Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2024

Đóng góp đặc biệt quan trọng trên mặt trận phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của báo chí, truyền thông .

 Thực tiễn trong công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng khẳng định các cơ quan báo chí, truyền thông trong hệ thống chính trị với sứ mệnh, nhiệm vụ chức năng có vai trò, sự đóng góp đặc biệt quan trọng trên mặt trận phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Hệ thống báo chí của chúng ta luôn khẳng định vai trò vị thế, vai trò chủ công, trọng yếu, nòng cốt tuyên truyền đúng định hướng, kịp thời, sâu sắc những chủ trương, đường lối, nghị quyết, kết quả, thành tựu đã đạt được của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị của Đảng, trong đó có công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trên mặt trận phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hệ thống báo chí đã tập trung vào các chủ đề lớn: Tuyên truyền kịp thời, nhạy bén, sâu sắc đúng định hướng về chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; các kết luận của Trung ương Đảng; Ban Chỉ đạo Trung ương, của đồng chí Tổng Bí thư về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đến cán bộ, đảng viên và nhân dân; Kịp thời, sâu sát, phản ánh việc thể chế hóa và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về quản lý kinh tế-xã hội, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở các bộ, ngành, địa phương; Về thực tiễn, vấn đề đặt ra trong quá trình phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng các cấp; Phản ánh kịp thời tình hình xử lý, công tác kiểm tra giám sát thuộc lĩnh vực công tác này từ Trung ương tới địa phương; Phản ánh ý kiến, kiến nghị vụ việc tại các địa phương; Nêu các bài học lớn từ việc vi phạm và xử lý vi phạm mang tính tổng kết và định hướng sâu sắc; Đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc đối với công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và nhân dân ta…

Đặc biệt, với sự ra mắt của tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, gắn liền với các diễn đàn, hội thảo, tuyên truyền từ Trung ương đến địa phương đã tạo đợt sinh hoạt chính trị về chủ đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, từ đó tăng cường quảng bá tính lý luận và thực tiễn về lĩnh vực công tác này trong đời sống xã hội.

Các nhiệm vụ,”mũi, hướng” tuyên truyền trên từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, linh hoạt và hiệu quả hơn trước; bám sát chỉ đạo của trên và tình hình thực tiễn; tuyên truyền, lan tỏa chủ trương, đường lối, nền tảng tư tưởng của Đảng trên mặt trận này; chỉ đạo tăng cường phổ biến chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tập trung phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực… Qua đó, vai trò của của báo chí, truyền thông và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng được phát huy.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn tiếp tục cần những bài viết sắc bén có sức thuyết phục và tính chiến đấu cao; phản ánh được những ý kiến cần đóng góp tâm huyết “hiến kế” về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ hay các ý kiến đóng góp với Đảng về giải pháp khắc phục một số mặt hạn chế, yếu kém ở một số tổ chức cơ sở Đảng và một bộ phận cán bộ, đảng viên… Sự sắc bén và tính hiệu quả trong đấu tranh với những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, thù địch trên mặt trận này chưa đạt kết quả như mong muốn. Sự phát hiện cũng như tính phân tích, bình luận chung quanh những vụ án lớn trọng điểm; việc tổng kết thực tiễn ở lĩnh vực công tác này còn hạn chế; nội dung tuyên truyền còn dàn trải; hiệu quả tuyên truyền đôi lúc chưa bắt kịp yêu cầu thực tiễn.

Nguyên nhân cơ bản do, một số cơ quan báo chí, ấn phẩm chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; việc đầu tư tuyên truyền lĩnh vực này chưa ngang tầm; một số tờ báo, tạp chí trong tư duy đổi mới, chưa đồng bộ giữa đổi mới công nghệ và đổi mới đội ngũ, nâng cao chất lượng thông tin; nguồn nhân lực tuyên truyền còn “mỏng”; sự phối hợp giữa các cơ quan, ấn phẩm chưa tạo nên sức mạnh đồng bộ, tổng hợp cần thiết…

Mục tiêu và những thách thức trong chống tham nhũng, tiêu cực

 Mục tiêu và những thách thức trong chống tham nhũng, tiêu cực

Trên cơ sở nhận thức “Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”, Đại hội XIII của Đảng xác định “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực luôn nhấn mạnh “đây là nhiệm vụ rất quan trọng, nhưng cũng vô cùng khó khăn, phức tạp”.

Nhìn lại chặng đường 10 năm kể từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị (nay là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực), đến nay, nhất là sau 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đây là công tác được lãnh đạo, chỉ đạo đồng bộ, toàn diện, bài bản, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao. Đảng ta vừa tập trung lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; vừa quyết liệt chỉ đạo xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực, với nhiều cơ chế, giải pháp, cách làm bài bản, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Trên mặt trận đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chúng ta đạt nhiều kết quả rõ rệt, đột phá, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Khẳng định những mục tiêu, quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trong đó có sự tham gia của báo chí, truyền thông với vai trò ngọn cờ tư tưởng, binh chủng hợp thành, lực lượng tiên phong trên mặt trận nóng bỏng này.

Đồng thời, chúng ta cũng phải thẳng thắn thừa nhận, công tác này vẫn còn những hạn chế, bất cập. Đó là: Một số bộ, ban, ngành, địa phương chưa có quyết tâm cao, chưa có sự chuyển biến mạnh. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn còn hạn chế; tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát còn thấp. Tham nhũng trên một số lĩnh vực vẫn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, xảo trá, gây bức xúc trong xã hội… Tham nhũng, tiêu cực vẫn là một trong những “kẻ thù hung ác”, nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta.

Tình hình trên có nguyên nhân do một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc tính chất nghiêm trọng của tình hình tham nhũng ở địa phương, cơ quan, đơn vị, lĩnh vực mình quản lý. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Cơ chế kiểm soát quyền lực, công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm đúng mức; luật pháp, cơ chế, chính sách còn nhiều kẽ hở. Công tác tuyên truyền, giáo dục có mặt còn hạn chế, nhất là giáo dục liêm chính trong đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa ngang tầm nhiệm vụ. Quyền tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp chưa được bảo đảm đầy đủ…

Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta cũng có những bước phát triển mới về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với nhiều biện pháp, như hoàn thiện pháp luật, chính sách, kê khai tài sản, kiên trì, kiên quyết và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đảng ta xem đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là sự nghiệp của toàn dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đề ra chủ trương về phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, đài truyền hình và nhân dân tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Đấu tranh với những “khối u ác tính” trong chính cơ thể mình

 Đấu tranh với những “khối u ác tính” trong chính cơ thể mình

Thực tế, cuộc chiến chống tham nhũng mà Đảng ta đang thực hiện là một “cuộc chiến tự thân” để loại bỏ, đấu tranh với những “khối u ác tính” trong chính cơ thể mình. Với sứ mệnh là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng ta phải không ngừng tự chỉnh đốn, thanh lọc chính mình để giữ vững bản chất cách mạng.

Với Việt Nam, hơn ai hết, Đảng, Nhà nước ta nhận thức rõ tham nhũng là một nguy cơ đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Không chỉ làm thiệt hại tài sản quốc gia, làm biến dạng hoạt động công vụ và xói mòn các giá trị đạo đức, văn hóa, tham nhũng còn là một thứ “giặc nội xâm” làm mất đoàn kết nội bộ, làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã triển khai nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. Trong đó, việc kiểm soát quyền lực được chú trọng khi nhiều quy định đã được ban hành như: Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11-7-2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27-10-2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán; Quy định số 132-QĐ/TW ngày 27-10-2023 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Đi liền với đó, công tác xử lý cán bộ vi phạm cũng được thực hiện quyết liệt, bài bản, đúng quy định pháp luật. Với nỗ lực làm trong sạch nội bộ, hàng loạt quan chức “nhúng chàm” đã bị đưa ra xử lý. Điều này nhận được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận cũng như góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm sự thượng tôn pháp luật.

Chàng trai vùng cao mang “Bữa cơm cho em” về bản

 

Sinh ra và lớn lên trong sự thiếu thốn về cả vật chất và tinh thần, Phan Bảo Ngọc, sinh năm 2004, tại thôn Bục Bản, thị trấn Yên Minh, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, hiểu rõ sự vất vả, cơ cực của con người vùng cao. Chính vì thế, Ngọc quyết tâm mang dự án “Bữa cơm cho em” về bản để giúp các em nhỏ có thêm những bữa cơm có thịt.

Việt Nam đóng góp tích cực với công việc chung của LHQ trên tất cả lĩnh vực trụ cột

 Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres đã khẳng định: Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực, nổi bật đối với công việc chung của LHQ trên tất cả lĩnh vực trụ cột. Việt Nam luôn thể hiện lập trường nguyên tắc trên những vấn đề về bảo vệ hòa bình, phát triển bền vững, đề cao Hiến chương LHQ, luật pháp quốc tế, nhất là những nguyên tắc cơ bản nhất và Việt Nam cũng tích cực hợp tác cùng LHQ và các đối tác quốc tế ứng phó với vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng gay gắt… Tổng Thư ký LHQ cũng đánh giá cao những cam kết, sự ủng hộ của Việt Nam với chủ nghĩa đa phương và Hiến chương LHQ. Tổng Thư ký tin tưởng rằng, Việt Nam sẽ tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, lấy người dân làm trung tâm, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, trở thành mô hình thành công để các quốc gia khác học tập.

Vang mãi bài ca Điện Biên

 

Nhạc sĩ, ca sĩ Giáng Son chia sẻ, trước những bài hát đi cùng năm tháng đồng hành với từng giai đoạn lịch sử đất nước, chị rất ngưỡng mộ và mong có ngày mình sẽ viết nên ca khúc để đóng góp vào kho tàng âm nhạc cách mạng Việt Nam.

Không chỉ Điện Biên...

 

Những ngày này, cả nước đang hướng về Điện Biên với rất nhiều hoạt động tri ân thiết thực nhân dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành, địa phương và rất nhiều tổ chức, cá nhân dành cho Điện Biên khiến chính quyền và nhân dân sở tại rất phấn khởi, ấm lòng.

Thu hút lao động chất lượng cao

 

TP Hồ Chí Minh xác định 2024 là năm đột phá về thu hút, trọng dụng nhân tài phục vụ yêu cầu phát triển mới. Để thực hiện điều này, thành phố ban hành nhiều nghị quyết, chỉ đạo “chiêu hiền đãi sĩ”, đáp ứng nguồn nhân lực trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, giải quyết những vấn đề mới, thách thức trong vận dụng, triển khai Nghị quyết số 98/2023/QH15 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Hồ Chí Minh vào thực tiễn.

Nhà trọ công nhân an toàn, văn minh

 

Tháng 4-2022, UBND tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết định số 678/QĐ-UBND phê duyệt Đề án xây dựng “Nhà trọ công nhân an toàn, văn minh” giai đoạn 2022-2025.

Để lịch sử là mạch nguồn tâm trí

 

Khi đang là học viên cấp phân đội của Học viện Chính trị-Quân sự (nay là Trường Sĩ quan Chính trị), chúng tôi được Đại tá Hoàng Đăng Vinh, Anh hùng LLVT nhân dân, người chiến sĩ cùng đồng đội vào hầm chỉ huy bắt sống tướng De Castries trong Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954, kể về thời khắc lịch sử đó. Đại tá Hoàng Đăng Vinh có lối kể chuyện hóm hỉnh, ông lại là nhân chứng lịch sử nên câu chuyện có sức hút, khiến chúng tôi nhớ mãi.

Giọt nước nghĩa tình quân dân

 

Do nắng nóng, hạn hán kéo dài nên thôn Đức Hưng, xã biên giới Ia Nan, huyện Đức Cơ (Gia Lai) bị thiếu nước sinh hoạt trầm trọng, người dân phải mua nước sinh hoạt từ nhiều tháng nay.

Không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế

 Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Việt Nam là không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế. Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Quá trình phát triển kinh tế, chủ trương của Việt Nam là: “Ưu tiên những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường, sử dụng lao động có kỹ năng; đầu tư vào những ngành, lĩnh vực cần ưu tiên phát triển; có liên kết, chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu”. Bởi vậy, không bao giờ có chuyện chính quyền Việt Nam “đàn áp nhà hoạt động môi trường” như giọng điệu RFA và các hội, nhóm “dân chủ” đưa ra

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024

Thủ đoạn Xét lại lịch sử hay còn gọi là "nã đại bác vào quá khứ"

- Các thế lực thù địch đòi đánh giá lại nhà Nguyễn và xem xét lại các nhân vật trong lịch sử, đề cao thánh địa này, thánh địa kia.

- Phủ nhận lịch sử đấu tranh của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo, xuyên tạc láo xược một số khẩu hiệu cách mạng trong cuộc kháng chiến, kể cả Tuyên ngôn nổi tiếng của lãnh tụ.

- Bóp méo sự thật, đòi xét lại một số vấn đề lịch sử, đòi “lật án" vụ "cải cách ruộng đất", vụ "Nhân văn giai phẩm", vụ "đầu độc" bốn vị tướng, vụ T4... Còn vụ án "nhóm xét lại chống Đảng" thì chúng xuyên tạc: "đây là một điểm đen, một vết thương dai dẳng trong lịch sử và cơ thể chúng ta. Vụ án này chỉ là mưu đồ của một người nhiều quyền lực , nhiều tham vọng "…

- "Chứng minh" rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều sai lầm trong quá khứ và dù quá khứ có làm được một số việc thì bây giờ chuyển sang thời kỳ mới, Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để độc quyền lãnh đạo đất nước.

Tác động bằng cách xuyên tạc hoặc đưa ra những khẩu hiệu

Đây là thủ đoạn tính toán đến bối cảnh thực tế và thực trạng ý thức xã hội, để đưa ra những khẩu hiệu lừa gạt, mị dân, sao cho thật ngắn gọn, dễ hiểu, đập ngay vào mắt, tác động hàng ngày đến con người và nhận thức của họ, buộc họ ghi nhớ một cách máy móc. Thủ đoạn này có tác dụng chống lại sự suy xét của lý trí, tạo ra ý thức xã hội với những ấn tượng xấu theo như mong muốn của các thế lực thù địch. Ví dụ, các khẩu hiệu:

- "Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật" theo tinh thần Đại hội VI;

- Chống "giáo điều”...

Các thế lực thù địch đã sử dụng các khẩu hiệu nói trên nhằm mục đích đòi "xét lại" một số vấn đề lịch sử, cường điệu khuyết điểm, phủ nhận thành tựu cách mạng, vu cáo Đảng và Nhà nước ta bưng bít sự thật, bóp nghẹt dân chủ, vi phạm nhân quyền.

Trong vụ bạo loạn chính trị ngày 10-11/4 ở 3 tỉnh Tây Nguyên (Đăk Lăk, Gia Lai, Đăk Nông), các thế lực thù địch đã sử dụng những khẩu hiệu thể hiện rõ ý đồ chính trị phản động nhằm mua chuộc, lôi kéo những phần tử xấu người dân tộc như các khẩu hiệu:

- “Đuổi người Kinh về đồng bằng để trả đất lại cho người Tây Nguyên";

- "Thả ngay những phần tử phản động Đê ga bị bắt trước đây";

- "Đưa tất cả bộ đội, công an ra khỏi vùng có đồng bào dân tộc sinh sống";

- "Tự do theo Tin Lành Đê ga";

- Phải công nhận "Nhà nước Đê ga độc lập";

Thủ đoạn Đẩy lùi hiện tại vào trong quá khứ

 

Một phương thức khác là đẩy lùi những vấn đề hiện tại vào quá khứ để tìm kiếm, lý giải, củng cố cho quan điểm và lợi ích của ngày hôm nay:

Các thế lực thù địch "lập luận" rằng, những khó khăn hiện nay của chúng ta là do chúng ta "bảo thủ”, cố bám lấy chủ nghĩa Mác - Lênin "đã lỗi thời"; "Hầu hết các nước ngày nay đều bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ còn một vài nước "ngoan cố" như Trung Quốc, việt Nam còn tôn thờ"… Mục đích của chúng là bỏ qua gần 20 năm đổi mới, đưa cái nhìn trong ý thức xã hội trở lại thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội trước đổi mới.

Một số người trước đây đòi hỏi "giải trừ ý thức hệ" chấm dứt cuộc đấu tranh "hai phe" trên lĩnh vực tư tưởng thì nay lại đổi giọng, nói rằng, đất nước vẫn cần ý thức hệ nhưng phải là ý thức hệ "phù hợp với thời đại". Họ đòi chúng ta phải học tập Goócbachốp, "đổi mới triệt để, không nửa vời", nghĩa là phải thực hiện "tư nhân hoá hoàn toàn", "đa nguyên, đa đảng”. Như vậy, chúng cố tình "quên" rằng, chúng ta đang ở vào thế kỷ XXI chứ không phải trong những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX.

Phương thức chiếu những vấn đề hiện tại vào quá khứ để tìm kiếm, lý giải, củng cố cho quan điểm và lợi ích của ngày hôm nay có tác dụng làm tê liệt khả năng suy xét và đánh giá thực tế, làm mất cảm giác về thời gian, lẫn lộn trong khái niệm lịch sử và làm tê liệt khả năng nhận thức đúng đắn các sự kiện xảy ra trong hiện tại.

 

Việc giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người

Trong khoa học luật quốc tế có nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Các công trình đó tập trung vào việc tìm lời giải cho các vấn đề như: khách thể điều chỉnh của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia; những đặc trưng, môi trường không gian, chủ thể của chúng; các hình thức và phương pháp áp dụng các quy phạm pháp luật quốc tế trong pháp luật quốc gia.

Tìm hiểu khoa học luật quốc tế về mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, có thể thấy ngay rằng có hai học thuyết chủ yếu: thuyết nhất nguyên luận và thuyết nhị nguyên luận.

Thuyết nhất nguyên luận cho rằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai bộ phận pháp luật nằm trong một hệ thống thống nhất. Học thuyết này chia làm hai trường phái: phái ưu thế pháp luật quốc tế và phái ưu thế pháp luật quốc gia. Phái ưu thế pháp luật quốc gia đưa ra quan điểm về tính ưu thế pháp luật quốc gia so với pháp luật quốc tế với lập luận rằng pháp luật quốc tế chỉ là các bộ phận pháp luật đối ngoại của các quốc gia, vì thế, nó phải bị chi phối bởi pháp luật quốc gia. Quan điểm này phát triển mạnh ở châu Âu vào thời kỳ các cuộc đại chiến thứ I và thứ II, bởi vì nó phục vụ cho các thế lực gây chiến với mong muốn phân chia lại thế giới. Trường phái này ngày nay không còn tồn tại như một trường phái trong khoa học luật quốc tế song dấu vết của nó ở đâu đó trên thế giới vẫn còn. Đó là chính sách của một số thế lực khi tuyên bố một vùng trên thế giới là khu vực mà mình có lợi ích sống còn, hay tự giải quyết các vấn đề của thế giới thay cho Liên hợp quốc, vi phạm thô bạo các nguyên tắc nền tảng của pháp luật quốc tế.

Phái ưu thế pháp luật quốc tế cho rằng, pháp luật quốc tế là bộ phận pháp luật tối cao của các quốc gia trong mối quan hệ với các bộ phận pháp luật quốc gia khác.

Trong thế giới ngày nay, quan điểm ưu thế pháp luật quốc tế so với pháp luật quốc gia được thừa nhận rộng rãi trong khoa học luật quốc tế, đặc biệt là cuối thế kỷ XX. Điều này xuất phát từ thực tiễn điều chỉnh của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là: các quốc gia phải tuân thủ các cam kết quốc tế một cách tận tâm, có thiện chí và đầy đủ; các quốc gia không được viện dẫn vào pháp luật quốc gia để vi phạm các cam kết quốc tế được coi là hợp pháp từ góc độ pháp luật quốc tế (Điều 27 Công ước Viên về luật điều ước quốc tế năm 1969). Song điều này không có nghĩa là các nhà luật quốc tế hiện nay ủng hộ quan điểm của học thuyết nhất nguyên luận, mà ngược lại họ đều cho rằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập. Như vậy, trong vấn đề phải trả lời câu hỏi pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hay là một, thì nhìn chung các nhà luật quốc tế hiện nay có chung quan điểm với những người theo học thuyết nhị nguyên luận. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà cho rằng họ là các nhà nhị nguyên luận như thời buổi ban đầu của học thuyết này, bởi vì, khi giải quyết các vấn đề khác của mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, họ có những quan điểm hoàn toàn khác.

Những người theo học thuyết nhị nguyên luận cho rằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập ít có quan hệ với nhau, vì những nhà nhị nguyên luận đôi khi cũng nói về mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, tuy nhiên, họ chưa đi tìm lời giải đáp rõ ràng cho mối quan hệ ấy. Trong khi đó, các nhà pháp luật quốc tế hiện hành không chỉ khẳng định rằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập, mà còn làm sáng tỏ các vấn đề như: sự tác động qua lại giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế, sự chuyển hoá, nội luật hoá, viện dẫn pháp luật quốc tế vào pháp luật quốc gia.

Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ những vấn đề mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ những vấn đề mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhất là trong bối cảnh thế giới và khu vực hiện nay, làm cho tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực trong thực tiễn, khắc phục các tiêu cực trong xã hội (phân hóa giàu, nghèo; công bằng xã hội; đời sống một bộ phận lực lượng nòng cốt gặp nhiều khó khăn…), củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh

 Tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Hoàn thiện cơ chế kết hợp trong đó coi trọng vai trò của Quân đội, Công an trong thẩm định, xét duyệt các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án,… kinh tế. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm về kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.

Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa,

 Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thêm bạn bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược nhất là với các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng, các nước trong khu vực. Giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc.

Nghiên cứu điều chỉnh thế bố trí chiến lược, lực lượng Quân đội

 Nghiên cứu điều chỉnh thế bố trí chiến lược, lực lượng Quân đội, phù hợp phương hướng xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Coi trọng bố trí lực lượng bảo vệ theo địa bàn, tác chiến theo khu vực, có lực lượng tại chỗ đủ sức chiến đấu bảo vệ địa bàn và lực lượng cơ động chiến lược mạnh ở các trọng điểm. Đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa Quân đội, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho Quân đội luôn sẵn sàng chiến đấu cao, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa”; tích cực đấu tranh phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí. Kiên quyết ngăn chặn tiêu cực trong công tác cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Tăng cường xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, nhất là lựa chọn, bồi dưỡng người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cấp xã, phường, thị trấn, tập trung ở các địa bàn trọng điểm.

Một số vấn đề còn hạn chế.

 Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết, bên cạnh kết quả đạt được, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Hệ thống chính trị cơ sở tuy đã được chăm lo xây dựng, nhưng vẫn là khâu yếu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn chiến lược, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và có đông đồng bào tôn giáo. Lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa tuy được củng cố, nhưng chưa thực sự vững chắc, nhiều vấn đề của chủ nghĩa xã hội cần tiếp tục được làm sáng tỏ. Kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh tuy được thực hiện, nhưng hiệu quả chưa cao trong thực tế, còn biểu hiện coi trọng lợi ích kinh tế, coi nhẹ lợi ích quốc phòng, an ninh, thậm chí bất chấp lợi ích quốc phòng, an ninh. Đầu tư xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiều thành phần của thế trận quân sự khu vực phòng thủ chưa được quan tâm xây dựng. Sức mạnh quốc phòng, sức mạnh quân sự có mặt còn hạn chế, nhất là khả năng tác chiến ở vùng biển, đảo xa bờ, tác chiến sử dụng vũ khí công nghệ cao, chưa tạo được sức mạnh răn đe mạnh từ thời bình. Hoạt động đối ngoại liên quan đến vấn đề biên giới, biển đảo còn có những khó khăn nhất định, 16% đường biên giới Việt Nam - Campuchia chưa được phân giới cắm mốc, các nguy cơ có thể gây mất ổn định vẫn tồn tại, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ vẫn đứng trước các thách thức không thể xem thường, v.v.

Về xây dựng thế trận đối ngoại.

  Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) khẳng định: “Triển khai đồng bộ, toàn diện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã mở rộng hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực, nhất là hợp tác quốc tế về kinh tế, kết hợp xây dựng thế trận quốc phòng bên ngoài lãnh thổ trên tinh thần giữ vững độc lập, tự chủ, không bị lệ thuộc, đối đầu, cô lập. Coi trọng tăng cường mối quan hệ với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, bạn bè truyền thống. Tăng cường các hoạt động giao lưu biên giới với các nước láng giềng, các hoạt động bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tạo vị thế và uy tín ngày càng cao của đất nước đối với cộng đồng quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Về xây dựng thế trận quân sự.

 Đã cơ bản hoàn thành việc triển khai, bố trí lực lượng Quân đội trên các hướng chiến lược, địa bàn chiến lược, nhất là kết hợp bố trí lực lượng cơ động chiến lược và lực lượng tại chỗ. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) viết: “Tiếp tục điều chỉnh thế bố trí chiến lược lực lượng Quân đội đáp ứng yêu cầu phòng thủ đất nước”. Xây dựng thế trận phòng thủ quân khu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn từng quân khu, coi trọng các kế hoạch, công trình, bố trí lực lượng chú trọng hướng biển, biên giới và dự kiến nhiều phương án để sẵn sàng xử trí thắng lợi mọi tình huống. Đầu tư xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố đạt được những kết quả nhất định, nâng cao khả năng tự xử trí các tình huống quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Xây dựng và phát triển toàn diện cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, coi trọng xây dựng các thành phần thế trận quân sự trong khu vực phòng thủ, khu vực phòng thủ then chốt, căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần kỹ thuật, khu sơ tán, sở chỉ huy các cấp, các điểm tựa, cụm điểm tựa, khu vực bố trí các lực lượng. Tăng cường tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ bảo đảm sát với các tình huống quốc phòng, an ninh ở địa phương. Xây dựng các công trình quân sự, quốc phòng gắn với thế trận phòng thủ quân khu và tổ chức thiết bị chiến trường trên bộ, trên biển, đảo, xây dựng các công trình ngầm, đường hầm, chốt chiến dịch, chiến lược, sân bay, bến cảng, kho tàng, v.v. Coi trọng xây dựng công trình phòng thủ biên giới, biển, đảo xa bờ, các công trình phòng thủ lớn, đường băng dã chiến, sân bay trên các đảo lớn theo Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI): “Ưu tiên xây dựng các công trình phòng thủ biển, đảo, thềm lục địa, phòng thủ biên giới, đường tuần tra và đê, kè sông, suối biên giới, địa bàn chiến lược”.

Về xây dựng thế trận kinh tế.

 Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nêu rõ: “Phát triển kinh tế kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giải quyết tốt các vấn đề xã hội”. Kinh tế là nền tảng vật chất của quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Những năm qua, Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã nỗ lực phấn đấu xây dựng, phát triển kinh tế và thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, bảo đảm cơ sở vật chất ngày càng tốt hơn cho quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo đảm hiện đại hóa Quân đội. Việc thực hiện chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước về kết hợp phát triển kinh tế gắn với tổ chức, triển khai, bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng, an ninh được tiến hành thường xuyên và thu được những kết quả nhất định. Triển khai kết hợp phát triển kinh tế gắn với tổ chức, bố trí lực lượng, tiềm lực quốc phòng, an ninh trong từng địa phương, vùng miền, địa bàn chiến lược, phân công lại lao động, bố trí lại dân cư, bảo đảm các địa bàn khó khăn đều có lực lượng quốc phòng. Xây dựng các cơ sở kinh tế, gắn với xây dựng các thành phần thế trận quốc phòng, an ninh, căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần, kỹ thuật, v.v. Xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, dọc biên giới đất liền, địa bàn rừng núi, vùng biển, đảo trọng điểm gắn với ổn định các cụm dân cư, xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo bền vững. Xây dựng các cơ sở công nghiệp quốc gia gắn với phát triển công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị ngày càng tốt hơn vũ khí, trang bị hiện đại cho Quân đội. Phát triển các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế kết hợp với tổ chức, bố trí lực lượng và tiềm lực quốc phòng, trong công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nông, lâm, ngư nghiệp, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, y tế; gắn với bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, cơ động lực lượng, thông tin liên lạc, các công trình quân sự, quốc phòng, an ninh và lực lượng dân quân tự vệ.

Về xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc.

        Đây là nội dung có ý nghĩa quyết định, vấn đề nội bộ, nguyên nhân bên trong là quyết định. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nêu rõ: “Nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Với chủ trương đó, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, tăng cường đoàn kết trong Đảng, đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Tích cực phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Xây dựng các đoàn thể chính trị - xã hội có chất lượng tốt, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. Coi trọng xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, đây là khâu yếu của xây dựng hệ thống chính trị hiện nay, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, địa bàn chiến lược, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Theo đó, cấp ủy các cấp đã có nhiều biện pháp trong lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cấp ủy, người đứng đầu cấp xã, phường, thị trấn và cán bộ thôn, bản, buôn, làng, đủ sức cụ thể hóa và đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống. Nâng cao năng lực lãnh đạo công tác quốc phòng, quân sự, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân ở địa phương, cơ sở, nhất là ở các địa bàn trọng yếu về quốc phòng, an ninh. Trong 05 năm (2012 - 2017), riêng Quân đội đã tham gia xây dựng cơ sở chính trị vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở 3.656 xã, phường, thị trấn; 11.598 tổ chức chính trị - xã hội; xóa 449 thôn, bản “trắng” đảng viên; củng cố 3.164 chi bộ; có 1.848 cán bộ1 Quân đội tăng cường xây dựng cơ sở.

Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là nội dung cơ bản, nền tảng của thế trận quốc phòng toàn dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) chỉ rõ: “coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, thế trận lòng dân”. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố lòng tin sự đồng thuận của nhân dân, ban hành nhiều chủ trương, chính sách hợp lòng dân, có cơ chế hợp lý để nhân dân phát huy trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân với đất nước. Khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chỉ tính trong 10 năm (2008 - 2018), cả nước đã bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho trên 05 triệu lượt cán bộ các đối tượng; hơn 41 triệu học sinh, sinh viên; 422.928 chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tôn giáo2, góp phần nâng cao đáng kể nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Phê phán quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí công nghệ cao, nghi ngờ đường lối quốc phòng toàn dân của Đảng

          Gần đây, trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, một số người đã nêu quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí công nghệ cao trong chiến tranh và đồng thời coi nhẹ vai trò của con người.

Thậm chí, có ý kiến còn cho rằng, chỉ có các lực lượng trang bị vũ khí công nghệ cao mới có thể chiến thắng trong chiến tranh hiện đại, dẫn tới sự phủ nhận các giá trị của quốc phòng và an ninh truyền thống, bao gồm cả nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Sự thật là, việc sử dụng vũ khí công nghệ cao để chống lại kẻ thù là điều cần thiết, nhưng bất kể công nghệ vũ khí tiên tiến đến đâu thì yếu tố con người vẫn là chìa khóa quyết định.

Hơn nữa, không phải lúc nào các quốc gia cũng có thể sở hữu vũ khí tương đương nhau; nhiều quốc gia vẫn phải chiến đấu với trang bị kém hơn, thậm chí là rất kém để đối mặt với đối thủ có trang bị công nghệ cao. Do đó, cần thiết phải xây dựng đường lối quốc phòng và an ninh phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia.

Đối với Việt Nam, có thể khẳng định rằng, hiện tại và trong tương lai, nếu tình huống buộc phải tiến hành chiến tranh để bảo vệ Tổ quốc, chúng ta vẫn sẽ phải chiến đấu với vũ khí và trang bị có trình độ thấp hơn đối thủ rất nhiều. Vì vậy, việc xây dựng đường lối quốc phòng và an ninh một cách hợp lý ngay từ thời bình là cần thiết để có thể khai thác triệt để những điểm yếu và giới hạn những điểm mạnh của kẻ địch sử dụng vũ khí công nghệ cao.

Chúng ta cần kế thừa và phát huy các giá trị của quốc phòng và an ninh truyền thống, tận dụng những điểm mạnh và khắc phục những hạn chế để chiến thắng kẻ địch trang bị công nghệ cao. Chỉ có đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, lấy đó làm cơ sở để tiến hành chiến tranh nhân dân thắng lợi trong điều kiện chiến tranh sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao mới là phương hướng phù hợp. Đây cần là một nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được đổi mới và phát triển phù hợp với các điều kiện tác chiến mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Do đó, nếu có ý kiến cho rằng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong điều kiện tác chiến hiện đại là sai lầm, thì thực sự những người nêu ra quan điểm này mới là những người mắc sai lầm. Bởi lẽ, việc xây dựng một nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh vẫn là đường lối quân sự phù hợp nhất với Việt Nam hiện nay.

Vũ khí công nghệ cao được nghiên cứu, thiết kế và chế tạo dựa trên những tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Những loại vũ khí này, bao gồm vũ khí hủy diệt lớn, vũ khí năng lượng định hướng, vũ khí chùm tia, laze, chùm hạt, điện từ và vũ khí mềm, đều có nguồn gốc từ vũ khí thông thường nhưng đã được tích hợp các thành tựu mới nhất trong các lĩnh vực như vi điện tử, vi xử lý, tin học, vật liệu mới, laze, hồng ngoại, năng lượng mới, sinh học và tự động hóa.

Các vũ khí này nổi bật với độ chính xác cao, uy lực lớn, khả năng hoạt động ở tầm xa và có thể thích nghi với các điều kiện phức tạp, đạt hiệu quả cao gấp nhiều lần so với vũ khí thông thường. Đặc biệt, một số loại vũ khí công nghệ cao còn được gọi là vũ khí thông minh, có khả năng nhận biết địa hình, ghi nhớ tọa độ và tự động tìm kiếm, lựa chọn và tiêu diệt mục tiêu. Xuất hiện từ Chiến tranh thế giới thứ hai và phát triển mạnh trong những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, các loại vũ khí này đã được sử dụng trong nhiều cuộc chiến tranh như ở Việt Nam, vùng Vịnh, Nam Tư và Afghanistan. Giới chuyên gia quân sự đánh giá vũ khí công nghệ cao sẽ là loại vũ khí chủ yếu trong các cuộc chiến tương lai.

Sự ra đời và phát triển của vũ khí công nghệ cao đã đánh dấu một bước nhảy vọt trong tiến bộ của ngành vũ khí, làm thay đổi căn bản nhiều quan điểm về chiến tranh, tác động sâu rộng đến nghệ thuật quân sự và bản chất của chiến tranh hiện đại. Sự xuất hiện của vũ khí này đã dẫn đến nhiều vấn đề lý luận mới trong chiến tranh như chiến lược tác chiến chiều sâu, chiến tranh bằng tiến công hỏa lực, chiến tranh phi trực tiếp tiếp xúc và phi đối xứng, làm mờ đi ranh giới giữa tiền tuyến và hậu phương, và không gian chiến tranh không còn nơi nào là hoàn toàn an toàn.

Tuy nhiên, vũ khí công nghệ cao không phải không có điểm yếu. Chúng vẫn hoạt động theo quy luật nhất định, chịu ảnh hưởng bởi địa hình và thời tiết và một số loại còn có tốc độ bay thấp.

Với các giải pháp hợp lý, kể cả những giải pháp thô sơ, truyền thống, vẫn có thể hạn chế hiệu quả của chúng. Trên chiến trường rộng lớn, không thể dùng vũ khí công nghệ cao để tấn công mọi mục tiêu, mọi địa điểm. Đối với Việt Nam, việc chỉ phá hoại một số điểm trọng yếu chưa đủ để đánh mất đất nước, và nếu kẻ địch chỉ sử dụng vũ khí công nghệ cao thì chưa đủ sức khuất phục Việt Nam. Nếu kẻ địch tiến công trên bộ, đó lại là cơ hội để chúng ta tiêu diệt họ. Để làm được điều này, không có con đường nào khác ngoài việc tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam, dựa trên nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được xây dựng vững chắc từ thời bình.

Để giải quyết các vấn đề hiện tại liên quan đến nhận thức về vũ khí công nghệ cao và xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, có một số biện pháp cần được thực hiện một cách hệ thống và quyết liệt. Đầu tiên, việc tuyên truyền và giải thích rõ về vũ khí công nghệ cao cùng với cách phòng chống chúng cho lực lượng vũ trang và nhân dân là hết sức cần thiết. Các chương trình đào tạo, hội thảo nên được tổ chức thường xuyên để trang bị kiến thức cập nhật và chính xác, giúp mọi người hiểu rõ hơn về những mối đe dọa và cách đối phó hiệu quả. Ngoài ra, cần sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để truyền đạt các thông điệp này một cách rộng rãi, đồng bộ và thuyết phục.

Tiếp theo, việc giáo dục nhận thức đúng về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là không kém phần quan trọng. Cần phổ biến rộng rãi về các thành tựu và hiệu quả của nền quốc phòng toàn dân trong việc hạn chế hiệu quả của vũ khí công nghệ cao. Bằng cách xây dựng niềm tin vào khả năng này, chúng ta có thể củng cố ý chí và quyết tâm chiến đấu của lực lượng vũ trang cũng như toàn thể nhân dân. Việc tích hợp các chương trình giáo dục quốc phòng vào hệ thống giáo dục quốc gia cũng sẽ góp phần nâng cao nhận thức từ sớm cho các thế hệ tương lai.

Cuối cùng, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển các lý luận mới về quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trong bối cảnh hiện nay là điều cấp bách. Cần khuyến khích và hỗ trợ các nhà nghiên cứu phát triển các giải pháp mới để đối phó với vũ khí công nghệ cao, đồng thời nghiên cứu các phương pháp tác chiến mới phù hợp với điều kiện chiến đấu hiện đại. Việc đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu khoa học quân sự không chỉ giúp phát triển các biện pháp phòng thủ hiệu quả mà còn góp phần vào việc hiện đại hóa nền quốc phòng, bảo đảm sự tồn tại và thắng lợi trong mọi tình huống chiến đấu có thể xảy ra. Đầu tư, cải tiến, hiện đại hóa, sản xuất và mua sẵn một số vũ khí hiện đại, nhất là vũ khí chiến lược có tầm bắn xa, uy lực lớn, có khả năng răn đe có hiệu quả ngay từ thời bình, phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Trong bối cảnh hiện nay, đầu tư vào việc cải tiến, hiện đại hóa, sản xuất và mua sẵn các loại vũ khí hiện đại, đặc biệt là vũ khí chiến lược có tầm bắn xa và uy lực lớn, là hết sức cần thiết. Đây là bước đi quan trọng không chỉ để tăng cường khả năng răn đe hiệu quả trong thời bình mà còn phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Việc này không chỉ là sự cần thiết mà còn thể hiện sự linh hoạt trong chính sách quốc phòng, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới mà không bị bảo thủ hay lạc hậu.

Tuy nhiên, sự thật về đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và chiến tranh nhân dân vẫn chưa hề lạc hậu. Đây vẫn là đường lối duy nhất đúng cho tình hình, điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, kể cả khi xảy ra chiến tranh sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao. Nếu từ bỏ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, chúng ta sẽ buộc phải phụ thuộc nhiều hơn vào vũ khí công nghệ cao, điều này trái với truyền thống, không phát huy được sức mạnh tổng hợp, đặc biệt là sức mạnh đoàn kết toàn dân.

Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, Việt Nam không thể trang bị hệ thống vũ khí công nghệ cao như của các cường quốc khác, đặc biệt là trong bối cảnh có thể phải tiến hành chiến tranh. Vì vậy, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, khẳng định rằng chúng ta cần có cách nhìn nhận, đánh giá đúng đắn để bác bỏ quan điểm cho rằng đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trong điều kiện tác chiến bằng vũ khí công nghệ cao là sai lầm. Chính sách này không chỉ phản ánh khả năng tự lực và khôn khéo trong chiến lược quốc phòng mà còn là biểu hiện của ý chí và quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia.

Sưu tầm

Vì sao phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở nước ta

         Nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, với sức mạnh tổng hợp cao và khả năng đề kháng mạnh mẽ, được xem là phương án hiệu quả nhất để ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh, kể cả trong bối cảnh chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao. Chiến tranh, dù là sử dụng vũ khí thông thường hay công nghệ cao, đều gây ra thiệt hại nặng nề về kinh tế, chính trị và nhân mạng, ảnh hưởng đến ổn định và hòa bình thế giới. Do đó, mục tiêu ưu tiên là duy trì ổn định và hòa bình cho đất nước mà không cần tiến hành chiến tranh, hay nói cách khác là "đánh thắng chiến tranh ngay khi nó chưa xảy ra". Theo Tôn Tử, hành động không đánh mà làm cho kẻ địch khuất phục là cách sáng suốt nhất.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, tư tưởng cơ bản, bao trùm nhất của tổ tiên ta là "Giữ nước từ khi nước chưa nguy". Trong thời đại Hồ Chí Minh, qua gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã phát triển tư duy từ quân sự sang quốc phòng, từ chiến tranh sang giữ nước mà không cần chiến tranh, và đã chỉ rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa.

Để hiện thực hóa tư tưởng và quan điểm này, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc, phát triển cao trong các điều kiện mới. Đây là nền quốc phòng của dân, do dân và vì dân, mang tính chất hòa bình, tự vệ, được xây dựng toàn diện cả về tiềm lực và lực lượng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà nước và sự làm chủ của nhân dân.

Nền quốc phòng này không chỉ hiện đại hóa mà còn phát huy tối đa các giá trị truyền thống và cốt cách văn hóa Việt Nam, kết hợp sức mạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Nền an ninh nhân dân giúp giữ cho đất nước ổn định và phát triển, kịp thời phát hiện và triệt tiêu các nguy cơ từ bên trong có thể gây đột biến. Nền quốc phòng này cũng đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu và hành động phá hoại của thế lực thù địch nước ngoài, giải quyết các tranh chấp và bất đồng bằng các giải pháp hòa bình dựa trên nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế.

Như vậy, có thể khẳng định: Chỉ có xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc ngay từ thời bình mới tạo điều kiện để ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ chiến tranh, kể cả chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao. Đây là lựa chọn tối ưu nhất đối với Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chính là cơ sở chủ yếu để tiến hành và chiến thắng trong chiến tranh nhân dân, ngay cả khi đối mặt với chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao.

Có thể khẳng định, nếu buộc phải tiến hành chiến tranh, Việt Nam sẽ theo đường lối chiến tranh nhân dân - một cuộc chiến toàn diện, dựa trên sức mạnh của toàn bộ đất nước. Mọi người dân đều là chiến sĩ, sử dụng mọi loại vũ khí từ đơn giản, thô sơ đến hiện đại. Các hình thức tác chiến linh hoạt như du kích, chính quy, đánh bên sườn, phía sau, đánh sâu, đánh hiểm... đều phát huy tối đa hiệu quả, có thể chế ngự được ưu thế của vũ khí công nghệ cao. Điều này chỉ có thể đạt được dựa trên nền tảng của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được xây dựng vững chắc và không ngừng hiện đại hóa từ thời bình.

Sưu tầm

Thực tiễn phản bác luận điệu bôi lem quyền tiếp cận thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số

Nằm trong âm mưu chống phá về vấn đề dân tộc, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc quyền tiếp cận thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS).

Chúng vu cáo rằng, ở Việt Nam, quyền của người DTTS không được bảo đảm, trong đó có quyền tiếp cận thông tin, từ đó họ xuyên tạc người DTTS “bị phân biệt đối xử”, “bị bịt tai, bịt mắt”, “không có phản biện xã hội”, “chìm trong tăm tối”… Một số bài viết vu cáo rằng, bà con vùng DTTS đã khổ về vật chất, lại bị Đảng “bỏ rơi” về văn hoá, tinh thần, thực hiện “chính sách ngu dân” để dễ dàng áp đặt, “cai trị”… Họ tìm những bức ảnh chụp cảnh trẻ em vùng DTTS ăn mặc rách rưới rồi lắp ghép, chế tác thành “điển hình đời sống người DTTS”, lấy cớ miệt thị, bôi nhọ chính sách của Đảng, Nhà nước ta, nhất là vấn đề văn hoá, giáo dục, tiếp cận thông tin.\

Đây là những chiêu trò thâm độc, nguy hiểm của các thế lực thù địch, mục đích nhằm làm suy giảm niềm tin của đồng bào DTTS đối với Đảng, Nhà nước; gây chia rẽ đồng bào với cấp ủy, chính quyền địa phương, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ giữa đồng bào DTTS với người Kinh, giữa DTTS này với DTTS khác. Từ đó kích động chống đối trong nhân dân, dung dưỡng những thành phần bất hảo, chống phá, gắn với việc truyền bá tà đạo, truyền bá mê tín dị đoan, tạo các điểm nóng tập hợp lực lượng gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, kích động tư tưởng ly khai, tự trị ở vùng DTTS.

Thấy rõ những khó khăn nên Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật nhằm tăng cường, thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin của đồng bào. Theo đó, quyền tiếp cận thông tin là một trong các quyền cơ bản, quan trọng của con người, được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế mà Việt Nam là thành viên và được quy định tại Điều 25, Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Để cụ thể hóa Luật tiếp cận thông tin, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23/01/2018, quy định chi tiết các biện pháp thi hành của luật, trong đó đề ra các biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội (KT-XH) đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Nghị định cũng quy định việc cung cấp thông tin được thực hiện bằng nhiều hình thức phù hợp như: thông qua cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước; qua hệ thống phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, đặc biệt là các chương trình phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc và các phương tiện thông tin đại chúng khác; xây dựng tài liệu chuyên đề, tờ rơi, ấn phẩm, trong trường hợp cần thiết và khả thi thì có thể được chuyển tải bằng ngôn ngữ dân tộc; tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt cộng đồng để chia sẻ thông tin…

Đương nhiên, do điều kiện địa hình, địa lý khó khăn, phức tạp, các yếu tố bất lợi về khí hậu, thiên tai, cùng với đó là một số tập tục trong lối sống của bà con khiến việc thúc đẩy phát triển KT-XH, trong đó có tiếp cận thông tin với bà con DTTS còn những thách thức. Dù vậy, những khó khăn, thách thức đó là khách quan và không thể so sánh với vùng đồng bằng, thành thị để tạo ra “bức tranh khác biệt”, lấy cớ chỉ trích Đảng, Nhà nước. So sánh với chính đời sống của bà con DTTS hiện nay với trước đây để thấy sự thay đổi từng ngày và hãy để họ tự lên tiếng, phản ánh chứ không phải là bôi đen hiện thực để miệt thị, chống phá.

Sưu tầm

“Làm mới thông tin cũ” hòng xuyên tạc Chiến thắng 30/4/1975 là không thể chấp nhận

Cách đây gần 50 năm, đúng 11 giờ 30 phút, ngày 30/4/1975, lá cờ của Mặt trận dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay trên nóc Dinh Độc Lập - phủ Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, đánh dấu giờ phút thiêng liêng của dân tộc Việt Nam, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. 

Thời gian thấm thoát đi qua, Chiến thắng vĩ đại này đã lùi vào lịch sử. Thế nhưng, trong gần nửa thế kỷ qua, vẫn không ít kẻ cố tình xuyên tạc lịch sử, bản chất, tính chất, ý nghĩa, tầm vóc của cuộc kháng chiến. Những luận điệu bóp méo, hạ thấp, phủ định ý nghĩa và giá trị của Chiến thắng 30/4/1975 được các thế lực thù địch tung lên trên mọi phương tiện thông tin, truyền thông với nhiều hình thức, cả ở trong nước và nước ngoài. Họ xuyên tạc trắng trợn cuộc kháng chiến của nhân dân ta là cuộc nội chiến “huynh đệ tương tàn” giữa hai miền; rằng cuộc chiến tranh này “hoàn toàn vô nghĩa, “đáng lý đã không xảy ra, nó có thể tránh được”! Tráo trở hơn, họ còn ra sức biện hộ cho hành động xâm lược của Mỹ ở miền Nam là để “giúp” Việt Nam tiếp cận văn minh phương Tây, đó không phải là xâm lược; vì miền Bắc cộng sản “xâm lược miền Nam”, nên Mỹ phải “có trách nhiệm bảo vệ đồng minh của mình”, v.v. Có người còn “thảng thốt” kêu lên “Tháng Tư đen”, ngày 30/4 là ngày “quốc hận”đó “không phải là chiến thắng của Việt Nam”, cuộc chiến tranh này “không có kẻ thua, người thắng, mà chỉ nhân dân là chịu thiệt thòi”.

Những luận điệu xuyên tạc trên thực chất chỉ là chiêu trò “làm mới thông tin cũ”, đầy ác ý, rất thâm độc, thể hiện sự thù địch, thiên kiến lệch lạc và cả sự ngộ nhận, mơ hồ trong nhìn nhận, đánh giá lịch sử ở một số người; và cứ đến dịp nhân dân ta kỷ niệm Chiến thắng, thì sự xuyên tạc đó lại dồn dập hơn. Những mỹ từ “yêu nước”, “vì dân, vì nước”, “tâm huyết”, “tôn trọng sự thật lịch sử”,… được họ tung ra nhằm làm tăng tính thuyết phục, hòng lừa gạt những người dân nhẹ dạ, cả tin, tác động mạnh mẽ, tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm và thái độ của nhân dân đối với Chiến thắng vĩ đại 30/4/1975.

Những luận điệu công kích đó không đơn thuần để xuyên tạc, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa và giá trị của Chiến thắng, mà còn nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nó còn reo rắc sự hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ người Việt Nam ở trong nước với người Việt Nam định cư, sinh sống ở nước ngoài, nhằm hạ uy tín, phá hoại các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam nói chung, mối quan hệ ngày càng tốt đẹp giữa Việt Nam và Hoa Kỳ nói riêng. 

Nhân dân ta vốn yêu chuộng hòa bình, không hề muốn chiến tranh xảy ra và càng không muốn đất nước mình rơi vào cảnh chết chóc, bị tàn phá. Vì thế, luận điệu về cuộc chiến này là “không cần thiết”, hoàn toàn “có thể tránh khỏi” là sự ngụy biện trơ trẽn, bởi kẻ thù đã chủ động gây chiến, đem quân xâm lược nước ta, buộc nhân dân ta phải vùng lên kháng chiến. Cũng không thể nói xằng, chiến thắng của nhân dân ta “không phải là chiến thắng của Việt Nam trước Mỹ”! Đây là luận điệu vừa phi lịch sử, vừa phi đạo đức. Việc quân Mỹ buộc phải rút khỏi Việt Nam (năm 1973) là do sự phá sản, thất bại trong chính sách xâm lược Việt Nam của Mỹ, chứ không phải là một “sai lầm lịch sử” đơn thuần. Đó cũng chính là do thắng lợi của nhân dân ta trong việc “đánh cho Mỹ cút”, để tiếp đến đánh cho “ngụy nhào”. Sự thất bại của Mỹ và bè lũ tay sai là một tất yếu và đến ngày 30/4/1975 lôgíc tất yếu ấy kết thúc; không thể nói bừa “không có kẻ thua, người thắng”.

Như vậy, sự xuyên tạc của các thế lực thù địch là không thể chấp nhận, nó càng trở nên lạc lõng và lố bịch, bởi sự thật lịch sử ngày càng ngời sáng; bởi giá trị, ý nghĩa to lớn của Chiến thắng 30/4 ngày càng thẩm thấu và lan tỏa sâu rộng. Chiến thắng vĩ đại này khiến cả thế giới kính phục, trong đó có cả những học giả, chính khách, tướng lĩnh Mỹ từng trực tiếp tham gia chiến tranh, xem đó như là một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng, tinh thần anh dũng, lòng quả cảm, ý chí không chịu khuất phục trước thế lực đế quốc hung bạo và gọi Việt Nam là “lương tri của thời đại”. Nhiều người Việt bên kia chiến tuyến từng tuyên bố “không đội trời chung với cộng sản” nay đã quay về quê cha đất tổ, rũ bỏ thù hằn và được Mẹ Tổ quốc Việt Nam mở rộng vòng tay đón nhận. Dù các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội, chống đối có cố gắng làm mới những điều đã cũ, những thông tin cũ mà họ đã từng ra rả từ lâu và có tinh vi, xảo quyệt đến đâu, thì cũng không thể xuyên tạc, làm phai mờ được giá trị và ý nghĩa to lớn của Chiến thắng 30/4. 

Nhớ về lịch sử, nhưng chúng ta khép lại quá khứ, hướng tới tương lai.  Điều đó không thể thiếu sự ảnh hưởng, thẩm thấu và lay động bởi những giá trị và ý nghĩa to lớn từ Chiến thắng 30/4 của nhân dân Việt Nam.

Sưu tầm

Ngăn chặn, đấu tranh với những thông tin sai trái, xuyên tạc

 Để ngăn chặn, đấu tranh với những thông tin sai trái, xuyên tạc công tác cán bộ, lựa chọn nhân sự của Đảng, Nhà nước, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, phát huy vai trò của cơ quan chức năng, truyền thông, báo chí trong tuyên truyền quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ. Kịp thời, chủ động cung cấp thông tin chính thống, chính xác định hướng dư luận, nhất là trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, những vấn đề xã hội quan tâm, đáp ứng nhu cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân theo quy định, tránh để thông tin giả, thông tin không chính thống lan truyền trên mạng xã hội; chủ động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thiết lập và sử dụng nhiều diễn đàn trên mạng xã hội để tuyên truyền, phản bác, loại bỏ các thông tin sai lệch...

Hai là, cần có biện pháp phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ; coi trọng công tác giáo dục tư tưởng, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý “vừa hồng, vừa chuyên”, có bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực công tác tốt, dân chủ, khoa học; kiểm soát tốt quyền lực trong công tác cán bộ. Đề cao vai trò nêu gương của người cán bộ nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương; trách nhiệm càng cao càng phải gương mẫu, nêu gương mọi lúc, mọi nơi, từ suy nghĩ cho đến hành động. Từ đó, hạn chế, tiến tới triệt tiêu cơ hội các thế lực thù địch lợi dụng sai phạm của cán bộ, đảng viên để xuyên tạc, chống phá.

Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần hết sức tỉnh táo và cảnh giác, tự đề kháng; không tiếp tay, không lan truyền thông tin chưa được kiểm chứng. Cần phải chọn lọc thông tin chính thống, phân tích đúng sai, tránh a dua theo những thông tin xuyên tạc, bịa đặt; kiên quyết đấu tranh đẩy lùi mọi ý đồ xuyên tạc, vu khống của số đối tượng xấu.

Bốn là, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn việc tán phát những thông tin giả, tin sai sự thật và xử lý nghiêm minh các trường hợp đưa tin giả, tin sai sự thật theo đúng quy định của pháp luật.

Công tác nhân sự của Đảng ta luôn được quan tâm, chú trọng

 

Công tác nhân sự của Đảng ta luôn được quan tâm, chú trọng

Trong quá trình tự xây dựng, tự chỉnh đốn, Đảng ta luôn quan tâm, chú trong đến công tác cán bộ. Trong đó, công tác nhân sự là một bộ phận quan trọng, được thực hiện ở những thời điểm có tính quyết định, có ý nghĩa đặc biệt, đôi khi liên quan đến sự sống còn của Đảng, sự phát triển của đất nước.

Do vậy công tác tuyển chọn cán bộ của Đảng, Nhà nước luôn được tiến hành một cách khoa học, kỹ lưỡng và theo quy trình nghiêm ngặt với những tiêu chuẩn cao về phẩm chất, đạo đức, năng lực và uy tín để có thể đáp ứng yêu cầu công việc, gánh vác trọng trách xây dựng, phát triển đất nước.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ mục đích cao cả của công tác cán bộ, đó là “xây dựng được một Ban Chấp hành Trung ương mạnh, một Bộ Chính trị mạnh, một Ban Bí thư mạnh, thật sự đoàn kết, thống nhất cao xung quanh người đứng đầu để đủ sức gánh vác trọng trách vinh quang nhưng rất nặng nề của mình là lãnh đạo hoàn thành sứ mạng lịch sử, nhiệm vụ chính trị của mình, tổ chức toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu, vượt mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; đất nước ta ngày càng phát triển; nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, xứng đáng với niềm tin yêu và sự mong đợi của toàn Đảng, toàn dân”.

Đảng ta chủ trương lựa chọn cán bộ, đảng viên xứng đáng, có đủ đức đủ tài để gánh vác nhiệm vụ cách mạng. Việc thay đổi công tác nhân sự của Đảng là cần tiến hành đúng thời điểm với phương châm cán bộ “có vào, có ra, có lên, có xuống” nhằm đáp ứng được yêu cầu của công việc, nhiệm vụ chính trị và phẩm chất đạo đức. Phương châm này đã được thực hiện trong nhiều năm gần đây, nhận được niềm tin, kỳ vọng rất lớn của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, sự thay đổi về nhân sự của các cấp, đặc biệt là những vị trí quan trọng, cơ yếu luôn là dịp để các thế lực phản động lợi dụng, vin vào chống phá một cách quyết liệt.

Thực tế công tác cán bộ đã bảo đảm được tính dân chủ, chặt chẽ, đồng bộ, khách quan, minh bạch; có nhiều nội dung đổi mới đối với từng nhóm chức danh; đồng thời, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan tham mưu trong công tác giới thiệu, đề xuất và thẩm định nhân sự quy hoạch cán bộ cấp chiến lược.

Đảng đã lựa chọn, tạo dựng nên đội ngũ cán bộ mang trong mình phẩm chất kiên trung với Đảng, tận hiếu với nước, với dân; xứng đáng là người “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhiều cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn thử thách, dám hy sinh vì lợi ích chung, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đội ngũ cán bộ chiến lược, giữ vị trí quan trọng ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín, trình độ chuyên môn giỏi; có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Nhiều cán bộ là tấm gương sáng, tiêu biểu trong lời nói và hành động được cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu mến, học tập và noi theo.

Cán bộ trong quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, đều phải được đào tạo qua 5 lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho cán bộ cấp chiến lược. Đại biểu dự Đại hội XIII đều là những cán bộ tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, uy tín được bầu chọn từ các cấp.

Để chuẩn bị cho Đại hội XIV, Đảng ta đã làm từ rất sớm, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII (ngày 8/10/2023) đã quyết định thành lập Tiểu ban Nhân sự do đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng làm Trưởng Tiểu ban với nhiệm vụ xây dựng Phương hướng công tác nhân sự, giới thiệu nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng khóa XIV, nhiệm kỳ 2026-2031…

Công tác lựa chọn cán bộ được tiến hành từng bước, theo quy trình khoa học, chặt chẽ, thận trọng, bài bản để chọn ra những hạt nhân tiêu biểu, có đủ phẩm chất, năng lực bầu vào các chức danh chủ chốt của Đảng; hoàn toàn không phải là một sự “sắp xếp hình thức”, “thanh trừng, đấu đá nội bộ” như sự suy đoán vô căn cứ, xuyên tạc của số đối tượng phản động, cơ hội chính trị.

Việc một số cán bộ được bầu vào các chức danh của cơ quan lãnh đạo của Đảng sau này trong quá trình công tác vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước đó là do cá nhân đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, không thể đổ lỗi cho công tác nhân sự “sai ngay từ đầu” như những gì các thế lực thù địch rêu rao, xuyên tạc.