“Hỡi đồng bào
toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta
lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ…”, sáng 20-12-1946, lời kêu gọi nhân dân cả nước
đứng dậy chống thực dân Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang lên trên sóng Đài
TNVN khắp mọi miền Tổ quốc.
Bài hiệu triệu
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dài vỏn vẹn 19 dòng với 199 từ và được Người viết tại
làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), đã thể hiện những quan điểm cốt lõi
của Người về kháng chiến toàn dân, cũng như mệnh lệnh của non sông, thôi thúc
cả dân tộc chung sức, đồng lòng vùng dậy quyết chiến, quyết thắng quân Pháp xâm
lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi độc lập dân tộc và tự do, hòa bình là mục
tiêu phấn đấu suốt đời mình.
Thế nhưng trong
điều kiện phải đương đầu với k.ẻ t.h.ù xâm lược có sức mạnh quân sự và kinh tế
lớn hơn ta nhiều lần, có quân số đông và v.ũ k.h.í hiện đại, ta cần phải huy
động sức mạnh của toàn dân để chiến đấu. Ra đời trong thời khắc lịch sử đặc
biệt, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tác động đến
sâu thẳm lòng yêu nước và ý chí quật cường của dân tộc. Hơn 7 thập kỉ trôi qua,
lời kêu gọi bất hủ có giá trị lịch sử sâu sắc đó đã trở thành một văn kiện, một
bản thiên cổ hùng văn, trường tồn cùng lịch sử Việt Nam trong thời đại mới.
Trước những thăng trầm của thời gian, giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vẫn luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng và toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ, đồng bào kề vai sát cánh, chung sức, đồng lòng. Quán triệt quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn dân, Đảng ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc./.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét