Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2020

Tổng khởi nghĩa tháng Tám và câu chuyện “Có ngày 17 mới có ngày 19”.

 

Đó là nhìn nhận của ông Lê Đức Vân, cựu thanh niên cứu quốc thành Hoàng Diệu, nguyên Ủy viên thanh vận Hà Nội, người được giao lãnh đạo khởi nghĩa ở ngoại thành những ngày tháng 8 năm 1945. Bởi lẽ trước ngày 17/8 phong trào Việt Minh đã lớn mạnh, rất nhiều cuộc đấu tranh trực diện với quân thù đã diễn ra ở khắp Hà Nội. Ngoài việc giải truyền đơn, áp phích, phá kho thóc thì tiến hành nhiều hoạt động công khai, diễn thuyết xung phong “ủng hộ Việt Minh đả đảo bù nhìn”, ủng hộ độc lập khởi nghĩa diễn ra ở nơi đông người như: chợ, trường học, rạp chiếu bóng, rạp hát. Ông kể, cứ ở nơi đông người thì chúng ta lại trực tiếp diễn thuyết công khai cho nên ảnh hưởng của Việt Minh là rất rộng, gần như mọi người ở Hà Nội đều ngả sang ủng hộ Việt Minh. “Sau khi Chánh thanh tra Bắc Kỳ bị bắn, lực lượng phản động run hết, nhân dân nội ngoại thành biết tin đó bảo Việt Minh giỏi quá, và tất cả cùng hoạt động công khai, lúc đó ảnh hưởng của Việt Minh rất lớn. Khi ấy, Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim thấy tình hình bất lợi mới tổ chức một cuộc mít tinh để lên dây cót lấy lại tinh thần. Cuộc mít tinh tổ chức vào ngày 17/8 ở Nhà hát Lớn”- ông Vân nhớ lại. Cũng theo ông Lê Đức Vân: “Chúng tôi được lệnh của Thành ủy là tất cả các hội viên cứu quốc tham gia mít tinh hết. Tham gia cuộc mít tinh không phải là để dự mà đi phá cuộc mít tính đó, và biến nó thành cuộc mít tinh của mình. Cho nên chúng tôi huy động tất cả các đoàn viên, thanh niên cứu quốc, phụ nữ, mỗi người mang theo một lá cờ đỏ con, sao vàng bằng giấy và giao cho một tổ có nhiệm vụ lên chiếm diễn đàn. Khi cuộc mít tinh vừa bắt đầu xong thì anh Lê Phan (sau này là chiến sĩ Trường Sơn công tác tại Cục Công binh Trường Sơn) tiến lên cướp micro trao cho chị Kiều Trang Anh (thành viên của Đội cứu quốc thành Hoàng Diệu) lúc đó mới 17 tuổi nói vo rất nhanh khoảng 5-10 phút rằng: Chính quyền bù nhìn đã tan rã, bây giờ mọi người hãy ủng hộ Việt Minh, tổng khởi nghĩa giành độc lập. Cùng lúc đó có một lá cờ đỏ sao vàng rất to do anh Trần Lâm (nhà báo lão thành cách mạng lúc đó đang là đội viên Đội tuyên truyền xung phong nội thành Hà Nội thuộc Mặt trận Việt Minh) buông xuống. Ngay sau đó, một thành viên trong đội danh dự đã lấy từ trong người ra lá cờ đỏ sao vàng to, có cán, quay đầu hô “tiến lên”. Do anh đứng ở cuối đoàn nên khi quay đầu trở thành người dẫn đường. Những người tham dự mít tinh cũng xoay người đi theo. Cả đoàn nhằm hướng Tràng Tiền mà đi. Đến đâu, người dân từ hai bên đường ra gia nhập đến đó. Vừa đi mọi người vừa hô “Ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Việt Minh, Việt Nam độc lập”. Cuộc mít tinh của Chính phủ Trần Trọng Kim đã nhanh chóng biến thành biểu tình, tuần hành của quần chúng cách mạng. Toàn bộ Hà Nội trừ cụ già và em nhỏ thì xuống đường hết và hoàn toàn theo Việt Minh. “Nhận thấy giờ khởi nghĩa đã đến nên ngay tối hôm đó, Ủy ban Quân sự cách mạng và Thành ủy Hà Nội đã họp mở rộng và quyết định tổng khởi nghĩa là ngày 19/8, không thể làm sớm ngay ngày hôm sau nhưng không thể chậm hơn được nữa”- cựu binh thành Hoàng Diệu Lê Đức Vân nhớ lại. Chiều ngày 17/8, tại làng Vạn Phúc – An toàn khu của Xứ ủy tại Hà Đông, ông Nguyễn Khang sau khi trực tiếp khảo sát tình hình Hà Nội trở về đã trao đổi với ông Trần Tử Bình – Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ và đi tới quyết định: Dựa trên Chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” tiến hành cho Hà Nội khởi nghĩa mà không cần chờ lệnh của Trung ương. Việc chớp thời cơ này thật táo bạo vì lúc đó Ủy ban khởi nghĩa chỉ dựa hoàn toàn vào sức mạnh của chính nhân dân Thủ đô, với các tổ tự vệ chiến đấu mà chưa có sự hỗ trợ của đội quân giải phóng từ Trung ương và các chiến khu. Sáng ngày 18/8, Ủy ban khởi nghĩa Hà Nội chuyển trụ sở về số nhà 101 Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Các ủy viên tích cực chuẩn bị cho công việc sáng hôm sau. Sáng ngày 19/8/1945, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng với hàng nghìn nông dân, công nhân, dân nghèo, bằng những vũ khí thô sơ, cùng với hàng vạn quần chúng nhân dân ở khu vực ngoại thành kéo vào, xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố. Cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng đã diễn ra, trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm Phủ khâm sứ, Trại lính Bảo an và các cơ sở của chính phủ bù nhìn. Họ vừa đi vừa hô khẩu hiệu: “Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim”; “Thành lập chính phủ dân chủ cộng hòa Việt Nam”; “Anh em binh lính hãy mang súng gia nhập hàng ngũ chiến đấu bên cạnh Việt Minh”; “Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Chiều ngày 19/8, Hà Nội ngập tràn trong niềm vui thành công của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, chính quyền đã về tay nhân dân./.

 

13 HÀNH VI VI PHẠM PHÒNG CHỐNG COVID19 VÀ MỨC PHẠT

 

1. Người không đeo khẩu trang nơi công cộng bị phạt tiền tối đa đến 300.000 đồng.

2. Người vứt khẩu trang đã sử dụng không đúng nơi quy định tại nơi công cộng bị phạt tiền tối đa đến 5.000.000 đồng, nếu vứt ra vỉa hè, đường phố bị phạt tối đa đến 7.000.000 đồng.

3. Người che giấu tình trạng bệnh của mình hoặc của người khác khi mắc bệnh COVID-19 bị phạt tiền tối đa đến 2.000.000 đồng

4. Không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền dịch bệnh tại vùng có dịch thì bị phạt tiền tối đa đến 10.000.000 đồng đối với cá nhân, 20.000.000 đồng đối với tổ chức.

5. Không thực hiện quyết định áp dụng biện pháp hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng để phòng, chống dịch COVID-19 thì bị phạt tiền tối đa đến 10.000.000 đồng đối với cá nhân, 20.000.000 đồng đối với tổ chức.

6. Người không thực hiện quyết định kiểm tra, giám sát, xử lý y tế trước khi ra vào vùng có dịch bị phạt tiền tối đa đến 20.000.000 đồng.

7. Người nào trốn khỏi nơi cách ly; không tuân thủ quy định về cách ly; từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly để phòng, chống dịch COVID-19 có thể bị xử phạt hành chính tối đa đến 10 triệu đồng hoặc bị xử lý theo Điều 240 Bộ luật Hình sự trong trường hợp gây truyền dịch bệnh cho người khác.

8. Hành vi trốn khỏi nơi cách ly, không tuân thủ quy định về cách ly; từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly mà làm gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh COVID-19 thì bị xử lý theo Điều 295 Bộ luật Hình sự.

9. Người nào khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối gây lây truyền dịch bệnh COVID-19 cho người khác bị xử lý theo Điều 240 Bộ luật Hình sự.

10. Người nào đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, thông tin xuyên tạc về tình hình dịch bệnh COVID-19 có thể bị phạt tiền tối đa đến 15 triệu đồng hoặc bị xử lý theo Điều 288 Bộ luật Hình sự.

11. Người có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19 thì bị xử lý theo Điều 330 Bộ luật Hình sự.

12. Chủ cơ sở kinh doanh, người quản lý cơ sở kinh doanh dịch vụ (như quán ba, vũ trường, karaoke, dịch vụ mát xa, cơ sở thẩm mỹ…) thực hiện hoạt động kinh doanh khi đã có quyết định tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh để phòng chống dịch bệnh COVID-19, gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý theo điều 295 Bộ luật Hình sự.

13. Người có hành vi lợi dụng sự khan hiếm hoặc tạo sự khan hiếm giả tạo trong tình hình dịch bệnh COVID-19 để mua vét hàng hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố là mặt hàng bình ổn giá hoặc hàng hóa được Nhà nước định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thì bị xử lý theo quy định tại điều 196 Bộ luật Hình sự./.

- Nguồn Bộ Y tế

 

PHÁT HUY TINH THẦN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM TRONG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC GIAI ĐOẠN MỚI

 

Sau khi thành lập ngày 3/2/1930, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành ba cao trào cách mạng: Cao trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945). Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, ngày 19/8/1945 nhân dân ta đã giành thắng lợi trong cuộc tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất”, đập tan xiềng xích nô lệ hàng trăm năm của thực dân, đế quốc, giành chính quyền về cho nhân dân. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Qua 75 năm, những bài học kinh nghiệm quý giá của cuộc Cách mạng Tháng Tám luôn tạo nên sức mạnh nội lực cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vang dội trong thế kỷ XX và hai thập niên thế kỷ XXI. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ; đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến 21 năm chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; đó là thắng lợi của hai cuộc chiến tranh biên giới để bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất nước; đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước, vượt qua cơn “động đất chính trị” trên thế giới khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, đưa hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào thoái trào, xây dựng đất nước từ đống tro tan đổ nát của 30 năm chiến tranh; vượt qua mọi khó khăn bao vây, cấm vận, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tiến hành sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã ra khỏi nhóm nước chậm phát triển và trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang thực hiện mục tiêu đưa nước ta phát triển trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

Năm nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen, như: Trên thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới đang rơi vào suy thoái do đại dịch COVID-19, nhưng các nước đang cố gắng vượt qua. Ở trong nước, đại dịch COVID-19 cũng ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội, nhưng cả hệ thống chính trị đang tích cực vào cuộc chống dịch và đồng thời phát triển kinh tế; tình hình chính trị - xã hội ổn định, công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh, nhất là công cuộc phòng, chống tham nhũng, lãng phí được triển khai quyết liệt và có hiệu quả theo tinh thần “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, “không ngừng nghỉ”. Do vậy niềm tin của các tầng lớp nhân dân với Đảng ngày càng tăng lên. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Công tác đối ngoại ngày càng nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Từ 1/1/2020, nước ta đảm nhiệm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc lần thứ hai với số phiếu cao 193/194 phiếu và Chủ tịch ASEAN.

Trước mắt, chúng ta cũng phải đối mặt còn nhiều khó khăn, thách thức, như: Tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, nhất là căng thẳng giữa Mỹ - Iran và một số nước khác, tình hình Biển Đông thời gian qua đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ phức tạp, trở thành “điểm nóng” trên thế giới. Cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đang tác động tiêu cực đến kinh tế thế giới. Chủ nghĩa bảo hộ đang ảnh hưởng đến tăng trưởng của kinh tế toàn cầu. Ở trong nước, tuy kinh tế tăng trưởng nhiều năm liền cao nhưng năng suất, chất lượng, quy mô, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, thêm vào đó lại do tác động của đại dịch COVID-19 đang ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển; tình trạng tham nhũng, tiêu cực còn diễn biến phức tạp, khoảng cách giàu – nghèo ngày càng dãn rộng, phân hóa xã hội gia tăng, đạo đức xã hội xuống cấp đáng lo ngại; biến đổi khí hậu, thiên tai, bão, lụt, hạn hán diễn ra nhanh và phức tạp. Bốn nguy cơ: Chệch hướng XHCN, tụt hậu xa hơn về kinh tế, tham nhũng và “diễn biến hòa bình” vẫn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn, lại thêm bốn vấn đề bức xúc hiện nay về an toàn giao thông, an toàn môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm và an toàn thông tin mạng đang là những vấn đề “nóng” của xã hội hằng ngày, hằng giờ tác động, ảnh hưởng đến diễn biến tư tưởng, sức khỏe, chất lượng cuộc sống và an toàn tính mạng của cán bộ, nhân dân. Bên cạnh đó, các thế lực thu địch, phản động đẩy mạnh chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng bằng các thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta để phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, hòng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trước tình hình đó, phát huy thành quả của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước ngày càng phát triển, sánh vai với các nước phát triển trong khu vực và thế giới.

                                                                                                Chủ lực

 

KHÔNG CÓ GÌ CÓ THỂ CHIA RẼ QUAN HỆ ĐOÀN KẾT, GẮN BÓ GIỮA QUÂN ĐỘI VÀ CÔNG AN

 

Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, suốt 75 năm qua, 2 lực lượng công an và quân đội luôn kề vai sát cánh, đoàn kết gắn bó vì nhiệm vụ chung, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Lực lượng công an, quân sự, biên phòng đã phối hợp chặt chẽ hơn, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm quy chế biên giới, hoạt động xuất nhập cảnh trái phép, xâm phạm an ninh quốc gia và hoạt động của các loại tội phạm ở khu vực biên giới, nhất là tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em, vận chuyển, buôn bán ma tuý, buôn lậu, gian lận thương mại…Đây là mối quan hệ mang đậm bản chất cách mạng, thể hiện sự đoàn kết là LLVT từ nhân dân mà ra, vì nnha6n nhân mà chiến đấu; là sự gắn bó, hiệp đồng chặt chẽ cũng như tinh thần gương mẫu, trách nhiệm, quyết tâm chính trị của hai lực lượng công an và quân đội.

Quân đội và công an đều là công cụ bạo lực, là lực lượng chính trị tin cậy, trung thành tuyệt đối của Đảng, Nhà nước và nhân dân, tuy nhiệm vụ cụ thể có đặc trưng khác nhau nhưng đều chung mục tiêu, lý tưởng; không thể có chuyện “lấn sân” nhau trong thực hiện nhiệm vụ mà chỉ có chia sẻ, phối hợp, cùng nhau hoàn thiện nhiệm vụ tốt nhất.

Hai lực lượng sẽ kề vai, chung sức bảo vệ vững chắc ‘bờ cõi’ thiêng liêng của Tổ quốc. Các thủ đoạn lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, tạo ra những “điểm nóng” kinh tế-xã hội để biến thành những sự kiện chính trị nhạy cảm… càng đòi hỏi QĐND và CAND phải kề vai sát cánh hơn nữa.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng đã khẳng định, thời gian tới, hai lực lượng sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ, nâng cao chất lượng trao đổi thông tin, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước xử lý hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là bảo vệ an toàn, thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Từ thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội và Công an trong suốt 75 năm qua, khẳng định chắn chắn rằng, sự đoàn kết, phối hợp giữa Công an nhân dân và Quân đội nhân dân đã trở thành truyền thống, là yêu cầu khách quan, cội nguồn sức mạnh bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội./.

 

Một số yêu cầu về xây dựng đạo đức liêm chính trong phòng chống tham những

 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã xác định: “Xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử nhằm đảm bảo sự liêm chính của đảng viên, cán bộ, công chức là một trong những giải pháp đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí”. “Liêm chính” không phải là thuật ngữ mới. Theo Từ điển Tiếng Việt: Liêm là không tham lam, trong sạch; chính là ngay thẳng, đúng đắn, trái với tà. Liêm chính là trong sạch và ngay thẳng.

Nhìn nhận dưới góc độ phòng, chống tham nhũng, tổ chức Minh bạch Quốc tế cho rằng: Liêm chính là những ứng xử và hành động theo các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức hoặc đạo lý được cá nhân cũng như tổ chức chấp nhận nhằm ngăn chặn tham nhũng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng đạo đức người cách mạng. Trong tác phẩm "Cần, kiệm, liêm, chính", Người đã coi “liêm”, “chính” là hai trong bốn đức của mỗi con người, mỗi cá nhân, đặc biệt là với cán bộ, “liêm" được hiểu là trong sạch, không tham lam, "chính" được hiểu là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn.

Từ những cách lý giải trên, có thể hiểu đạo đức liêm chính là những nguyên tắc, chuẩn mực điều chỉnh hành vi và mối quan hệ của con người với nhau và với xã hội. Trong hoạt động công vụ đạo đức liêm chính là những chuẩn mực mà cán bộ, công chức phải tuân theo trong thi hành công vụ. Đạo đức liêm chính luôn hàm chứa yếu tố: Trung thực, kỷ luật, trách nhiệm, không vụ lợi và được biểu hiện cụ thể qua các yêu cầu:

Một là, thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn, nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả công việc; không thoái thác trách nhiệm của bản thân; không đổ lỗi cho người khác.

Hai là, không vụ lợi cá nhân và tránh xung đột lợi ích. Liêm chính đòi hỏi cán bộ, công chức phải luôn đặt lợi ích của cơ quan, của nhà nước lên trên lợi ích cá nhân. Không lợi dụng quyền hạn để làm những việc trái pháp luật nhằm mục đích vụ lợi, đặc biệt là, cán bộ, công chức công tác trong các lĩnh vực dễ dẫn đến xung đột lợi ích.

Ba là, có ý thức trách nhiệm bảo vệ, tiết kiệm tài sản công. Yêu cầu này đòi hỏi cán bộ, công chức, viên chức phải có ý thức bảo vệ các tài sản công tránh thất thoát, lãng phí và sử dụng tài sản công được giao một cách tiết kiệm, đúng mục đích, hiệu quả.

Bốn là, phục vụ nhân dân với thái độ đúng mực và công bằng. Đó là gần gũi với người dân, khi giao tiếp với công dân phải có thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn, tôn trọng, lắng nghe, ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng; không hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ.

Năm là, ngay thẳng và trung thực, có tinh thần hợp tác, tương trợ lẫn nhau khi thi hành nhiệm vụ. Tôn trọng và lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp, giữ gìn dân chủ và đoàn kết nội bộ.

Như vậy, xây dựng đạo đức liêm chính trong cán bộ, đảng viên, chiến sĩ chính là một trong các giải pháp phòng chống tham nhũng hướng đến mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính được xác định trong Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng đạo đức liêm chính không chỉ là bổn phận của mỗi cán bộ, công chức, viên chức mà còn là trách nhiệm của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương và rất cần sự chung tay của cả cộng đồng./.

 

“Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”

 

Ngày 01/8/2020 vừa qua Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên án 8 bị cáo của thành viên của nhóm kín có tên “Hiến Pháp” với tổng hình phạt 40 năm tù. Gồm: Nguyễn Thị Ngọc Hạnh (sinh năm 1976, hộ khẩu thường trú ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; ngụ huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh) 8 năm tù; Hoàng Thị Thu Vang (sinh năm 1966, hộ khẩu thường trú ở Khu phố 3, phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh) 7 năm tù, cùng về tội “Phá rối an ninh” theo Điều 118 Bộ luật hình sự 2015.

Sáu bị cáo còn lại nhận mức án từ thấp nhất 2 năm 6 tháng tù đến cao nhất là 5 năm tù, cùng về tội “Phá rối an ninh” theo Điều 118 Bộ luật hình sự 2015.

Tuy nhiên, Chính phủ Mỹ tự cho mình cái quyền can thiệp vào pháp luật Việt Nam khi bày tỏ quan ngại về việc tuyên án nhóm Hiến Pháp này. Qua xem xét động thái của Mỹ, khẳng định rằng, chính họ đang vi phạm quyền tự do dân chủ và nhân quyền của người dân Việt Nam theo khuôn khổ pháp luật Việt Nam!

Rõ ràng, các hành vi của các bị cáo trong nhóm “Hiến pháp” này là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia.Thực tế, nhóm “Hiến pháp” này không phải thực hiện quyền tự do dân chủ như Mỹ đã rêu rao mà chúng đã lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để kêu gọi biểu tình chống Nhà nước, thậm chí hoạt động có tổ chức đã lên kế hoạch, phân công nhiệm vụ, chuẩn bị hung khí, công cụ hỗ trợ để tổ chức phá rối an ninh, gây bạo loạn.

Tại cơ quan điều tra, các bị cáo cũng thừa nhận đã nhận tiền tài trợ của các đối tượng chống đối chính trị ở nước ngoài để làm kinh phí hoạt động. Cụ thể: Nguyễn Thị Ngọc Hạnh nhận tổng cộng 400 USD, Hồ Đình Cương nhận tổng cộng 800 USD, Trần Thanh Phương nhận tổng cộng 200 USD…

Như vậy, không có một lý lẽ nào có thể cho rằng Pháp luật Việt Nam xét xử sai trái trong vụ án này. Lẽ ra, Mỹ cũng phải biết rằng, “Quốc có quốc pháp, gia có gia quy”, chống phá, vi phạm pháp luật thì phải bị xử lý theo pháp luật, không có chuyện lẫn lộn giữa tội phạm và công dân chấp hành pháp luật. Nếu nói đến nhân quyền và quyền tự do dân chủ thì bất luận quốc gia nào cũng phải thực hiện dưới dưới sự chi phối của pháp quyền, kể cả Mỹ. Nhân quyền thực chất là quyền công dân trong khuôn khổ pháp luật - chính trị. Pháp luật là cán cân công lý bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân cũng như bảo vệ sự ổn định chính trị của đất nước. Những hành vi nguy hiểm của nhóm “Hiến pháp” này nếu không xử lý kịp thời, nghiêm minh trước pháp luật thì liệu an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có được giữ vững không?

Tốt nhất lúc này, hãy lo cho nhân quyền, quyền tự do dân chủ của nước Mỹ đi, trước khi phán xét và xuyên tạc về tự do, nhân quyền của nước khác./.

 

Ba vị tướng huyền thoại của tình báo Việt Nam

Ảnh: báo quân đội nhân dân

Ngoài cùng bên trái là Thiếu tướng, AHLLVTND Vũ Ngọc Nhạ (ông Hai Long).

Ông nhận được sự tin cậy rất lớn của Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu. Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ là cố vấn của 2 đời tổng thống VNCH.Ông cùng với các đồng chí trong cụm tình báo huyền thoại A22 đã leo sâu trèo cao và ở rất nhiều vị trí khác nhau trong phủ tổng thống.

Khi bị CIA điều tra và bị lộ, báo chí Sài Gòn gọi đó là vụ án gián điệp lớn nhất thời đại. Ông cùng với các đồng đội đã vô cùng mưu trí biến 1 vụ án gián điệp thành 1 vụ án chính trị. Bằng lý lẽ và lập luận sắc bén, ông cùng các đồng đội đã đẩy phiên toà vào bế tắc. Khi đi tù ở Côn Đảo, Nguyễn Văn Thiệu đã phái người tâm phúc của ông ta tới đó để lo cho ông.

Việc đi tù được ông ví như là Cuộc dạo chơi trên thiên đường. Sự nghiệp tình báo của ông đã được khắc họa qua cuốn tiểu thuyết “Ông Cố Vấn: Hồ sơ một điệp viên” của nhà văn Hữu Mai và sau đó cuốn tiểu thuyết này đã được chuyển thể thành bộ phim “Ông Cố Vấn”.

Người ngồi giữa là Thiếu Tướng, AHLLVTND Đặng Trần Đức (ông Ba Quốc).

Ông làm việc ngay trong Phủ đặc ủy trung ương tình báo ngụy. Ông là người đã đề xuất lập phòng tình hình để thu thập các thông tin tình báo và sau đó ông được đưa về làm việc tại phòng tình hình và thu thập được rất nhiều tin quan trọng. Ta phá được nhiều ổ gián điệp của Miền Bắc cũng nhờ do thông tin tình báo ông đưa về. Khi biết phía địch có thể bắt các cán bộ ta làm việc trong thành, ông đã cảnh báo để cho ta biết tránh bị bắt. Trong số những người trốn thoát được có cả Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh.

Ông chính là nguyên mẫu trong bộ phim: Ông tướng và hai bà vợ.

Người ngồi bên phải là Thiếu Tướng, AHLLVTND Phạm Xuân Ẩn (Ông Hai Trung).

Ông là phóng viên của Times tại Việt Nam. Tuy không tham gia trong chính quyền Sài Gòn, nhưng với uy tín và mối quan hệ của mình, Ông được tham gia thảo luận nhiều những vấn đề mật của chính quyền Sài Gòn. Ông chính là người đã gửi kế hoạch về Chiến Tranh Đặc Biệt của Mỹ ra cho Trung Ương và cũng đã nhận định về việc Mỹ sẽ không trở lại Việt Nam sau Hiệp Định Paris.

Trong suốt thời gian làm tình báo, ông chưa từng bị lộ và trở thành một huyền thoại tình báo trong Chiến Tranh chống Mỹ cứu nước./.



Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Tác phẩm cuối đời Người để lại cho dân tộc Việt Nam đó là bản “Di chúc” – một tài liệu quý giá, vừa chứa chan tình yêu thương với đồng bào vừa có ý nghĩa chiến lược trong sự phát triển của đất nước. Di chúc được Người bắt đầu chấp bút từ tháng 5-1965 đến tháng 5-1969, ghi lại những suy nghĩ, lời căn dặn của một người “chuẩn bị đi xa” đối với những thế hệ sau nên đó tất nhiên là những điều rất thực, rất tâm huyết. Bảo vật Quốc gia cuối cùng mà Người để lại là sự kết tinh tinh thần tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp suốt đời phấn đấu hi sinh vì nước vì dân; vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát triển của đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi; là những lời căn dặn thiết tha; là sức mạnh thôi thúc toàn dân tộc hành động trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Là người sáng lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời chăm lo cho việc xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng đủ điều kiện và sức mạnh lãnh đạo toàn dân tộc. Điều đầu tiên Bác nhắc tới trong Di chúc là nói về Đảng. Quan tâm tới con người luôn chiếm vị trí quan trọng trong chỉ đạo và điều hành đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Di chúc, Người nhắc đến tất thảy mọi người, từ “bà con lao động, công nhân, nông dân, thanh niên, học sinh, trí thức”. Người căn dặn Đảng “phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”…

Chỉ với hơn 1.000 từ vô cùng ngắn gọn, Di chúc của Người đã truyền cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ý chí quyết tâm sắt đá, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam; sức mạnh của chính nghĩa và chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”; sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.

Năm nay, kỷ niệm 131 năm ngày sinh của Người, tư tưởng Hồ Chí Minh và Di chúc của Người vẫn luôn đồng hành cùng dân tộc, soi rọi, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân luôn kiên định và trung thành với sự nghiệp cách mạng; kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà Người đã trọn đời cống hiến và hy sinh, mang lá cờ bách chiến bách thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đích cuối cùng./.

 

Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước ngày 17-7-1966

 

Ngày 17-7-1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân đánh phá miền Bắc, một lần nữa, trên sóng Đài TNVN đã vang lên “Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lời hiệu triệu của vị lãnh tụ kính yêu đã thôi thúc hàng triệu con tim, khối óc đồng bào, chiến sĩ hăng hái lên đường đánh giặc, giành độc lập, tự do cho non sông, đất nước. Trong Lời Hịch non sông ấy có câu: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là động lực tinh thần to lớn thôi thúc lớp lớp thế hệ người Việt Nam lên đường chiến đấu chống k.ẻ t.h.ù xâm lược, làm nên đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” tiếp tục là kim chỉ nam để toàn Đảng, toàn dân ra sức phát triển đất nước, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; đưa Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và giữ gìn bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời của Tổ quốc.

Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2020

Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 20-12-1946


“Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”, sáng 20-12-1946, lời kêu gọi nhân dân cả nước đứng dậy chống thực dân Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang lên trên sóng Đài TNVN khắp mọi miền Tổ quốc.

Bài hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dài vỏn vẹn 19 dòng với 199 từ và được Người viết tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), đã thể hiện những quan điểm cốt lõi của Người về kháng chiến toàn dân, cũng như mệnh lệnh của non sông, thôi thúc cả dân tộc chung sức, đồng lòng vùng dậy quyết chiến, quyết thắng quân Pháp xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi độc lập dân tộc và tự do, hòa bình là mục tiêu phấn đấu suốt đời mình.

Thế nhưng trong điều kiện phải đương đầu với k.ẻ t.h.ù xâm lược có sức mạnh quân sự và kinh tế lớn hơn ta nhiều lần, có quân số đông và v.ũ k.h.í hiện đại, ta cần phải huy động sức mạnh của toàn dân để chiến đấu. Ra đời trong thời khắc lịch sử đặc biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc. Hơn 7 thập kỉ trôi qua, lời kêu gọi bất hủ có giá trị lịch sử sâu sắc đó đã trở thành một văn kiện, một bản thiên cổ hùng văn, trường tồn cùng lịch sử Việt Nam trong thời đại mới.

Trước những thăng trầm của thời gian, giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vẫn luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng và toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ, đồng bào kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng. Quán triệt quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, Đảng ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc./.

Nhật ký trong tù

 

Tháng 8-1942, với danh nghĩa là đại biểu Việt Nam Ðộc lập Ðồng minh và Phái bộ quốc tế chống xâm lược, Bác Hồ từ Cao Bằng sang Trung Quốc để vận động quốc tế ủng hộ cách mạng Việt Nam giành độc lập, nhưng đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ, sau đó giải qua nhiều nhà lao thuộc tỉnh Quảng Tây từ ngày 25-8-1942 đến ngày 19-9-1943. Tác phẩm “Nhật ký trong tù” là tập thơ của Người sáng tác trong thời gian này, gồm 133 bài thơ viết bằng chữ Hán, theo thể tứ tuyệt, có giá trị văn học sâu sắc. Tập thơ đã được phát hành bằng tiếng Việt từ năm 1960 và nhiều bài được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục phổ thông, đồng thời được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới.

Xuyên suốt tập thơ là hình ảnh người tù Hồ Chí Minh tràn đầy tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường và một quyết tâm cao độ đấu tranh cho tự do. Dù tiếp cận ở những thời khắc khác nhau, song bất cứ ai đọc tác phẩm cũng đều phần nào hình dung được thế giới tâm hồn nhiều cung bậc của Người, thấy được tầm vóc trí tuệ của một chân dung vĩ đại, với khát vọng cao đẹp nhất là “Độc lập cho dân tộc và Tự do cho con người”.

Sức mạnh của lời thơ cũng là lý trí của người chiến sĩ cách mạng. Cách đây vài năm, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Các hội văn học nghệ thuật Việt Nam khẳng định: “Cảm hứng nhân văn và những bài học lớn trong thơ Bác nói chung và Nhật ký trong tù nói riêng đã trở thành cẩm nang, thành sức mạnh cho một nền thơ ca cách mạng Việt Nam”./.

Tác phẩm "Đường Kách mệng" của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Cách đây hơn 9 thập kỉ, năm 1927, “Đường Kách mệnh” – cuốn sách tập hợp các bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dùng để đào tạo lứa cán bộ đầu tiên cho cách mạng Việt Nam giai đoạn 1925-1927 ở Quảng Châu (Trung Quốc), lần đầu tiên được xuất bản. Đây được coi là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam.

Thông qua những bài giảng trong “Đường Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc – Người cộng sản Việt Nam đầu tiên – đã trình bày những điều cốt lõi của học thuyết cách mạng Mác – Lênin, phù hợp với điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Điều này khẳng định tính phổ biến của các nguyên lý của học thuyết Mác – Lênin trên phạm vi toàn cầu, không chỉ ở châu Âu mà còn cả ở phương Đông, châu Á.

Trong tác phẩm, Người nêu rõ những chuẩn mực đạo đức của những người cách mạng. Đó phải là những người có nhân cách, đạo đức và phẩm hạnh thì mới tiếp thu được tinh thần của lý luận, mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng khó khăn.

“Đường Kách mệnh” cũng trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản của lý luận cách mạng, làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối của cách mạng Việt Nam. Trở thành “cẩm nang” gối đầu giường của thế hệ cách mạng đầu tiên của Việt Nam, dưới ánh sáng của “Đường Kách mệnh”, những học trò của Nguyễn Ái Quốc đã về nước hoạt động, cùng Người chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; phát động, tổ chức, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh, làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc.

Hơn 90 năm trôi qua, nhưng nhiều vấn đề có liên quan đến con đường, phương pháp cách mạng, xây dựng, tổ chức, đoàn kết các lực lượng cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng vững mạnh, nhất là các chuẩn mực đạo đức của người cộng sản … trong “Đường Kách mệnh” vẫn giữ nguyên tính thời sự trong sự nghiệp đổi mới hiện nay./.

MỘT TẤM GƯƠNG SỐNG CÒN CÓ GIÁ TRỊ HƠN MỘT TRĂM BÀI DIỄN VĂN TUYÊN TRUYỀN

 

Sinh thời, Bác Hồ có nói: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền". Người luôn luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong mọi việc. Không có lĩnh vực nào mà tác dụng nêu gương lại quan trọng bằng lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình, đó là tấm gương của cha, mẹ đối với con cái, của anh, chị đối với các em; trong xóm làng, khu phố, đó là tấm gương của các bậc cao niên, các cựu chiến binh, các thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ; trong cơ quan Đảng và Nhà nước, đó là tấm gương của các đồng chí phụ trách, các đồng chí lãnh đạo đối với nhân viên; trong đơn vị quân đội, đó là tấm gương của các cấp chỉ huy, các chính ủy, chính trị viên đối với binh sĩ, của cấp trên đối với cấp dưới; trong toàn xã hội, đó là tấm gương của những "người tốt việc tốt", đối với mọi đối tượng, mọi tầng lớp nhân dân. Trong cuốn sách "Tư tưởng Bác Hồ soi sáng sự nghiệp đổi mới của chúng ta”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Bác Hồ thường nhắc đến một phương pháp giáo dục quan trọng là sức mạnh của sự nêu gương. Bác luôn luôn nêu gương trước cho mọi người noi theo”.

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm sâu sắc công tác xây dựng Đảng. Người thường xuyên chỉ đạo, nhắc nhở việc xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng: Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém; người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng, phải kết hợp chặt chẽ phẩm chất và năng lực, hồng và chuyên, đức và tài, trong đó đức là gốc.

Một trong những mối quan tâm hàng đầu của Đảng là việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài; có đạo đức trước, có tài năng sau. Đạo đức của người cán bộ, đảng viên thể hiện ở phẩm chất, tư cách: Suốt đời phấn đấu, hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng; tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng; đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; có đời tư trong sáng; là tấm gương sáng trong cuộc sống để nhân dân tin và noi theo.

Cán bộ, đảng viên có chức vụ càng cao, càng phải sống thanh bạch, giản dị và nêu gương tốt trước hết. Bác Hồ là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ cách mạng quan tâm nhiều đến vấn đề đạo đức và có nhiều cống hiến về tư tưởng đạo đức cách mạng. Bản thân Người là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng. Học tập gương đạo đức Hồ Chí Minh là học cho được cái gốc, tức là học cho được cái tâm và tấm lòng của mình trước nỗi khổ của con người, của đồng loại, của nhân dân, nhất là những người khổ, người nghèo, người bất hạnh; biết đồng cảm, sẻ chia những nỗi đau của từng cảnh đời trong cuộc sống.

Bác Hồ thường nói: Người cách mạng là người rất giàu tình cảm, và vì giàu tình cảm nên mới đi làm cách mạng. Người có lòng thương yêu mênh mông xúc động đến tâm can của mọi người. Học gương đạo đức Bác Hồ là phải học từ cái tâm, từ những xúc động đến rưng nước mắt của Bác trước nỗi khổ của con người, là vận dụng bài học đó để suy nghĩ và thực hiện trong đời sống hàng ngày.

Thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cần phải tiếp tục đề cao phương pháp nêu gương, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành, các đảng bộ, chi bộ. Cụ thể là nói đi đôi với làm, nói được thì phải làm được; cán bộ cấp trên gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm cao trước cán bộ cấp dưới; kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, xa rời thực tế, xa rời cơ sở, xa rời quần chúng; kiên quyết phê phán những cán bộ, đảng viên không dám nói, không dám hành động, hoặc “nói nhiều làm ít”, “nói mà không làm”, “nói một đường làm một nẻo”, thậm chí chỉ thụ động, ngồi chờ, ỷ lại, sợ trách nhiệm. Những biểu hiện đó hoàn toàn trái với tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, làm cho phương pháp “nêu gương” mất ý nghĩa, tác dụng trong giáo dục đạo đức, lối sống ngay trong nội bộ tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể xã hội…

Phương pháp “nêu gương” đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên ở bất kỳ vị trí công tác nào cũng phải nêu cao tính chiến đấu tự phê bình và phê bình. Bởi vì, quần chúng nhân dân luôn chú ý tới lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên để xem có nên noi theo hay không noi theo. Và cũng qua đó, họ biết rất rõ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên ở cơ sở, có những ưu điểm, nhược điểm gì, và đã sửa chữa nhược điểm, phát huy ưu điểm đến đâu. Cán bộ, đảng viên càng giữ vị trí cao, vị trí quan trọng, nhất là người đứng đầu, càng phải hết sức nêu gương tự phê bình và phê bình về phẩm chất đạo đức, lối sống ở mọi lúc, mọi nơi./.

 

"Phiên chợ 0 đồng" lưu động ấm tình người giữa mùa dịch Covid-19

 

Trên chiếc xe tải nhỏ, các bạn đoàn viên ở Quảng Nam chất đầy ắp rau củ quả, mỳ tôm…để mang đến cho người dân giữa mùa dịch COVID-19.

Một tuần trở lại đây, hình ảnh chiếc xe tải nhỏ, bên ngoài thùng xe có dán tấm băng rôn căng ngang dòng chữ “Chương trình phiên chợ 0 đồng. Gõ cửa từng nhà, mang thực phẩm tới các hộ khó khăn”, trở nên rất đỗi thân thương trong mắt hàng nghìn người dân ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

Đây là phiên chợ 0 đồng mà các bạn đoàn viên thuộc Chi đoàn thôn Châu Lâm, xã Bình Trị, huyện Thăng Bình, triển khai nhằm chia sẻ khó khăn với người dân giữa mùa dịch COVID-19.

Anh Phan Văn Đức, Bí thư Chi đoàn thôn Châu Lâm cho hay, toàn bộ rau củ quả, cá, trứng, mỳ tôm…được anh và hàng chục bạn đoàn viên kêu gọi, vận động từ các nhà hảo tâm, mạnh thường quân trên mạng xã hội. “Cuối tuần trước, Chi đoàn nhận được lượng lớn nguồn rau sạch của nhà hảo tâm trên Đà Lạt hỗ trợ. Còn mỳ tôm, cá, trứng…thì được một số bà con địa phương có điều kiện quyên góp. Thế là ý tưởng phiên chợ 0 đồng được xây dựng và triển khai”, Đức cho hay.

Chủ nhật tuần trước (9/8), phiên chợ 0 đồng đầu tiên được tổ chức tại khu dân cư Lưu Minh, thị trấn Hà Lam – nơi toàn bộ người dân đang bị cách ly, phong tỏa do có trường hợp mắc COVID-19. Tại đây, chiếc xe tải “chở” phiên chợ lưu động tới từng ngõ, gõ cửa từng nhà và trao tận tay người dân những thực phẩm sạch.

Riêng ngày hôm nay (15/8), phiên chợ 0 đồng được tổ chức cố định tại sân nhà văn hóa thôn Ngũ Xã, xã Bình Chánh.

Tại đây, ngoài nhận lương thực, người dân còn được tặng khẩu trang, dung dịch sát khuẩn để phòng, chống dịch bệnh COVID-19.

Việt Nam tôi thế đấy, tuy không giàu vật chất nhưng là nơi của ‘tỷ phú’ tình người. Chứ không phải như những kẻ lợi dụng dịch bệnh, tình hình biển Đông mà làm chuyện hại nước, hại dân, đòi thả những kẻ tội đồ của Đất nước.

Sự thật thì chỉ có người Việt chân chính mới luôn luôn hướng về đất nước, mới đoàn kết, chung tay vượt qua khó khăn mà thôi./.

 ‘Phiên chợ 0 đồng’ lưu động ấm tình người giữa mùa dịch Covid-19

 

Chúng tôi hiểu rõ chúng tôi muốn gì và cần gì!

 

Mới đây, Cato Institute cho Việt Nam 0/10 điểm về "tự do đi lại trong nước". Đơn vị này cáo buộc Việt Nam lợi dụng việc khống chế dịch bệnh nhằm cưỡng bức người dân trong việc di chuyển, đi lại, lưu thông và chấm Việt Nam ở ngưỡng điểm "liệt hạng". Nếu chiếu theo ngưỡng điểm, thì Việt Nam là một quốc gia tồi tệ hơn cả những quốc gia tồi tệ nhất trên thế giới như Lebanon, Libya, Afghanistan... Nếu so sánh với các quốc gia và vùng lãnh thổ lân cận như Indonesia, Campuchia, Philippines, Đài Loan, Singapore đều được 10 điểm, Trung Quốc được 5 điểm, thì Việt Nam chẳng có một điểm nào.

Tuy nhiên, có giả thuyết cho rằng nghiên cứu này được Cato Institute nghiên cứu vào năm 2019 còn công bố vào năm 2020. Nếu giả thuyết đó đúng, thì năm 2019, chấm điểm 0/10 cho Việt Nam liệu có phản ánh đúng sự thực không?

Thông tin là Cato Institute đưa ra rất là phi lý. Vì nếu nghiên cứu phản ánh trong năm 2020, thì chỉ cần nhìn bản đồ thực trạng các chuyến bay nội địa tại Việt Nam hàng ngày, nó thậm chí còn dày đặc hơn Philippines, Indonesia, Campuchia... Nếu nghiên cứu phản ánh năm 2019, thì cần biết rằng Việt Nam đã thu hút hơn 18 triệu du khách quốc tế, đứng thứ 4 Đông Nam Á. Ngoài ra, mỗi năm, lượng phương tiện cá nhân bán tại Việt Nam vượt mốc 5 triệu xe. Những thống kê trên thuộc về một quốc gia tự do đi lại, di chuyển bằng 0 ư? Hay là trò lố của Cato Institute?

Dẫu biết là các nghiên cứu của một số tổ chức nước ngoài không có căn cứ buộc tội Việt Nam, nhưng rõ ràng, ảnh hưởng của các tổ chức này rất lớn. Những nghiên cứu này khiến hình ảnh Việt Nam bị hiểu sai đi rất nhiều.

Ngày hôm qua, đúng vào ngày Quốc tang Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam đăng dòng trạng thái "bày tỏ quan ngại sâu sắc về việc Việt Nam kết tội và tuyên án tám thành viên của tổ chức xã hội dân sự Hiến Pháp tại Việt Nam hơn 40 năm tù giam". Đại sứ quán Mỹ cho rằng công dân Việt Nam có quyền tự do biểu đạt ý kiến vì Hiến pháp Việt Nam đã quy định rõ điều này.

Bên cạnh đó, vào ngày 04/08, Phái đoàn EU tại Việt Nam thông qua trang fanpage riêng cũng bày tỏ việc kết tội nhóm người này làm "gia tăng số lượng các nhà bảo vệ nhân quyền và blogger bị các toà án Việt Nam kết án trong năm 2020". Họ cho rằng những người trong nhóm "Hiến pháp" đã tham gia đấu tranh, bảo vệ Hiến pháp Việt Nam.

Nhưng sự thực là thế nào? Cái nhóm mang tên khá là "vĩ mô" ấy mang trong mình âm mưu tổ chức biểu tình, bạo loạn lật đổ chính quyền vào năm 2018. Các thành viên trong nhóm nhận tiền từ các "nhà tài trợ" nước ngoài, sau đó tiến hành mua vũ khí bao gồm roi điện, dùi cui điện, trà trộn vào đám đông biểu tình và hành hung người biểu tình và đổ tội cho cơ quan chức năng Việt Nam. Ngoài ra, nhóm người này không loại trừ âm mưu chế tạo bom xăng, thuốc nổ, nhắm trực tiếp vào các nơi đông người nhằm tạo điều kiện cho các yếu tố nước ngoài can thiệp vào Việt Nam.

Hiếp pháp Việt Nam quy định công dân Việt Nam có quyền " tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình" miễn là đúng theo quy định của luật pháp hiện hành. Và dĩ nhiên, Hiến pháp cũng quy định luôn rằng mọi hành vi "chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm trị.". Bên cạnh đó, tính mạng của mỗi người Việt Nam đều được luật pháp Việt Nam bảo hộ.

Liệu Đại sứ quán Mỹ và Phái đoàn EU tại Việt Nam có thực sự công tâm hay không khi dành những lời "có cánh" cho một nhóm người mang đầy tội lỗi như vậy? Mà cần biết rằng, chính Mỹ cũng đã rút khỏi Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc vào năm 2018 do bênh Israel khi quốc gia này bị Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc lên án các hành vi xâm phạm tự do dân chủ, nhân quyền tại dải Gaza.

Bất cứ quốc gia nào cũng có những mặt không ổn, nhưng cơ bản nhất, tất cả những hành vi của người dân trong một quốc gia phải tuân theo quy định của luật pháp quốc gia đó nếu không bị nghiêm trị. Việc Việt Nam kết tội những kẻ phạm tội, phản quốc là việc hết sức bình thường, cũng như việc Mỹ cho Vệ binh Quốc gia đàn áp người biểu tình quá khích hay Pháp cho quân trấn án người biểu tình áo Vàng vậy.

Rõ ràng trong lúc cả nước đang tiến hành Quốc tang và oằn mình chống dịch, theo lẽ thường, nếu đã không dành được lời gì trang trọng thì tốt hơn hết nên im lặng không nói gì.

Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định rõ ràng rằng các quốc gia không được phép can thiệp vào nội bộ của các quốc gia khác. Nhưng hiến chương Liên Hợp Quốc, đôi khi lại tỏ ra mềm yếu và không có định lượng.

Người Việt hiểu rõ người Việt muốn gì và cần gì. Chứ Việt Nam không hề muốn một thứ nhân quyền kiểu như là vũ khí sinh học mang công thức NaCL mà Colin Powell đem lên trình diện trước Liên Hợp Quốc rồi sau đó cho mình cái quyền định đoạt hàng trăm ngàn mạng sống của người dân Iraq.

Đôi khi, những người ở ngoài kia, đánh giá về người Việt với cái tâm thế không khách quan, thậm chí còn mang định kiến quy chụp. Nếu đánh giá đó khách quan và tốt đẹp, phản ánh đúng bản chất, người Việt sẵn sàng hoan nghênh và hoan hỉ.

 

Không hoang mang và đồng lòng quyết tâm chống dịch, nhất định cúng ta sẽ thành công

 

Dịch đợt này tấn công vào đúng khu vực xung yếu nhất là các khoa điều trị bệnh nhân nặng, tự thân tính mạng đã rất mong manh, sự sống của nhiều người phụ thuộc vào máy móc nên việc mắc thêm Covid-19 như “Giọt nước tràn ly”.

Sắp tới chắc chắn các bác sĩ và nhân viên y tế sẽ còn vất vả hơn , sẽ còn nhiều cảm xúc đau hơn bởi những diễn biến của covid . CHỦNG COVID trong chùm bệnh nhân ở Hải Dương khá quan ngại. Các cơ quan chuyên môn của Bộ Y tế đang khẩn trương tiến hành phân tích sâu, giải mã gen virus gây bệnh ở Hải Dương để xem xét mức độ liên quan với chủng virus gây bệnh ở Đà Nẵng, kết quả sẽ có sau một vài ngày tới. Hi vọng chủng này sẽ tương tự ở Đà Nẵng để phác đồ điều trị không phải thay đổi, bớt đi nguy hiểm và bớt đi những vất vả cho các anh em y bác sỹ.

CHỐNG COVID-19 LÀ CUỘC CHIẾN KHÔNG CỦA RIÊNG AI

 

Hoan nghênh việc Hội đồng Bảo an đã thông qua Nghị quyết 2532 về ứng phó với COVID-19 và Lời kêu gọi của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc về ngừng bắn toàn cầu, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho rằng “cuộc chiến chống COVID-19 là cuộc chiến không của riêng ai”, Việt Nam kêu gọi tăng cường hợp tác và đoàn kết quốc tế để cùng nhau ứng phó thành công với đại dịch.

Nhận lời mời của Ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi, ngày 12/8, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã tham dự và phát biểu tại Phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (HĐBA LHQ) với chủ đề “Đại dịch và các thách thức đối với hòa bình bền vững”.

Phiên họp có sự tham dự của Ngoại trưởng Indonesia, Estonia, Nam Phi, Quốc vụ khanh Đức, Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres, nguyên Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon và đại diện các nước thành viên HĐBA.

Các đại biểu tham dự nhấn mạnh đại dịch COVID-19 không chỉ ảnh hưởng riêng lĩnh vực y tế mà tác động sâu sắc, rộng khắp và ở mọi cấp độ, mọi khía cạnh của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội.

Đặc biệt, tại các khu vực và các nước bị ảnh hưởng bởi xung đột, đại dịch làm trầm trọng hơn nguồn gốc của xung đột như nghèo đói, tị nạn, bất ổn xã hội, khủng hoảng nhân đạo; đe dọa đảo ngược các tiến trình xây dựng hòa bình, an ninh và phát triển khu vực.

Nhiều đại biểu cho rằng quá trình ứng phó với đại dịch là một cơ hội để tăng cường hợp tác quốc tế và sự thống nhất trong hệ thống LHQ - một trong những ưu tiên trong quá trình cải tổ LHQ hướng đến hòa bình bền vững, kết nối ba trụ cột về an ninh, phát triển và bảo đảm quyền con người.

Các nước đánh giá cao việc HĐBA thông qua Nghị quyết 2532 với yêu cầu đình chiến ngay lập tức ở tất cả các khu vực trong chương trình nghị sự của HĐBA, góp phần hiện thực hóa Lời kêu gọi của Tổng Thư ký LHQ về ngừng bắn toàn cầu; nhấn mạnh tầm quan trọng của hợp tác quốc tế và trách nhiệm chung trên cơ sở chủ nghĩa đa phương trong cuộc chiến chống COVID-19.

Các nước cũng kêu gọi cách tiếp cận có sự tham gia của toàn hệ thống, từ trụ sở LHQ đến các phái bộ trên thực địa, từ các tổ chức khu vực, tiểu khu vực cho đến khu vực tư nhân và các bên liên quan để có thể củng cố các tiến trình xây dựng và gìn giữ hòa bình trong bối cảnh đại dịch.

Phát biểu tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã chia sẻ, những tác động sâu sắc của đại dịch COVID-19 đến mọi mặt đời sống nhất là ở các khu vực bị ảnh hưởng bởi xung đột trên thế giới, đe doạ đến những tiến triển đạt được trong tiến trình xây dựng hòa bình và khiến tình hình nhân đạo tại các khu vực này trở nên tồi tệ hơn.

Phó Thủ tướng nhấn mạnh, để giải quyết cuộc khủng hoảng có hệ lụy đa chiều cần có những giải pháp toàn diện. Trong đó, ở cấp độ quốc gia, cần sự tham gia, vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị, củng cố thể chế, xây dựng lòng tin và thúc đẩy hợp tác, trong đó cần dành sự quan tâm, hỗ trợ đến các nhóm dễ bị tổn thương như người già, phụ nữ và trẻ em. Ở cấp độ toàn cầu, cần thúc đẩy các nỗ lực hợp tác đa phương.

Trên cơ sở đó, Việt Nam hoan nghênh việc HĐBA đã thông qua Nghị quyết 2532 về ứng phó với COVID-19 và Lời kêu gọi của Tổng Thư ký LHQ về ngừng bắn toàn cầu; dỡ bỏ các lệnh trừng phạt và tạo điều kiện hỗ trợ nhân đạo cho các quốc gia trong bối cảnh đại dịch.

Phó Thủ tướng đánh giá cao vai trò của các phái bộ gìn giữ hòa bình LHQ trong việc hỗ trợ các quốc gia, cho rằng sự tham gia và phối hợp đồng bộ của toàn hệ thống LHQ đóng vai trò quyết định trong việc hiện thực hoá cam kết xây dựng nền hòa bình và phát triển bền vững.

Chia sẻ kinh nghiệm của ASEAN, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh khẳng định vai trò quan trọng của các tổ chức khu vực và cho biết trong cuộc chiến chống COVID-19, Indonesia và Việt Nam cùng các nước ASEAN khác đã huy động sức mạnh chung của Cộng đồng nhằm bảo vệ sức khỏe của tất cả người dân, vực dậy nền kinh tế và không để những tác động của đại dịch ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh khu vực.

Cho rằng “cuộc chiến chống COVID-19 là cuộc chiến không của riêng ai”, Phó Thủ tướng khẳng định cam kết của Việt Nam và kêu gọi tăng cường hợp tác và đoàn kết quốc tế để cùng nhau ứng phó thành công với đại dịch./.

 

Bài học về phát ngôn trên mạng xã hội


Mới đây, sau khi xem xét đơn khiếu nại kỷ luật đảng của đảng viên, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương đã quyết định giữ nguyên hình thức kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Bùi Tiến Lợi, nguyên Thượng tá, Chủ nhiệm Bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, Trường Sĩ quan Công binh (Bộ Quốc phòng). Đây thực sự là bài học đối với cán bộ, đảng viên trong việc đưa thông tin, phát ngôn trên mạng xã hội. Theo UBKT Trung ương, trong quá trình công tác, ông Lợi đã có những bài viết, phát ngôn trên mạng xã hội trái với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước. Những thông tin này đã tạo hoài nghi trong dư luận; gây ảnh hưởng đến nội bộ của đơn vị; xúc phạm tới danh dự, uy tín cá nhân của một số lãnh đạo. Nghiêm trọng hơn, trong trang phục quân nhân, ông Bùi Tiến Lợi còn đăng tải clip trên mạng xã hội với nội dung hoàn toàn sai trái: "Ai đó nói rằng, Biển Đông là của Việt Nam, Trường Sa là của Việt Nam thì đó là những tuyên truyền trái với luật pháp quốc tế, không đúng với Công ước về Luật Biển năm 1982". Những việc làm nói trên không chỉ là biểu hiện của sự suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá", mà còn tạo cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước.

Sau khi bị xử lý kỷ luật với hình thức khai trừ đảng, ông Bùi Tiến Lợi đã có đơn khiếu nại về hình thức kỷ luật. Tuy nhiên, trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ vi phạm, UBKT Trung ương đã quyết định giữ nguyên hình thức kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Bùi Tiến Lợi. Điều này đã thể hiện rõ tính chất nghiêm minh của kỷ luật Đảng; đồng thời cho thấy tinh thần kiên quyết đấu tranh với những trường hợp vi phạm kỷ luật để làm trong sạch nội bộ Đảng.

Mang trên mình bộ quân phục của Quân đội nhân dân Việt Nam, được tạo điều kiện học tập cơ bản nhưng Bùi Tiến Lợi lại đưa ra các thông tin sai lệch về chủ quyền biển đảo của đất nước. Hành động này đã tạo dư luận không tốt, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với lực lượng quân đội. Hơn nữa, với tư cách là giảng viên được đào tạo cơ bản nhưng lại có những sai lầm rất đáng tiếc và nhận thức hết sức ấu trĩ… những tư tưởng, nhận thức sai lệch của Bùi Tiến Lợi lại càng có tính chất nghiêm trọng, không chỉ trái với tình hình thực tế, sai lệch với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi ngược lại lợi ích của dân tộc mà còn vi phạm quy định về phát ngôn của Đảng. Đây là biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII của Đảng đã chỉ rõ một số biểu hiện sai lệch mà đảng viên mắc phải là “Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng”, “Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều...”. Những biểu hiện này nếu không được phát hiện, xử lý nghiêm túc sẽ để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng; làm cho sức mạnh của Đảng bị suy yếu từ bên trong; khiến cho uy tín, hình ảnh của Đảng bị giảm sút; tạo cơ hội cho các đối tượng thù địch, chống đối, cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc và tiến hành chống phá Đảng, Nhà nước.

Do đó, việc UBKT Trung ương quyết định giữ nguyên hình thức kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Bùi Tiến Lợi không chỉ thể hiện rõ tính chất nghiêm minh của kỷ luật Đảng; tinh thần kiên quyết đấu tranh với những trường hợp vi phạm kỷ luật để làm trong sạch nội bộ Đảng, mà còn là bài học sâu sắc đối với mỗi cán bộ, đảng viên trong việc đưa thông tin, phát ngôn trên mạng xã hội.

                                                                                        Chủ lực

Thứ Sáu, 14 tháng 8, 2020

LỜI BÁC DẠY NĂM XƯA


“Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng là phải: trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung”. Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với người làm tướng trong quân đội trong buổi nói chuyện tại Hội nghị quân sự lần thứ năm, họp tháng 8 năm 1948.

Bác đã luận giải tường minh từng phẩm chất của người làm tướng:

Trí, là phải có óc sáng suốt để nhìn mọi việc, để suy xét địch cho đúng.

Tín, là phải làm cho người ta tin mình. Thí dụ đã hứa thưởng thì phải thưởng. Tín cũng còn nghĩa tự tin vào sức mình nữa, nhưng không phải là tự mãn tự cao.

Dũng, là không được nhút nhát, phải can đảm, dám làm những việc đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh.

Nhân, là phải thương yêu cấp dưới, phải đồng cảm cộng khổ với họ. Đối với địch hàng, ta phải khoan dung.

Liêm, là chớ tham của, chớ tham sắc, tham sắc thì hay bị mỹ nhân kế, chớ tham danh vọng, tham sống.

Trung, là trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng.

Những yêu cầu trên xuất phát từ thực tế khách quan và hoàn toàn phù hợp với quy luật xây dựng và bản chất của quân đội kiểu mới - một quân đội của dân, do dân và vì dân. Thấu triệt lời Bác dạy, các thế hệ tướng lĩnh trong quân đội - những người đứng mũi, chịu sào, chịu trách nhiệm trong việc cụ thể hóa đường lối chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng luôn khắc ghi và phấn đấu, rèn luyện. Mỗi vị tướng trong quân đội luôn nhận thức sâu sắc bổn phận phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ trên cương vị công tác của mình; có tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm; có tinh thần dám đánh và biết cách đánh thắng quân thù; tiêu biểu mẫu mực về tinh thần tự học, tự rèn; mưu lược, biết địch, biết ta; biết phân tích thiên thời, địa lợi, nhân hòa; biết lấy ít thắng nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông; biết phát huy sở trường, sở đoản của quân mình; hạn chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch; biết tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp để chiến đấu, chiến thắng quân thù…

    Trong giai đoạn hiện nay, phẩm chất người sĩ quan cấp tướng trong Quân đội ta tiếp tục được tôi luyện và không ngừng tiến bộ; đội ngũ cán bộ, sĩ quan quân đội, nhất là các tướng lĩnh không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững phẩm chất, đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh trung nghĩa, thao lược, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; thương yêu cấp dưới, chia sẻ, đồng cam, cộng khổ với bộ đội; quan tâm, giúp đỡ nhân dân, xứng đáng với lòng tin, tình cảm trân trọng của nhân dân với “Bộ đội Cụ Hồ”, với những vị tướng của nhân dân.

Chủ lực