Thứ Hai, 17 tháng 8, 2020

Cách mạng Tháng Tám và ý nghĩa của độc lập, tự do


Cách mạng Tháng Tám và ý nghĩa của độc lập, tự do

 

Cách mạng Tháng Tám (CMT8) có giá trị vĩ đại không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại. Thế nhưng hiện nay, vẫn có thế lực từ bên ngoài với tâm địa đen tối, bằng những lập luận thiếu tử tế hòng xuyên tạc và phủ định giá trị của CMT8.

Họ cho rằng không cần phải làm CMT8 vì với xu thế chính trị sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp rất muốn và sẽ tự trao trả độc lập cho Việt Nam. Hơn nữa, họ còn cho rằng dân tộc Việt Nam cũng không cần độc lập mà cứ là một thuộc địa của Pháp thì sẽ phát triển hơn. Đáng buồn và đáng giận là vẫn có những người Việt Nam thuộc thế hệ sau được hưởng thành quả từ xương máu của thế hệ đi trước, nhưng vì thiếu hiểu biết, suy nghĩ nông cạn đã bị ảnh hưởng từ những thông tin sai trái, để rồi có những lời lẽ vô ơn khi nhắc tới CMT8. 
Đầu tiên cần phải khẳng định, thắng lợi của CMT8 năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta, đất nước ta. Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, lần đầu tiên tên nước Việt Nam có trên bản đồ thế giới, với tư cách và vị thế của một quốc gia-dân tộc độc lập, có chủ quyền. Về ý nghĩa vĩ đại của CMT8, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Lịch sử dân tộc ta có nhiều thời kỳ rất vẻ vang. Nhưng trước ngày CMT8, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ vô cùng tủi nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta là vong quốc nô... CMT8 thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lừng lẫy khắp năm châu, bốn biển”(1). CMT8 cũng trở thành nguồn động viên to lớn để nhiều dân tộc thuộc địa đứng lên giành độc lập.
Thực tế là Việt Nam giành chính quyền từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ thực dân Pháp. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc nêu rõ rằng, thực dân Pháp “đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Đó là "mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương... thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật". Rồi ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đã đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp không chỉ ở Việt Nam mà toàn cõi Đông Dương. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Sau đó, phát xít Nhật đã dựng lên một chính phủ bù nhìn do Trần Trọng Kim đứng đầu. Chính phủ này chỉ tồn tại trên giấy, không làm gì và cũng không thể làm gì. Mọi quyền hành đều trong tay phát xít Nhật.
Như thế, câu chuyện thực dân Pháp trả độc lập, tự do cho Việt Nam là điều hoàn toàn nực cười cả về pháp lý, đạo lý và thực tế lịch sử. Vì người ta không thể “cho” hay “trả” cái mà người ta không có.
Và thực dân Pháp có muốn trả độc lập, tự do dân tộc Việt Nam không? Thực dân Pháp không bao giờ muốn! Lịch sử đã cho thấy rõ ràng! Khi thế cuộc của Chiến tranh thế giới thứ hai đã rõ ràng với chiến thắng của phe Đồng minh, thực dân Pháp đã có mưu đồ quay trở lại xâm lược nước ta. Ngay sau khi nước ta giành độc lập, thực dân Pháp theo chân quân Mỹ, Anh vào Nam Bộ để giải giáp quân Nhật. Ngày 23-9-1945, quân Pháp bất ngờ tấn công để lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ tại Nam Bộ. Nam Bộ bị quân Pháp dìm trong bể máu. Độc lập, tự do của nhân dân ta ở Nam Bộ chỉ không đầy một tháng lại bị thực dân Pháp tước đi. Cả Nam Bộ đứng lên kháng chiến để đánh đuổi quân Pháp. Sau khi tấn công chiếm Nam Bộ, Pháp tiếp tục đưa quân ra miền Bắc, liên tục khiêu khích, đòi tước vũ khí của Quân đội ta. Nhiều lần Chính phủ ta đã tỏ thiện ý thương lượng, đàm phán, với sự nhân nhượng vì mong muốn duy trì hòa bình, tránh đổ máu cho dân tộc nhưng không thể được trước tâm địa đen tối của thực dân Pháp quyết cướp nước ta một lần nữa. Quân Pháp quyết gây chiến tranh khi liên tiếp gây ra các vụ thảm sát tại Hải Phòng và Hà Nội. Sau đó, ngày 18-12-1946, thực dân Pháp gửi hai tối hậu thư liên tiếp, đòi tước vũ khí của Quân đội ta. Đến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Cả dân tộc đứng lên trường kỳ kháng chiến 9 năm để đánh đuổi thực dân Pháp, kết thúc bằng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva được ký kết. Thế nhưng thực dân Pháp rút đi thì đế quốc Mỹ cũng ngay lập tức thế chân tại miền Nam, với mưu đồ biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và để từ đó tấn công phá hoại miền Bắc. Lịch sử đã chứng minh rằng, các nước thực dân, đế quốc luôn muốn đặt ách thống trị tại Việt Nam, không bao giờ muốn nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự do. Từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, dân tộc ta đã phải anh dũng, kiên cường chiến đấu suốt 30 năm nữa, đổ bao xương máu mới có được độc lập, tự do, thống nhất trên cả nước.
Ấy thế mà ngày nay, vẫn có những kẻ muốn lừa bịp giới trẻ, vẽ ra ảo tưởng thực dân, đế quốc tốt bụng, sẽ trao trả độc lập, tự do cho dân tộc ta, đem lại sung sướng, hạnh phúc cho nhân dân ta và chúng ta chẳng cần phải làm gì, chỉ trông chờ vào sự tốt bụng đó.
Nguy hiểm hơn, có những người mang dòng máu Việt Nam lại gieo rắc luận điệu cho rằng, nước ta chẳng cần độc lập để làm gì, mà cứ giữ là thuộc địa của Pháp có khi lại phát triển hơn, đời sống người dân sung sướng hơn. Luận điệu ấy chắc chắn chỉ có trong đầu óc của những kẻ thiếu tử tế và thiếu nhân cách. Suy nghĩ ấy là của những kẻ luôn muốn ăn bám và tư duy lệ thuộc. Đó là những kẻ không xứng đáng đứng trước tổ tiên để nhận mình là con cháu Việt Nam. Lịch sử oanh liệt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc cho thấy ý thức, khát vọng độc lập, tự chủ đã ăn sâu vào máu của mỗi người Việt Nam. Người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu, hy sinh chứ quyết không chịu đặt dưới ách cai trị của dân tộc khác. Dân tộc Việt Nam cũng không chịu để kẻ thù cướp đi bất cứ tấc đất nào của cha ông để lại.
Khi đọc những lời lẽ hùng hồn trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh bất ngờ dừng lại và hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”. Và cả triệu người đồng thanh đáp lại vang dội: “Có!”. Trong giờ phút ấy, chắc hẳn từ vị Chủ tịch nước cho tới từng người dân đều xúc động nghẹn ngào, nhiều giọt nước mắt đã rơi... Tại Sài Gòn (nay là TP Hồ Chí Minh), do hạn chế về kỹ thuật, không thể tiếp sóng phát thanh trực tiếp lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lễ tuyên ngôn độc lập từ Quảng trường Ba Đình, do đó, ông Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ đã được đề nghị lên phát biểu. Trong phát biểu của mình, ông Trần Văn Giàu cũng nêu rõ: “Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã trở thành một nước độc lập... Việt Nam đương tiến bước trên đường sống”. Ông cũng đã chỉ rõ mưu toan của thực dân Pháp: “Kẻ địch toan tính một cuộc âm mưu gác lại ách nô lệ trên cổ 25 triệu đồng bào”. Ông đã hỏi những người dự lễ: “Đồng bào ở đây có ai thừa nhận một quan toàn quyền cai trị xứ ta không? Có ai chịu bó tay để cho chế độ thực dân-ra mặt hay giấu mặt-trở lại không?”. Sau mỗi câu hỏi của ông, cả triệu người đồng thanh đáp lại: “Không! Không! Không!” vang dội cả góc trời. Thay mặt hàng triệu người dân Nam Bộ, ông Trần Văn Giàu nói lên quyết tâm bảo vệ Tổ quốc: “Chúng ta thề cương quyết đứng bên cạnh Chánh phủ, chống mọi sự xâm lăng, dầu chết cũng cam lòng”(2).
Chính vì ý thức, khát vọng độc lập, tự do rất mãnh liệt như vậy nên dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dân tộc ta vẫn giữ được bản sắc của mình, không bị đồng hóa như rất nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã từng tồn tại và biến mất.
Cái ý nghĩ, mong muốn nhờ vào ngoại bang để có được hạnh phúc, phồn vinh đã bị không chỉ lịch sử Việt Nam mà còn là lịch sử nhân loại chứng minh sự sai lầm. Suy nghĩ sai lầm tai hại ấy không chỉ làm cho nhiều thế hệ hào kiệt, nhiều nhà cách mạng tiền bối của Việt Nam phải sa cơ, thất bại mà còn làm cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của chúng ta kéo dài. Phải đến khi nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu nước chân chính, đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì sự nghiệp giải phóng dân tộc mới đi đúng hướng. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
“Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” chính là thể hiện tinh thần, ý thức tự chủ, tự lực, tự cường của cuộc CMT8. Đó chính là phương thức cứu nước đúng đắn mà thế hệ trước đã tìm ra, đã thực hiện thành công và trao truyền lại cho thế hệ những người Việt Nam tiếp theo. Ngày nay, bài học vô giá phải trả bằng máu đó phải được tiếp tục khắc cốt ghi tâm trong những người con mang dòng máu Việt Nam. Dân tộc ta không thể phó mặc, không thể trông chờ vào bất cứ dân tộc nào, quốc gia nào để bảo vệ chủ quyền đất nước, để được độc lập, tự do. Dân tộc ta cũng không thể trông chờ vào bất cứ dân tộc, quốc gia nào để được hạnh phúc, phồn vinh, phát triển. Chúng ta trước hết phải dựa vào sức mình! Bằng tinh thần đoàn kết, bằng trí tuệ, ý chí, sức lực, lòng dũng cảm của mình, chắc chắn chúng ta sẽ làm được điều đó! Dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam sẽ trường tồn!
Đã gần 75 năm kể từ ngày lời Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang vọng trên Quảng trường Ba Đình. Việt Nam của chúng ta ngày nay đã rất khác xưa, đã là một đất nước độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình, hạnh phúc và đang ngày càng phát triển. Với vị thế quốc gia của mình, Việt Nam có tiếng nói ngày càng có trọng lượng trên trường quốc tế, được bạn bè quốc tế lắng nghe, tin tưởng và nể trọng. Tất cả thực tế đó đã chứng minh những luận điệu xuyên tạc về CMT8 là hoàn toàn sai trái, không thể có chỗ đứng trong lòng những người Việt Nam chân chính và nhân loại có lương tri./.   

Chiêu trò mới của Trung Quốc nhằm định nghĩa lại vùng biển liên quan đến Hoàng Sa


Chiêu trò mới của Trung Quốc nhằm định nghĩa lại vùng biển liên quan đến Hoàng Sa


Một phiên bản sửa đổi quy định hàng hải của Trung Quốc định nghĩa lại vùng biển giữa đảo Hải Nam của Trung Quốc và quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1-8.
Đây là một chiêu trò mới của Trung Quốc, bất chấp những quy định của luật pháp quốc tế, nhằm mục đích siết chặt thêm quyền kiểm soát trên Biển Đông.
Bình mới rượu cũ
Theo tin từ tờ South China Morning Post, những thuật ngữ mới mà Trung Quốc dùng trong phiên bản sửa đổi quy định hàng hải có từ năm 1974 là "gần bờ" thay vì "xa bờ" (tiếng Anh là "coastal" thay vì "offshore"). 
Bản sửa đổi mang tên chính thức là “Các quy tắc kỹ thuật để kiểm tra tàu biển trong các tuyến nội địa”. Từ "nội địa" được dùng ở đây cũng gây nhiều chú ý bởi khu vực hàng hải này được Trung Quốc tự đặt ra từ năm 1974  với gọi là “Khu vực hàng hải Hải Nam - Tây Sa” (tên Trung Quốc gọi quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam). 
Phạm vi giới hạn vùng biển của khu vực này từ 2 điểm trên đảo Hải Nam đến 3 điểm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Theo giới quan sát, ý đồ của Trung Quốc là dùng luật của nước mình để áp đặt lên các vùng biển ở Biển Đông, bất chấp luật pháp quốc tế. 
Động thái này phản ánh ý đồ "biến vùng không thể tranh chấp (như quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) thành vùng có tranh chấp" rồi “đưa càng nhiều vùng tranh chấp càng tốt vào trong quyền kiểm soát” của Trung Quốc. 
Thực chất là Trung Quốc muốn tạo cơ sở pháp lý để tăng cường quản lý vùng nước thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và vùng nước nằm giữa quần đảo Hoàng Sa và đảo Hải Nam theo "quy chế quản lý vùng ven biển". Từ đó, Bắc Kinh sẽ củng cố yêu sách Tứ Sa bằng cách nội luật hóa.
Động thái của Trung Quốc không đơn thuần là nhằm đẩy mạnh giao thông liên lạc và du lịch giữa Hải Nam và quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, mà còn mang ý nghĩa rộng hơn là kể từ nay, tàu biển Trung Quốc có thể thoải mái đi đến Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam vì vùng biển đó chỉ là vùng “ven bờ”. 
Đây chính là thủ đoạn để gia tăng quyền khống chế Biển Đông", hãng RFI bình luận. Trong khi đó, Zhang Jie, một chuyên gia về Biển Đông thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cũng thừa nhận, động thái này được thiết kế để tăng cường quản lý Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam bằng luật pháp trong nước của Trung Quốc. 
Đồng quan điểm này, TS Swee Lean Collin Koh, chuyên gia quốc phòng thuộc Trường Nghiên cứu quốc tế S.Rajaratnam (Singapore), nhận định, hành động này không gây bất ngờ, đặc biệt sau khi Bắc Kinh thông báo lập quận hành chính đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Nhưng nó cho thấy sự bất chấp tất cả của Bắc Kinh để phục vụ cho mưu đồ độc chiếm Biển Đông.
Những suy tính đầy tham vọng
Một số nhà phân tích còn thẳng thắn chỉ rõ rằng, đây là bước phát triển mới của quyết định trái pháp luật và đầy tranh cãi của Trung Quốc hồi tháng 4 về việc thành lập hai quận đảo riêng rẽ quản lý Hoàng Sa và Trường Sa  thuộc chủ quyền của Việt Nam. 
Trong bài phân tích hồi tháng 5, cơ quan Sáng kiến minh bạch hàng hải châu Á (AMTI) thuộc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) tại Washington từng cảnh báo, quyết định này của Trung Quốc sẽ cho phép Bắc Kinh cải thiện việc quản lý hành chính và thúc đẩy các chính sách mới của nước này về Biển Đông. 
Vì thế, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, cộng đồng quốc tế cần cực lực lên án, chỉ trích và bày tỏ lập trường cứng rắn hơn nữa với Bắc Kinh.
Theo tin từ tờ The Drive, Trung Quốc đang không ngần ngại thực hiện bất cứ biện pháp gì liên quan đến vấn đề Biển Đông. Vì thế, chỉ một ngày sau khi thực thi phiên bản sửa đổi quy định hàng hải, Bắc Kinh đã cho phép các máy báy chiến đấu Su-30MKK Flanker lượn đi lượn lại trên bầu trời Biển Đông. 
Chưa hết, một cuộc tập trận mô phỏng quá trình cất, hạ cánh vào ban đêm, những cuộc tấn công tầm xa và tấn công các mục tiêu trên biển... cũng nhanh chóng được thực hiện như lý giải của phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng Trung Quốc là để tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu. 
Báo chí Trung Quốc góp phần tuyên truyền rộng rãi bằng cách liên tục cho đăng tải những hình ảnh với lời giới thiệu về sức mạnh của Không quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - một cách trả đũa khôn khéo sau loạt cuộc tập trận hải quân ở Biển Đông của Mỹ và các đồng minh, bao gồm cả Australia. 
Thêm vào đó, hành động trên thực địa của Trung Quốc, như một nhà bình luận nhận xét, là cách để Bắc Kinh "dằn mặt" các quốc gia khác, đặc biệt là Canberra vì cuộc đấu khẩu trên Twitter giữa hai Đại sứ Australia và Đại sứ Trung Quốc tại Ấn Độ về các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông cũng như tuyên bố của Australia về việc không công nhận bất kỳ một yêu sách lãnh thổ, lãnh hải nào của Trung Quốc trên Biển Đông. 
Gần đây, Australia đã tiếp nối hoạt động của các quốc gia khác khi đệ trình một Công hàm ngoại giao lên Liên hợp quốc (LHQ), nói rằng các tuyên bố này là "không có cơ sở pháp lý".
Và nguy cơ trận chiến pháp lý mới
Đánh giá về những diễn biến hiện nay trên Biển Đông, TS Gerhar Will thuộc Viện Khoa học và Chính trị Đức (SWP) cho rằng, sau Tuyên bố chung của ASEAN về vấn đề Biển Đông hồi tháng 7, "Trung Quốc đang cư xử theo kiểu nước lớn và sử dụng quyền lực chính trị một cách liều lĩnh nhằm đạt được vị trí thống trị tại khu vực và trên toàn thế giới". 
Thực tế là có vài quốc gia đã lo sợ khi bị Trung Quốc dọa nạt và chủ trương hòa hiếu và im lặng trước cách hành xử phi pháp của Trung Quốc. "Nhưng họ càng nhún thì Trung Quốc càng lấn lướt và hành động quá mức này đã phản tác dụng, khiến Trung Quốc bị cô lập và giảm sút uy tín. 
Các lý lẽ mà nước này đưa ra trong vấn đề Biển Đông, nhất là yêu sách "đường lưỡi bò" và "Tứ sa" ngày càng bị phản bác nhiều hơn và lộ rõ nhưng sơ hở về việc thiếu tính pháp lý", bài báo trên hãng CNN có đoạn viết.
Thêm vào đó, như nhận định của TS Gerhard Will, việc hàng loạt quốc gia từ Malaysia đến Philippines, Việt Nam, Indonesia, Mỹ, Australia... đệ trình Công hàm ngoại giao lên LHQ về vấn đề Biển Đông cho thấy, quan hệ ngoại giao kiểu mà Trung Quốc mong muốn không còn phù hợp với tình hình hiện tại. 
Đặc biệt, sự cứng rắn của Mỹ, nhất là sau tuyên bố của Ngoại trưởng Mike Pompeo và cả Phó Ngoại trưởng chuyên trách Đông Á về việc Washington có thể ứng phó bằng các biện pháp cấm vận đối với những quan chức và doanh nghiệp Trung Quốc dính líu đến hành động cưỡng ép ở Biển Đông, Bắc Kinh cần phải tính kỹ hơn về những cách thức "tháo các quả bom tức giận" này. 
Được biết, hồi giữa tháng 7, Ngoại trưởng Mike Pompeo khẳng định, các yêu sách của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi tại hầu hết Biển Đông cũng như chiến dịch bắt nạt của nước này để kiểm soát các nguồn tài nguyên đó là hoàn toàn phi pháp. 
Ông Mike Pompeo còn cảnh báo những lợi ích chung ở Biển Đông đang “gặp phải sự sự đe dọa chưa từng thấy” từ Trung Quốc và thế giới sẽ không cho phép Bắc Kinh ứng xử Biển Đông như đế chế hàng hải của riêng mình. 
"Chúng tôi ủng hộ cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ tự do trên biển và tôn trọng chủ quyền, và bác bỏ bất cứ đòi hỏi nào nhằm áp đặt “chân lý thuộc về kẻ mạnh” ở Biển Đông hoặc ở khu vực rộng lớn hơn”, Ngoại trưởng Mike Pompeo nhấn mạnh./.

Tái diễn thủ đoạn phao tin COVID-19 để chống phá Nhà nước


Tái diễn thủ đoạn phao tin COVID-19 để chống phá Nhà nước


Trong khi các loại thuốc đặc trị COVID-19 chưa ra đời, các loại vaccin phòng ngừa vẫn đang được các quốc gia nỗ lực nghiên cứu, trong đó có Việt Nam thì làn sóng COVID-19 thứ hai đang diễn ra nhanh chóng ở nhiều quốc gia trên thế giới với sự bùng phát mạnh, lan tỏa nhanh.
Một số quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ... các ca nhiễm mới bùng lên trong cộng đồng, số ca tử vong tăng lên và gây nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội. Tại Việt Nam, số ca nhiễm gia tăng kể từ cuối tháng 7 và môt số ca đã tử vong. Đó cũng là lúc Việt Nam bước vào cuộc chiến chống COVID-19 mới. 
Tuy nhiên, các đối tượng phản động, chống đối lợi dụng “nước đục thả câu”, tìm cách vu khống tình hình dịch bệnh tại Việt Nam, lấy cớ miệt thị chính quyền, đả phá chế độ. Các đối tượng sử dụng chiêu bài xuyên tạc thông tin về tình hình dịch bệnh, hướng lái dư luận theo mưu đồ mà chúng đã sắp đặt. Hoạt động của số này vẫn thông qua hình thức đăng tải các tin, bài viết, bình luận, chia sẻ, tán phát các video, tài liệu... trên Internet.
Lợi dụng “khoảng trống thông tin”
Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, các kênh truyền thông, báo chí tiếp tục khẳng định vai trò tuyên truyền, cung cấp thông tin cùng nhân dân cả nước ngăn chặn, đẩy lùi dịch bệnh. Tuy nhiên, với sự phức tạp của tình hình tại các “ổ dịch” lớn, cùng với nhiều yếu tố mang tính chủ quan, khách quan dẫn đến các nguồn thông tin còn có độ trễ nhất định. Đó là lúc các đối tượng phản động, chống đối chớp thời cơ, tuyên truyền thông tin sai sự thật, công kích công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong phòng chống dịch bệnh.
Lợi dụng “khoảng trống thông tin” khi các kênh truyền thông chính thức nhà nước chưa đưa tin, các đối tượng chống đối đã triệt để tận dụng bằng những thông tin sai sự thật, lồng ghép những ý đồ, bịa đặt về tình hình dịch bệnh diễn ra tại Việt Nam nhằm gây nên sự hoang mang, lo lắng trong nhân dân. Với sự bịa đặt, gán ghép thông tin, chúng đã đưa ra các kịch bản làm cho cộng đồng mạng mất phương hướng, thậm chí có những người còn a dua, phụ họa thêm cho các hành vi sai trái đó.
Thủ đoạn gán ghép, quy chụp
Vẫn với phương thức “bình cũ, rượu mới”, số đối tượng phản động, chống đối đưa tin về tình hình dịch bệnh theo lối nửa tin, nửa ngờ để phục vụ âm mưu, ý đồ chống phá Nhà nước. Một số website, fanpage facebook, blogspot của tổ chức khủng bố “Việt Tân”; một số nhóm chống đối “Nhật ký yêu nước”; “Thanh niên Công giáo”; “Dân luận”... đăng tải thông tin bịa đặt về dịch bệnh ở Việt Nam. Trang “Việt Tân” đăng tải thông tin cho rằng người Trung Quốc liên tục vượt biên trái phép sang Việt Nam, đã lái vấn đề theo hướng: “Dư luận đặt nghi vấn, sự việc người Trung Quốc xâm nhập vào Việt Nam bất hợp pháp là việc rất nghiêm trọng và đã bắt đầu xảy ra từ đầu năm, có nghĩa là trong thời điểm đại dịch Vũ Hán đang bùng phát tại Trung Quốc mà cho đến giờ này mới báo cáo... 
Cho đến giờ này, chưa thấy nhà nước CSVN có những biện pháp cụ thể nào rõ ràng để ngăn chặn người Trung Quốc trốn sang Việt Nam”. Đó là cách tổ chức khủng bố “Việt Tân” hướng lái nhằm vu cáo Nhà nước Việt Nam trong việc kiểm soát người nhập cảnh, kiểm soát tình hình dịch COVID-19. Thực tế, thời gian qua, tất cả các lực lượng chức năng đã nỗ lực để kiểm soát các đường mòn, lối mở, kiểm soát các hoạt động xuất, nhập cảnh, kịp thời có các biện pháp ngăn chặn, xử lý các hành vi xuất, nhập cảnh trái phép, tiến hành phân luồng, cách ly người nhập cảnh 14 ngày theo quy định. Việc một số đối tượng, nhóm người nhập cảnh trái phép, cơ quan chức năng đã rà soát, xử lý và áp dụng các biện pháp phòng chống dịch chứ không phải phớt lờ, bỏ mặc như thông tin các đối tượng  tung ra.
Trang fanpage “Thanh niên Công giáo” (giả mạo đại diện Người Công giáo) đăng tải thông tin sai sự thật, công kích, hạ bệ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong công tác phòng, chống dịch. Các đối tượng phản động, chống đối sử dụng các trang web có máy chủ đặt ở nước ngoài; khai thác các tính năng bình luận, chia sẻ, livestream; thăm dò ý kiến dư luận qua mạng xã hội; tạo các bài viết mang tính giật gân, gây sốc để thu hút sự chú ý, quan tâm của dư luận. Bằng nhiều cách, các đối tượng lợi dụng tình hình dịch bệnh xảy ra tại Việt Nam để vu cáo với các luận điệu: Việt Nam thiếu minh bạch trong tình hình dịch bệnh; che giấu số lượng ca nhiễm bệnh, tử vong; lan truyền các tài liệu sai sự thật về dịch bệnh COVID-19...
So sánh khập khiễng để vu cáo
Sau khi xảy ra một số ca tử vong có liên quan COVID-19, nhiều đối tượng đã so sánh với ca bệnh 91 (bệnh nhân người Anh, đã được chữa khỏi), từ đó đặt câu hỏi về “mức độ quan tâm” chữa trị giữa người trong nước và nước ngoài. Mục đích hòng đánh lận sự thật, cho rằng ca bệnh khó như 91 còn chữa được, tại sao lại để một số ca bệnh trong nước tử vong. Đây là kiểu so sánh rất khập khiễng, đánh vào tâm lý người đọc, nếu thiếu tỉnh táo sẽ bị dẫn dắt theo ý đồ chống phá của kẻ xấu.
Một mặt, xung quanh vấn đề này, nhiều đối tượng cơ hội chính trị, các đối tượng giả mác dân chủ, những thành phần định kiến, chống đối chế độ đã bộc lộ rõ sự ích kỷ, thù hằn cá nhân với xã hội đã khiến họ “hả hê” khi số liệu thống kê về ca tử vong liên quan COVID-19 tại Việt Nam tăng lên. Điều đó đã chứng tỏ họ chờ đợi để được đếm từng con số người tử vong, lấy làm vui khi các ca mắc bệnh tăng nhanh chóng, từ đó xuyên tạc, chế giễu, mỉa mai chế độ. Nổi lên trong số đó là đối tượng H.V.H (H là đối tượng chống đối cực đoan và đã từng bị TAND TP. Hồ Chí Minh tuyên phạt 4 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”), đã sử dụng tài khoản facebook cá nhân để tán phát những nội dung xuyên tạc, gây sự hoài nghi về những nỗ lực của đội ngũ y, bác sỹ trong việc cứu chữa các bệnh nhân mắc COVID-19. H.V.H đánh lận vấn đề: “ca phi công người Anh còn đòi ghép phổi vì phổi đông đặc, nhưng đùng 1 cái bệnh nhân này ra viện và về Anh không kèn, không trống. Rồi bệnh nhân già Thụy Sỹ cũng ung thư sao điều trị hết và về nước an toàn?”. Nhằm đánh lạc hướng dư luận, thu hút sự chú ý, H đã miệt thị rằng: “Với tình hình này của thông tin về SARS CoV-2 thì tôi cũng phải chào thua về mọi thông tin từ Bộ Y tế Việt Nam”.
Thực tế, việc so sánh như vậy là kiểu quy chụp, đánh lận rất lố bịch. Ngay cả những người không giỏi về y học cũng hiểu rằng, phi công người Anh mới chỉ mới 43 tuổi, bệnh lý nền là béo phì. Là phi công nên trước đó được rèn luyện sức chịu đựng dẻo dai, thể trạng tốt hơn rất nhiều, do đó khả năng hồi phục cao hơn. Trong khi đó, các bệnh nhân tử vong vừa qua đều cao tuổi, bệnh lý nền là đái tháo đường, suy thận giai đoạn cuối, tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ, suy tim giai đoạn cuối, nhồi máu cơ tim diễn tiến nặng…
Liên quan đến các ca tử vong, PGS.TS Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết, nhiều bệnh nhân COVID-19 diễn biến rất nặng, có nhiều bệnh mạn tính, tuổi cao đặc biệt là có thời gian nằm điều trị ở các khoa Hồi sức cấp cứu, lọc máu lâu ngày. “Các bệnh nhân này đã suy các cơ quan quan nội tạng trong quá trình điều trị trước đây. Hệ thống miễn dịch, sức đề kháng suy yếu. 
Có những bệnh nhân suy thận mạn chạy thận chu kỳ trên 10 năm; nhiều bệnh nhân suy tim, bệnh nhân ung thư; nhiều bệnh nhân cao tuổi, có bệnh nhân đã 100 tuổi... Nay bệnh nhân bị mắc thêm COVID-19 làm cho cơ hội tiến triển của các bệnh mạn tính tăng lên, trở thành những bệnh nhân nhiễm COVID-19 nặng và rất nặng” - PGS Khuê phân tích. Theo đó, có thể thấy rằng các bệnh nhân mắc COVID-19 tử vong là do các biến chứng trên nền bệnh lý rất nặng, hiểm nghèo.  
Xét dưới góc độ chuyên môn về y học, những đối tượng như H.V.H không phải là không hiểu vấn đề. Tuy nhiên, họ đã cố tình lập lờ đánh lận, điều này đã chứng tỏ bản chất chống phá chế độ, cố tình suy diễn, đánh lạc hướng dư luận. 
Với những ai nếu cảm thấy Việt Nam chống dịch COVID-19 chưa đủ tốt thì hãy xung phong tới tuyến đầu như Đà Nẵng để được chứng kiến những nhọc nhằn, vất vả của đội ngũ y, bác sỹ, đã không quản hiểm nguy, tận tụy cứu chữa các bệnh nhân; những cố gắng phòng dịch của các chiến sĩ Công an, Quân đội... Hãy thể hiện bằng hành động của mình vào công cuộc chống dịch. Đừng vì những đồng tiền nhơ bẩn mà bán rẻ lương tâm, trở thành các “anh hùng bàn phím”, lợi dụng tình hình dịch bệnh bồi bút xuyên tạc, quy chụp, tư duy cực đoan, miệt thị chế độ. 
Mỗi người hãy thể hiện trách nhiệm của mình bằng việc có ý thức khi tiếp nhận thông tin, sử dụng mạng xã hội để không lan truyền các thông tin sai trái làm ảnh hưởng đến công tác phòng chống dịch COVID-19. Việc tham gia vào môi trường mạng xã hội không nên biến mình thành “con rối” để các đối tượng thù địch phản động điều khiển, hướng lái./.

Cảnh giác trước trò lôi kéo của tà đạo “Thanh Hải vô thượng sư”


Cảnh giác trước trò lôi kéo của tà đạo “Thanh Hải vô thượng sư”


Với mớ giáo lý pha tạp của nhiều tôn giáo, pha chút mê tín, chút màu sắc chính trị, "Thanh Hải vô thượng sư" đang tích cực lôi kéo người dân tham gia giới thiệu, quảng bá, vận động ủng hộ cho tổ chức.
Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền con người, quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định và luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, ban hành nhiều chính sách để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên, thời gian gần đây, ngày càng có nhiều nhóm bất hợp pháp lợi dụng danh nghĩa tôn giáo hoặc lợi dụng những yếu tố tín ngưỡng, tâm linh để hoạt động như “Thanh Hải vô thượng sư”.
Tổ chức bất hợp pháp này không được công nhận về mặt pháp lý tại Việt Nam, không được chính quyền cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo… nhưng vẫn cố tình thực hiện các hoạt động tuyên truyền trái pháp luật, lôi kéo người tham gia nhằm gây ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội và chống phá nhà nước.
Vậy “Thanh Hải vô thượng sư” là tổ chức như thế nào và người dân cần phải nâng cao cảnh giác và chủ động phòng ngừa với những chiêu trò lôi kéo ra sao?
Không giáo lý chính thống
“Thanh Hải vô thượng sư” còn gọi là "Đạo tràng Tây Hồ", "Hội thiền định Suma Ching Hai", "Hội thiền định quốc tế Thanh Hải vô thượng sư", "Hội quốc tế Thanh Hải vô thượng sư", "Hội quốc tế thánh thiện Thanh Hải vô thượng sư" do Đặng Thị Trinh – pháp hiệu "Thanh Hải" (sinh ngày 12-5-1948 tại Đức Phổ, Quảng Ngãi) lập ra năm 1989 tại Đài Loan. Trụ sở chính đặt tại thành phố El Monte, Nam California, Mỹ.
Ông Nguyễn Ánh Chức, Phó Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ cho hay, "Thanh Hải vô thượng sư" không có giáo lý chính thống mà tiếp thu giáo lý Phật giáo và đạo Sikh. Những người theo "Thanh Hải vô thượng sư" phải ăn chay trường, thực hiện ngũ giới cấm, không thờ ông bà tổ tiên…
Chiêu bài xuyên suốt trong tà đạo của Thanh Hải là Pháp môn Thiền quan âm, đi ngược với 5 trường phái thiền của Tổ sư Đạt Ma, gồm: Quy ngưỡng, Vân môn, Pháp nhãn, Tào đọng và Lâm tế. Giáo lý nhà Phật quy định rất kỹ và nghiêm ngặt về ăn mặc, đi đứng, nói năng của người tu hành, nhưng Thanh Hải thì khác.
Khó ai có thể nghĩ người tu hành như Thanh Hải lại ăn mặc có lúc như ca sĩ cải lương, hề trong tuồng chèo, người mẫu thời trang, thậm chí còn mặc áo hở rốn nhảy theo nhạc rock. Nhố nhăng hơn, Thanh Hải còn cho người mẫu thời trang mặc trang phục của người tu hành để biểu diễn trên sân khấu… Trong quá trình rao giảng, phát triển tổ chức, Thanh Hải thể hiện lập trường phản động.
Thậm chí, thông qua Văn phòng Cao ủy về người tị nạn của Liên hợp quốc (UNHCR), Thanh Hải còn thường xuyên đến các trại tị nạn người Việt tại Hong Kong, Thái Lan, Singapore để tuyên truyền, phát triển tổ chức, xây dựng các văn phòng đại diện tại các trại tị nạn với ý đồ khuyên nhủ các phần tử vượt biên ra nước ngoài hồi hương trở về Việt Nam để hình thành lực lượng nòng cốt phục vụ việc tuyên truyền, phát triển đạo lâu dài.
Lợi dụng hoạt động từ thiện để gây thiện cảm
Từ năm 1990 "Thanh Hải vô thượng sư" đã tìm mọi cách để thâm nhập vào Việt Nam. Ở nhiều tỉnh như Vĩnh Long, Cần Thơ, Cà Mau, Tiền Giang, Tây Ninh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Lâm Đồng, TP.HCM... Thanh Hải đã lôi kéo được nhiều người gia nhập tà đạo và không ngừng tuyên truyền cho tà đạo. Quá trình lôi kéo người tham gia, Thanh Hải có lồng ghép tuyên truyền tư tưởng phản động, chống Đảng Cộng sản, chống chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Những người theo "Thanh Hải vô thượng sư" in sao tài liệu, phát tán trái phép tại những nơi công cộng, tổ chức nhiều chương trình văn hóa văn nghệ, mở nhiều nhà hàng chay và các hoạt động mang danh nghĩa bảo vệ môi trường, "sống xanh"; lợi dụng các vấn đề mang tính thời sự đang được xã hội quan tâm như thiên tai, dịch bệnh… để tổ chức các hoạt động từ thiện, ủng hộ nhằm gây thanh thế.
Thời gian qua, lợi dụng tình hình dịch COVID-19, tổ chức "Thanh Hải vô thượng sư" đã đẩy mạnh hoạt động từ thiện - xã hội qua việc gặp gỡ, ủng hộ một số cơ quan chức năng ở địa phương cho công tác phòng, chống dịch bệnh như ở Hà Nội, Kon Tum, Bắc Ninh, Hải Dương… với số tiền khoảng 40.000 USD nhưng đều bị từ chối", ông Nguyễn Ánh Chức cho biết.
Cũng theo Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ, tổ chức "Thanh Hải vô thượng sư" đang tích cực lôi kéo người xuất cảnh tham gia các hoạt động ở nước ngoài, đồng thời tăng cường tuyển chọn, phát triển đội ngũ cốt cán ở trong nước từ những Việt kiều về nước thăm thân nhân, giới văn nghệ sĩ, doanh nhân, tìm cách tiếp cận công chức, viên chức các cấp, giới truyền thông, chức sắc, chức việc một số tổ chức tôn giáo, sinh viên...
Đặc biệt, từ năm 2018, “Thanh Hải vô thượng sư” còn sử dụng chiêu trò lợi dụng các văn nghệ sĩ để thực hiện một số chương trình văn nghệ hoặc giao lưu trực tuyến nhằm khuếch trương thanh thế. Tuy nhiên “chính quyền và lực lượng chức năng các cấp đã tăng cường công tác nắm chắc tình hình, chủ động phát hiện và ngăn chặn, xử lý gần 300 vụ tuyên truyền, tán phát tài liệu, ấn phẩm liên quan đến "Thanh Hải vô thượng sư", truy tố 46 đối tượng, xử phạt vi phạm hành chính gần 400 đối tượng, thu giữ hàng nghìn bộ sách, đĩa, tờ rơi, băng ghi âm, ảnh "Minh sư Thanh Hải" và các công cụ, thiết bị phục vụ việc tuyên truyền trái pháp luật”, ông Nguyễn Ánh Chức thông tin thêm.
Được biết, năm 1996, Hội Phật giáo tỉnh Khánh Hoà từng có văn bản gửi Ban Phật giáo các huyện, thị, thành phố tuyên bố “Thanh Hải vô thượng sư” là một tà đạo, không nằm trong cơ cấu tổ chức và không có mối liên hệ gì với Giáo hội Phật giáo Việt Nam”.
Năm 2009, thầy Thích Quảng Hiền, Phó Ban Thường trực Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đắk Nông cũng nhấn mạnh “Thanh Hải vô thượng sư” không phải là đạo Phật mà là một loại tà đạo vì trong đạo phật danh từ vô thượng sư chỉ dành cho Đức phật, ngoài Đức phật ra không ai dám dùng; đồng thời mong muốn bà con tăng ni, phật tử cần nêu cao tinh thần cảnh giác không nghe, không tin, không theo nhóm Thanh Hải vô thượng sư này vì đây không phải là một tổ chức chính thống của Phật giáo.
Cũng trong những năm 2007-2010, nhiều thành viên của “Thanh Hải vô thượng sư” bị phát hiện và thừa nhận có hành vi phát tán tà đạo, dụ dỗ người dân… Gần đây, “Thanh Hải vô thượng sư” lại tiếp tục quay trở lại hoạt động trên địa bàn cả nước với cách thức mới. Quần chúng nhân dân cần đề cao cảnh giác không mắc mưu dụ dỗ của Thanh Hải và không cổ xuý cho hoạt động của tổ chức này vì nó không chỉ được hình thành trái pháp luật mà còn gây phức tạp về an ninh trật tự, ảnh hưởng đến chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước./.

Cần nhận diện đúng các vấn đề về chủ quyền Biển Đông


Cần nhận diện đúng các vấn đề về chủ quyền Biển Đông


Vấn đề Biển Đông luôn “nóng” không chỉ riêng với các quốc gia có chủ quyền tại đây mà còn là sự kiện được cộng đồng quốc tế quan tâm. Đồng thời, đây cũng chính là mảnh đất để các thế lực thù địch, bất mãn, cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc, kích động chống phá Đảng, Nhà nước.
Gần đây, trên mạng xã hội, các tổ chức khủng bố, phản động như “Việt Tân”, “Đảng Dân chủ nhân dân”, “Đảng Vì dân”, “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời” tăng cường các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Một số chiêu trò điển hình như: Lấy cớ việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ bác bỏ yêu sách chủ quyền trên Biển Đông để tán dương, ca tụng và đòi thả tự do cho các đối tượng có hành vi chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam như Lê Đình Lượng, Nguyễn Năng Tĩnh, Nguyễn Văn Hóa, Trần Hoàng Phúc… Khuếch trương “thành tích chống Cộng”, họ tự cho mình có vai trò trong việc hướng lái nhân dân chống lại âm mưu và hành động của Trung Quốc tại Biển Đông, qua đó xuyên tạc quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề Biển Đông, cổ súy cho việc “bài Trung, thân Mỹ”.
Từ thực tiễn trên, chúng ta cần có cách nhìn nhận đúng đắn vấn đề này.
Trước hết, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử, mọi hành vi phạm tội đều phải bị xử lý theo luật định, trong đó có hành vi chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Lợi dụng cái gọi là “tự do ngôn luận”, các thế lực thù địch thường chụp mũ đối tượng phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia thành “tù nhân lương tâm”, từ đó kêu gọi, gây sức ép đòi thả tự do.
Các đối tượng đăng tải, chia sẻ các bài viết, video, hình ảnh có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân; xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ, chế độ XHCN, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Cho nên, các đối tượng phạm tội phải bị xử theo luật định, không thể quy chụp thành “tù nhân lương tâm”, việc kêu gọi thả tự do cho các đối tượng trên hoàn toàn vô lý, lố bịch.
Thứ hai, quan điểm của Việt Nam về giải quyết vấn đề Biển Đông là rõ ràng, nhất quán. Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng khẳng định: “...Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”.
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, trước những thách thức của thời cuộc, chúng ta luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo, phù hợp tư tưởng ấy của Bác; lấy việc giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, bảo vệ, giữ vững chủ quyền quốc gia, trong đó có chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Thực tiễn đã chứng minh, trong bối cảnh Trung Quốc thường xuyên có các hành động xâm phạm quyền, chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, Đảng, Nhà nước ta đã chủ trương giải quyết thông qua thương lượng hoà bình trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), nhằm tìm kiếm một giải pháp cơ bản và lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hợp tác và phát triển.
Thực tế cho thấy, bằng chủ trương giải quyết các vấn đề liên quan chủ quyền ở Biển Ðông thông qua biện pháp hoà bình trên tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả thoả thuận quan trọng với các nước trong khu vực và giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Thứ ba, việc Bộ Ngoại giao Mỹ và một số nước khác lên tiếng công khai phản đối Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam về tình hình Biển Ðông. Đây là vấn đề Việt Nam và các quốc gia có chủ quyền trên Biển Đông cũng như cộng đồng quốc tế hoan nghênh. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng sự kiện trên để kích động Việt Nam theo Mỹ, chống Trung Quốc.
Về vấn đề này cần quán triệt sâu sắc quan điểm đối tác, đối tượng của Đảng, đó là: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta.
Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Xác định đúng đối tượng, đối tác của Việt Nam là vấn đề hết sức quan trọng, là cơ sở để đề ra đường lối đối nội, đối ngoại cùng với chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là một vấn đề khá “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế.
Nhưng không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, chiến lược, sách lược đúng đắn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với vấn đề tranh chấp trên Biển Ðông hiện nay cũng vậy, chúng ta phải đặc biệt tỉnh táo trước chiêu bài của các phần tử thù địch, phản động. Cảnh giác không thể trở thành con bài chính trị, nhất là của các nước lớn, điều đó sẽ hết sức nguy hiểm cho lợi ích quốc gia, dân tộc.
Thứ tư, âm mưu và hành động độc chiếm Biển Ðông của Trung Quốc là hết sức rõ ràng, đòi hỏi chúng ta phải luôn đấu tranh mạnh mẽ, bền bỉ, không khoan nhượng, sử dụng biện pháp hòa bình, theo luật pháp quốc tế. Giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước, giữ vững mối đoàn kết, bang giao với tất cả các nước; không để xảy ra xung đột, chiến tranh.
Việt Nam không để lệ thuộc về kinh tế; không để bị cô lập, chi phối về chính trị; không để bị lôi kéo đi theo nước này để chống lại nước khác; không để đối đầu về quân sự, không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Chúng ta kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích; kiềm chế, không để nước ngoài lấn chiếm và tránh không để xảy ra xung đột, đụng độ. Vì vậy, quan điểm “bài Trung, thân Mỹ” hoàn toàn không có trong đường lối đối ngoại hay trong quan điểm giải quyết vấn đề Biển Đông của Đảng, Nhà nước ta.
Giá trị của hòa bình được đổi bằng biết bao xương máu của các thế hệ ông cha. Do đó, chúng ta phải biết trân trọng, nâng niu, giữ gìn. Dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình, hơn lúc nào hết chúng ta thấu hiểu nỗi đau mà chiến tranh gây ra. Do đó, chúng ta bằng mọi biện pháp duy trì hoà bình, ổn định để phát triển; trường hợp chiến tranh là bất khả kháng để tự vệ nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Thực tiễn cho thấy, mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng gây mất ổn định, mất đoàn kết trong nước và quốc tế, làm tổn hại lợi ích quốc gia, dân tộc. Do vậy, mỗi người dân cần tỉnh táo, bình tĩnh, không để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo, kích động; cần thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề Biển Đông, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc biển, đảo của Tổ quốc./.

Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2020

Ý NGHĨA CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945


    Thời kỳ 1930-1945, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách mạng nước ta phát triển theo xu thế của thời đại đã được mở ra từ Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.

    Quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền đã diễn ra với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa như 3 cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân: Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết-Nghệ Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945 (1939-1945). Đó là quá trình đấu tranh cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ của Đảng và dân tộc ta và đã giành được những thắng lợi vẻ vang.

    Thực tiễn 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và nhân dân đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.

    Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.

    Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của Chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sức mạnh đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”; “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

                                                                                                                            Chủ lực

PHÁT HUY SỨC MẠNH NỘI LỰC VÀO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo nên bài học quý báu về phát huy sức mạnh nội lực. Trước hết, thông qua phát huy sức mạnh nội lực từ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Quá trình đó, nhờ đoàn kết thống nhất, Đảng đã phát huy trí tuệ, xác định đường lối chính trị đúng đắn; thường xuyên làm tốt công tác tư tưởng và xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng; tăng cường công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng từ “thành thị đến thôn quê” và tổ chức thực hiện cương lĩnh, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng để bảo đảm cho Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đồng thời, luôn cảnh giác đề phòng nghiêm ngặt và kiên quyết loại ra khỏi Đảng những phần tử giả danh cộng sản chui vào Đảng để phá hoại. Chính vì thế, chỉ với 5.000 đảng viên, Đảng không chỉ phát huy sức mạnh to lớn của một tổ chức Mácxit chân chính mà còn tập hợp, huy động được sức mạnh nội lực của toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh tạo sức mạnh như nước vỡ bờ, triều dâng sóng dềnh biển cả, nhấn chìm bè lũ cướp nước và bán nước. 

Ngày nay, để phát huy sức mạnh nội lực phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Bằng tinh thần quảng giao trong quan hệ quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, Việt Nam chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đã có quan hệ với 189 nước và đã là thành viên của rất nhiều tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế. Việt Nam đã hai lần được bầu làm Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2008-2009 và 2020-2021). Năm 2020, Việt Nam làm Chủ tịch luân phiên ASEAN và đến nay đã tham gia nhiều tổ chức và diễn đàn quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Điều đáng chú ý là mới đây, chúng ta được Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu với số phiếu tín nhiệm rất cao, gần như tuyệt đối, lần thứ hai trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. “Với những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đây là những thành quả tất yếu từ quá trình phát huy sức mạnh nội lực của cả dân tộc Việt Nam.

Để tiếp tục phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc, tận dụng cơ hội, vượt qua nguy cơ, thách thức, Đảng nhấn mạnh phải khơi dậy tinh thần yêu nước, đây là một trong những giá trị, thuận lợi cơ bản để phát huy tối đa sức mạnh nội lực của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, phải nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập, kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy nhân tố con người. Quá trình đó, đòi hỏi tăng cường xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Theo đó, trước hết và trên hết là thực hiện nhiệm vụ “then chốt” xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng theo tinh thần Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII về Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện quyết liệt cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Phải nhận thức đúng và xử lý tốt các nhân tố tạo thành động lực tổng hợp để đổi mới và hội nhập, kết hợp hài hòa các lợi ích; phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc; phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và phát huy nhân tố con người.

Đặc biệt coi trọng xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đổi mới chính sách giai cấp, chính sách xã hội, nhất là đổi mới, hoàn thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối với công nhân, nông dân, trí thức, với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm huy động sức mạnh nội lực cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, trong đó chú trọng xây dựng lòng yêu nước, với mục tiêu đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.

Hơn nữa, trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, trong chính sách đại đoàn kết phải chú ý phát huy tính năng động của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục những mặt trái của kinh tế thị trường, nhất là tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành mạnh làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân, tương ái của dân tộc.

Cùng với các biện pháp trên, trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, phát huy tối đa sức mạnh nội lực dân tộc còn đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với phong trào cách mạng các nước trên thế giới. Thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc theo phương châm Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển… Thực hiện “thêm bạn bớt thù” trong hội nhập quốc tế, góp phần biến sức mạnh ngoại lực thành sức mạnh nội lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

75 năm trôi qua, bài học phát huy sức mạnh nội lực trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tồn tại với thời gian và chính thời gian đã làm cho giá trị lịch sử, giá trị hiện thực của bài học đó thêm sâu sắc và bền vững, tiếp tục toả sáng, định hướng cho việc phát huy cao độ sức mạnh nội lực của dân tộc Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

SỨC MẠNH NỘI LỰC - YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH LÀM NÊN THẮNG LỢI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

 

Với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” khi thời cơ đến vào giữa tháng 8 năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh nội lực của hơn 20 triệu người dân Việt Nam đã được phát huy. Chỉ trong vòng nửa tháng, đã làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền về tay nhân dân trên phạm vi cả nước.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã tạo nên bài học quý báu về phát huy sức mạnh nội lực. Trước hết, thông qua phát huy sức mạnh nội lực từ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Quá trình đó, nhờ đoàn kết thống nhất, Đảng đã phát huy trí tuệ, xác định đường lối chính trị đúng đắn; thường xuyên làm tốt công tác tư tưởng và xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng; tăng cường công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng từ “thành thị đến thôn quê” và tổ chức thực hiện cương lĩnh, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng để bảo đảm cho Đảng luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đồng thời, luôn cảnh giác đề phòng nghiêm ngặt và kiên quyết loại ra khỏi Đảng những phần tử giả danh cộng sản chui vào Đảng để phá hoại. Chính vì thế, chỉ với 5.000 đảng viên, Đảng không chỉ phát huy sức mạnh to lớn của một tổ chức Mácxit chân chính mà còn tập hợp, huy động được sức mạnh nội lực của toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh tạo sức mạnh như nước vỡ bờ, triều dâng sóng dềnh biển cả, nhấn chìm bè lũ cướp nước và bán nước.

Cùng với phát huy sức mạnh nội lực từ sức mạnh của khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, sức mạnh nội lực của Cách mạng Tháng Tám còn được phát huy cao độ từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng biết tin dân, dựa vào dân, hiểu thấu dân tâm, quy tụ nhân tâm và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp hài hòa giữa ý Đảng với lòng dân. Với quan điểm “Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5, 7 người giết 2, 3 anh vua, 9, 10 anh quan mà được” và “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”, trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng xác định quyền lợi của bộ phận của giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Vì thế, để đoàn kết sức mạnh của toàn dân tộc, tháng 5/1941, Mặt trận Việt Minh ra đời đã hướng tới việc mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ và phát huy cao độ sức mạnh nội lực của dân tộc cho một cuộc hồi sinh vĩ đại./.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện có tầm vóc thời đại

 

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một trong những thắng lợi nổi bật, vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.

Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời để lại những bài học kinh nghiệm trong quá trình đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có bài học phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Ngược dòng lịch sử để trở về những ngày mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của 75 năm trước để ôn lại những bài học lịch sử quý báu còn nguyên giá trị đến ngày nay là việc làm cần thiết để kết nối giữa quá khứ với hiện tại.

Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

PGS, TS Đỗ Xuân Tuất, Phó viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng khẳng định: Cách mạng Tháng Tám là thành quả của một quá trình đấu tranh lâu dài, kiên cường, bất khuất của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động của thắng lợi trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, của tư tưởng Hồ Chí Minh, cho thấy nội dung, giá trị tư tưởng của Người về giải phóng và phát triển, nhằm mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của Hồ Chí Minh.

Theo PGS, TS Đỗ Xuân Tuất, Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng điển hình được tiến hành bằng sức mạnh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua mặt trận Việt Minh-hình ảnh trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta” chính là tiếng gọi của non sông, là lời hịch sống dậy tài dân và sức dân từ trong chiều sâu lịch sử của dân tộc ngàn năm văn hiến với dòng chảy chủ lưu là truyền thống yêu nước.

Về tinh thần dân tộc thể hiện trong sự đoàn kết để chiến thắng kẻ thù xâm lược, PGS, TS Phạm Hồng Chương, nguyên Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng cho rằng: Toàn bộ tinh thần dân tộc được tích lũy trong tiến trình lịch sử và tiếp tục nhân lên trong gần một thế kỷ oanh liệt chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít và chế độ phong kiến để đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Tất cả tinh thần dân tộc được tích hợp trong tiến trình đó lại hội tụ ở Hồ Chí Minh rồi tỏa sáng trong Bản Tuyên ngôn Độc lập do Người khởi thảo để tuyên bố trước thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam mới-nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Khẳng định về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Thạc sĩ Bùi Thế Đông (Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch) nhấn mạnh: Chủ trương đoàn kết, tập hợp lực lượng của Mặt trận Việt Minh góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị lực lượng cách mạng, chuyển cách mạng Việt Nam sang thời kỳ cao trào và tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Có thể nói, Mặt trận Việt Minh ra đời là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm thực hiện chiến lược đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám. Chính nhờ việc xây dựng có hệ thống vững chắc, rộng khắp, các tổ chức quần chúng yêu nước trong Mặt trận Việt Minh mà cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra thuận lợi, nhanh chóng và ít đổ máu.

Nhận định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng của một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thể hiện tinh thần đoàn kết của nhân dân ta, chị Nguyễn Vân Anh (Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch) nhấn mạnh: Đây là cuộc cách mạng điển hình về tinh thần chủ động, sáng tạo, biết tranh thủ thời cơ chung, tự mình đứng lên giải phóng cho mình; đồng thời cũng cho thấy những quyết định đúng đắn, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người không chỉ hoạch định đường lối, xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội mà còn là người tổ chức, kiến tạo phong trào cách mạng, tìm đường, mở đường, dẫn đường và định hướng sự phát triển của đất nước trong tương lai.

Theo Giám đốc Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch Nguyễn Văn Công, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á, đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả đấu tranh kiên cường, bền bỉ, anh dũng của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.

Phát huy giá trị tinh thần của Cách mạng Tháng Tám

Tự hào được hàng ngày làm việc tại nơi đã ghi dấu chân Người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc-Chủ tịch Hồ Chí Minh, chị Trần Ngọc Lan (Khu Di tích Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch) bày tỏ: Mùa thu Tháng Tám lịch sử mãi là những trang sử hào hùng, ghi dấu truyền thống đấu tranh anh hùng, bất khuất, biểu tượng sáng ngời ý chí quật khởi của cả dân tộc còn vang dội đến hôm nay và mai sau, là động lực tiếp thêm sức mạnh và niềm tin chiến thắng để thế hệ hôm nay được sống trong hòa bình, viết tiếp trang sử vẻ vang của đất nước. Quá khứ hào hùng và âm vang lịch sử từ mùa Thu năm 1945 vọng về trở thành điểm tựa tinh thần cho đất nước ta vững vàng trên con đường hội nhập và phát triển bền vững, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

75 năm nhìn lại, thế hệ ngày nay càng hiểu hơn về sự kiện vĩ đại nhất của những ngày mùa Thu Tháng Tám, càng thấy rõ hơn giá trị của độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất để thấy rõ trách nhiệm của thế hệ trẻ là giữ vững và phát huy tinh thần hào hùng ấy vào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đồng quan điểm với đồng nghiệp Trần Ngọc Lan, chị Cao Thanh Huyền (Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch) nhấn mạnh: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện có tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với các dân tộc thuộc địa, nhân dân bị áp bức, bóc lột trên thế giới vùng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ý nghĩa và tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám không chỉ đóng khung trong một thời điểm, không gian nhất định mà ngày càng lan tỏa cao rộng hơn cùng với tiến trình phát triển của đất nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những trang sử vẻ vang nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Giá trị to lớn và ý nghĩa đặc biệt sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945-văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc thiết lập Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu độc lập-tự do-hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Mùa thu Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mãi mãi là một trang sử vàng sáng chói. Nhìn lại quá hào hùng để tưởng nhớ công lao to lớn, vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới đồng thời góp phần lan tỏa giá trị to lớn cũng như ý nghĩa đặc biệt sâu sắc của Cách mạng Tháng Tám và Bản Tuyên ngôn Độc lập./.

Ảnh: Bức tranh vẽ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và thành lập Mặt trận Việt Minh tại Cao Bằng tháng 5-1941 trưng bày trong triển lãm chuyên đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh-Người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” tại Khu Di tích Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch.

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỘC LẬP, DÂN TỘC

 

Cách mạng Tháng Tám (CMT8) có giá trị vĩ đại không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại. Thế nhưng hiện nay, vẫn có thế lực từ bên ngoài với tâm địa đen tối, bằng những lập luận thiếu tử tế hòng xuyên tạc và phủ định giá trị của CMT8.

Họ cho rằng không cần phải làm CMT8 vì với xu thế chính trị sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp rất muốn và sẽ tự trao trả độc lập cho Việt Nam. Hơn nữa, họ còn cho rằng dân tộc Việt Nam cũng không cần độc lập mà cứ là một thuộc địa của Pháp thì sẽ phát triển hơn. Đáng buồn và đáng giận là vẫn có những người Việt Nam thuộc thế hệ sau được hưởng thành quả từ xương máu của thế hệ đi trước, nhưng vì thiếu hiểu biết, suy nghĩ nông cạn đã bị ảnh hưởng từ những thông tin sai trái, để rồi có những lời lẽ vô ơn khi nhắc tới CMT8.

Đầu tiên cần phải khẳng định, thắng lợi của CMT8 năm 1945 đã mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta, đất nước ta. Thắng lợi này đã chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp đối với nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, lần đầu tiên tên nước Việt Nam có trên bản đồ thế giới, với tư cách và vị thế của một quốc gia-dân tộc độc lập, có chủ quyền. Về ý nghĩa vĩ đại của CMT8, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Lịch sử dân tộc ta có nhiều thời kỳ rất vẻ vang. Nhưng trước ngày CMT8, dân tộc ta đã phải trải qua gần một thế kỷ vô cùng tủi nhục. Trên địa đồ thế giới, tên nước ta đã bị xóa nhòa dưới bốn chữ “Đông Dương thuộc Pháp”. Thực dân Pháp gọi đồng bào ta là lũ Annamít dơ bẩn. Thiên hạ gọi chúng ta là vong quốc nô... CMT8 thành công. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi. Nhân dân ta tự làm chủ vận mạng của mình. Tên tuổi của nước ta lại lừng lẫy khắp năm châu, bốn biển”(1). CMT8 cũng trở thành nguồn động viên to lớn để nhiều dân tộc thuộc địa đứng lên giành độc lập.

Thực tế là Việt Nam giành chính quyền từ tay phát xít Nhật chứ không phải từ thực dân Pháp. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc nêu rõ rằng, thực dân Pháp “đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Đó là "mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương... thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật". Rồi ngày 9-3-1945, phát xít Nhật đã đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp không chỉ ở Việt Nam mà toàn cõi Đông Dương. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Sau đó, phát xít Nhật đã dựng lên một chính phủ bù nhìn do Trần Trọng Kim đứng đầu. Chính phủ này chỉ tồn tại trên giấy, không làm gì và cũng không thể làm gì. Mọi quyền hành đều trong tay phát xít Nhật.

Như thế, câu chuyện thực dân Pháp trả độc lập, tự do cho Việt Nam là điều hoàn toàn nực cười cả về pháp lý, đạo lý và thực tế lịch sử. Vì người ta không thể “cho” hay “trả” cái mà người ta không có.

Và thực dân Pháp có muốn trả độc lập, tự do dân tộc Việt Nam không?

Thực dân Pháp không bao giờ muốn! Lịch sử đã cho thấy rõ ràng! Khi thế cuộc của Chiến tranh thế giới thứ hai đã rõ ràng với chiến thắng của phe Đồng minh, thực dân Pháp đã có mưu đồ quay trở lại xâm lược nước ta. Ngay sau khi nước ta giành độc lập, thực dân Pháp theo chân quân Mỹ, Anh vào Nam Bộ để giải giáp quân Nhật. Ngày 23-9-1945, quân Pháp bất ngờ tấn công để lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ tại Nam Bộ. Nam Bộ bị quân Pháp dìm trong bể máu. Độc lập, tự do của nhân dân ta ở Nam Bộ chỉ không đầy một tháng lại bị thực dân Pháp tước đi. Cả Nam Bộ đứng lên kháng chiến để đánh đuổi quân Pháp. Sau khi tấn công chiếm Nam Bộ, Pháp tiếp tục đưa quân ra miền Bắc, liên tục khiêu khích, đòi tước vũ khí của Quân đội ta. Nhiều lần Chính phủ ta đã tỏ thiện ý thương lượng, đàm phán, với sự nhân nhượng vì mong muốn duy trì hòa bình, tránh đổ máu cho dân tộc nhưng không thể được trước tâm địa đen tối của thực dân Pháp quyết cướp nước ta một lần nữa. Quân Pháp quyết gây chiến tranh khi liên tiếp gây ra các vụ thảm sát tại Hải Phòng và Hà Nội.

Sau đó, ngày 18-12-1946, thực dân Pháp gửi hai tối hậu thư liên tiếp, đòi tước vũ khí của Quân đội ta. Đến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Cả dân tộc đứng lên trường kỳ kháng chiến 9 năm để đánh đuổi thực dân Pháp, kết thúc bằng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva được ký kết. Thế nhưng thực dân Pháp rút đi thì đế quốc Mỹ cũng ngay lập tức thế chân tại miền Nam, với mưu đồ biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và để từ đó tấn công phá hoại miền Bắc. Lịch sử đã chứng minh rằng, các nước thực dân, đế quốc luôn muốn đặt ách thống trị tại Việt Nam, không bao giờ muốn nước ta được độc lập, nhân dân ta được tự do. Từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, dân tộc ta đã phải anh dũng, kiên cường chiến đấu suốt 30 năm nữa, đổ bao xương máu mới có được độc lập, tự do, thống nhất trên cả nước.

Ấy thế mà ngày nay, vẫn có những kẻ muốn lừa bịp giới trẻ, vẽ ra ảo tưởng thực dân, đế quốc tốt bụng, sẽ trao trả độc lập, tự do cho dân tộc ta, đem lại sung sướng, hạnh phúc cho nhân dân ta và chúng ta chẳng cần phải làm gì, chỉ trông chờ vào sự tốt bụng đó.

Nguy hiểm hơn, có những người mang dòng máu Việt Nam lại gieo rắc luận điệu cho rằng, nước ta chẳng cần độc lập để làm gì, mà cứ giữ là thuộc địa của Pháp có khi lại phát triển hơn, đời sống người dân sung sướng hơn. Luận điệu ấy chắc chắn chỉ có trong đầu óc của những kẻ thiếu tử tế và thiếu nhân cách. Suy nghĩ ấy là của những kẻ luôn muốn ăn bám và tư duy lệ thuộc. Đó là những kẻ không xứng đáng đứng trước tổ tiên để nhận mình là con cháu Việt Nam. Lịch sử oanh liệt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc cho thấy ý thức, khát vọng độc lập, tự chủ đã ăn sâu vào máu của mỗi người Việt Nam. Người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chiến đấu, hy sinh chứ quyết không chịu đặt dưới ách cai trị của dân tộc khác. Dân tộc Việt Nam cũng không chịu để kẻ thù cướp đi bất cứ tấc đất nào của cha ông để lại.

Khi đọc những lời lẽ hùng hồn trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh bất ngờ dừng lại và hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”. Và cả triệu người đồng thanh đáp lại vang dội: “Có!”. Trong giờ phút ấy, chắc hẳn từ vị Chủ tịch nước cho tới từng người dân đều xúc động nghẹn ngào, nhiều giọt nước mắt đã rơi... Tại Sài Gòn (nay là TP Hồ Chí Minh), do hạn chế về kỹ thuật, không thể tiếp sóng phát thanh trực tiếp lời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lễ tuyên ngôn độc lập từ Quảng trường Ba Đình, do đó, ông Trần Văn Giàu, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Nam Bộ, Chủ tịch Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ đã được đề nghị lên phát biểu. Trong phát biểu của mình, ông Trần Văn Giàu cũng nêu rõ:

“Việt Nam từ một xứ thuộc địa đã trở thành một nước độc lập... Việt Nam đương tiến bước trên đường sống”. Ông cũng đã chỉ rõ mưu toan của thực dân Pháp: “Kẻ địch toan tính một cuộc âm mưu gác lại ách nô lệ trên cổ 25 triệu đồng bào”. Ông đã hỏi những người dự lễ: “Đồng bào ở đây có ai thừa nhận một quan toàn quyền cai trị xứ ta không? Có ai chịu bó tay để cho chế độ thực dân-ra mặt hay giấu mặt-trở lại không?”. Sau mỗi câu hỏi của ông, cả triệu người đồng thanh đáp lại: “Không! Không! Không!” vang dội cả góc trời. Thay mặt hàng triệu người dân Nam Bộ, ông Trần Văn Giàu nói lên quyết tâm bảo vệ Tổ quốc: “Chúng ta thề cương quyết đứng bên cạnh Chánh phủ, chống mọi sự xâm lăng, dầu chết cũng cam lòng”(2).

Chính vì ý thức, khát vọng độc lập, tự do rất mãnh liệt như vậy nên dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, dân tộc ta vẫn giữ được bản sắc của mình, không bị đồng hóa như rất nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã từng tồn tại và biến mất.

Cái ý nghĩ, mong muốn nhờ vào ngoại bang để có được hạnh phúc, phồn vinh đã bị không chỉ lịch sử Việt Nam mà còn là lịch sử nhân loại chứng minh sự sai lầm. Suy nghĩ sai lầm tai hại ấy không chỉ làm cho nhiều thế hệ hào kiệt, nhiều nhà cách mạng tiền bối của Việt Nam phải sa cơ, thất bại mà còn làm cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của chúng ta kéo dài. Phải đến khi nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu nước chân chính, đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam thì sự nghiệp giải phóng dân tộc mới đi đúng hướng. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã viết: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

“Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” chính là thể hiện tinh thần, ý thức tự chủ, tự lực, tự cường của cuộc CMT8. Đó chính là phương thức cứu nước đúng đắn mà thế hệ trước đã tìm ra, đã thực hiện thành công và trao truyền lại cho thế hệ những người Việt Nam tiếp theo. Ngày nay, bài học vô giá phải trả bằng máu đó phải được tiếp tục khắc cốt ghi tâm trong những người con mang dòng máu Việt Nam. Dân tộc ta không thể phó mặc, không thể trông chờ vào bất cứ dân tộc nào, quốc gia nào để bảo vệ chủ quyền đất nước, để được độc lập, tự do. Dân tộc ta cũng không thể trông chờ vào bất cứ dân tộc, quốc gia nào để được hạnh phúc, phồn vinh, phát triển. Chúng ta trước hết phải dựa vào sức mình! Bằng tinh thần đoàn kết, bằng trí tuệ, ý chí, sức lực, lòng dũng cảm của mình, chắc chắn chúng ta sẽ làm được điều đó! Dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam sẽ trường tồn!

Đã gần 75 năm kể từ ngày lời Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang vọng trên Quảng trường Ba Đình. Việt Nam của chúng ta ngày nay đã rất khác xưa, đã là một đất nước độc lập, tự do, thống nhất, hòa bình, hạnh phúc và đang ngày càng phát triển. Với vị thế quốc gia của mình, Việt Nam có tiếng nói ngày càng có trọng lượng trên trường quốc tế, được bạn bè quốc tế lắng nghe, tin tưởng và nể trọng. Tất cả thực tế đó đã chứng minh những luận điệu xuyên tạc về CMT8 là hoàn toàn sai trái, không thể có chỗ đứng trong lòng những người Việt Nam chân chính và nhân loại có lương tri.

Ngày 19-8-1945, sau cuộc mít tinh tại Quảng trường Nhà hát lớn, quần chúng nhân dân Thủ đô đã đánh chiếm Bắc Bộ phủ, cơ quan đầu não của chính quyền tay sai Pháp ở Bắc Bộ. Cách mạng Tháng Tám mở ra một thời đại mới ở Việt Nam - thời đại nhân dân Việt Nam làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của chính mình./.