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ mới.

Trước mắt là tham gia nghiên cứu, tổng kết 40 năm đổi mới đất nước; xây dựng văn kiện Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng; tổng kết 50 năm nền văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất.

“Đất nước đang rất cần những trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ với tình yêu Tổ quốc nồng nàn, sự đồng cảm sâu sắc với nhân dân, khát vọng lớn lao, sẵn sàng dấn thân, hòa mình vào thực tiễn đời sống phong phú, sinh động của đất nước, đồng hành với Đảng, dân tộc trên hành trình hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội,” Chủ tịch nước nói.

Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tin tưởng sâu sắc rằng, đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sỹ Việt Nam dù đang sinh sống và làm việc ở trong nước hay nước ngoài, bằng tình yêu và trách nhiệm, tài năng và sáng tạo đều có thể đóng góp cho Tổ quốc theo cách riêng của mình; cùng nhau vun đắp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc và những giá trị tốt đẹp của văn hóa, con người Việt Nam, tạo thành sức mạnh nội sinh to lớn, đưa đất nước ta ngày càng phát triển, phồn vinh, hạnh phúc./.

Ngăn chặn âm mưu dùng sách, báo xấu độc để chuyển hóa tư tưởng lệch lạc

Với âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng, một trong những phương thức mà các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng là phát hành các sách, báo có nội dung độc hại, xuyên tạc, phản động. Đáng phê phán là một số cá nhân do nhận thức chính trị hạn chế, thiếu hiểu biết và hám lợi đã “nối giáo cho giặc” khi công khai tán phát, mua bán sách, báo xấu độc. Vì thế, việc ngăn chặn sự thẩm lậu, đấu tranh trực diện với sách, báo xấu độc cần nhất là chủ động, thường xuyên, kịp thời, đi vào thực chất.

Âm mưu đầu độc nhận thức

Đằng sau một cuốn sách, một bài báo chứa đựng tư tưởng, lý lẽ, tâm tư, tình cảm có tác động đến nhận thức, hành vi của độc giả. Bên cạnh những “bảo thư” soi đường, chỉ lối để con người hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ; rèn luyện, phấn đấu tu thân, tích đức để khẳng định bản thân, cống hiến cho xã hội; cũng không hiếm những “tà thư” đầu độc độc giả đưa đường đến với sự tối tăm, hận thù, bi quan, những hành vi lệch chuẩn, thiếu văn hóa và đạo đức, vi phạm pháp luật…

Khác với loại hình tuyên truyền trực quan như tranh, ảnh, phim; sách, báo xấu độc xâm nhập âm thầm, dùng lý lẽ bề ngoài tưởng chừng rất khách quan, khoa học nhưng ngầm ẩn những dụng ý vô cùng thâm hiểm. Chỉ cần độc giả là người thiếu hiểu biết về chính trị, không kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng, có ẩn ức, bất mãn trong đời sống rất dễ bị tiêm nhiễm, dần dần “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” lúc nào không hay. Chẳng hạn, khá nhiều sách, báo dưới cái mác nghiên cứu khoa học lịch sử đã “bắn vào quá khứ” khi lập luận rằng: Không cần tiếp thu chủ nghĩa cộng sản, không cần sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Bác Hồ, không cần có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam cứ “ngoan ngoãn” ở trong “vòng tay bảo hộ” của mẫu quốc Pháp sau Chiến tranh Thế giới thứ hai thì đất nước sẽ phát triển, dân trí nâng cao; rồi sau đó thông qua phương cách hòa bình để có được nền độc lập thì sẽ tốt hơn là phải cầm súng suốt mấy chục năm, làm “kéo lùi lịch sử”. Luận điệu này với những người trưởng thành có hiểu biết lịch sử, có tư duy biện chứng khoa học thì đích thực là phản động, phi thực tế và phản khoa học. Tuy nhiên, nếu là một người trẻ mới mười tám, đôi mươi, sinh ra trong hòa bình thì chưa chắc đã đủ bản lĩnh, trình độ để nhận diện đây là “tà thuyết”.

Theo số liệu của Bộ Công an, tính từ năm 2009 đến 2022, lực lượng an ninh chính trị nội bộ đã phối hợp thu thập, nghiên cứu hơn 500 đề tài, bản thảo; kiến nghị không cho xuất bản hoặc sửa chữa lại nội dung trước khi xuất bản 350 đề tài, bản thảo; ngừng phát hành, thu hồi, tiêu hủy 150 ấn phẩm có nội dung phức tạp, nhạy cảm, vi phạm; xử phạt vi phạm pháp luật trên lĩnh vực xuất bản hơn 760 trường hợp. 

Khi những ý đồ thâm hiểm không phát huy dưới dạng “chính ngạch”, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động thông qua phương thức cũ đó là tán phát sách, báo xấu độc theo con đường “tiểu ngạch”, nhất là trên không gian mạng. 

Sách, báo xấu độc chủ yếu được xuất bản dưới chế độ cũ trước năm 1975, sau này in ấn ở hải ngoại. Dù là thể loại hư cấu hay phi hư cấu, sách, báo xấu độc đều có chung một số đặc điểm về nội dung, đó là: Ra sức cổ vũ quan điểm thù địch, chống đối Đảng Cộng sản Việt Nam; kêu gọi người dân không chấp nhận Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội; phủ định lý luận về chủ nghĩa xã hội và sự đúng đắn tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đòi xét lại lịch sử, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín, danh dự của các anh hùng dân tộc, lãnh tụ của Đảng, các bậc tiền bối cách mạng; khoét sâu vào những mặt trái của xã hội nhằm phủ nhận thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng và nhân dân…

Đáng lo ngại là một số cá nhân chuyên kinh doanh sách, báo, dịch vụ in ấn nhận thấy sách, báo xấu độc bị cấm phổ biến, lưu hành là “hàng hiếm” nên đã sưu tập, tái sản xuất, bày bán công khai trên mạng xã hội dưới dạng sách in và sách điện tử. Chỉ cần đặt hàng trên mạng xã hội, bất cứ tác phẩm xấu độc nào trong vài giờ đã có thể chuyển đến tận tay người có nhu cầu.

Vấn đề đáng bàn là vì sao sách, báo xấu độc do các tác giả phản động lại có thể “đội mồ sống dậy” lưu hành dễ dàng mà các cơ quan chức năng chưa kịp thời ngăn chặn?

Kết hợp giữa phòng và chống hiệu quả

Chúng ta cần xác định phương thức tán phát, phổ biến sách, báo xấu độc là thủ đoạn mà các thế lực thù địch sẽ không bao giờ từ bỏ. Cho nên, đấu tranh với sách, báo xấu độc là việc làm lâu dài, thường xuyên để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt cần chú ý kết hợp giữa phòng và chống một cách linh hoạt, tùy từng trường hợp cụ thể để mang lại hiệu quả thực chất.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị-xã hội, thuần phong mỹ tục”. 

Quán triệt, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, với lĩnh vực xuất bản, ông Nguyễn Nguyên, Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông), Phó chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam cho rằng: Trước hết, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực xuất bản. Phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan xuất bản, cơ quan chủ quản trong công tác xuất bản với yêu cầu giữ vững tôn chỉ, mục đích, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, biên tập viên, thực hiện chặt chẽ quy trình xuất bản, thẩm định kỹ nội dung bản thảo, tránh để xảy ra sai sót nội dung nghiêm trọng về chính trị.

Cùng với đó, công tác hậu kiểm cần tiếp tục được đẩy mạnh nhằm ngăn chặn triệt để các xuất bản phẩm có nội dung vi phạm quy định Luật Xuất bản; các cơ quan bảo vệ pháp luật triển khai đồng bộ các giải pháp đấu tranh, xử lý những ấn phẩm lưu hành bất hợp pháp, nhất là các ấn phẩm có nội dung xấu độc. Riêng với các địa chỉ lưu giữ, tán phát xuất bản phẩm xấu độc trên không gian mạng, cần phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng an ninh chính trị nội bộ, an ninh mạng tập trung sử dụng những biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn hoạt động và sức phổ biến, tiếp cận đến với người đọc.        

Theo ông Nguyễn Thái Bình, Phó giám đốc Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, vấn nạn sách, tài liệu xấu độc được in ấn, mua bán công khai hiện nay là nguy cơ dẫn đến mất kiểm soát vì vô tình tạo thói quen, hành vi vi phạm pháp luật cho bạn đọc, người sử dụng thiếu hiểu biết. Các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chức năng cần sớm vào cuộc, xử lý bảo đảm đủ răn đe với những hành vi vi phạm pháp luật. Với những nhóm người có chủ ý thu lợi cá nhân hoặc có kế hoạch, chủ động tán phát sách, báo xấu độc cần phải bị xử lý hình sự để răn đe những đối tượng khác. Với những cá nhân nhỏ lẻ, nếu chỉ hám lợi đơn thuần thì sớm tiếp cận, nhắc nhở.

Ông Nguyễn Thái Bình cũng nhấn mạnh đến vai trò của các cấp ủy Đảng cần chủ động định hướng, cung cấp thông tin thường xuyên để cán bộ, đảng viên không tìm hiểu, không tiếp cận với sách, báo xấu độc; xử lý nghiêm những trường hợp cán bộ, đảng viên phổ biến, giới thiệu sách, báo xấu độc dưới bất cứ hình thức nào. Đặc biệt, đối với các cơ quan quản lý nhà nước cần phải chủ động trong truyền thông chính sách, giúp cho người dân hiểu và làm việc theo pháp luật. Phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trong hoạt động tuyên truyền miệng để cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân không mua bán, tàng trữ, sử dụng, phổ biến sách, báo xấu độc; đồng thời, nâng cao khả năng nhận diện nội dung xấu độc, tham gia đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Một giải pháp mà các chuyên gia trong lĩnh vực xuất bản, phát triển văn hóa đọc nhiều lần nhắc đến, đó là: Ngành xuất bản cần tiếp tục nỗ lực xuất bản, giới thiệu nhiều sách, báo có nội dung lành mạnh, nhân văn, có giá trị học thuật dưới nhiều hình thức đa dạng, hấp dẫn, gắn với phát triển văn hóa đọc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Qua đó, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, tác động tích cực để xây dựng nhận thức đúng đắn, bồi đắp tâm hồn, nâng cao dân trí cho nhân dân, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Sưu tầm

Bác Hồ với Đảng và mùa Xuân Giáp Thìn 60 năm trước

 

Cách đây tròn 60 năm, vào mùa Xuân Giáp Thìn năm 1964, Bác Hồ có nhiều hoạt động cách mạng mang ý nghĩa sâu sắc.1964 là năm thứ tư của kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất. Ngày đầu năm 1/1, như lệ thường, Bác có Thư chúc mừng năm mới với "Mấy lời thân ái nôm na/ vừa là kêu gọi vừa là mừng xuân". Mấy lời "thân ái nôm na" của Người tỏ rõ tinh thần thi đua yêu nước, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thực hiện cuộc vận động đồng bào miền xuôi đi tham gia xây dựng miền núi, ủng hộ đồng bào miền Nam, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cơ sở vững mạnh cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Lời Bác truyền cảm hứng, nhiệt huyết về niềm tin thống nhất đất nước. Người viết:

"Bắc Nam như cội với cành

Anh em ruột thịt đấu tranh một lòng.

Rồi đây thống nhất thành công

Bắc Nam ta lại vui chung một nhà.

Mấy lời thân ái nôm na

Vừa là kêu gọi, vừa là mừng xuân"(1).

Cùng ngày, Bác đi thăm tỉnh Thái Nguyên và Khu gang thép Thái Nguyên; thăm Nhà máy điện Cao Ngạn và Bảo tàng Việt Bắc (nay là Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam); thăm cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 312. Ở tuổi 74, Người vẫn khỏe mạnh. Trong các buổi nói chuyện với đồng bào và chiến sĩ, cùng với những lời chúc mừng năm mới thân ái, khen ngợi thành tích các mặt, một điểm quan trọng, quý giá là Người nói tới việc lấy hiệu quả thực tế làm thước đo đánh giá chi bộ, như từ việc giết giặc lập công trong kháng chiến đến thành tích các hợp tác xã và các xí nghiệp trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với công nhân và cán bộ làm gang thép, Người nhấn mạnh một tư tưởng lớn có giá trị trường tồn: "Để làm ra gang thép tốt thì người công nhân và cán bộ phải tôi luyện tinh thần cách mạng, lập trường giai cấp và ý thức làm chủ cho cứng rắn như thép, như gang. Nhất là cán bộ, đảng viên và đoàn viên phải làm như vậy"(2). 60 năm trôi qua, lời dạy của Bác vẫn luôn luôn là phương châm hành động, rèn luyện, tu dưỡng của cán bộ công nhân Công ty cổ phần gang thép Thái Nguyên TISCO.

Đến thăm và chúc Tết Hội đồng Chính phủ họp phiên cuối năm, Bác nhắc phải làm tốt cuộc vận động "ba xây, ba chống"(3). Tại phiên họp, Bác phát biểu thẳng thắn chỉ ra thực tế tình hình - nói theo ngôn ngữ ngày nay - là dưới "nóng", trên "lạnh", tức là "anh chị em công nhân và nhân viên ở cơ sở thì rất hăng hái, nhưng từ cấp Giám đốc lên đến Bộ trưởng, Thứ trưởng thì còn rất nhiều người chưa chuyển, cho nên có chỗ cuộc vận động bị tắc lại. Bây giờ phải làm "ba xây, ba chống" cả hai chiều, từ dưới lên và từ trên xuống. Bản thân các đồng chí Bộ trưởng, Thứ trưởng, các đồng chí lãnh đạo phải "ba xây, ba chống". Hơn ai hết người lãnh đạo phải nhận rõ cuộc vận động "ba xây, ba chống" này rất quan trọng để làm cho tốt"(4). Bài học lớn, vô cùng quý báu từ lời dạy của Bác 60 năm trước soi sáng hiện nay khi chúng ta đang và tiếp tục triển khai tích cực, sâu rộng Chỉ thị số 05-CT/TW về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".

Một điều đặc biệt là trong những hội nghị của Bộ Chính trị đầu năm, kiểm điểm công tác năm cũ (1963) và bàn nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo năm mới (1964), Bác đánh giá ngắn gọn, cô đọng về ưu điểm nhưng lại đặc biệt nhấn mạnh về hạn chế, khuyết điểm. Ngày 17/1, trong Hội nghị Bộ Chính trị, sau khi chỉ rõ "nhiều vấn đề tồn tại cứ nói đi nói lại", Người đặt thẳng vấn đề "Nguyên nhân từ đâu? Kế hoạch đặt không sát hay chỉ đạo thực hiện không tốt? Trong lúc đó báo chí cứ nêu là trên 100 xí nghiệp hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Như vậy là ta dối ta"(5). Đây là một bài học lớn, thấm thía, rất đáng để chúng ta suy ngẫm về phương diện tự phê bình và nói thật trong sinh hoạt chính trị, kiểm điểm, báo cáo công tác.Ngày 21/1, Bác dự Hội nghị Bộ Chính trị bàn phương hướng lãnh đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng năm 1964. Trước khi nghe Trưởng Ban Tuyên huấn Tố Hữu trình bày dự thảo báo cáo, Bác phát biểu: "Đã bắt bệnh, điều quan trọng là phải theo bệnh để cho thuốc cho đúng, cụ thể là nội dung đối với từng loại chi bộ phải khác, nông trường khác, xí nghiệp khác… Trong lúc này có nên kết hợp học tập và biện pháp tổ chức không? Kế hoạch, biện pháp học tập, liên hệ của từng loại chi bộ như thế nào cho thích hợp. Cuối cùng là phải có tổ chức kiểm tra như thế nào?"(6).

Trong đổi mới, nhất là những năm gần đây, chúng ta vẫn thường nói "bắt bệnh, bốc thuốc", "đúng bệnh, đúng thuốc", cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát nhưng kết quả vẫn còn rất khiêm tốn. Nhưng câu chuyện đó lại được Bác Hồ chỉ ra từ 60 năm trước, nếu ngược thời gian là 79 năm ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, 77 năm từ Sửa đổi lối làm việc năm 1947. Điều đó tỏ rõ Bác có một trí tuệ, tầm nhìn đặc biệt, "tiên tri, tiên lượng", bắt đúng bệnh của cán bộ, đảng viên hôm nay từ hơn 60 - 70 năm trước.

Ngày 31/1, Bác dự Hội nghị Bộ Chính trị bàn về công tác lãnh đạo cuộc vận động "ba xây, ba chống". Phát biểu tại Hội nghị, Người nhắc lại ý kiến cuộc họp lần trước, đặt vấn đề: "Tại sao dưới động, trên không động, nhỏ động, to không động"; về những việc đã làm được, chỉ nên nói là kết quả bước đầu, không nên nói đạt nhiều thắng lợi"(7). Bài phát biểu của Bác thể hiện rõ tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng, nói thật, thẳng thắn, nghiêm túc, khiêm tốn, có trách nhiệm cao vì lợi ích của Đảng, của cách mạng của một người trên cương vị đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Đảng khiến chúng ta phải tiếp tục suy nghĩ, nghiền ngẫm nghiêm túc để hiểu thấu và làm đúng trong thực tế hiện nay. Cần nói thêm rằng, trong các báo cáo, bài nói, bài viết, Người rất thận trọng trong dùng từ khi nói về thành tựu, thắng lợi, thành công, thể hiện sự khiêm tốn, không tự mãn, chủ quan. Chuyện kể rằng, có lần một nhà báo nước ngoài sang Việt Nam lấy tin để viết bài về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Khi được tiếp chuyện Bác Hồ, nhà báo nói sẽ viết "Việt Nam là tấm gương sáng cho thế giới noi theo". Bác nói, đồng chí chỉ nên viết "Những bài học kinh nghiệm của Việt Nam".

Một trong những dấu ấn đậm nét nhất trong những ngày Xuân về Tết đến năm Giáp Thìn 1964 đó là bài viết Mừng Đảng ta 34 tuổi của Bác, ký bút danh T.L., đăng báo Nhân Dân, số 3598, ngày 3/2/1964. Bài báo mở đầu bằng câu thơ:

"Công đức Đảng ta như biển rộng núi cao,

Băm tư năm ấy biết bao nhiêu tình!"

Bài báo khẳng định "nhờ chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường và nhờ Đảng ta đoàn kết, đã lãnh đạo nhân dân ta vượt mọi gian khổ, khó khăn, tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Để hoàn thành nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà và góp phần vào cách mạng thế giới, Đảng ta đã đoàn kết phải càng thêm đoàn kết, đã mạnh mẽ phải càng mạnh mẽ thêm. Đảng mạnh là do mỗi chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do mỗi một đảng viên ra sức làm tròn nhiệm vụ ghi trong Điều lệ của Đảng. Bài báo tóm tắt 10 nhiệm vụ của đảng viên ghi trong Điều lệ của Đảng do Đại hội III định ra và yêu cầu mỗi chi bộ và từng đảng viên lấy đó mà giáo dục đảng viên, tự kiểm điểm để xứng đáng là một chi bộ tốt, một đảng viên tốt của Đảng ta - một Đảng cách mạng vĩ đại"(8).

Viết về Đảng vào mùa Xuân là một nét văn hóa Hồ Chí Minh. Đảng ta ra đời vào mùa Xuân, nên cứ mỗi độ Tết đến Xuân về, bằng hình thức này hay hình thức thức khác, Bác thường viết, nói về Đảng ta vĩ đại, một Đảng mang nhựa sống của mùa Xuân tràn đầy nghị lực, sức sống và sự vươn lên. Nhớ lại hồi Đảng ta tròn 30 tuổi, Bác có Bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập và bài viết Ba mươi năm hoạt động của Đảng cho tạp chí Những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội. Trong bài nói, bài viết, nhiều lần Bác khẳng định Đảng ta vĩ đại thật, mà một trong những minh chứng cụ thể, hùng hồn là ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của Tổ quốc, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Người khẳng định: "Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao/Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình/Đảng ta là đạo đức, là văn minh/Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no/Công ơn Đảng thật là to/Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một kho lịch sử bằng vàng".

Viết về Đảng, Bác không chỉ ca ngợi sự vĩ đại, đánh giá cao vai trò của Đảng mà Người còn nói tới sứ mệnh nặng nề nhưng vinh quang của Đảng đối với dân tộc và Tổ quốc, đó là làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; nhắc nhở sự đoàn kết trong Đảng, xây dựng chi bộ vững mạnh và sự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên.

Như bao mùa Xuân ngày Tết, năm nào ngày cuối cùng của năm cũ và ngày đầu năm mới âm lịch, Bác cũng đi thăm chúc Tết cán bộ, chiến sĩ, công nhân, nông dân, trí thức và nhiều tầng lớp nhân dân khác. Người cũng không quên làm công tác ngoại giao đầu năm mới theo phong tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ngày 30 Tết Giáp Thìn (ngày 12/2/1964), Bác tiếp đoàn đại biểu Thanh niên tự do Cộng hòa Dân chủ Đức sang thăm Việt Nam. Cùng ngày, Người thăm và chúc Tết cán bộ, công nhân tại khu tập thể các nhà máy cao su, xà phòng, thuốc lá, khu tập thể cán bộ miền Nam tập kết ở phố Phan Đình Phùng và một số gia đình ở Hà Nội. Tối cùng ngày, Bác thăm tòa soạn báo Tân Việt Hoa; thăm và chúc Tết các chuyên gia Trung Quốc.

Mùng 1 Tết Giáp Thìn (ngày 13/2/1964), Bác thăm và chúc Tết cơ quan Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện Đông Anh, Hà Nội; thăm và chúc Tết cán bộ, công nhân trạm biến thế điện và Hợp tác xã nông nghiệp Lỗ Khê, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, một hợp tác xã có nhiều thành tích trong phong trào sản xuất và tiết kiệm. Người khen câu khẩu hiệu bằng thơ kẻ trên đình làng:

"Đón Xuân mở hội làm giàu

Mừng Xuân cần kiệm, lúa màu tốt tươi"(9).

Người thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Đại đội 130 thuộc Trung đoàn phòng không 260 bảo vệ Thủ đô; thăm và chúc Tết cán bộ, chiến sĩ Sở Công an Hà Nội.

Trong suốt mùa Xuân Giáp Thìn 1964, Bác còn có nhiều hoạt động đối nội, đối ngoại rất có ý nghĩa, trong đó một sự kiện nổi bật là Người chủ trì Hội nghị chính trị đặc biệt họp tại Hà Nội trong hai ngày 27 và 28/3/1964. Tính chất "đặc biệt" của Hội nghị thể hiện trước hết ở thành phần tham dự, bao gồm các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hơn 300 đại biểu gồm những cán bộ lão thành, những nhà hoạt động chính trị, những người tiêu biểu cho các giới, các ngành, những anh hùng và chiến sĩ thi đua, những nhà trí thức tiến bộ, những nhân sĩ yêu nước, v.v.. Hội nghị là sự kiện lớn ghi dấu mốc 10 năm đấu tranh và xây dựng từ ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, xem lại những sự kiện đã qua và bàn bạc những vấn đề sắp tới. Bác nhấn mạnh: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới"(10).

Hội nghị diễn ra hai ngày có thảo luận với 40 cụ và đồng chí đã phát biểu ý kiến "mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười"(11) cũng là một điều đặc biệt. Nội dung báo cáo của Bác có thể tóm tắt trên mấy phương diện chủ yếu:

Thứ nhất, về thắng lợi và nguyên nhân. Báo cáo nêu lên những thành tích to lớn của nhân dân miền Bắc trên tất cả các lĩnh vực với sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, của những người lao động làm chủ tập thể "ta vì mọi người, mọi người vì ta". Điều đó tỏ rõ chế độ xã hội chủ nghĩa là rất tốt đẹp và đang cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân miền Nam. Chúng ta tự hào với miền Nam anh hùng của dân tộc ta, 10 năm đấu tranh oanh liệt, 10 năm thắng lợi vẻ vang. Tình hình miền Nam chứng tỏ một cách rõ rệt sự thất bại không thể tránh khỏi của đế quốc Mỹ trong cuộc "Chiến tranh đặc biệt". Cuộc "Chiến tranh đặc biệt" mà Mỹ thí nghiệm ở miền Nam thất bại, thì cũng sẽ thất bại ở bất kỳ nơi nào khác. Đó là ý nghĩa quốc tế của cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam ta đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Có ba nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi. Một là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chính phủ; hai là do sức phấn đấu dũng cảm, tinh thần đoàn kết một lòng của đồng bào ta; ba là do sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước anh em.

Thứ hai, khó khăn, khuyết điểm và những việc phải làm. Báo cáo chỉ rõ những khó khăn lớn trên bước đường phát triển của cách mạng và những khuyết điểm, nhược điểm cần phải khắc phục như trình độ quản lý kinh tế còn kém, tinh thần trách nhiệm chưa thật cao, chất lượng sản phẩm chưa thật tốt, tệ quan liêu, tham ô, lãng phí còn nhiều, v.v..

Toàn Đảng, toàn dân phải phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình mạnh mẽ, đồng tâm hiệp lực, hăng hái tiến lên, thì chúng ta nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn và nhất định sẽ giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa. Mỗi người phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt.

Báo cáo chỉ ra trước mắt chúng ta có 5 việc phải làm. Một là, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết cần đoàn kết hơn nữa; Hai là, phải làm tốt cuộc vận động "Cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp"; cuộc vận động "ba xây, ba chống"; Ba là, phải tăng cường không ngừng chính quyền nhân dân; Bốn là, phải hết lòng ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam; Năm là, phải nêu cao tinh thần quốc tế vô sản.

Cuối bản báo cáo, Bác nhấn mạnh cách mạng là một sự nghiệp lâu dài và gian khổ song nhất định thắng lợi. Muốn vậy, cán bộ, đảng viên, đoàn viên cần phải xung phong gương mẫu trong sản xuất và công tác, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính. Cần phát huy truyền thống của dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, luôn luôn sẵn sàng hy sinh phấn đấu vì quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân và sự nghiệp cách mạng toàn thế giới.

Hội nghị chính trị đặc biệt Xuân Giáp Thìn 1964 là đại biểu cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân, cho thấy ý nghĩa một "Hội nghị Diên Hồng" trong thời đại Hồ Chí Minh, điểm hội tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

11 năm sau Báo cáo chính trị đặc biệt, chúng ta đã "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. 60 năm trôi qua từ mùa Xuân Giáp Thìn năm 1964, với gần 40 năm đổi mới, đất nước đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một "dáng đứng Việt Nam" hiên ngang mà lõi cốt là trí tuệ, bản lĩnh, phẩm giá Việt Nam được vẽ lên với một cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế hết sức to lớn trong bức tranh toàn cầu không mấy sáng. Đó chính là ý nghĩa quốc tế của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam, công cuộc đổi mới "Made in Việt Nam" đối với nhân loại tiến bộ trên thế giới đang đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác, tiến bộ và phát triển./.

-------------

(1) (2) (8) (10) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.14, tr.224, 230, 242-243, 275, 287.

(3) Cuộc vận động này bắt đầu từ ngày 26/4/1962 với Nghị quyết của Bộ Chính trị: "Cuộc vận động nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu", gọi tắt là cuộc vận động "ba xây, ba chống".

(4) (5) (6) (7) (9) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, t.9, tr.5, 8, 5, 13, 19.

PGS. TS. Bùi Đình Phong