Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

ấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 3: Vững tin, vững tiến trên chính trường thế giới!

 

Đối ngoại Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới của truyền thống ngoại giao dân tộc. Trong thời đại mới, đối ngoại Đảng cần tiếp tục thể hiện rõ vai trò tiên phong, dẫn dắt nền ngoại giao nước nhà. Thông qua kết quả đối ngoại Đảng và uy tín, vị thế của Đảng để vừa tập hợp lực lượng trong và ngoài nước, huy động mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước; vừa đề cao trách nhiệm, góp phần xây dựng hòa bình thế giới và sự tiến bộ nhân loại.

1. Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung, nhưng thế giới đã, đang và sẽ trải qua nhiều biến động lớn, phức tạp hơn so với dự báo. Toàn thế giới đã đoàn kết cùng nhau bước qua đại dịch Covid-19, nhưng chuỗi sản xuất, trao đổi dịch vụ thế giới sẽ có những thích ứng mới trước tình trạng đứt gãy các chuỗi cung ứng và sự bất ổn trong quan hệ giữa các nền kinh tế lớn; liên kết kinh tế gia tăng trong khu vực, giữa một số nước. Cạnh tranh giữa các nước lớn, vấn đề xung đột Nga-Ukraine; giữa Nga và Liên minh châu Âu, giữa Iran và Israel diễn ra rất gay gắt, tác động sâu sắc đến cục diện an ninh chính trị thế giới.

Các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống đặt ra nhiều thách thức chưa từng có cho phát triển kinh tế-xã hội của nhiều nước. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục là động lực chính trong quá trình phục hồi kinh tế thế giới, song cũng là một trong những trọng tâm của cạnh tranh nước lớn. Khu vực Đông Nam Á đang được các nước trong và ngoài khu vực ngày càng coi trọng, tích cực can thiệp, tạo ảnh hưởng; trong khi nội bộ khu vực vẫn còn những vấn đề chưa thống nhất.

Trước tình hình đó, tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đối ngoại Việt Nam nói chung, đối ngoại Đảng nói riêng cần tiếp tục phát huy mạnh mẽ trường phái ngoại giao “cây tre”, gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển; thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược.

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 3: Vững tin, vững tiến trên chính trường thế giới! (tiếp theo và hết)

Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì lễ đón trọng thể Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, ngày 20-6-2024. Ảnh: TRỌNG HẢI

Là một trụ cột quan trọng trong mặt trận đối ngoại của đất nước, đối ngoại Đảng tập trung sức lãnh đạo nhằm đẩy mạnh, nâng tầm nhiều mặt. Trước hết, vị trí, vai trò đối ngoại Đảng phải được coi trọng, đánh giá đúng tầm mức; nhất là trong việc góp phần củng cố nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước; duy trì và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển của đất nước; đóng góp vào thành công chung của công tác đối ngoại; nâng cao vị thế, uy tín của Đảng và đất nước trên chính trường quốc tế. 

Thực hiện nhất quán chủ trương Đại hội XIII của Đảng: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Theo đó, mỗi trụ cột đối ngoại đều có vai trò, sứ mệnh riêng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước. 

Trong đó, đối ngoại Đảng có 3 nhiệm vụ đặc biệt quan trọng cần quan tâm lãnh đạo, thực hiện thắng lợi: 1. Tham gia hoạch định chủ trương, đường lối, các quyết sách về những vấn đề đối ngoại quan trọng; 2. Triển khai các hoạt động đối ngoại nhằm phát triển quan hệ với các chính đảng góp phần củng cố nền tảng chính trị cho quan hệ của Việt Nam với các nước; xây dựng khuôn khổ, định hướng quan hệ, xử lý nhiều vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác quan trọng; 3. Quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại của toàn bộ hệ thống chính trị, chỉ đạo công tác đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân từ Trung ương đến cơ sở. Theo đó, trong điều kiện mới, đối ngoại Đảng tiếp tục phát huy vai trò và thế mạnh; triển khai một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, có trọng tâm, trọng điểm, với nhiều nội dung mang tính đột phá cả trước mắt, lẫn lâu dài.

2. Để làm được điều đó, cần phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong tham gia tiến hành công tác đối ngoại Đảng. Mỗi tổ chức Đảng, mỗi đảng viên phải đề cao vai trò, trọng trách của mình như một “sứ giả của tình hữu nghị”; góp phần làm đẹp thêm hình ảnh người đảng viên Đảng Cộng sản, đồng thời nâng cao uy danh, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong các hoạt động đối ngoại Đảng, cùng với sự tham gia của lãnh đạo cao nhất của Đảng là đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, cần sớm nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế, tạo điều kiện cho các hoạt động đối ngoại Đảng của các ban Đảng và các tỉnh ủy, thành ủy cho đến tổ chức Đảng nhỏ nhất và từng đảng viên.

Tăng cường hơn nữa các chuyến thăm hữu nghị cấp cao, gặp gỡ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các chính đảng, các quốc gia trên thế giới. Đồng thời, Đảng quan tâm hơn nữa đến việc cử đại diện tham gia sự kiện quốc tế, khu vực và nhất là với các nước láng giềng; tăng cường các hình thức điện đàm, hội đàm, gặp gỡ, hội nghị đa phương trực tiếp hoặc trực tuyến ở các cấp.

Đối với các ban Đảng, các cấp, các ngành, cần chú trọng hơn đến việc gặp gỡ, đối thoại, trao đổi trên kênh song phương và đa phương; đào tạo cán bộ, ký kết các thỏa thuận hợp tác, kết nghĩa giữa các địa phương của Việt Nam và các nước trên thế giới... Coi trọng triển khai, thực hiện hiệu quả các thỏa thuận, chương trình hợp tác đã ký kết giữa các Đảng bộ trực thuộc Trung ương với các đảng đối tác để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại Đảng.

Đóng góp chung vào những thành công của đối ngoại Đảng, có vai trò quan trọng của hệ thống các cơ quan đại diện Việt Nam, cán bộ, đảng viên làm công tác đối ngoại ở nước ngoài mà phần đông là các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Thật đáng ghi nhận vì đến nay, Việt Nam đã có gần 100 cơ quan đại diện ở nước ngoài, trải khắp các châu lục và ở mỗi cơ quan này đều đã thành lập tổ chức Đảng lãnh đạo một cách trực tiếp, toàn diện.

Đây là lực lượng tuyến đầu thực hiện công tác thông tin đối ngoại tại địa bàn ngoài nước; do vậy, các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên thực hiện nhiệm vụ ở nước ngoài cần đề cao vai trò, trách nhiệm, tích cực quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, về vai trò, sứ mệnh, bản chất tốt đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam đến với bạn bè quốc tế; đồng thời thu thập những thông tin có chọn lọc về tình hình, sự phát triển của thế giới, khu vực, về các vấn đề được dư luận và nhân dân trong nước quan tâm; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; tạo sự đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước; kêu gọi, thu hút sự hợp tác, hỗ trợ của thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

3. Trong một thế giới đa cực, diễn biến phức tạp, mau lẹ, các cấp cần tiếp tục đổi mới hơn nữa nội dung, phương thức hoạt động, không ngừng nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại Đảng, với phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến", "chủ động linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”, bảo đảm phối hợp tổng thể, chặt chẽ, đồng bộ giữa các trụ cột đối ngoại. Phát huy vai trò của đối ngoại Đảng trong thúc đẩy bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược đáp ứng đúng và trúng yêu cầu của tình hình mới.

Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, nhất là các vấn đề tác động trực tiếp, lâu dài đến an ninh và phát triển đất nước. Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc và dự báo đúng tình hình để kịp thời có đối sách và giải pháp phù hợp. Tích cực triển khai, hiện thực hóa các đề án, chiến lược lớn trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng, trong đó có Nghị quyết về những định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược Đối ngoại Việt Nam đến năm 2030. Đồng thời, không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại phù hợp với tình hình mới; tăng cường tính chủ động, tính chiến lược và tính đồng bộ, toàn diện trong tất cả các khâu, từ nghiên cứu dự báo đến tham mưu, xử lý các vấn đề đối ngoại và tổ chức, triển khai các hoạt động đối ngoại Đảng.

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 3: Vững tin, vững tiến trên chính trường thế giới! (tiếp theo và hết)

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tiếp Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Masatsugu Asakawa, chiều 13-3-2024. Ảnh: TRỌNG HẢI

Phát huy mạnh mẽ vai trò đầu mối trong quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại của toàn bộ hệ thống chính trị, nâng cao tính thiết thực, hiệu quả của các hoạt động đối ngoại Đảng. Tập trung mở rộng và phát triển về chiều sâu các mối quan hệ đối ngoại của Đảng, tăng cường sự tin cậy, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ song phương. 

Tiếp tục tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện và tin cậy với các đảng cầm quyền ở các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ vào chiều sâu, củng cố sự tin cậy chính trị, tạo nền tảng chính trị vững chắc, giữ vai trò định hướng chiến lược cho quan hệ song phương; đồng thời, phát huy mạnh mẽ lợi thế đặc thù của kênh đối ngoại Đảng để góp phần giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong quan hệ song phương với các nước này. 

Cùng với đó, cần tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng tham chính, đảng có vị trí và vai trò quan trọng trong việc hình thành và triển khai chính sách của các nước đối với Việt Nam; tăng cường thực chất quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân có vị trí, vai trò trên chính trường các nước, có nhiều ảnh hưởng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và ở từng khu vực để tạo lực lượng hậu thuẫn chính trị.

Tiếp tục phát huy vai trò của đối ngoại Đảng để đóng góp thiết thực cho công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là việc tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Đảng, kinh nghiệm lãnh đạo, điều hành đất nước. Đồng thời, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, tranh thủ sự đoàn kết và ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao uy tín quốc tế, vị thế của Đảng và đất nước, tạo thuận lợi cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.

Để đáp ứng yêu cầu của công tác đối ngoại Đảng trong thời kỳ mới, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, bản lĩnh và trí tuệ, hiện đại, chuyên nghiệp về phong cách, phương pháp làm việc, có tinh thần đổi mới, sáng tạo; quyết liệt phòng, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xuống cấp về đạo đức, lối sống trong đội ngũ làm công tác ngoại giao.

Tiếp tục coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác cán bộ, trong đó có đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ ngoại giao, nhất là với cán bộ cấp chiến lược, lãnh đạo, quản lý; từng bước xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia có trình độ đạt tầm khu vực và quốc tế. Kiện toàn tổ chức, bộ máy ngành ngoại giao Đảng tinh gọn, khoa học, hợp lý và hiệu quả. Đẩy mạnh hiện đại hóa, chuyển đổi số ngành ngoại giao Đảng.

Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

 Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.

Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...

Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.

Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.

Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.

Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.

Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.

Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.

Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới. 

Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

Sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin

Là người có nhiều năm nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, học giả Phrăng-xoa U-ta cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn không ngừng được đổi mới và phát triển. "Những quan điểm cho rằng học thuyết này đã trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với xu thế thời đại là hoàn toàn sai lầm", vị học giả người Bỉ lập luận. Theo học giả Phrăng-xoa U-ta, việc các thế lực bài bác chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ càng chứng tỏ tính đúng đắn, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và cứ mỗi lần phải đấu tranh chống lại các trào lưu tư tưởng đối lập thì chủ nghĩa Mác - Lê-nin lại một lần nữa tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình.

Nhiều học giả phương Tây, cả cánh tả và cánh hữu, từ tân bảo thủ đến tân tự do, vẫn tin rằng sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã đặt dấu chấm hết đối với chủ nghĩa Mác - Lê-nin sau hơn 150 năm tồn tại. Tuy nhiên, thành công của công cuộc cải cách ở hàng loạt các nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, như đổi mới ở Việt Nam, cải cách mở cửa ở Trung Quốc, cập nhật hóa mô hình kinh tế ở Cu-ba... đã đưa các nước này không chỉ vượt qua được giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, mà còn tạo được những bước đột phá phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, đó là những bằng chứng rõ ràng về sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Không những vậy, sự trỗi dậy mạnh mẽ trong hai thập niên qua của phong trào cánh tả ở nhiều nước Mỹ La-tinh là bằng chứng sống động về sự bền bỉ của lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng tài chính kéo theo suy thoái kinh tế toàn cầu nổ ra đầu tiên tại Mỹ và các nước tư bản phát triển vào năm 2008 đã làm phơi bày sự thật của những bất công, những mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội tư bản.

"Người ta đang tìm đọc những tác phẩm mà các nhà kinh điển đã viết ra cách đây hàng trăm năm để tìm câu trả lời cho những vấn đề hiện tại. Chẳng thế mà những năm qua, nhiều người ở phương Tây đã phải nghiên cứu bộ Tư bản luận của Mác, thậm chí các nhà xuất bản ở Đức, ở Anh còn ấn hành cả phiên bản sách nói (audio book). Tất cả những điều đó một lần nữa lại cho thấy sức mạnh khoa học của học thuyết Mác - Lê-nin. Tôi hoàn toàn lạc quan về sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong tương lai", học giả Phrăng-xoa U-ta nói.

Theo học giả Phrăng-xoa U-ta, sức sốhg của học thuyết Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay thể hiện ở chỗ, các giá trị bền vững trong những học thuyết cơ bản của các ông vẫn sẽ là lý luận và phương pháp luận để nhận thức, cải tạo thế giới. Còn, với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động thực tiễn của những người vô sản, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đòi hỏi phải luôn biết vận dụng sáng tạo để đi tới thành công.


Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

 

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết

Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam
Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 19 tại Singapore ngày 11-6-2022. Ảnh minh họa: qdnd.vn

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.

Sự vận dụng linh hoạt

Chia sẻ với phóng viên về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, học giả Sa-mi A-min cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một tấm gương tiêu biểu cho các Đảng Cộng sản khác trên thế giới. "Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong số những Đảng Cộng sản thành công nhất trong lịch sử hiện đại khi đã lãnh đạo nhân dân giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng. Câu chuyện lãnh đạo nhân dân thu non sông về một mối của Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là một câu chuyện lịch sử tuyệt vời", ông Sa-mi A-min đánh giá.

Để bổ sung cụ thể hơn cho nhận định của mình, học giả Sa-mi A-min còn lấy câu nói của người anh hùng Chê Ghê-va-ra (Ernesto Che Guevara), làm dẫn chứng: "Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam đã mang lại cho toàn thế giới một bài học thật vĩ đại! Việt Nam đã dạy cho chúng ta một bài học bất hủ về chủ nghĩa anh hùng... Trước mắt, chúng ta sẽ là một tương lai xán lạn và gần gũi như thế nào nếu hai, ba... nhiều Việt Nam nở hoa trên thế giới".

Đồng tình với quan điểm của học giả Sa-mi A-min, học giả Phrăng-xoa U-ta nói thêm rằng, những gì Việt Nam đã và đang làm nhằm tái thiết xây dựng đất nước sau chiến tranh cũng mang tới một câu chuyện thành công khác. Theo học giả này, bằng sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đúng đắn, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước đạt được nhiều kết quả và thành tựu kinh tế. Việc thực hiện chính sách mở cửa, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam và mang lại cho Việt Nam một vị thế quốc tế mới. "Tôi nhất trí với đánh giá của Ngân hàng Thế giới mới đây khi cho rằng, Việt Nam là một điển hình thành công trong phát triển. Tuy nhiên, nếu như nói rằng chính sách mở cửa là "chìa khóa" cho thành công thì tại sao các nước khác ở châu Phi, Mỹ La-tinh lại không đạt được thành tựu như Việt Nam. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây chính là sự vận dụng linh hoạt, đổi mới tư duy bằng việc thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", học giả Phrăng-xoa U-ta phân tích.

Quân ủy Trung ương tổ chức học tập một số nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 

Sáng 4-7, tại Hà Nội, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn quân phổ biến, học tập một số nội dung cuốn sách "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.


Quân ủy Trung ương tổ chức học tập một số nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
 Các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng dự hội nghị.
Quân ủy Trung ương tổ chức học tập một số nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
 Quang cảnh hội nghị.
Quân ủy Trung ương tổ chức học tập một số nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
 Các đại biểu dự hội nghị tại điểm cầu Hội trường Bộ Quốc phòng.

Dự hội nghị có các đồng chí: Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng: Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam; Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến; Thượng tướng Vũ Hải Sản.

Quân ủy Trung ương tổ chức học tập một số nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
 Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, trao đổi cùng diễn giả, Đại tá, GS, TS Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.

Cùng dự hội nghị có các đại biểu đại diện Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Trung ương Đảng, Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Thành ủy Hà Nội.

Tham dự hội nghị còn có các đồng chí Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam: Thượng tướng Huỳnh Chiến Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng; Trung tướng Nguyễn Doãn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng; Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn; Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa; Trung tướng Nguyễn Trọng Bình. Trung tướng Lê Quang Minh, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, cùng gần 6.500 đại biểu đại diện lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân dự hội nghị trực tiếp và trực tuyến tại 52 điểm cầu.

Quân ủy Trung ương tổ chức học tập một số nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Đồng chí Vũ Trọng Lâm, Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật giới thiệu về quá trình xuất bản cuốn sách. 

Cuốn sách tuyển chọn 92 bài viết, bài phát biểu, bài nói, lược ghi, trả lời phỏng vấn, thư... của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, trong đó bài viết sớm nhất là vào năm 1968. Nội dung các bài phát biểu, bài viết thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Tổng Bí thư đối với việc xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam với các yếu tố truyền thống và hiện đại, bản sắc và hội nhập, tạo nguồn lực nội sinh và huy động sức mạnh của văn hóa, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Quân ủy Trung ương tổ chức học tập một số nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
 Đại tá, GS, TS Đinh Xuân Dũng, nguyên Phó chủ tịch chuyên trách Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương giới thiệu về nội dung cuốn sách tại hội nghị.

Nội dung cuốn sách gồm ba phần: Phần thứ nhất: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc”, gồm 19 bài phát biểu, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Hội nghị Công tác tư tưởng - văn hóa toàn quốc, Hội nghị Tuyên giáo toàn quốc...

Phần thứ hai: “Phát triển toàn diện, đồng bộ để văn hóa thật sự là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước bền vững”, tuyển chọn 73 bài phát biểu, bài viết, thư của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với các lĩnh vực văn hóa cũng như quá trình xây dựng, phát triển của các cơ quan văn hóa.

Phần thứ ba: Từ luận điểm văn hóa của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến thực tiễn cuộc sống, tuyển chọn 32 bài viết, trả lời phỏng vấn của các cán bộ, đảng viên và nhân dân trong nghiên cứu, học tập và triển khai, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, gắn với xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam.

Quân ủy Trung ương tổ chức học tập một số nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
  Các đại biểu dự hội nghị tại điểm cầu Hội trường Bộ Quốc phòng.
Quân ủy Trung ương tổ chức học tập một số nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
  Các đại biểu dự hội nghị tại điểm cầu Hội trường Bộ Quốc phòng.

Cùng với đó, cuốn sách cũng tuyển chọn hơn 90 bức ảnh tư liệu quý, ghi lại những hình ảnh của Tổng Bí thư trong các hoạt động văn hóa, hội nghị văn hóa; các chuyến đi thăm, làm việc với các địa phương; các cuộc làm việc với các cơ quan, đơn vị trong ngành văn hóa; các buổi gặp gỡ văn nghệ sĩ, trí thức trên mọi miền Tổ quốc. Giúp cán bộ, đảng viên và quần chúng, nhất là cán bộ chủ trì các cấp nắm chắc những nội dung cơ bản, cốt lõi của cuốn sách, nâng cao nhận thức có hệ thống về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; thông qua nghiên cứu, học tập các cơ quan, đơn vị kịp thời cụ thể hóa, vận dụng sáng tạo phù hợp nội dung cuốn sách với điều kiện thực tiễn, chức năng, nhiệm vụ được giao.


ĐOÀN KẾT NỘI BỘ LÀ SỨC ĐỀ KHÁNG TỐT NHẤT ĐỂ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TA

  Trong thời gian gần đây càng gần tới thềm Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn tìm mọi cách phủ nhận, công kích, bôi nhọ, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, hướng tới mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng triệt để lợi dụng sự phát triển công nghệ 4.0 thông qua các trạng mạng xã hội và phương tiện truyền thông nước ngoài tiến hành các hoạt động chống phá để phục vụ cho mục đích của mình.

Đây là thủ đoạn chống phá không mới của các thế lực thù địch, song chúng đã thay đổi phương thức và thủ đoạn rất tinh vi và xảo quyệt để chống phá cách mạng nước ta. Đấu đấu tranh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Chính vì vậy đoàn kết luôn là một sức mạnh vô địch, xây dựng mối đoàn kết trong Đảng chính là liều vacxin hữu hiệu nhất để kháng lại mọi biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của mỗi cán bộ, đảng viên. Theo Bác “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”. Sự đoàn kết trong Đảng không phải tự nhiên mà có, nó được xây dựng và phát triển trên cơ sở sự tin cậy, bình đẳng, yêu thương, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau giữa mỗi cán bộ, đảng viên... đồng thời mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện tốt “tính Đảng” của mình. Sức sống của sự đoàn kết chính là tính dân chủ và tính đấu tranh phê bình và tự phê bình trong Đảng. Thực tế cho thấy ở đâu cấp ủy, tổ chức đảng nào duy trì và thực hiện tốt quy chế dân chủ, tính đầu tranh phê bình và tự phê bình cao thì cấp ủy, tổ chức đảng ở nơi đó luôn luôn đoàn kết thống nhất và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao và ngược lại cấp ủy, tổ chức đảng nào không thực hiện tốt quy chế dân chủ, tính đấu tranh phê bình và tự phê bình của đảng viên yếu thì cấp ủy, tổ chức đảng đó khó hoàn thành nhiệm vụ.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ngoài việc phát hiện, xử lý kịp thời những âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ các thế lực thù địch, vạch mặt những phần tử cơ hội chính trị, ngăn chặn những hành vi xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, ngăn chặn sự chia rẽ mối đoàn kết gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân và lực lượng vũ trang...mỗi cán bộ đảng viên phải biết nhận diện chính xác những tin giả, tin sai sự thật trên Internet, mạng xã hội và trong cuộc sống, đồng thời còn là lực lượng tiên phong trong việc xây dựng mỗi đoàn kết trong Đảng và cơ quan đơn vị nơi mình công tác./.
St

CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

 Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở quân đội hiện nay là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của các tổ chức cơ sở đảng, nhằm không ngừng xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng trong tình hình mới. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị phải bảo đảm giữ vững và phát huy được bản chất giai cấp công nhân không chỉ trong ý thức, nhận thức, mà cả trong hành động, trong sức mạnh chiến đấu của mỗi tổ chức cơ sở đảng và trong mỗi cán bộ, đảng viên.

Thực tế hiện nay cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng với sự tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường; sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ; sự tấn công của các lực lượng thù địch hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang ngày càng lộ rõ hơn tính chất gay go, quyết liệt, phức tạp trong giành giật trái tim, khối óc của con người. Cuộc đấu tranh nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội cách mạng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một nhiệm vụ rất quan trọng của công tác chính trị, tư tưởng trong quân đội.
Vì hiện nay có người cho rằng, phát triển kinh tế thị trường chỉ cần tri thức, trí tuệ khoa học để cạnh tranh thắng lợi, để thu lợi nhuận ngày càng cao; rằng, để kinh tế thị trường phát triển cần gạt bỏ cản trở ý thức hệ, từ bỏ “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Về thực chất đó là sự phủ nhận chủ nghĩa xã hội để đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đây vừa là quan điểm lập trường chính trị, vừa là vấn đề nhận thức tư tưởng. Lý luận và thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng: mọi biểu hiện xa rời hoặc phủ nhận hệ tư tưởng của giai cấp công nhân nhất định dẫn tới hệ tư tưởng tư sản dù đó là tự giác hay không tự giác. Do vậy, hiện nay đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải nhận thức sâu sắc và kiên quyết đấu tranh loại trừ ảnh hưởng của quan điểm tư tưởng cơ hội, xét lại, thực dụng ra khỏi đời sống chính trị, tinh thần ở đơn vị cơ sở quân đội.
Cần phải nhận thức đầy đủ rằng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở quân đội là nhằm đạt tới không ngừng nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng cho mỗi cán bộ, đảng viên hướng đến nhận thức đúng đắn và sâu sắc vai trò nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng để tạo nên sự nhất trí về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là sự vững vàng, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đây chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản và chỉ có như vậy giai cấp công nhân mới thực hiện đầy đủ, trọn vẹn và thực chất mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn thể nhân dân lao động. Hiện nay, yêu cầu phải tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong Đảng là vấn đề cốt tử giữ cho Đảng thực sự là một Đảng cách mạng chân chính, bất kỳ trong hoàn cảnh nào cũng không từ bỏ mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn, không từ bỏ nguyên tắc lãnh đạo, không dao động, mất phương hướng chính trị trong cuộc đấu tranh một mất, một còn.
Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng nói chung và trong Đảng bộ Quân đội nói riêng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đấu tranh có hiệu quả trước mọi biểu hiện tư tưởng, quan điểm sai trái đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cấp ủy và chỉ huy các đơn vị cơ sở quân đội phải chủ động, tích cực thực hiện đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên nhằm thực hiện đầy đủ và có hiệu quả những nội dung cơ bản sau:
Một là, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhiệm vụ quân đội, của đơn vị trong tình hình mới cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở. Đây là nội dung giáo dục cơ bản, thiết thực nhằm xây dựng thế giới quan Mác-Lênin, phương pháp luận khoa học, niềm tin cộng sản chủ nghĩa, lập trường của giai cấp công nhân; xây dựng bản lĩnh chính trị của người cán bộ, đảng viên luôn kiên định, vững vàng, nhạy cảm, sắc sảo về chính trị, không bị tự diễn biến trước mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch hòng “phi chính trị hóa” quân đội nhằm vô hiệu hóa quân đội - công cụ sắc bén của Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thường xuyên gắn giáo dục chính trị, tư tưởng với giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là sống, lao động học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, suy đồi về đạo đức, tha hóa về lối sống dưới tác động của mặt trái kinh tế thị trường và các âm mưu, thủ đoạn của các lực lượng thù địch. Cần coi trọng thực chất của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, khắc phục bệnh hình thức; đổi mới căn bản nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục cho phù hợp với tình hình và đối tượng.
Hai là, thường xuyên thông tin kịp thời và có định hướng rõ ràng những vấn đề chính trị - xã hội phức tạp đang đặt ra cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở. Đây là yêu cầu cơ bản nhằm trang bị những tri thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, kiên quyết đấu tranh chống mọi quan điểm sai trái phản động của kẻ thù, chống tư tưởng mơ hồ, ảo tưởng, dao động xuất hiện trong cán bộ, đảng viên. Cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng và chỉ huy ở đơn vị cơ sở phải thực sự nhạy bén ngăn ngừa mọi tác động tiêu cực của đời sống xã hội có thể len lỏi vào đơn vị và những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường để định hướng tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trong đơn vị một cách có hiệu quả; kịp thời giải quyết những vướng mắc trong nhận thức, đấu tranh với những khuynh hướng lệch lạc, giữ vững trận địa tư tưởng của đơn vị, của tổ chức trong mọi tình huống. Cấp ủy và chỉ huy đơn vị cần tổ chức đa dạng các hình thức sinh hoạt tư tưởng cho bộ đội như: diễn đàn tình hình chính trị nổi bật của đất nước, thế giới, thi báo cáo thời sự chính trị, thi kết quả đọc báo, sách…
Ba là, phải chú trọng truyền đạt nghị quyết của cấp ủy đảng một cách thiết thực, cụ thể, tạo sự thống nhất tư tưởng, tạo dựng niềm tin, thúc đẩy hành động phù hợp với trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên trong đơn vị. Đây là một yêu cầu, nhiệm vụ hết sức quan trọng, là cơ sở để nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị. Để quá trình truyền đạt nghị quyết của Đảng có hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chính trị ở đơn vị cơ sở phải chú trọng sử dụng có hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, với nhiều hình thức cổ động, tuyên truyền làm cho tư tưởng, nghị quyết của Đảng thấm sâu trong mỗi cán bộ, đảng viên. Muốn vậy, tổ chức cơ sở đảng ở đơn vị phải đổi mới cách ra nghị quyết, nghị quyết bảo đảm phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; phải đẩy mạnh công tác đôn đốc, kiểm tra việc thi hành nghị quyết; chú trọng sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về tác dụng, hiệu quả của nghị quyết trong thực tiễn hoạt động của đơn vị. Trong tình hình hiện nay, nghị quyết của cấp ủy phải đặc biệt coi trọng nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên đơn vị.
Bốn là, phải coi trọng công tác kiểm tra, thăm dò dư luận để thấu hiểu tình hình, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng trong đơn vị. Đây là một biện pháp hữu hiệu đảm bảo cho nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng đáp ứng kịp thời yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng, giữa cán bộ với chiến sĩ thuộc quyền. Chỉ có như vậy nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng, kế hoạch công tác của người chỉ huy mới thực sự có giá trị, có ý nghĩa tác dụng to lớn trong thực tiễn hoạt động của đơn vị cơ sở.
Năm là, thường xuyên chú trọng giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống của Đảng, của dân tộc, của quân đội và gắn kết nó với truyền thống của đơn vị. Đây là hình thức giáo dục có tầm quan trọng đối với mọi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đối với hạ sĩ quan, chiến sĩ. Vì nếu coi nhẹ giáo dục truyền thống trong tình hình chính trị phức tạp, sự tác động của kinh tế thị trường và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch sẽ có nguy cơ dẫn đến phai nhạt lòng tự hào chính đáng, sùng ngoại, lai căng, quay lưng lại với cội nguồn. Đó là một kẽ hở để cho kẻ thù lợi dụng nhằm tuyên truyền xuyên tạc truyền thống vẻ vang của dân tộc, của Đảng và quân đội.
Những yêu cầu cơ bản trên phải được tiến hành đồng bộ trong triển khai công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở đơn vị cơ sở quân đội nhằm giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng của Đảng trong đơn vị, cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng hiện nay./.
St

“PHẢI MẬT THIẾT LIÊN HỆ VỚI GIA ĐÌNH HỌC TRÒ...”

 “Phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”. Đây là nội dung huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục, họp tháng 6 năm 1957.

Theo Bác, trong giáo dục cần làm cho học sinh biết yêu Tổ quốc, thương đồng bào, yêu lao động, biết vệ sinh, giữ kỷ luật, học văn hóa. Đồng thời phải giữ cho học sinh luôn được vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, trẻ trung của tuổi thơ, được hưởng quyền dân chủ, được vui chơi và học hành tiến bộ, mang lại cho trẻ em niềm hạnh phúc khi được sống cùng cha mẹ. Để làm được điều đó, giáo dục gia đình giữ vai trò rất quan trọng.
Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ về tầm quan trọng của gia đình, Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của gia đình đối với sự phát triển bền vững của đất nước, luôn xác định gia đình là tế bào của xã hội. Ngày 28 tháng 6 năm 2000, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 55-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg, chọn ngày 28 tháng 6 hằng năm là Ngày Gia đình Việt Nam, nhằm đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức xã hội cùng toàn thể các gia đình thường xuyên quan tâm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Ngày Gia đình Việt Nam là dấu mốc quan trọng để những con người đất Việt hướng về cội nguồn, về những người thân yêu, qua đó nuôi dưỡng tình cảm đẹp, những giá trị văn hóa cao quý của dân tộc. Cho dù có đi đâu, làm gì, gia đình vẫn là nơi để nhớ, để yêu thương và để quay về.
Hoạt động của Quân đội là loại hình lao động đặc biệt, cán bộ, chiến sĩ cơ bản sống xa gia đình, gắn bó với đơn vị; do vậy, với mỗi người lính, gia đình luôn có vị trí đặc biệt trong tâm tư, tình cảm và trách nhiệm của mỗi người. Để xây dựng được tinh thần đoàn kết đồng chí, đồng đội, gắn bó giữa bộ đội với cơ quan, đơn vị, các mô hình: “Đơn vị là nhà, cán bộ, chiến sĩ đều là anh em”, “Đảo là nhà, tàu là nhà, biển cả là quê hương”, “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”…đã được cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân triển khai thực hiện đạt hiệu quả thiết thực đã góp phần quan trọng xây dựng tinh thần đoàn kết đồng chí, đồng đội, đoàn kết quân dân và sự gắn bó của bộ đội với cơ quan, đơn vị, hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, tiêu biểu, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”./.
St