Thứ Tư, 2 tháng 10, 2024

BÁC HỒ VỀ ĐOÀN KẾT, THỐNG NHẤT TRONG ĐẢNG

 Một trong những giá trị truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc chúng ta qua hàng nghìn năm lịch sử là truyền thống đoàn kết xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Truyền thống đó đã được Đảng Cộng sản Việt Nam giữ gìn, phát huy, nâng lên tầm thời đại, trong đó lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người khởi xướng và duy trì. Sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta là đã tìm ra những hình thức tốt nhất để tập hợp quần chúng, nhân dân làm cách mạng, tiêu biểu là Mặt trận Dân tộc thống nhất, Mặt trận Việt Minh và các tổ chức đoàn thể quần chúng sau này, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo Bác Hồ, Đảng đoàn kết “làm cho quần chúng mến Đảng, ra sức ủng hộ Đảng và tự giác, tự nguyện chịu Đảng lãnh đạo” (1); “củng cố mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng... nhân dân thấm nhuần và thực hiện chính sách của Đảng” (2).

Đoàn kết trong Đảng trước hết là để xây dựng, thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng. Nói như Bác Hồ thì: “Người vào Đảng phải thừa nhận Đảng cương và Đảng chương. Phải tham gia công tác trong một tổ chức của Đảng. Phải tuyệt đối phục tùng nghị quyết của Đảng. Phải nộp đảng phí.” (3). Đoàn kết trong Đảng để thực hiện Đảng cương của Đảng, bởi: “Đảng cương là lý luận nền tảng. Đảng dùng lãnh đạo cách mạng. Nó đảm bảo cho chính trị thống nhất, tư tưởng thống nhất của Đảng. Vì vậy, mỗi đảng viên nhất định phải thừa nhận và theo đúng Đảng cương. Nếu không vậy, thì tư tưởng sẽ rối loạn, ý kiến sẽ lung tung, Đảng sẽ yếu đuối, rời rạc không làm được gì” (4).
Đoàn kết, thống nhất trong Đảng để thực hiện tốt Đảng chương của Đảng. “Đảng chương là một văn kiện quy định: Phương pháp hành động, hình thức tổ chức, khuôn phép sinh hoạt nội bộ của Đảng. Nó bảo đảm tổ chức thống nhất của Đảng. Vì vậy, mỗi đảng viên phải tuyệt đối thừa nhận và làm đúng Đảng chương. Nếu không vậy, nếu ai muốn làm sao thì làm, thì kết quả sẽ đưa Đảng đến chỗ tan rã... Mỗi đảng viên phải tuyệt đối tuân theo kỷ luật của Đảng. Có như vậy mới thành một Đảng đoàn kết chặt chẽ, ý chí thống nhất, hành động nhất trí. Đảng cương và Đảng chương là để đảm bảo sự thống nhất của Đảng về chính trị, về tư tưởng, về tổ chức, về hành động. Đó là cái nguồn gốc của lực lượng của Đảng” (5). Một trong những tiêu chí đánh giá sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là gữi gìn kỷ luật của Đảng. Theo Bác: “Nhờ kỷ luật của Đảng mà đoàn kết, nhất trí, mạnh mẽ để lãnh đạo nhân dân đến thắng lợi. Sự nghiệp cách mạng của Đảng do đảng viên mà hoàn thành, cho nên mọi đảng viên phải thật thà chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng. Lợi ích của Đảng là lợi ích chung, đảng viên phải ra sức giữ gìn nó, cái gì trái với nó, thì đảng viên phải kiên quyết đấu tranh chống lại” (6). Một trong những nguyễn tắc bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng là nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Bác khẳng định: “Chỉ có Đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật sự dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên - mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ, càng đồng tâm nhất trí, càng tiến bộ không ngừng, càng chắc chắn thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh” (7). Nếu toàn Đảng đoàn kết nhất trí, toàn dân đoàn kết nhất trí dưới sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu thi hành đường lối của Đảng thì nhất định “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”, làm cho danh dự của Đảng, vai trò của Đảng càng lớn, Đảng ta càng vĩ đại.
Với Hội nghị thành lập Đảng, tên gọi mới của Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm cho Đảng tiếng nói chung, “mẫu số chung” cho cả ba tổ chức cộng sản. Đó là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trên cơ sở một đường lối, chính cương, sách lược đúng, thống nhất trên cơ sở điều lệ đúng, vừa bảo đảm được dân chủ nhưng vừa tuân thủ tập trung. Từ khi ra đời, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ cách mạng trong đó đều thể hiện sự đoàn kết đúng như lời nhận định của Người: “Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người”. Trong lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm tám chữ là: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đây không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà cũng là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, vì nó là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.
Giáo sư Trần Văn Giàu đã nhận xét: “Đến Cụ Hồ thì đại đoàn kết được xây dựng trên cả một lý luận chứ không còn đơn thuần là tình cảm tự nhiên của người trong một nước phải thương nhau cùng”(
😎
. Theo số liệu thống kê, trong 1.921 bài viết của Bác có tới 839 bài Người đề cập đến vấn đề đoàn kết thống nhất và có tới 1.809 lần Bác dùng từ “đoàn kết”, “đại đoàn kết”. Trong Di chúc, chỉ có chưa đầy 20 dòng nói về Đảng nhưng đã có đến 5 lần Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến “đoàn kết”. Người khẳng định: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Không chỉ nói đoàn kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nói đến ba cụm từ: “Đoàn kết chặt chẽ”, “Đoàn kết nhất trí”, “Đoàn kết và thống nhất” và đặc biệt là Người dùng hình ảnh “con ngươi của mắt” ví với vấn đề đoàn kết. Ở một văn bản quan trọng đã nhiều năm suy ngẫm, ở một con người mà văn phong đã được cân nhắc từng câu, từng chữ, thì những cụm từ này càng có ý nghĩa sâu sắc. Nó không chỉ là điệp khúc trong bản anh hùng ca của Đảng và dân tộc, tạo ra sức mạnh vô địch để làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Nó còn là ý niệm và hành động thường trực trong bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh và rồi khi Người đi xa, nó sẽ tiếp tục là ý thức thường trực, là phương châm hành động của những người cộng sản Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “trong Đảng cần phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”. Một lần nữa, lời dạy của Bác thể hiện mối quan tâm đến sự đoàn kết thống nhất thực sự trong tư tưởng và hành động của Đảng chứ không phải là cái vỏ bề ngoài. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tổ chức Đảng là đơn vị chiến đấu phải mạnh trong thực chất chứ không phải là trên hình thức. Quan điểm của Người là: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(9). Mọi sự đoàn kết giả tạo, xuê xoa, đoàn kết về hình thức thì trước sau cũng không thể tồn tại. Đoàn kết phải dựa trên nền tảng dân chủ vì chỉ có trên cơ sở dân chủ nội bộ thì đảng viên mới thật sự trung thực, chân thành, thẳng thắn với nhau.
Trong Di chúc của mình, bản sửa năm 1965, bên cạnh dòng chữ được đánh máy “Trong Đảng thực hành dân dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn bổ sung một dòng chữ viết tay phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Lời nhắc nhở này là một luận điểm rất quan trọng về đoàn kết trong Đảng. Nó cho thấy, bên cạnh tính kiên quyết trong tự phê bình và phê bình, Bác rất chú trọng tới cái tâm trong sáng trong sinh hoạt Đảng, cái “tình” trong đoàn kết, trong cuộc sống của Đảng. Không xuất phát từ “tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” thì mọi cuộc tự phê bình và phê bình sẽ đưa lại kết quả không tốt đẹp, thậm chí, có thể tạo nên một bầu không khí đấu đá, một cuộc thanh trừng trong Đảng. Điều đó chỉ làm suy yếu sức mạnh của Đảng mà thôi. Kết hợp với dân chủ, tình đồng chí thương yêu lẫn nhau sẽ tạo được bầu không khí cởi mở, tin cậy, khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo để xây dựng Đảng, xây dựng đất nước. Luận điểm này là một cống hiến lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho ngành khoa học xây dựng Đảng và vô cùng phù hợp khi đặt trong hoàn cảnh cụ thể của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như tâm lý, truyền thống “có lý, có tình” của của người Việt Nam.
Trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, mặc dù các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội có nhiều âm mưu phá hoại, xuyên tạc, nói xấu Đảng ta, nhưng nếu toàn Đảng đoàn kết, nhất trí như những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì không có thế lực nào có thể phá hoại được. Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ huy dàn nhạc cử bài “Kết đoàn” sẽ in sâu vào trong tâm khảm của mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta ngày hôm nay, để chúng ta cùng phát huy những thành tựu đã đạt được, kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, yếu kém, tiếp tục phấn đấu vươn lên, góp phần xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với yêu cầu của thời kỳ mới, xứng đáng với công sức và niềm tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.
St

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH

 Trong xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về nội dung tự phê bình và phê bình. Theo Người, tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén để chiến đấu và chiến thắng với những sai lầm, khuyết điểm, là quy luật sống còn đối với sự tồn tại, phát triển của Đảng ta.

Theo Người: "Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau"1. Tự phê bình và phê bình theo tư tưởng của Bác là phải có quan điểm toàn diện, phải chú ý cả ưu điểm và khuyết điểm, phải kết hợp chặt chẽ cả hai mặt tự phê bình và phê bình. Điều này tưởng như đơn giản, nhưng trước kia cũng như hiện nay, đã có không ít cán bộ, đảng viên thường tiến hành phê bình một cách phiến diện, chỉ nêu khuyết điểm mà ít chú ý ưu điểm của đồng chí; chỉ đi phê bình người, mà ít quan tâm tới tự phê bình mình. Đây là căn bệnh phải kiên quyết khắc phục. Song, để khắc phục được nó, chắc chắn phải là một quá trình đấu tranh lâu dài, đòi hỏi mỗi người cán bộ, đảng viên phải có ý thức tự giác và tinh thần trách nhiệm rất cao.
Sinh thời, Bác Hồ kịch liệt phê phán thái độ "dĩ hòa vi quý", e dè nể nang, che dấu khuyết điểm, ngại đấu tranh phê bình. Người luôn nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống thói "trước mắt thì nể, kể lể sau lưng". Người đã phân tích một cách sâu sắc, sinh động về thái độ nể nang, né tránh đấu tranh phê bình và tự phê bình rằng: "Nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào tự bỏ thuốc độc cho mình!"2. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, thái độ e dè, nể nang, né tránh tự phê bình và phê bình vẫn còn tồn tại ở một số đảng bộ, chi bộ. Nhìn chung, đảng viên ngại phê bình cán bộ và cán bộ cấp dưới ngại phê bình cán bộ cấp trên. Cá biệt, có trường hợp, cán bộ cấp dưới chẳng những không phê bình cán bộ cấp trên, mà còn nịnh nọt, tâng bốc cán bộ cấp trên để nhằm vụ lợi. Thực tế ở đại hội đảng bộ các cấp vừa qua cho thấy, thái độ né tránh tự phê bình và phê bình còn diễn ra ở một số đảng bộ, chi bộ. Đặc điểm nổi lên là, báo cáo chính trị của một số đại hội chủ yếu trình bày thành tích, ưu điểm, mà ít chú ý tới thiếu sót, khuyết điểm. Không khí thảo luận ở một số đại hội còn xuôi chiều, tán dương thành tích, tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình và phê bình còn hạn chế.
Để tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả thiết thực, Hồ Chí Minh luôn quan tâm giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về mục đích, ý nghĩa của việc tự phê bình và phê bình. Người đã nhiều lần nhấn mạnh, tự phê bình và phê bình là để cho mọi người học tập ưu điểm của nhau, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, cùng nhau đoàn kết thống nhất, cùng nhau tiến bộ, trưởng thành. Theo Người, muốn đạt được mục đích cao đẹp nêu trên, thì khi tiến hành tự phê bình và phê bình, mỗi người cán bộ, đảng viên phải có động cơ, thái độ và phương pháp phê bình đúng; đồng thời, phải luôn gương mẫu trong thực hiện tự phê bình và phê bình. Người đã nhiều lần xác định, động cơ phê bình đúng là động cơ trong sáng, thái độ chân tình, hết lòng vì sự tiến bộ của đồng chí. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên: "Phê bình thì phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật - mục đích là cốt sửa chữa, chứ không phải để công kích, cốt giúp nhau tiến bộ, chứ không phải làm cho đồng chí khó chịu, nản lòng"3.
Về phương pháp phê bình đúng, Người chỉ rõ, cách phê bình phải sao cho "thấu lý, đạt tình", "Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa"4. Thực tế tiến hành tự phê bình và phê bình ở nhiều đảng bộ, chi bộ đã khẳng định rằng, chỉ có động cơ trong sáng, thái độ chân tình, mềm dẻo, lời lẽ thuyết phục, thì tự phê bình và phê bình mới đem lại hiệu quả cao.
Người khuyên cán bộ, đảng viên phải có thái độ tiếp thu phê bình đúng mực, khi bị phê bình "phải vui lòng nhận xét để sửa đổi" và không vì bị phê bình mà "nản chí hoặc oán ghét". Theo Người, điều quan trọng là phải thành tâm sửa hết khuyết điểm và có nhiều biện pháp khắc phục hết sai lầm. Tiếp thu phê bình là khâu cuối cùng của quá trình tự phê bình và phê bình. Chúng ta đều biết rằng, cho dù có nội dung phê bình đúng, có động cơ phê bình tốt, có phương pháp phê bình hay, nhưng cán bộ được phê bình không thành thật tiếp thu, không tự giác sửa chữa khuyết điểm, thì phê bình không thể đạt được kết quả. Chính vì thế, tiếp thu phê bình đúng mực là vấn đề cực kỳ quan trọng. Để tiếp thu phê bình đúng mực, cán bộ, đảng viên được phê bình phải thực sự cầu thị, cầu tiến bộ, phải nghiêm khắc tự đấu tranh với bản thân mình để vừa loại bỏ tính chủ quan, bảo thủ; vừa loại bỏ tính tự ti, nản chí. Đối với đảng bộ, chi bộ, phải có lòng khoan dung, độ lượng, tìm mọi cách để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm. Đặc biệt, phải kịp thời cổ vũ động viên, trân trọng với những bước tiến nhỏ của cán bộ, đảng viên có quyết tâm sửa chữa khuyết điểm. Thực hiện tốt các vấn đề trên, thì nhất định cán bộ, đảng viên sẽ tiếp thu phê bình đúng mực, hiệu quả tự phê bình và phê bình sẽ được nâng cao.
Khi tiến hành phê bình, mỗi cán bộ, đảng viên phải bình tĩnh, lời lẽ rõ ràng, nhẹ nhàng, tinh tế. Bất kỳ cán bộ cấp nào, khi tiến hành phê bình cũng không được dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc và phải chú ý chỉ phê bình việc làm sai, chứ không phê bình con người. Đặc biệt, trong tiến hành phê bình, chúng ta kiên quyết phản đối thái độ thiếu xây dựng, thái độ "đao to búa lớn", "truy chụp vu cáo", lợi dụng phê bình để moi móc, công kích. Khi tự phê bình và phê bình, mọi cán bộ, đảng viên cần chú ý chỉ rõ nguyên nhân thiếu sót, khuyết điểm; đồng thời, nêu rõ những biện pháp cụ thể để sửa chữa, khắc phục. Trên cơ sở thực hiện được tự phê bình và phê bình như vậy, nhất định đảng viên sẽ tiến bộ, tổ chức đảng sẽ vững mạnh, trưởng thành.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng Đảng đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nỗ lực phấn đấu, rèn luyện toàn diện. Trong đó, vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện có hiệu quả tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết để góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ mới./.
St

GHI CHÉP: VỰC DẬY SAU ĐAU THƯƠNG, ƯƠM MẦM SỐNG MỚI

 Trận lũ ống, lũ quét gây ra sạt lở kinh hoàng ở Làng Nủ (xã Phúc Khánh, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai) đã biến ngôi làng cư dân quần tụ đông đúc trở thành một bình địa trắng với bùn lầy nhão nhoét, nước suối cuộn đục ngàu. Sau trận sạt lở, các lực lượng đã tích cực tìm kiếm những nạn nhân nằm ở đâu đó dưới lớp bùn sâu, bên bìa rừng, khe suối. Trên mảnh đất chất chứa nỗi buồn tang thương ấy, tất cả cùng chung sức đồng lòng tìm kiếm nạn nhân, cứu trợ thân nhân người bị nạn và khẩn trương tiến hành tái thiết cuộc sống mới cho người dân Làng Nủ

Cơn lũ đi qua, nỗi đau để lại
Chiều Làng Nủ phủ đầy bóng hoàng hôn. Con đường mòn ven làng khi lũ tràn qua ngập đầy bùn thì nay đã khô lại. Vết chân người in trên đất chằng chịt, đường cuộn đầy bụi. Thường ngày, trên con đường ấy trẻ em vui đến trường, xe chạy bon bon lên phố huyện, người làng dắt trâu bò đủng đỉnh ra đồng. Nhịp sống yên bình dưới thung lũng Làng Nủ đẹp như một bức tranh. Thế mà chỉ một cơn lũ kinh hoàng, tất cả bị san phẳng chìm sâu dưới bùn nâu lạnh ngắt. Trời xám màu tang thương.
Lặng bước trên con đường làng, chị Sầm Thị Nhiên như người vô hồn. Những bước chân mệt mỏi rã rời. Cả 5 người trong gia đình chị bị vùi dưới bùn sâu. Những ngày qua chị vật lộn kiếm tìm mà lòng đau như cắt. Được lực lượng chức năng hỗ trợ, những người thân bị nạn lần lượt được tìm thấy đưa về. Bàn tay chị tự lo chôn cất trong nỗi đau đớn xót xa. Chồng chị Nhiên bị thương nặng phần đầu, con gái nhỏ 7 tuổi bị gãy chân, thương tích đầy mình đang nằm điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Bảo Yên. Thương chồng con nhưng chị chưa thể gặp mặt vì còn lo chuyện hậu sự ở nhà. Vừa mới chôn cất bà nội trở về, chị Nhiên nói trong nước mắt: “Em lo chồng con em lắm. Cả hai bị thương nặng không biết sau này có phục hồi không”.
Tôi vẫn ám ảnh bởi tiếng gào như xé ruột của chị Hoàng Thị Bóng trên đường vào Làng Nủ. Chị khóc thương người chồng xấu số. Ngôi nhà chị Bóng trước đây ở giữa làng được xây dựng khang trang bằng số tiền tích góp của gia đình cộng thêm vay mượn người thân. Có nhà, niềm vui nhen lên trên từng gương mặt các thành viên. Người chồng ở nhà chịu khó cấy trồng, chăn nuôi. Còn chị Bóng lên thành phố Lào Cai xin làm giúp việc. Trước khi đi, chị dặn chồng cẩn thận: “Mình ở nhà, em đi xa kiếm ít tiền, đủ trả nợ thì về”. Lời dặn trước lúc đi xa nào ngờ lại là lời cuối vợ chồng tâm sự với nhau. Chị mãi mãi không gặp lại người chồng. Đi ven suối, tiếng người phụ nữ dân tộc Tày cứ gào lên thảm thiết: “Các chú ơi, tìm chồng giúp tôi với…”.
Anh Hoàng Văn Thới kê khai thông tin thân nhân bị nạn
Nỗi đau không dễ gì nguôi ngoai khi chỉ còn một mình không có người thân bên cạnh. Anh Hoàng Văn Thới suốt những ngày qua mặt bơ phờ, mắt trũng sâu, người rộc rạc, luôn tự trách mình không thể cứu được mẹ, vợ và 3 con. Cái đêm định mệnh ấy, anh đã đưa 5 người đi tránh trú sạt lở ở nhà họ hàng còn mình ở lại trông nhà. Nơi tránh trú tưởng là an toàn ngờ đâu lại hứng chịu trận sạt lở kinh hoàng. Cả 5 người đã nằm sâu dưới bùn đất. Anh còn một mình cứ lang thang dọc bờ suối, khe sâu. Có lúc chân anh khuỵu xuống, mong tìm người thân để đưa về an táng. Khi được gọi đến nhận quà hỗ trợ, người đàn ông ngoài ba mươi tuổi lại bật khóc.
Thôn Làng Nủ trước khi bị sạt lở vùi lấp có cư dân quần tụ đông đúc, nhiều gia đình khá giả xây được nhà hai tầng khang trang. Trận sạt lở kinh hoàng cuốn trôi 35 ngôi nhà làm 56 người chết, 11 người mất tích, 14 người bị thương đang điều trị tại bệnh viện. Trong đó, có 2 gia đình người bị t.ử n.ạ.n hết không còn một ai.
Trong những ngày chỉ đạo công tác tìm kiếm các nạn nhân tại Làng Nủ, ông Trịnh Xuân Trường, Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai chia sẻ: “Đây là trận sạt lở kinh hoàng, chưa bao giờ thiệt hại về người lại lớn như vậy”. Nhiều ngày qua những con số nạn nhân mất tích vẫn cứ ám ảnh khi chưa thể xóa đi trên bản đồ tìm kiếm. Họ vẫn nằm đâu đó mà chưa thể trở về để người thân vơi đi nỗi mong ngóng chờ trông.
Bộ đội hết mình vì người dân Làng Nủ
Trong những ngày qua chứng kiến những việc làm nghĩa tình của bộ đội, tôi càng thấm thía lời của Trung tá Lương Vĩnh Phúc, Phó chính ủy Trung đoàn 98 (Sư đoàn 316, Quân khu 2): “Chúng tôi về với dân như trở về nhà. Bộ đội giúp dân tận tâm tận lực, bằng cả trái tim”.
Khi nhận lệnh tìm kiếm cứu nạn ở Làng Nủ, 300 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 98 đã thức trắng đêm để làm công tác chuẩn bị vật chất và tức tốc cơ động thực hiện nhiệm vụ. Mặc dù trước đó, bộ đội đã dầm mình chống lũ ở huyện Hạ Hòa (tỉnh Phú Thọ). Không để bà con chờ mong, bộ đội xuyên đêm về Làng Nủ. Đường đi uốn theo sườn núi quanh co, mưa tuôn xối xả, đất đá sạt lở chắn lối. Không quản hiểm nguy, bàn tay bộ đội lại xúc đất mở đường. Đoàn xe nối đuôi nhau ôm cua tiến về tâm sạt lở. Khi thấy bóng những chiến sĩ đặt chân xuống con đường ngập bùn lầy lội, người dân đã ào chạy ra hô lên: “Bộ đội về rồi, bà con ơi!”.
Bộ đội về, bà con sẽ không đơn độc, địa phương có điểm tựa để tìm kiếm nạn nhân, khắc phục hậu quả bão lũ. Những công việc chất chồng được triển khai nhanh chóng. Sở chỉ huy tìm kiếm cứu nạn được thiết lập ngay tại thực địa cạnh khu vực sạt lở. Các lực lượng tìm kiếm, thông tin, cảnh giới, cứu hộ cơ động thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công hiệp đồng. Những người lính mặc áo phao, đeo găng tay, chân đi ủng, mang trên mình dây kéo, bình tông, áo mưa, dũng cảm tiến về phía sạt lở. Trận chiến đấu vô cùng gian nan khi bãi sạt lở có phạm vi 24 ha. Bùn sâu ngập ngang bụng. Dưới sình lầy, cây cọc lổng chổng, rác thải ngập ngụa, chứa đầy vật sắc nhọn. Nước từ thượng nguồn vẫn đổ về cuộn lên đục ngầu. Trên cao đất đá no nước, chực chờ đổ ập xuống bất kỳ lúc nào. Bao nhiêu gian khó và cả những hiểm nguy luôn rình rập. Thế nhưng những người lính không chùn bước. Họ ngập mình dưới bùn sâu, lật từng cọc gỗ, bới từng đống rác để tìm nạn nhân. Có những tổ, nhóm đi hàng chục ki-lô-mét men theo suối xuôi về hạ lưu để tìm vớt thi thể.
Vất vả và cả những hiểm nguy luôn thường trực khi điều kiện địa hình, thời tiết không ủng hộ. Ban ngày trời nắng như rang nhưng đêm xuống lại sầm sập đổ mưa. Có khi bộ đội đang tìm kiếm thì tín hiệu từ các vọng quan sát cảnh giới báo tin, tiếng kẻng báo động vang lên thất thanh khi nước từ trên thượng nguồn bất ngờ đổ về hay điểm sạt lở trên núi cao ập xuống. Các chiến sĩ gắng sức chạy từ dưới điểm sạt lở lên bờ, áo quần lấm bết bùn đất.
Cùng với các lực lượng chức năng, cán bộ, chiến sĩ Trường trung cấp 24 Biên phòng phối hợp tham gia tìm kiếm các nạn nhân mất tích ở Làng Nủ. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, những người lính quân hàm xanh đã sử dụng “đội quân đặc biệt” là những chú chó nghiệp vụ được huấn luyện bài bản và từng tham gia nhiều hoạt động tìm kiếm cứu nạn trong nước và quốc tế. Trong công tác tìm kiếm cứu nạn càng về sau càng gặp khó khăn do điều kiện địa hình thay đổi, các loại mùi gia súc gia cầm, cá chết, cỏ cây thối rữa pha tạp. Mỗi chú chó với khả năng đặc biệt đã xông xáo lội bùn, chui rúc vào những nơi thấp hẹp tích cực đánh hơi, tìm kiếm nạn nhân.
Trong những ngày qua không thể kể hết những khó khăn vất vả của bộ đội. Khu vực sạt lở chứa trong đó là bùn lầy, đá hộc, đinh, dao sắc nhọn. Nhưng cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 316 (Quân khu 2) sẵn sàng lao xuống với tinh thần nước lũ rút ra thì bộ đội tiến vào, không một ai chùn bước. Và đã có những giọt máu thấm bùn. Binh nhì Thào Mí Lình, chiến sĩ, Đại đội 5, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 98 (Sư đoàn 316) bị đinh nhọn cắm sâu vào lòng bàn chân khiến máu chảy rất nhiều. Quân y đã khẩn trương sơ cứu, chích rộng vết thương khử trùng, tiêm phòng uốn ván và đưa Lình đi viện điều trị. Ở khu vực tâm sạt lở, Binh nhất Phùng Như Quyền, chiến sĩ, Đại đội 7, Tiểu đoàn 8 và Hạ sĩ Đỗ Tiến Nam, chiến sĩ, Đại đội 6, Tiểu đoàn 8 cũng bị vật sắc nhọn đâm vào bàn chân. Thế nhưng khi vết thương tạm ổn, hai đồng chí đã xung phong xin ra viện trở về chung sức cùng đồng đội ở Làng Nủ.
Vất vả, khó khăn và cả những hiểm nguy luôn thường trực thế nhưng không một ai ngại khó, ngại khổ. Trước khi thực hiện nhiệm vụ, đơn vị đã tổ chức quán triệt chặt chẽ, động viên tư tưởng bộ đội. Tất cả đều hăng hái coi cứu người bị nạn như cứu người thân trong gia đình mình. Cùng hành quân tìm kiếm với bộ đội khắp lòng suối, bìa rừng, Trung tá Lương Vĩnh Phúc, Phó chính ủy Trung đoàn 98 cho biết: “Bộ đội nhìn thấy mất mát ngoài thực địa đều chia sẻ nỗi đau sâu sắc với bà con. Cán bộ, chiến sĩ nhìn khu sạt lở càng hiểu khối lượng công việc rất lớn, rất khó khăn. Thế nhưng, động lực tiếp sức ấy là tinh thần vì nhân dân. Khi bên cạnh người chiến sĩ luôn có đồng đội thì khó khăn đến mấy cũng vượt qua”.
Trong bóng chiều chạng vạng, đồng chí Phó chính ủy Trung đoàn 98 đi cùng bộ đội bỗng dừng lại. Anh lấy trong túi lọ dầu gió ra rồi nhỏ vài giọt vào khẩu trang đeo lại cho chiến sĩ. Mùi dầu gió át đi mùi hôi khó chịu. Thì ra đã có nạn nhân được tìm thấy. Một nhóm chiến sĩ gạt bùn đất đưa thi thể nạn nhân về bàn giao cho gia đình. Niềm mong ngóng của thân nhân người bị nạn vơi đi phần nào nhờ công sức của những chiến sĩ đã dấn thân nơi gian khó, hiểm nguy.
Hơi ấm tình người
Đêm ở Làng Nủ bóng tối xuống nhanh. Núi cao im lìm lừng lững như những người khổng lồ đen ngòm đang nằm ngủ. Nhìn có vẻ yên bình và tĩnh lặng đấy, thế nhưng khi núi khẽ cựa mình trở dậy là sạt lở, là sập đổ, là tan hoang. Ngồi trong nhà, bà cụ Hoàng Thị Thủy cứ lẩm nhẩm cầu khấn xin trời đừng đánh sấm tạo mưa, chọc tức những quả núi đã uống no bụng nước. Mưa xuống, từng mảng đất sẽ ập đổ bất cứ lúc nào. Trong căn nhà sàn nhỏ, mấy chục chiến sĩ đang nằm nghỉ sau một ngày tìm kiếm mệt nhoài. Nghe tiếng sấm rền, cả chủ nhà và bộ đội đều thao thức âu lo, mong sao trời đừng đổ mưa, để việc tìm kiếm nạn nhân được thuận lợi, để mảnh đất này bớt đi những nguy hiểm rập rình.
Sớm hôm sau, những chiến sĩ trẻ lại tiếp tục hành quân ra hiện trường vụ sạt lở. Đồng hành cùng bộ đội là bà con Làng Nủ. Nhiều người dân xung phong vào các tổ tìm kiếm, dẫn đường, canh gác, cảnh giới vị trí có nguy cơ sạt lở ở phía núi cao. Người dân phối hợp chặt chẽ trong công tác cung cấp thông tin để việc tìm kiếm đạt hiệu quả. Từng tốp, từng nhóm cứ thế lặng lẽ dầm mình dưới bùn sâu, nước lạnh để tìm người bị nạn. Khi quá trưa trở về, tất cả lại cùng nhau ăn bữa cơm chung dưới nếp nhà sàn. Dẫu vất vả nhọc nhằn nhưng không một lời kêu than. Bộ đội giúp dân, dân càng thương bộ đội.
Làng Nủ trong những ngày đau thương, ngọn cờ treo rủ trên nóc nhà văn hóa. Cùng với bộ đội, các lực lượng đều hướng về nơi đây, chung sức đồng lòng trong công tác tìm kiếm hỗ trợ người dân. Suốt những ngày qua, bà Hoàng Thị Sợi thơ thẩn đi tìm con cháu. Bốn người trong gia đình bà đã t.ử n.ạ.n. Bà đau như cắt từng khúc ruột. Nhà không còn để về. Khi các đoàn thiện nguyện đến, địa phương mời bà đến nhận hỗ trợ. Nhận gói quà trên tay mà nước mắt bà ngắn dài chỉ ngậm ngùi cúi đầu cảm ơn. Một miếng khi đói bằng một gói khi no, những sự giúp đỡ lúc này thực sự quý báu. Bà Sợi đón nhận tấm lòng của đồng bào giúp đỡ để lo cuộc sống sau này.
Thương người trong cơn hoạn nạn, cộng đồng cùng chung tay giúp đỡ người dân Làng Nủ. Khi biết tin nhiều hộ gia đình mất người thân, nhà cửa sập đổ, các hộ dân ở tổ 9A, thị trấn Phố Ràng (huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai) đã tự nguyện quyên góp thực phẩm đến nhà chị Đào Thị Ninh để cùng nấu ăn tiếp tế cho người dân Làng Nủ và các đoàn xe thiện nguyện chạy trên dọc đường. Hay như các gia đình trong thôn Bảo Vinh (xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai) mặc dù bị ảnh hưởng của mưa lũ ngập nhà nhưng mọi người đã gác lại việc riêng đến tận Làng Nủ nấu hàng trăm suất cơm hỗ trợ bà con nơi đây. Những hộp cơm nóng, canh ngọt tuy nhỏ nhưng thực sự nghĩa tình giúp sưởi ấm lòng người giữa những ngày đau thương tê tái.
Con đường từ trung tâm huyện Bảo Yên về tới Làng Nủ quanh co đèo dốc, sạt lở liên tiếp thế nhưng từng đoàn xe vẫn theo nhau tiến vào. Trên mỗi tấm băng rôn in những khẩu hiệu giản dị mà ấm áp: “Đoàn xe thiện nguyện về vùng bão lũ”, “Tất cả vì bà con Làng Nủ”, “Mỗi chuyến xe triệu tấm lòng”… Quả thực, mỗi chuyến xe thiện nguyện chất chứa trong đó biết bao tình cảm sẻ chia của đồng bào trong cả nước. Chị Từ Thu Thủy trong đoàn thiện nguyện ở huyện Nhơn Trạch (tỉnh Đồng Nai) chia sẻ: “Khi biết chúng tôi ra đây hỗ trợ bà con Làng Nủ, người thì góp bao gạo, thùng mỳ, người thì ủng hộ hộp bánh, bịch sữa. Họ đến gửi gắm mà nước mắt rưng rưng, mong sao những món quà nhỏ sớm đến tay người bị nạn”.
Những đoàn xe từ Đồng Nai, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Hà Tĩnh, Thanh Hóa… cứ nối đuôi nhau về đây. Họ thấu hiểu và cảm thông sự khó khăn, thiếu thốn của người dân Làng Nủ, bởi chính họ cũng đã từng bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh và nhận được sự hỗ trợ kịp thời. Địa phương đã đứng ra tiếp nhận những tấm lòng thơm thảo của đồng cả nước và trao lại cho người dân Làng Nủ. Ông Đoàn Xuân Hưng, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Bảo Yên, Trưởng ban vận động cứu trợ huyện Bảo Yên chia sẻ: “Hơn 300 đoàn đã đến ủng hộ bà con bị thiệt hại do ảnh hưởng của bão số 3 gây ra. Đây là sự hỗ trợ hết sức quý báu giúp người dân vơi bớt khó khăn, sớm khắc phục hậu quả để ổn định cuộc sống”.
Cơn bão đi qua để lại hậu quả nặng nề. Nhưng trong đau thương hoạn nạn càng thấy tình quân dân, nghĩa đồng bào thực sự ấm áp, nghĩa tình. Cách đó chừng hơn 1 ki-lô-mét, chính quyền địa phương, bộ đội, dân quân chung sức dựng 25 ngôi nhà tạm để người dân mất nhà trở về tạm trú. Và xa hơn, khu tái định cư mới được khởi công xây dựng trên khu vực đồi Sim (rộng khoảng 10ha). Khu vực này cách chỗ sạt lở thôn Làng Nủ khoảng 2 ki-lô-mét. Các ngôi nhà được xây dựng theo kiến trúc truyền thống của đồng bào dân tộc Tày, đồng thời đảm bảo các điều kiện sinh hoạt và sản xuất. Về khu ở mới, người dân Làng Nủ sẽ có 300m2 đất ở, 500-1.000m2 đất để trồng rau, chăn nuôi. Khu đất mới qua khảo sát được xác định bảo đảm an toàn, có các điều kiện phù hợp cho đồng bào sinh kế./.
ST

Lật tẩy những luận điệu lạc lõng, xuyên tạc về hoạt động của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hoa Kỳ

 Vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tham dự Hội nghị Thượng đỉnh tương lai, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 79 và làm việc tại Hoa Kỳ.

NÂNG CAO HIỆU QUẢ SINH HOẠT TƯ TƯỞNG

 Sinh hoạt tư tưởng là một nội dung quan trọng trong sinh hoạt chi bộ nhằm giúp đảng viên có nhận thức, hiểu biết đúng đắn đối với những vấn đề cuộc sống đặt ra theo quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là với những vấn đề đang có ý kiến khác nhau. Qua đó, góp phần tích cực phòng, chống những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của đảng viên trong chi bộ.

Ý nghĩa của sinh hoạt tư tưởng
Sinh hoạt tư tưởng vừa giải quyết vấn đề tư tưởng, vừa góp phần vào việc xử lý những vấn đề cụ thể của chi bộ, đơn vị. Một cuộc sinh hoạt tư tưởng có hiệu quả có nhiều ý nghĩa thiết thực:
Là dịp để đảng viên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, trong việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và trong công tác xây dựng đảng…
Là cơ hội để mỗi đảng viên thể hiện những suy nghĩ, bức xúc mà vì một lý do nào đó chưa có dịp bày tỏ, kể cả những việc của cá nhân hoặc những việc của cơ quan, đơn vị, tổ chức đảng và các vấn đề khác của xã hội.
Đảng viên hiểu, chia sẻ và thông cảm, gắn bó, trân trọng nhau hơn. Mỗi đảng viên tự mình và giúp nhau tu dưỡng, rèn luyện, học tập để nâng mình lên. Từ đó thông suốt tư tưởng, đoàn kết nhất trí, có thêm động lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Là dịp để đảng viên điều chỉnh suy nghĩ, nhận thức chưa đúng, tránh trở thành “cái loa” tuyên truyền cho những luận điệu xấu, nhất là khi thiếu thông tin mà ngộ nhận điều sai trái là đúng.
Đối với cấp ủy, sinh hoạt tư tưởng là dịp để phát hiện đảng viên trong chi bộ có những biểu hiện không bình thường, lệch lạc về nhận thức, tư tưởng, tình cảm và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Bởi khi đảng viên có những vấn đề tư tưởng nhưng không bộc lộ, không ai biết, lâu ngày “tự diễn biến” trong tư tưởng, nếu không được khắc phục kịp thời sẽ “tự chuyển hóa”, dẫn đến hành động sai trái để lại hậu quả nặng nề.
Yêu cầu để sinh hoạt tư tưởng đạt hiệu quả
Để buổi sinh hoạt tư tưởng có kết quả tích cực, cần có sự tham gia của nhiều phía:
Thứ nhất, cấp ủy cấp trên nên có định hướng với các chi bộ trực thuộc nội dung sinh hoạt tư tưởng trong chi bộ. Có thể là một phần riêng hoặc lồng ghép trong suốt cuộc họp chi bộ.
Thứ hai, cấp ủy, bí thư chi bộ phải tạo được không khí dân chủ, cởi mở, chân thành và thẳng thắn, tạo điều kiện để mọi người có thể thoải mái trình bày ý kiến của mình mà không lo bị quy chụp, đánh giá tư cách, thái độ. Người chủ trì phải làm chủ, dẫn dắt cuộc trao đổi, tránh để các đảng viên công kích lẫn nhau hoặc tranh luận quá đà, không những không giải quyết được vấn đề tư tưởng mà còn làm trầm trọng thêm. Một chi bộ có những đảng viên có uy tín, am hiểu nhiều lĩnh vực, luôn thẳng thắn và tôn trọng các ý kiến khác nhau, nhất là các đồng chí trong cấp ủy mới có thể đưa ra những ý kiến định hướng thiết thực, xác đáng, thuyết phục.
Thứ ba, mỗi đảng viên cần nhận thức mình phát biểu suy nghĩ cá nhân không chỉ thể hiện chính kiến mà còn góp phần vào việc định hướng tư tưởng cho người khác nên phải có sự chuẩn bị tốt, chọn lọc điều cần nói và bằng một phong cách phù hợp. Tức là, bản thân đảng viên nên tự biết cần nói gì, nói cho ai nghe, nói để làm gì và nói như thế nào. Có như vậy thì sinh hoạt tư tưởng mới thực sự có ích cho mỗi đảng viên và cho chi bộ, cho đơn vị. Nếu có những băn khoăn thì chi bộ chính là nơi tốt nhất để chia sẻ, mọi người cùng nghe và giúp đỡ. Với những chi bộ có sự chênh lệch về trình độ giữa các đảng viên, chính các buổi sinh hoạt tư tưởng tạo điều kiện cho các đảng viên cùng chia sẻ nhận thức, quan điểm rút ngắn khác biệt trong nhận thức, suy nghĩ, tư tưởng và hành động.
Thứ tư, thư ký cuộc họp cần ghi chép trung thực vào biên bản các nội dung liên quan đến sinh hoạt tư tưởng. Cần ghi đầy đủ mọi ý kiến, cả những ý kiến băn khoăn, chưa đúng và những ý kiến định hướng cụ thể, rõ ràng. Tránh ghi vắn tắt hoặc “diễn” lệch lạc, làm người khác đọc biên bản hiểu nhầm, không đúng sự việc.
Trong các buổi sinh hoạt chi bộ, dù là một phần riêng hay lồng ghép thì nội dung sinh hoạt tư tưởng đều rất quan trọng. Sinh hoạt tư tưởng có hiệu quả là điều kiện cơ bản để chi bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới./.
St

THỰC HIỆN CHỮ "KIỆM" THEO LỜI DẠY CỦA BÁC HỒ

 Trong những năm qua, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là học tập và làm theo chuẩn mực "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" đã trở thành phong trào thi đua rộng rãi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và bước đầu đã thu được những kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, tình trạng lãng phí sức người sức của, lãng phí thời gian, lãng phí công quỹ của Nhà nước vẫn còn khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị, địa phương. Chính vì thế, việc đẩy mạnh học tập và thực hiện chữ "Kiệm" theo lời dạy của Bác Hồ là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và cần thiết hiện nay.

Theo Bác Hồ, “Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, hoang phí, bừa bãi. Người còn chỉ rõ, kiệm và cần phải đi đôi với nhau, nó như hai chân của một con người vậy. Người đã từng phân tích rằng, cần mà không kiệm thì "làm chừng nào xào chừng ấy", nó như cái thùng không đáy, nước đổ chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không. Mặt khác, kiệm mà không cần thì không tăng thêm, không phát triển và sẽ dẫn tới thoái bộ, thụt lùi.
Để cán bộ, bộ đội và nhân dân hiểu đầy đủ về chữ kiệm, về tiết kiệm, Bác Hồ đã có nhiều chỉ dẫn rất sâu sắc. Theo Người, tiết kiệm không phải là bủn xỉn, mà những việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Người luôn khẳng định, tiết kiệm là tích cực, là góp phần tiến lên, góp phần phát triển. Bàn về tiết kiệm để đẩy mạnh tăng gia sản xuất, Người đã nhấn mạnh: "Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất là để dần dần nâng cao mức sống của bộ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực"1.
Về nội dung tiết kiệm, Bác Hồ xác định nó được thể hiện ở các vấn đề chủ yếu sau:
- Một là, tiết kiệm sức lao động. Theo Người, có nhiều biện pháp để tiết kiệm sức lao động, nhưng quan trọng nhất là phải biết tổ chức sắp xếp lực lượng cho khéo, phải nâng cao năng suất lao động, phải phấn đấu để "1 người làm bằng 2, 3 người".
- Hai là, tiết kiệm thời giờ. Đây là nội dung tiết kiệm rất quan trọng, nhưng nhiều người lại thường xem nhẹ, bỏ qua. Để mọi người thấu hiểu vấn đề này, Bác Hồ đã khẳng định rằng, thời giờ là tiền bạc. Và, Người đã có lời dạy rất sâu sắc: "Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt đi, là người ngu dại"2. Người luôn nhắc nhở cán bộ và nhân dân phải biết tiết kiệm thời giờ cho mình và tiết kiệm thời giờ cho người khác.
- Ba là, tiết kiệm tiền của. Theo Bác Hồ, tiết kiệm tiền của có quan hệ mật thiết với tiết kiệm sức lao động và tiết kiệm thời gian. Người luôn yêu cầu tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương, tất cả cán bộ, đảng viên phải hết sức chú ý tiết kiệm tiền của của Nhà nước, của nhân dân và của chính mình.
Quán triệt và thực hiện chữ "Kiệm" theo lời dạy của Bác Hồ, trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhiều hoạt động thực hành tiết kiệm cụ thể, thiết thực. Kế thừa Nghị quyết số 21 của Bộ Chính trị (khóa X), Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) đã ra Chỉ thị số 21-CT/TW về việc đẩy mạnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Chỉ thị đã xác định rõ yêu cầu, nội dung, biện pháp cần phải tiến hành của các cấp, các ngành, các địa phương.
Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư, thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Sơn La, Hà Giang, Hải Dương, Hà Nam, Khánh Hòa, Kiên Giang… đã ra chỉ thị về tăng cường thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên địa bàn. Đặc biệt, một số tỉnh, thành ủy còn ra chỉ thị về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong những hoạt động đặc thù như Thành ủy Hà Nội có Chỉ thị số 11 về thực hiện nếp sống văn minh, tiết kiệm trong việc cưới trên địa bàn Thủ đô; Tỉnh ủy Hà Giang có Chỉ thị số 05 về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong tổ chức đón tết nguyên đán…
Về hoạt động của chính quyền, các cơ quan nhà nước đã nhanh chóng luật hóa và chỉ đạo thực hiện quyết liệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Ngày 26-11-2013, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí với sự đồng thuận cao. Tiếp đó, ngày 8-9-2014, Chính phủ đã ra Nghị định số 84/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, góp phần đưa Bộ luật quan trọng này vào cuộc sống.
Căn cứ vào các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp quy của Nhà nước, các cơ quan, đơn vị và các địa phương đã xây dựng nhiều chương trình, kế hoạch về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo phạm vi quyền hạn được xác định. Trên khắp đất nước, các cơ quan, đơn vị và các địa phương đã phát động nhiều phong trào thi đua về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, với nhiều nội dung, biện pháp phong phú, cụ thể, thiết thực. Các phong trào này đã thu được nhiều kết quả, tạo ra sự chuyển biến, tiến bộ trên nhiều mặt, ở nhiều địa bàn. Có thể nói, ở hầu hết các cơ quan, đơn vị và các địa phương đã thực hiện tinh giản biên chế, giảm bớt quỹ lương, hạn chế mua sắm ô tô công, giảm bớt mua sắm trang thiết bị ở các cơ quan công sở, hạn chế tổ chức các lễ hội, các cuộc chiêu đãi, tiệc tùng tràn lan. Một số điển hình nổi lên như: Bộ Công an từ chối nhận hoa và quà trong dịp kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống của Ngành. Tỉnh Quảng Ninh kiên quyết thực hiện tinh giản biên chế theo quy hoạch đã xác định. Thủ đô Hà Nội thực hiện nếp sống văn minh, trong việc cưới, với tiêu chí lễ cưới không quá 300 khách mời, không tổ chức cưới ở những nhà hàng sang trọng, đắt tiền, tăng cường thiếp báo hỉ thay cho thiếp mời dự tiệc cưới.
Tuy nhiên, những kết quả trên chỉ là bước đầu và hiệu quả đem lại chưa lớn, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả thực hiện chữ ''Kiệm" theo lời dạy của Bác Hồ, trong thời gian tới, các cơ quan, đơn vị và các địa phương cần phải thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, biện pháp, trong đó trước hết cần tập trung thực hiện tốt một số biện pháp chủ yếu đó là:
- Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, tạo sự thống nhất cao về nhận thức ở tất cả các ngành, các cấp, trước hết là cán bộ chủ chốt, thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm về thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" trong những năm tới.
- Gắn các nội dung thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị, các phong trào thi đua của từng ngành, từng địa phương, cơ quan, đơn vị với những chỉ tiêu cụ thể, thiết thực.
- Động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia giúp đỡ, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
- Mỗi cá nhân, đơn vị, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải đặt ra những chỉ tiêu phấn đấu cụ thể về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo cương vị, chức trách được giao.
Tiến hành tốt các biện pháp trên, đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó các đồng chí bí thư cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu trong tổ chức thực hiện. Chỉ có trên cơ sở như vậy, việc thực hiện chữ "Kiệm" theo lời dạy của Bác Hồ mới ngày đạt được nhiều kết quả tốt đẹp./.
ST

NGHĨA ĐỒNG BÀO

 Cũng vì hai tiếng “đồng bào” ấy, mà bao thế hệ đã chiến đấu, hy sinh giải phóng ách nô lệ, giành độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào mình.

Chúng ta, ai cũng từng được nghe sự tích Âu Cơ - Lạc Long Quân với bọc trăm trứng nở ra một trăm người con. Đó chính là cội nguồn của dân tộc Việt Nam, cắt nghĩa hai chữ “đồng bào”, chung một nguồn cội con Rồng - cháu Tiên.
“Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Tiếng “đồng bào” cất lên thật gần gũi, đầy xúc cảm khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2/9/1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cũng vì hai tiếng “đồng bào” ấy, mà bao thế hệ đã chiến đấu, hy sinh giải phóng ách nô lệ, giành độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào mình.
Cơn bão số 3 (Yagi) vừa tàn phá nhiều tỉnh thành phía Bắc được đánh giá là siêu bão, với sức gió giật cấp 15, 16, chưa từng có trong 30 năm trở lại đây. Bão vừa đi qua, thì lũ lụt, sạt lở đất ập về gây biết bao thiệt hại cho Nhà nước và đồng bào. Tính đến nay, đã có hàng trăm người chết và mất tích, con số này còn thay đổi khi tình hình mưa lũ, sạt lở đất vẫn diễn biến phức tạp.
Cũng giống như các đợt thiên tai hoành hành trước, ở đâu đồng bào ta gặp thiên tai, ở đó đều nhận được sự chia sẻ, tinh thần tương thân, tương ái của nhân dân cả nước. Cả hệ thống chính trị gồm chính quyền các cấp, quân đội, công an và nhân dân đều vào cuộc. “Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” thực sự là truyền thống quý báu của dân tộc, là nghĩa đồng bào đã kết tinh vào văn hóa, vào thái độ sống của mỗi người dân Việt Nam.
Tôi thực sự xúc động trước hình ảnh chia sẻ trên mạng xã hội: Những xe ô tô đi chậm để che chắn gió cho người đi xe máy trên cây cầu Nhật Tân, Vĩnh Tuy hoặc trên đường cao tốc khi bão dữ dằn đổ vào Hà Nội. Tôi khâm phục những con người bất chấp nguy hiểm lao vào cứu đồng bào mình trong đống đổ nát do sụt lở đất gây ra. Cơn bão vừa đi qua, ở nhiều địa phương, người dân cùng lực lượng chức năng tự nguyện dọn dẹp, cưa cắt những cây xanh bị đổ để cho bà con được đi lại bình thường.
Với chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và người đứng đầu Chính phủ, không để người dân nào bị đói rét, không có chỗ ở; không để bất cứ ai bị bỏ lại phía sau. Hàng trăm nghìn cán bộ, chiến sĩ bộ đội, công an đã hành quân xuyên đêm vào vùng lũ để cứu giúp người dân. Hình ảnh bộ đội, công an ngâm mình trong nước lũ, cõng trên lưng những bà mẹ già, bế những em bé thoát khỏi vùng nguy hiểm đã trở nên quá đỗi quen thuộc. Họ sẵn sàng vì nhân dân quên mình vì đó là nhiệm vụ của người lính, nhưng trên hết, đó là mệnh lệnh từ trái tim với đồng bào mình.
Cơn bão số 3 vừa đi qua, mưa lớn xối xả, nước lũ tràn về, tin tức về những vùng bị thiệt hại khiến người dân cả nước xót xa. Ngay từ thời điểm ấy, những hội nhóm thiện nguyện, những con người tình nguyện đã kêu gọi mọi người chung tay vì đồng bào nơi thiên tai. “Một miếng khi đói không bằng một gói khi no”, những chuyến hàng cứu trợ xuyên đêm, xuyên mưa đã đến tay đồng bào ở những vùng thiên tai.
Bà con ở Thái Nguyên, Tuyên Quang và nhiều nơi khác nằm trong vùng ảnh hưởng của bão lũ. Người sắp bị ngập thì giúp đồng bào ở những nơi ngập sâu, những hộp cơm thơm dẻo nghĩa tình làm ấm lòng đồng bào trong cơn hoạn nạn.
“Nhà tôi có phòng ở xin được đón bà con vùng thiên tai”, “Tôi có mấy đôi thuyền xin được góp ứng cứu đồng bào vùng lũ”, “Doanh nghiệp của tôi có mười xe tải vận chuyển miễn phí hàng cứu trợ”... Những dòng trạng thái như thế xuất hiện ngày một nhiều trên mạng xã hội.
Trong triệu triệu tấm lòng hướng về đồng bào vùng thiên tai, điều gây cảm xúc lớn cho tôi chính là nhóm phản ứng nhanh ở Huế, ở Quảng Bình. Họ là đồng bào ở khúc ruột miền trung thân yêu, nơi luôn chịu những đau thương, mất mát do bão lũ. Ngay sau khi thấy đồng bào miền Bắc chịu nhiều thiệt hại to lớn do bão, họ đã tình nguyện lên đường. Người nọ nói với người kia, lúc này là lúc phải đền đáp lại nghĩa tình của đồng bào cả nước đối với nhân dân miền Trung, cứ thế, đoàn tình nguyện ngày một đông hơn. Họ đến Hải Phòng, Quảng Ninh cưa cắt cây xanh bị đổ, dọn dẹp đường phố, làm bất cứ việc gì mà địa phương yêu cầu...
Đã có người nói với tôi rằng, xã hội bây giờ, tình nghĩa con người ngày một kém đi. Tôi thì không nghĩ như vậy! Nghĩa đồng bào trong con người Việt Nam ta không bao giờ mất, nó là một “mã gen” bất biến trong mỗi con dân đất Việt; nó ẩn chứa trong dòng máu, trong hơi thở con cháu dòng dõi Tiên - Rồng. Nó tạm lắng ẩn để rồi lại bùng lên mạnh mẽ khi Tổ quốc gặp khó khăn cần chung tay, góp sức; khi đồng bào gặp hoạn nạn cần sẻ chia cứu giúp.
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Câu ca dao ăn sâu vào tiềm thức mỗi người dân Việt Nam, là lời ru của mẹ lúc đầu đời đã thổi vào tâm hồn mỗi chúng ta về cách đối nhân xử thế với đồng bào mình, nhất là trong những thời điểm khó khăn nhất.
Thế giới rồi sẽ biến động, nhưng có một điều không bao giờ thay đổi ở con người Việt Nam chúng ta, đó là nghĩa đồng bào. Tính bất biến trong nghĩa đồng bào, tạo nên sức mạnh nội sinh, giúp chúng ta thêm gắn kết, cùng chung tay đẩy lùi mọi vật cản trên con đường đi tới tương lai ấm no, giàu mạnh của dân tộc./.
St

Tán phát thông tin phá hoại tư tưởng, kích động chống phá

 Với âm mưu lâu dài là xoá bỏ chế độ XHCN, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức phản động lưu vong Việt Tân tiếp tục thay đổi phương thức hoạt động. Các đối tượng triệt để sử dụng không gian mạng để thực hiện “Chiến lược diễn biến hoà bình”, “đấu tranh bất bạo động”; lợi dụng tình hình, vụ việc “nóng” để tiến hành các hoạt động khủng bố, phá hoại, kích động, bạo loạn, biểu tình chống Đảng, Nhà nước.

YÊU CẦU NÊU GƯƠNG VỚI CÁN BỘ HIỆN NAY

 

Đối với cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo phải ra sức rèn luyện, nêu cao bản lĩnh chính trị, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, năng động và sáng tạo. Từ trí tuệ, năng lực và nhân cách của mình mà phấn đấu, cống hiến cho Đảng, đất nước và xã hội, không cơ hội chính trị, không chạy chức, chạy quyền, không tham vọng quyền lực hoặc lợi dụng chức quyền của mình để trục lợi, xếp đặt chức quyền cho người nhà, người thân. Khi tự mình thấy không có đủ năng lực và uy tín hoặc để xảy ra vụ việc nghiêm trọng thuộc trách nhiệm lãnh đạo, quản lý thì nên chủ động từ chức. Cùng với đó, cán bộ, đảng viên cần nêu gương về lập trường quan điểm, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu sai trái, phản động của các thế lực thù địch, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ và kiên định con đường xã hội chủ nghĩa.

 

BIẾT YÊU VÀ BIẾT ĐỦ

 “Biết yêu và biết đủ - nhìn từ cơn bão số 3” là chủ đề diễn đàn của nhiều tổ chức, hội, nhóm người trẻ nhằm lan tỏa những giá trị sống đẹp, trách nhiệm của mỗi người trong việc kiến tạo môi trường sống an toàn, hạnh phúc.

Điều mà chắc hẳn mọi người đều thấy trong cơn bão số 3, triết lý sống của người Việt Nam như “bầu ơi thương lấy bí cùng”, “thương người như thể thương thân” được hiện thực hóa một cách rõ nét. Những giá trị này không chỉ là tục ngữ hay triết lý sống đơn thuần, mà là tất cả sự yêu thương và sẻ chia sâu sắc của cộng đồng, đã trở thành ánh sáng dẫn đường trong thời khắc khó khăn.
Biết yêu thương, sẻ chia mà các diễn đàn đúc rút từ thảm họa của thiên tai, không chỉ là tình yêu với nhân loại, mà còn bao hàm trách nhiệm của mỗi người trong việc kiến tạo môi trường sống an toàn cho cộng đồng. Nhiều người vẫn hy vọng rằng, mất mát, đau thương sau cơn bão sẽ là bài học thức tỉnh lương tri của những ai đã từng hay có ý định đánh cắp, phá hủy tài nguyên và môi trường sống trong lành.
Cơn bão số 3 là lời nhắc nhở mạnh mẽ từ thiên nhiên về những hậu quả mà chính con người gây ra. Chặt phá rừng, khai thác thiên nhiên một cách không kiểm soát đã đẩy chúng ta đối diện với những cơn thịnh nộ của đất trời. Khi thiên nhiên bị tàn phá, dòng nước hiền hòa trở nên hung hãn, cơn mưa nhẹ nhàng trở thành lũ dữ cuốn phăng đi tất cả.
Vì lợi ích cá nhân trước mắt, đâu đó người ta quên mất rằng thiên nhiên là "người bạn", "người mẹ" nuôi dưỡng ta. Khi chúng ta biết đủ, biết trân quý những gì thiên nhiên ban tặng, không tham lam khai thác đến cạn kiệt, thì thiên nhiên sẽ mang lại cho ta sự bình yên và ấm áp. Yêu thiên nhiên, bảo vệ môi trường chính là cách chúng ta cùng kiến tạo một môi trường sống thân thiện, an toàn cho chính bản thân và cộng đồng. Tất cả chúng ta đều phải có trách nhiệm trong việc bảo đảm rằng, không còn một hành động phá hủy môi trường nào được tái diễn.
Những nỗi đau, vụn vỡ khó có thể chữa lành sau cơn lũ dữ cũng khiến chúng ta nhìn lại cuộc sống của chính mình. Hạnh phúc không phải là sở hữu thật nhiều, mà là biết trân trọng những gì mình đang có. Khi bão đến, một căn nhà nhỏ, khoảnh khắc quây quần bên gia đình bỗng trở nên quý giá hơn bao giờ hết. Điều quan trọng là phải biết đủ - đủ yêu thương, đủ bình yên, đủ để cảm thấy hạnh phúc mỗi ngày.
Bài học từ cơn bão số 3 không chỉ nằm ở việc sửa chữa những gì đã mất, mà còn là học cách sống sao để biết yêu và biết đủ, để mỗi ngày, dù mưa hay nắng, chúng ta đều có thể tìm thấy hạnh phúc từ những điều giản dị./.
St

TIẾP TỤC KIÊN TRÌ VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH CỤ THỂ CỦA ĐẤT NƯỚC

 

Quán triệt, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Điều này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu sâu sắc, toàn diện và có hệ thống những di sản tư tưởng, lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh; phải đổi mới tư duy để trở về đúng bản chất hệ thống luận điểm đã hình thành trong những điều kiện lịch sử cụ thể.

Phải đặt những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cả hệ thống như một chỉnh thể, với quan hệ gắn bó giữa các luận điểm.

 Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở khách quan, dám nhìn thẳng vào sự thật và chấp nhận thách thức, cương quyết phê phán những quan điểm đi ngược lại những gì thuộc về bản chất, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin nghĩa là phải nắm vững bản chất khoa học và cách mạng, vận dụng và phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải trên cơ sở thực tiễn xây dựng đất nước, phải luôn tìm tòi sáng tạo những giải pháp đặc thù cho sự phát triển đất nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo, hình thành những giải pháp hợp lý, xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước để từng bước thực hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người toàn diện. Từ định hướng có tính nguyên tắc chung ấy cần phải cụ thể hóa nhanh chóng thành các chính sách, xây dựng cơ chế bảo đảm thực hiện các chính sách để người Việt Nam ngày càng được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cùng với tiến trình phát triển đất nước.

 

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG ĐẢNG, CHỐNG QUAN ĐIỂM ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG

 

Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, tổ chức, cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước không ngừng phát triển.

Tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong tình hình mới; khẳng định bản chất và mô hình của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Hiến pháp năm 2013;

Tuyệt đối không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm tư tưởng chính trị sai trái, thù địch đòi đa nguyên, đa đảng.

 

NƠI NÀO CÓ DÂN, NƠI ẤY CÓ ĐẢNG

 Xác định tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) có vai trò quan trọng, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo mọi mặt hoạt động ở cơ sở, thời gian qua, Đảng bộ huyện Phong Thổ đã chú trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên. Với tinh thần “Nơi nào có dân, nơi ấy có Đảng” mọi chủ trương, đường lối, chính sách đã được cụ thể hóa đi vào cuộc sống giúp thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị được giao, đưa huyện vùng biên ngày càng phát triển.

Đảng - Dân: chan chứa ân tình.
Phong Thổ là huyện biên giới mang trong mình những khó khăn của vùng cao song dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trực tiếp là Đảng bộ tỉnh Lai Châu, huyện Phong Thổ đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thành quả trong gian khó là minh chứng xác thực để trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành, Đảng bộ huyện Phong Thổ càng thêm tin tưởng vào hướng đi đúng đắn, kiên quyết trung thành, kiên định với lý tưởng, mục tiêu một Đảng duy nhất.
Đảng hiện hữu trong tâm trí mỗi người dân.
Trở lại thăm huyện Phong Thổ những ngày tháng 9 khi khắp các tuyến đường trang hoàng cờ, hoa rực rỡ chào mừng kỷ niệm 79 năm Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi cảm nhận được sự đổi thay tích cực của huyện anh hùng. Diện mạo huyện từ đô thị đến nông thôn khởi sắc, tràn đầy sức sống mới. Người dân nơi nơi hân hoan niềm vui trong ngày Tết Độc lập. Ấn tượng nhất là ngay trong câu chuyện của các thế hệ, tư tưởng, nhận thức về Đảng có sự chín chắn, sâu sắc.
Bà Trần Thị Đặm - 67 tuổi, người dân thôn Vàng Bó (thị trấn Phong Thổ) phấn khởi chia sẻ: bà sinh sống lâu năm ở huyện, chứng kiến đời sống của bà con thay đổi từng ngày. Người người có cơm ăn, áo mặc đầy đủ, nhà cửa xây dựng khang trang, con cháu được học hành không còn phải nghỉ học đứt bữa như trước. Gia đình bà cũng ổn định đời sống, có của ăn, của để. Bà thấy vui mừng, thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác Hồ đã mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.
Được biết, với người dân huyện Phong Thổ, Đảng còn hiện hữu thường xuyên qua các chủ trương, đường lối cụ thể, qua các TCCSĐ và từng đảng viên. Đảng có mặt trong cuộc sống hàng ngày một cách rõ ràng, cụ thể. Theo chia sẻ của cô giáo Hà Thị Tiền - Đảng viên Chi bộ Trường THPT Phong Thổ thì chị kết nạp đảng năm 2018. Trong những năm qua, tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên luôn nhắc nhở chị không ngừng cố gắng hoàn thiện bản thân, thực hiện tốt mọi công việc được giao của một giáo viên dạy môn Hóa Học các khối 10, 11, 12.
Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, đồng chí Đinh Quang Tuấn - Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Phong Thổ cho biết: Những năm qua, các TCCSĐ đã có nhiều cố gắng để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, là “sợi dây” kết nối giữa Đảng với quần chúng. Chỉ tính riêng trong nhiệm kỳ 2015-2020, chỉ thị, nghị quyết của Đảng được quán triệt, học tập kịp thời; công tác phát triển đảng viên được quan tâm cả về số lượng và chất lượng. Việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, thôn, bản được quan tâm. Công tác cán bộ được triển khai đồng bộ ở tất cả các khâu, đảm bảo nguyên tắc, đúng quy trình, thủ tục theo quy định...
Nhìn thẳng, nói thật, không né tránh.
Bên cạnh kết quả đạt được, trong nhiệm kỳ 2015-2020 các TCCSĐ trong huyện vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: có TCCSĐ chậm đổi mới phương thức lãnh đạo; chất lượng sinh hoạt chi bộ có nơi còn thấp, mang tính hình thức, tinh thần tự phê bình và phê bình chưa cao. Việc vận dụng, triển khai thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng ở một số nơi, trong một số lĩnh vực kết quả đạt thấp, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị.
Trên tinh thần nhìn thẳng, nói thật, không né tránh, các TCCSĐ từ huyện đến cơ sở thẳng thắng chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế cả về chủ quan và khách quan. Đó là phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của một số cấp ủy, đảng viên là người đứng đầu ở cơ sở chưa thật sự đổi mới, chưa thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới; chưa coi trọng vị trí, vai trò của sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy đối với việc xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh; năng lực, ý thức trách nhiệm của một số cán bộ, công chức còn hạn chế, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong khi trình độ, nhận thức của một bộ phận nhân dân còn hạn chế…
Nhìn lại chặng đường khi mới thành lập (năm 2002), Đảng bộ Công an huyện Phong Thổ chỉ có 33 đảng viên tham gia sinh hoạt ở 4 chi bộ. Sau này, Đảng bộ phát triển dần lên 7 chi bộ với 78 đảng viên. Trong quá trình hoạt động, Đảng bộ gặp phải khó khăn do một số TCCSĐ đông đảng viên nhưng không có cán bộ chuyên trách, bí thư cấp ủy kiêm nhiệm. Đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách công tác đảng ít kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng, chưa thường xuyên được bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới… những điều này phần nào ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của TCCS Đảng.
Với Đảng bộ xã Bản Lang, năm 2019 mới có 218 đảng viên, việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ gặp khó do trình độ của một số đồng chí Bí thư, Phó Bí thư Chi bộ còn hạn chế, chưa quan tâm đến tạo nguồn phát triển đảng viên. Trong khi đoàn viên trong xã đi làm ăn xa nhiều, ít tham gia hoạt động của bản. Hay như ở Chi bộ Trường THPT Phong Thổ vẫn có đảng viên tinh thần phê bình và tự phê bình chưa cao, khi tham gia đóng góp ý kiến còn nể nang, ngại va chạm.
Trước những khó khăn, tồn tại, hạn chế được chỉ ra đòi hỏi các TCCSĐ trong Đảng bộ huyện nỗ lực, cố gắng không ngừng. Bước sang nhiệm kỳ 2020-2025, nhiều giải pháp đã được triển khai và càng khó khăn thì ý chí, nghị lực, tinh thần của người cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ huyện càng được thể hiện, phát huy. Tập thể Đảng bộ huyện kiên định mục tiêu lý tưởng 1 đảng duy nhất, kiên quyết lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi khó khăn, tháo gỡ mọi tồn tại, hạn chế để xây dựng tổ chức Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân./.
St