Vị anh hùng dân
tộc - Đại tướng đầu tiên của nước Việt Nam đã ra đi nhưng những chiến công lịch
sử, những công lao vĩ đại của ông sẽ mãi đọng lại trong ký ức của người Việt
Nam. Cùng điểm lại những dấu ấn về thân thế, sự nghiệp của vị anh hùng dân tộc
Võ Nguyên Giáp.
Tiểu sử Đại
tướng Võ Nguyên Giáp:
Võ Nguyên Giáp
(sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911) là một nhà chỉ huy quân sự và nhà hoạt động
chính trị Việt Nam. Là đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông
chỉ huy chính trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc (chống Pháp và chống Mỹ)
Ông tham gia
vào nhiều chiến dịch quan trọng như Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, Chiến
dịch Điện Biên Phủ (1954), Chiến dịch Tết Mậu Thân (1968), Chiến dịch năm 1972,
Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ông là nhà chỉ
huy quân sự nổi bật nhất bên cạnh Hồ Chí Minh trong suốt cuộc chiến và lãnh đạo
nhiều chiến dịch lớn cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Ông từng là một
giáo viên dạy sử, nhà báo và từng giữ các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư
Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh Quân
đội Nhân dân Việt Nam.
Thời niên
thiếu:
Võ Nguyên Giáp
sinh ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia
đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân) (Võ Quang Nghiêm là
một nho sinh thi cử bất thành về làm hương sư và thầy thuốc Đông y, khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, ông bị Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và
mất trong tù).
Năm 1925, Võ
Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi
vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai sau Nguyễn Thúc Hào).
Hai năm sau,
ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Phan
Bôi sau khi tổ chức một cuộc bãi khóa. Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới
thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng, một đảng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng
có màu sắc cộng sản thành lập năm 1924 ở miền Trung Việt Nam. Nguyễn Chí Diểu
cũng giới thiệu Võ Nguyên Giáp vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải
tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng. Tại
đây, Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề làm báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động
báo chí trong thời Mặt trận Bình dân Pháp.
Thời thanh
niên:
Đầu tháng 10
năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở
Nhà lao Thừa phủ (Huế), cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là
Võ Thuần Nho và các giáo sư Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng,…
Cuối năm 1931,
nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế Đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do
nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội,
học trường Albert Sarraut và đỗ. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence
en Droit). Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương
trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.
Từ 1936 đến
1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng
lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào
Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix
(Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân
chúng.
Tháng 5 năm
1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội
do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường.
Bắt đầu sự
nghiệp quân sự:
Ngày 3 tháng 5
năm 1940, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng Phạm Văn Đồng lên
Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh. Ông gia nhập Đảng
Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt
Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập
của Việt Nam. Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự
cho Việt Minh ở Cao Bằng.
Ngày 22 tháng
12 năm 1944, theo hướng dẫn của Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị
2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy.
Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Ngày 25 tháng
12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp đã chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là
tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.
Ngày 14 tháng 8
năm 1945, Võ Nguyên Giáp trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa
toàn quốc.
Sau Cách mạng
Tháng Tám, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (nay
gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8
đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ.
Trong Chính phủ
Liên hiệp, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng
7 năm 1948 trở đi).
Cũng trong năm
1946, ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).
Kháng chiến
chống Pháp:
Ngày 19 tháng
12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài
9 năm chống lại sự trở lại của người Pháp (1945-1954) trên cương vị Tổng chỉ
huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí
thư Tổng Quân uỷ.
Đại tướng đầu
tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam:
Không được đào
tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc
quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp thụ phong quân hàm Đại tướng vào ngày
28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948, Ông trở
thành Đại tướng đầu tiên của Quân Đội Quốc gia Việt Nam khi 37 tuổi.
Sau này, trả
lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã nói: “người
nào đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu
tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì
phong đại tướng”.
Cùng đợt thụ
phong có Nguyễn Bình được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn
Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa,
Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng.
Tháng 8 năm
1948, ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.
Từ tháng 8 năm
1945 Võ Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương và trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung
ương) Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951.
Như các danh
tướng Việt Nam trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch
nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại.
Tư tưởng quân
sự nổi tiếng của ông có tên gọi là Chiến tranh Nhân dân kế thừa quan điểm quân
sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế
giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được
liên tục cập nhật trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ.
Trong 9 năm
trường kỳ đánh Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan trọng để phát
huy sức mạnh quân sự và đã trở thành những kinh nghiệm quý báu như: “Đại đội
độc lập, tiểu đoàn tập trung”. Với chuyên gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn
luyện quân đội, ông chỉ đạo chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương
pháp của nước bạn, đồng thời nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc tiết
kiệm sinh mạng bộ đội do Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.
Năm 1954, Võ
Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn
quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Hồ Chí Minh đã dặn
dò: “Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì
thua là hết vốn”.
Ông tự tin lên
kế hoạch và chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của Quân đội Nhân dân Việt
Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ, đánh
bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp. Chiến thắng
này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương sau 83 năm
và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự
Việt Nam, một người hùng của Thế giới thứ ba, nơi có những người dân bị nô dịch
đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây
dựng nền độc lập của riêng mình.
Các chiến dịch
mà ông đã từng tham gia:
Các chiến dịch
ông đã tham gia với tư cách là Tư lệnh chiến dịch – Bí thư Đảng ủy trong kháng
chiến chống Pháp cùng với Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm tham mưu trưởng chiến
dịch:
- Chiến dịch
Việt Bắc (thu đông 1947)
- Chiến dịch
Biên giới (tháng 9 – 10, năm 1950)
- Chiến dịch
Trung Du (tháng 12 năm 1950)
- Chiến dịch
Đông Bắc (năm 1951)
- Chiến dịch
Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951)
- Chiến dịch
Hòa Bình (tháng 12 năm 1951)
- Chiến dịch
Tây Bắc (tháng 9 năm 1952)
- Chiến dịch Thượng
Lào (tháng 4 năm 1953)
- Chiến dịch
Điện Biên Phủ (tháng 3 – 5 năm 1954).
Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ mang đậm việc tạo thế, tổ chức hậu cần, thay đổi chiến thuật. Sau chiến dịch này, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đặt dấu chấm hết cho sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam sau hơn 80 năm./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét