Thứ Tư, 21 tháng 10, 2020

 

NHỮNG THÀNH PHẦN TAY SAI CHO CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG KHÔNG ĐỦ TƯ CÁCH NÓI VỀ NHÂN QUYỀN TẠI VIỆT NAM


 Sau hơn 1 tuần xét xử, ngày 14 tháng 9 năm 2020, Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội đã tuyên án 29 bị cáo về tội “Giết người” và “Chống người thi hành công vụ” xảy ra tại thôn Hoành (xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội), đây là vụ án hình sự nghiêm trọng, đặc biệt nguy hiểm, được dư luận trong và ngoài nước quan tâm, nhiều đối tượng vi phạm pháp luật với hành vi manh động, dã man, gây bức xúc dư luận, hầu hết chúng đã thừa nhận hành vi phạm tội, nhận được bản án thích đáng...

Mặc dù vụ án đã kết thúc, được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân trong và ngoài nước, xong trên các trang mạng xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng các lực lượng thù địch và nhiều phần tử phản động ra sức chống phá, đăng tải, phát tán các bài viết chống phá Đảng, Nhà nước, nhân dân ta, chúng vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do, dân chủ, nhân quyền”, đặc biệt trên trang Bauxite việt Nam, ngày 27/9/2020, đối tượng Hiếu Bá Linh tán phát bài “64 nghị sĩ Châu Âu lên tiếng về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, trong đó có vụ Đồng Tâm”.

Đây là một vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng, Qua bản án đã chứng tỏ với thế giới về sự nghiêm minh nhưng cũng đầy tính nhân văn của pháp luật Việt Nam.  Phiên tòa là một bằng chứng thuyết phục, góp phần bẻ gãy những luận điệu chống phá Nhà nước Việt Nam. Cái gọi là “64 nghị sĩ Châu Âu” của Hiếu Bá Linh không đủ tư cách nói về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam.

Những thủ đoạn xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam thời gian gần đây ngày càng tinh vi, xảo quyệt, do đó việc nhận diện và đấu tranh chống âm mưu, hoạt động lợi dụng nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia Việt Nam là vấn đề hệ trọng cần thiết, đòi hỏi sự tham gia của các cơ quan, ban, ngành chức năng và mỗi người dân, tạo thế trận an ninh vững chắc bảo vệ sự ổn định và phát triển của đất nước.

 VB.

Quân đội sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân

QĐND - LTS: Bên hành lang Quốc hội tại Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XIV, ngày 21-10, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã chia sẻ với báo chí về nỗ lực của quân đội trong phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu những chia sẻ của Đại tướng Ngô Xuân Lịch. Nhân dân luôn tin tưởng vào bộ đội, thấu hiểu, chia sẻ với những khó khăn, gian khổ, hy sinh của bộ đội trong khi làm nhiệm vụ. 13 đồng chí hy sinh tại khu vực gần thủy điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên-Huế) khi đang trên đường làm nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn, trong đó có 11 quân nhân. Nỗi đau này chưa nguôi thì ở huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị tiếp tục có 22 cán bộ, chiến sĩ Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 337 hy sinh. Bộ Quốc phòng tạo điều kiện tốt nhất về chế độ, chính sách, chia sẻ với thân nhân, gia đình các đồng chí. Các đồng chí quân nhân hy sinh khi làm nhiệm vụ được truy tặng huân chương, được truy thăng quân hàm. Nếu vợ, con các đồng chí chưa có việc làm, Bộ Quốc phòng sẽ bố trí công việc phù hợp. Trường hợp nguyện vọng của thân nhân, gia đình không phù hợp với ngành nghề, công việc của Bộ Quốc phòng, thì Bộ Quốc phòng sẽ đề nghị Chính phủ giao cho các bộ, ngành tạo điều kiện, bố trí việc làm cho thân nhân các liệt sĩ hy sinh vì nhân dân. Quân đội sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân Đại tướng Ngô Xuân Lịch trả lời báo chí bên hành lang Quốc hội ngày 21-10. Đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói: Những nơi khó khăn nhất, quân đội có mặt. Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 337 đóng quân ở nơi đặc biệt khó khăn, nhiều khu vực vẫn bị nhiễm chất độc hóa học, dù có thể ảnh hưởng nhưng cán bộ, chiến sĩ chấp nhận. Các đoàn kinh tế-quốc phòng cùng với lực lượng Bộ đội Biên phòng trấn ải ở những vị trí tạo thành phên giậu bảo vệ đất nước và tổ chức đưa nhân dân lên. Bộ Quốc phòng đã có chỉ thị giao cho chỉ huy các đơn vị căn cứ tình hình thực tế, tổ chức sơ tán cho bộ đội ở những nơi có thể xảy ra nguy hiểm, bảo đảm an toàn. Song tùy điều kiện của từng địa phương, phải bảo đảm hỗ trợ nhân dân với yêu cầu quân đội sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Với điều kiện phương tiện hiện nay, trong trường hợp không thể tổ chức cho người và phương tiện cơ động bình thường thì phải huy động máy bay trực thăng để tiếp tế cho các vùng nhân dân bị cô lập do bão lũ. Bộ Quốc phòng đã chuẩn bị sẵn sàng các lực lượng, máy bay trực thăng. Tuy nhiên, việc sử dụng máy bay trực thăng trong phòng, chống thiên tai cũng phải bảo đảm các điều kiện an toàn, nhất là điều kiện thời tiết. Bộ Quốc phòng sẵn sàng huy động lực lượng, phương tiện, tổ chức thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn nhân dân. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đánh giá rất cao vai trò của báo chí, tạo điều kiện tốt nhất để báo chí đến tìm hiểu các hoạt động của quân đội, góp thêm tiếng nói động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ toàn quân nỗ lực phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ. Nguồn: QĐND

KHÔNG NÓI ĐƯỢC GÌ HAY HO THÌ TỐT NHẤT NÊN IM MIỆNG LẠI

 Khi mạng xã hội phát triển, chúng ta đã quá quen với việc mỗi khi đất nước gặp khó khăn, ngoài những hình ảnh, câu chuyện đẹp được chia sẻ thì cũng không thiếu những kẻ "chọc ngoáy" thích bày tỏ quan điểm cá nhân.

ANH LÀ BỘ ĐỘI VIỆT NAM


Anh chẳng tóc mượt rẽ ngôi
Cũng không có bờ môi mọng đỏ
Chẳng có dáng thanh thanh nho nhỏ
Giống mấy anh lính ở nước Hàn
Bộ đội Việt Nam còn vất vả muôn vàn
Dân vẫn khó trong trăm ngàn cơ cực
Thiên tai rình ngày đêm trào trực
Trách nhiệm anh là phải thức để dõi theo...

Miền Trung không đơn độc


 Những ngày tháng 10 này, mưa lũ liên tục hoành hành tại Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Quảng Trị và mới đây là tỉnh Hà Tĩnh. Lũ đến mang theo những mất mát, đau thương nhưng ở đấy chúng ta cũng thấy được tình người sâu sắc khi từng giờ, từng ngày người dân cả nước luôn dõi theo, cùng hướng về miền Trung ruột thịt.

Mới chiều qua 19/10, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã lệnh: các cấp các ngành không được để người dân đói, không được để dân rét, màn trời chiếu đất. Và khẩn trương khắc phục hậu quả mưa lũ, tiếp tục ứng phó với tình hình mưa đang diễn biến phức tạp đang là nhiệm vụ chính trực tiếp của các đơn vị liên quan và các địa phương trong vùng mưa lũ hiện nay.

Để hỗ trợ giúp các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý xuất gạo dự trữ quốc gia và tạm cấp từ dự phòng ngân sách Trung ương năm 2020 cho 5 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Hà Tĩnh, mỗi tỉnh 1.000 tấn gạo và 100 tỷ đồng để cứu trợ khẩn cấp cho người dân vùng lũ, thực hiện công tác cứu hộ cứu nạn, an sinh xã hội theo chế độ, chính sách của nhà nước.

Những ngày qua, chúng ta đã thấy công tác cứu nạn, cứu hộ nhiều nơi đã được triển khai khẩn trương. Và ở đây, đã có những tấm gương hy sinh quên mình trong lúc làm nhiệm vụ. Điển hình tại khu vực nhà máy thủy điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên Huế). Nhận được thông tin, Đoàn công tác do Thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Phó Tư lệnh Quân khu 4, dẫn đầu cùng 12 đồng chí đến vùng đang gặp nạn. Trong hiểm nguy, cần sự cứu trợ khẩn trương, kịp thời, nên họ vẫn tiếp tục hành quân thực hiện mệnh lệnh từ trái tim, đi cứu người. Chỉ không may rằng các anh đã anh dũng hi sinh.

Gác lại những nỗi đau, người dân miền Trung ở Quảng Bình vẫn đang chìm trong biển lũ khi lượng mưa những ngày qua vẫn tiếp tục ở mức cao, chưa có dấu hiệu giảm, hàng nghìn ngôi nhà chìm trong biển nước. Và theo tiếng gọi vì Nhân dân, những người lính làm cứu nạn cứu hộ vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ. Những mất mát, đau thương do đợt lũ tháng 10 này mang đến không thể gọi là nhỏ. Đã có tới 132 người chết và mất tích tính đến thời điểm hiện nay. Hàng vạn ngôi nhà bị ngập, bị sập, hàng nghìn ha hoa màu, hàng nghìn gia súc, gia cầm… bị cuốn trôi. Đồng bào miền Trung đang phải liên tục gánh chịu những nỗi đau chồng chất nỗi đau. Có bao nhiêu của cải chắt chiu qua năm tháng, một nắng hai sương nhưng giờ… đã ra đi theo dòng nước.

Nhưng không để những người dân miền Trung ruột thịt phải một mình gánh chịu nỗi đau, tiếng gọi vì miền Trung ruột thịt đã vang khắp mọi miền của Tổ quốc. Hàng nghìn người dân, bằng những hành động thiết thực đều hướng về miền Trung thân yêu. Ca sĩ Thủy Tiên đã đứng ra kêu gọi quyên góp để ủng hộ cho đồng bào lũ lụt miền Trung, con số đã chạm ngưỡng trên 100 tỷ đồng. Không quản ngại mưa gió, nước lũ dâng cao, trên con thuyền cùng đoàn cứu trợ, cô cđã lặn lội đến tận nơi, đến từng ngôi nhà ngập lũ để chuyển những nhu yếu phẩm cần thiết như mì tôm, sữa, nước uống…., kèm một ít tiền mặt. Trong lúc bốn bề mênh mông nước như thế này, bà con miền Trung cần lắm những nhu yếu phẩm cần thiết để không bị đói, không bị khát, để có sức chống chọi với thiên tai khi nước vẫn ngập cao, chưa chịu rút. Và khi nghe tin người dân nhiều huyện của Hà Tĩnh đang ngập sâu trong biển nước, người dân Nghệ An, từ các huyện Thanh Chương, Quỳ Hợp,…đã tổ chức nấu bánh chưng. Hàng trăm người cùng tham gia gói bánh, luộc bánh xuyên đêm để mong sớm chuyển đến các vùng lũ. Và nhiều, nhiều người dân đã và đang có các kế hoạch thiện nguyện, đi vào vùng lũ hỗ trợ người dân.

Đó là những câu chuyện thấm đượm tình người để cùng hướng về miền Trung ruột thịt trong lúc người dân đang phải oằn mình để chống chọi với thiên tai, mưa lũ. Phát huy tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách” của dân tộc, khắp nơi, các Bộ, ngành đang cùng chung tay hướng về miền Trung. Mới đây, Ban Tuyên giáo Trung ương đã phát động và tổ chức quyên góp mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tối thiểu một ngày lương. Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương, Ban Dân vận Trung ương, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương,... cũng đã tổ chức quyên góp giúp người dân miền Trung khắc phục lũ lụt. Đồng thời, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Cứu trợ Trung ương quyết định phân bổ số tiền 20 tỷ đồng từ nguồn cứu trợ trung ương quản lý để hỗ trợ các gia đình bị thiệt hại do bão lũ gây ra tại 5 tỉnh miền Trung. Không chỉ trong nước, các tổ chức quốc tế đã và đang cùng chia sẻ với những khó khăn, chung tay với người dân để ủng hộ cho đồng bào miền Trung. Chính phủ Nhật Bản thông qua Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) đã quyết định chuyển hàng viện trợ tới Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, gồm 50 máy lọc nước và 250 tấm trải nhựa.

Miền Trung đang oằn mình chống chọi với thiên tai, bão lũ, nhưng miền Trung không đơn độc! Bởi bên cạnh họ luôn là những người con của dân tộc Việt Nam với tinh thần “thương người như thể thương thân” trong lúc bần cùng, khó khăn!./.

Từ bỏ chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lớn

  Từ bỏ CNXH là một sai lầm lớn

          Câu trả lời bước đầu đã có vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Chủ nghĩa xã hội không hề diệt vong. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại không những giữ vững trận địa mà còn định hướng vững vàng cho sự phát triển tiến lên. Từ vùng Trung-Nam Mỹ đã phát sinh phong trào xã hội chủ nghĩa kiểu Mỹ La-tinh, khởi đầu từ Vê-nê-du-ê-la rồi lan ra một số nước khác, nay tuy đang gặp nhiều khó khăn và có bước thụt lùi. Chủ nghĩa tư bản thế giới không thể chứng minh được rằng nó là lực lượng thống trị toàn cầu và xã hội tư bản là xã hội tốt đẹp cuối cùng của loài người. Ngay giữa lúc thế giới tư bản chủ nghĩa huênh hoang về sức sống dài lâu của nó cũng lâm vào khủng hoảng cục bộ, rồi đến khủng hoảng toàn diện hơn, kể từ năm 2008 đến nay, vẫn còn chưa hoàn toàn hồi phục. Thế giới từ lưỡng cực thành đơn cực, rồi nay lại thành đa cực. Các nước thuộc các chế độ chính trị, xã hội khác nhau đều tham gia “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế”, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác dưới nhiều cung bậc khác nhau.
Điểm qua như thế để thấy rõ rằng, gần 30 năm qua, xung quanh vấn đề trên theo hay không theo chủ nghĩa xã hội, diễn biến tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và trong xã hội ở nước ta cũng không thuần nhất mà khá phức tạp.
Để góp phần phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, gần đây, ban tổ chức một hội thảo có đề nghị tôi viết tham luận nội dung “phê phán quan điểm cho rằng chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên và không thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
        Tôi nghĩ, quan điểm sai trái này không phải bây giờ mới có mà đã có từ lâu, từ sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Nhưng từ đó đến nay, những kẻ chống đối không còn nói nhẹ nhàng như thế, họ thẳng thừng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam tự giác và chủ động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa…”. Và đến thời điểm chúng ta đang tiến hành “phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, có người mang danh đảng viên còn ngạo mạn nói rằng, trong lựa chọn đường lối, Đảng ta đã sai lầm không chỉ từ Hội nghị thành lập Đảng (1930) mà là từ Hội nghị Tua (1921). Ý tứ phía sau là gì, chắc mọi người chúng ta đều biết.
Quan điểm cho rằng “chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên và không thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội” là sai lầm. Sai lầm là ở mấy điểm sau đây:
        Sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không phải sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, với tư cách là một nấc thang phát triển của xã hội loài người, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
        Chế độ Xô-viết ngay từ lúc mới ra đời ở Nga sau Cách mạng Tháng Mười (1917) và sau này trên toàn Liên bang Xô-viết, đã tỏ rõ được tính ưu việt so với các chế độ chính trị-xã hội trước đó. Chính quyền Xô-viết thực sự là chính quyền của công, nông, binh và của nhân dân lao động nói chung. Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh thắng cuộc chiến tranh can thiệp của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, lập lại hòa bình và xây dựng chế độ mới, thực hiện công nghiệp hóa và tập thể hóa nông nghiệp thành công, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít Đức-Nhật, dẫn tới sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Vào những thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đạt được những thành công lớn, khiến cho Đảng và Nhà nước Xô-viết ngộ nhận là chủ nghĩa xã hội đã xây dựng xong và chủ trương Liên Xô bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự thật thì cũng thời gian đó, nhiều nhược điểm và khuyết tật trong nội bộ Nhà nước Xô-viết cũng đã bắt đầu hé lộ, nhất là khi so sánh với những bước phát triển của hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó. Nếu vì sự sụp đổ sau này mà phủ nhận sạch trơn những gì chế độ Xô-viết đã giành được là một sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
        Sau khi phát hiện sự chậm trễ của mình, Liên Xô đề ra chính sách cải tổ; các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng đề ra cải cách. Cải tổ và cải cách nhằm mục tiêu tăng tốc về kinh tế và thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi hơn. Sai lầm của Liên Xô và các nước Đông Âu lúc đó là đã sa vào chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng đối lập, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang, dao động trong đông đảo quần chúng, dẫn đến hỗn loạn xã hội, khiến cho ở Đông Âu, chính quyền bị các thế lực thù địch cướp lấy, còn Liên Xô thì chia rẽ sâu sắc trong nội bộ lãnh đạo, cuối cùng, chính quyền cũng lọt vào tay nhóm chống đối trong Bộ Chính trị, những kẻ chống chính quyền Xô-viết từ rất sớm. Không thấy nguyên nhân trực tiếp của sự sụp đổ là ở đây mà coi sự sụp đổ là tất yếu của chính quyền Xô-viết cũng là sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
        Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên (tuy chưa hết), còn có một nguyên nhân trực tiếp khác nữa là âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đế quốc chủ nghĩa. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chúng đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Trong khi lãnh đạo Liên Xô chủ trương thi đua hòa bình thì chúng một mặt đẩy mạnh chạy đua vũ trang, mặt khác đề ra chiến lược “diễn biến hòa bình” để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh và súng đạn. Liên Xô và nhiều nước khác đã sa vào cái bẫy này mà không tự giác phát hiện.
Về sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
        Đúng là ngay từ ngày mới thành lập, Đảng ta đã đề ra chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa cộng sản”. Như cách nói ngày nay, đó là làm cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được đề ra xuất phát từ thực tế tình hình nước ta lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp, cũng xuất phát từ xu thế phát triển có tính quy luật của thời đại mới sau Cách mạng Tháng Mười là tiến lên chủ nghĩa xã hội. 87 năm qua, những chặng đường phát triển của cách mạng Việt Nam và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối này, cớ sao vì sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu mà phải từ bỏ nó?
          Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam học tập kinh nghiệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đi trước nhưng hoàn toàn không có sự sao chép. Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là mô hình Xô-viết của Liên Xô bởi sự khác biệt cơ bản là ở chỗ một bên là từ cơ sở của chế độ tư bản đi lên, một bên từ độc lập dân tộc đi lên. Bác Hồ từng nói, Bác chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao nước ta được độc lập, dân ta được tự do, hạnh phúc, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chủ nghĩa xã hội đối với Bác như ngày nay chúng ta vẫn nói, là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nhầm lẫn mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với mô hình Xô-viết là một sự sai lầm lớn.
         Vào những năm Liên Xô và Đông Âu tiến hành cải tổ và cải cách, Việt Nam cũng đề ra đường lối đổi mới. Những nhân tố đầu tiên của đổi mới xuất hiện từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ 20, nhưng đổi mới toàn diện, trở thành đường lối chính thức của Đảng ta vào cuối năm 1986, theo nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Đổi mới của chúng ta không đi theo vết xe đổ của cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Đảng ta đã nêu rõ 6 nguyên tắc của đổi mới, trong đó vấn đề giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới nhưng không đổi màu là nguyên tắc đầu tiên. Chúng ta cũng bác bỏ quan điểm cho rằng “đổi mới là nửa vời, không nhất quán”. Sự thật là đổi mới của chúng ta qua 30 năm đã đưa lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho Việt Nam càng vững bước đi lên trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đánh đồng đổi mới của Việt Nam với cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu là một sai lầm 
         Tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy: Nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển năm 2011 chỉ rõ: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
        Cương lĩnh nêu lên 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, trong đó 3 đặc trưng đầu tiên là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp…
      Thử hỏi con đường độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội xán lạn như vậy tại sao ta phải từ bỏ chỉ vì mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ? Trong khi nêu lên 8 sai lầm như trên, tôi muốn đặt ra câu hỏi đối với các tác giả đòi chúng ta từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, ý đồ thực sự của các vị phía sau đòi hỏi này là gì?

Đảng có vững, công việc mới thành công

Đảng có vững, công việc mới thành công


        Trên một số trang điện tử các đối tượng phản động, cơ hội chính trị gần đây lại “cảnh báo” về công tác tổ chức, cán bộ khi tung hỏa mù Đảng không chỉ “khủng hoảng về đường lối” mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) còn thừa nhận thất bại về công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức, cán bộ; tình trạng “lãn Đảng, thoái Đảng” gia tăng.
       Với những luận điệu trên, họ đã cố tình đánh tráo khái niệm giữa việc Đảng ta chủ động thường xuyên tự xây dựng, tự chỉnh đốn, coi đó là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, coi phê bình và tự phê bình như đánh răng, rửa mặt hằng ngày với việc bị động trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thái độ “nhìn thẳng vào sự thật”, chủ động “phòng bệnh hơn chữa bệnh” hoàn toàn khác và không phải “tình hình đã rất nguy”, “bệnh đã nặng hết thuốc chữa” như họ rêu rao, bịa đặt.
       Thực tế thời gian qua cho thấy, sau Đại hội XII của Đảng, hệ thống chính trị nước ta có nhiều chuyển biến mới, hoạt động hiệu quả hơn, bức tranh kinh tế-xã hội của đất nước có những khởi sắc, được nhân dân ghi nhận.
         Sau Đại hội XII, cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 thành công tốt đẹp, với hơn 99% cử tri đi bầu cử. Sau đó, Quốc hội kiện toàn ngay các cơ quan và các nhân sự lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, Chính phủ trong sự đoàn kết, đồng thuận. Trong bối cảnh có nhiều khó khăn, tăng trưởng GDP đạt 6,21%, chính trị-xã hội ổn định, đất nước thanh bình. Đầu tư nước ngoài đạt gần 15 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối lần đầu tiên đạt 41 tỷ USD. Lần đầu tiên có đến 10 triệu lượt khách du lịch nước ngoài và 62 triệu lượt khách trong nước, doanh thu từ du lịch đạt 20 tỷ USD. Vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng cao, lần đầu tiên Đại hội Đảng toàn quốc có đến 252 điện chúc mừng từ các nước, các tổ chức quốc tế, nhiều nhất từ trước tới nay... Việc Đảng ta tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thu hút cả hệ thống chính trị chúng ta vào cuộc, được nhân dân đồng tình ủng hộ cao.
        Báo cáo của Ngân hàng Thế giới gần đây nhận định: “Ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam là môi trường thuận lợi để các nhà hoạch định chính sách đẩy mạnh tái cơ cấu, đây là điều kiện thiết yếu để tiến tới mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất”… “Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, vừa được Quốc hội thông qua, sẽ xử lý được một số bất cập phát sinh trong quá trình tăng trưởng kinh tế”.
       Không thể có được nhận xét khách quan ấy nếu như đất nước không có một bộ máy quản lý, điều hành tốt và không thể có bộ máy tốt nếu không có thành công trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, toàn Đảng có 67 Đảng bộ trực thuộc Trung ương, gồm 58 Đảng bộ tỉnh, 5 Đảng bộ thành phố, 4 Đảng bộ trực thuộc Trung ương. Đảng có gần 1.300 Đảng bộ cấp huyện và tương đương (gần 700 Đảng bộ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và gần 600 Đảng bộ cấp trên cơ sở). Toàn Đảng có gần 57.000 tổ chức cơ sở Đảng, với hơn 23.000 Đảng bộ cơ sở và hơn 33.000 chi bộ cơ sở; gần 1.700 Đảng bộ bộ phận, hơn 254.000 chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở với tổng số gần 3,8 triệu đảng viên, chiếm hơn 4% dân số cả nước. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện sâu rộng trên mọi mặt của đời sống xã hội.
       Phải khẳng định rằng, những thành tựu trên không phải là đột biến, bất thường mà bắt nguồn từ mạch nguồn không ngừng chảy trong công cuộc xây dựng Đảng của Đảng ta. Đảng ta từ khi ra đời đến nay luôn chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng để đáp ứng vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình.

Cần có cách nhìn khách quan về tình hình quyền con người ở Việt N

       Ở trong nước, một số người vì những lý do khác nhau muốn chuyển hóa chế độ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sang mô hình xã hội “dân chủ”, “nhân quyền” ngoại nhập đã lợi dụng bối cảnh toàn cầu hóa, những khó khăn của nền kinh tế đất nước để xuyên tạc, bôi đen tình hình dân chủ, nhân quyền Việt Nam.
Trước một số vấn đề kinh tế-xã hội-môi trường mới nảy sinh, trong đó có sự cố môi trường biển nghiêm trọng do Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh, thuộc Tập đoàn Formosa, Đài Loan gây ra (tháng 4-2016), một số kẻ xấu đã lợi dụng, gây rối hòng làm mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản, Nhà nước CHXHCN Việt Nam với nhân dân.
Như các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa: Vào tháng 2 và đầu tháng 4-2017, sau vụ gây ô nhiễm của Formosa đã hơn một năm (sau khi vụ việc đã cơ bản được giải quyết, Formosa chấp nhận bồi thường và khắc phục những sai sót…) nhưng một số giáo dân ở Nghệ An, Hà Tĩnh do hai linh mục Nguyễn Đình Thục và Đặng Hữu Nam kích động đã tụ tập gây rối, đập phá tài sản, gây rối tại trụ sở UBND huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Tiếp đó, họ tụ tập đông người, căng băng rôn, hô khẩu hiệu “đuổi Formosa”… Hành vi của họ đã gây ách tắc giao thông, thậm chí ép cả xe cấp cứu phải dừng trên Quốc lộ 1A. Nhằm thu hút dư luận trong nước và quốc tế, họ còn dùng loa phóng thanh, điện thoại ghi hình tung lên mạng…
        Trên địa bàn quản lý của mình, hai ông Nguyễn Đình Thục và Đặng Hữu Nam đã lợi dụng giáo đường để tuyên truyền xuyên tạc, vu khống Đảng Cộng sản và Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Trên mạng YouTube đến nay vẫn còn clip bài giảng của ông Nguyễn Đình Thục. Ông đã nhiều lần nói rằng: “Cộng sản là độc ác, gian tham…”. Những hành vi nói trên của hai ông Nguyễn Đình Thục và Đặng Hữu Nam đã vi phạm Điều 88 (tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam) và Điều 89 (tội kích động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan, tổ chức-Bộ luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam). Hoặc gần đây, liên quan đến đất đai ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội… dẫn đến một số hành động đáng tiếc của người dân và sau cuộc đối thoại giữa Chủ tịch UBND TP Hà Nội với người dân thì sự việc đã dường như tìm ra hướng giải quyết.
         Như vậy có thể nói hoàn toàn không có chuyện chính quyền, công an Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền ngày càng trầm trọng”, “bắt giữ các blogger”, “các đại diện tôn giáo”, đàn áp người dân “biểu tình hòa bình”, hoặc “ bịt mồm các nhà báo”.
        Quyền con người (QCN) là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị cao quý chung của các dân tộc. Với tư cách là giá trị pháp lý, QCN là quy định pháp luật (trong luật quốc gia và luật quốc tế) nhằm bảo vệ nhân phẩm, các nhu cầu về vật chất, tinh thần của tất cả mọi người, đồng thời mỗi người phải có nghĩa vụ tôn trọng an ninh quốc gia, trật tự công cộng, quyền và lợi ích của người khác và những giá trị văn hóa, đạo đức xã hội. Nói một cách cụ thể: Không cá nhân, tổ chức nào được nhân danh QCN để đứng ngoài xã hội, đứng trên pháp luật. Điều này không phải chỉ đối với xã hội, Nhà nước ta mà cũng là quy định chung của các quốc gia trên thế giới.
       Mặc dù QCN ở nước ta cũng như nhiều nước khác vẫn còn những hạn chế, khác biệt nào đó, chẳng hạn như một số quyền về kinh tế-xã hội ở nước ta, do thiếu nguồn lực nên chưa đáp ứng như ở các nước phát triển, hoặc về một số quyền dân sự, chính trị do truyền thống lịch sử và văn hóa, như quyền tự do ngôn luận, báo chí… pháp luật quy định không được phép xúc phạm lãnh tụ, kỳ thị tôn giáo... song có thể nói cho đến nay, QCN ở nước ta luôn được tôn trọng và bảo đảm cả trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị, pháp lý và trong thực tế.

Phá hoại an ninh kinh tế


      Từ năm 2016 đến nay, trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh do bị kích động, nên một số người dân đã tham gia tuần hành, khiếu kiện, chặn Quốc lộ 1A. Riêng tại Kỳ Anh, chỉ trong thời gian không dài, có đến 5 lần một số giáo dân ở thị xã Kỳ Anh (Hà Tĩnh) mang gạch, đá, lưới ra chặn ngang Quốc lộ 1A với lý do phản đối Formosa gây ô nhiễm môi trường. Đỉnh điểm của sự việc phải kể đến ngày 2-4-2017, các phần tử phản động kích động hơn 50 giáo dân ở Kỳ Anh mang gạch đá, lưới ra chặn ngang Quốc lộ 1 tại Dốc Con, mang theo gậy gộc, dao, rìu, búa... làm hung khí, sẵn sàng đánh đập những người dân thường đi qua đây. Sự việc làm cho nhiều đoàn xe tải, xe khách bị ùn tắc hàng chục cây số. Ngay cả xe chở hài cốt liệt sĩ, xe cứu thương chở bệnh nhân đi cấp cứu cũng bị họ chặn lại...
        Vụ chặn đường vừa lắng xuống thì đêm 3-4-2019, nhân một vụ xô xát trước đó giữa những người dân ở xã Thạch Bằng (Lộc Hà, Hà Tĩnh), các phần tử phản động kích động hơn 2.000 người dân kéo đến UBND huyện Lộc Hà, xông vào chiếm giữ trụ sở UBND huyện, đánh bị thương cán bộ, đập phá tài sản.
Cơ quan chức năng đã xác minh, cả hai vụ việc nói trên đều có sự tham gia kích động của các phần tử phản động thuộc những cái gọi là “Hội Anh em dân chủ”, “Con đường Việt Nam”, “Việt Tân”.
       Những sự việc trên đe dọa nghiêm trọng an ninh kinh tế, gây thiệt hại lớn cho nhiều doanh nghiệp và người dân. Hàng nghìn lái xe và đại diện các doanh nghiệp, người dân trên cả nước hết sức lo ngại, bức xúc vì hiện tượng này. Việc kẻ xấu kích động chặn Quốc lộ 1A cũng từng xảy ra cách đây ít lâu tại tỉnh Bình Thuận, khi lợi dụng một nhà máy nhiệt điện gây ô nhiễm. Nếu tiếp tục để sự việc này kéo dài hoặc tái diễn ở những nơi khác sẽ tạo ra những tiền lệ nguy hiểm, không chỉ khiến giao thông vận tải, lao động sản xuất bị đình trệ mà còn làm kỷ cương, phép nước bị coi thường.
        Ngày 9-4-2020, tại xã Kỳ Hà, huyện Kỳ Anh, từ chỗ chỉ bắt đầu từ việc người dân yêu cầu giải quyết bồi thường tại khu đất làm muối nhưng dưới sự kích động của một số đối tượng, cờ vàng sọc đỏ (cờ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn cũ) đã xuất hiện tại đây. Sự việc này gây phẫn nộ trong quần chúng nhân dân khi từ vấn đề kinh tế thuần túy đã bị kẻ xấu kích động trở thành vấn đề chính trị, chống đối chế độ. Không thể chấp nhận lá cờ của một chế độ đã gây nhiều tội ác lại xuất hiện ngay giữa vùng đất quê hương cách mạng, đây là sự xúc phạm máu xương hàng triệu người đã hy sinh vì nền độc lập, tự do của dân tộc.
Những âm mưu, thủ đoạn kích động, chống phá từ các vụ việc “điểm nóng” kinh tế ngày càng trở nên nguy hiểm, thâm độc hơn khi các thế lực thù địch dựa vào đó để kích động, thổi phồng, tạo ra mâu thuẫn đối kháng giữa chính quyền và nhân dân.
        Một mặt, chúng khoét sâu phê phán những yếu kém, khuyết điểm của bộ máy công quyền, nhất là những hiện tượng tham nhũng, quan liêu, hách dịch, xa dân để “đổ thêm dầu” vào ngọn lửa bức xúc của người dân. Mặt khác, chúng nội công, ngoại kích, tung ra nhiều luận điệu, khẩu hiệu, truyền thông những bài viết kích động, khen ngợi những hành động bột phát do bức xúc, thiếu tỉnh táo của người dân là “dũng cảm”, “sự trưởng thành”, “người dân đã chiến thắng chính quyền”…
        Có thể thấy rõ âm mưu trên qua một số sự việc xảy ra gần đây. Trong khi chính quyền đã nỗ lực cao nhất để giải quyết sự việc thấu tình đạt lý. Người dân sau những bức xúc cũng dần hiểu rõ hơn mình cần phải làm gì và chính họ cũng khẳng định không chấp nhận sự can thiệp hay “hỗ trợ”, lôi kéo của các phần tử phản động, tuyệt đối tin tưởng vào Đảng, Nhà nước thì trên nhiều trang mạng phản động, kẻ xấu lại cố tình chia rẽ chính quyền và nhân dân. Không khó để kiểm chứng những thông tin như “công an đánh chết người”, “dân sẵn sàng cảm tử”… đều do những đối tượng phản động bịa đặt tung lên internet.
       Cũng như các vụ việc xảy ra ở Vũng Áng, nhiều đài báo nước ngoài như VOA, BBC, RFA cùng các trang phản động cố tình làm nóng thêm "điểm nóng" khi biến sự việc kinh tế thành những vấn đề chính trị to tát. Sau khi sự việc đã kết thúc, một số “nhà phân tích” lại đưa ra những “tổng kết” như: Qua sự việc chứng tỏ giai cấp nông dân Việt Nam đã “giác ngộ”, “có thêm nhiều phương pháp đối phó với chính quyền”… Từ đó, chúng kích động người dân tư tưởng phản loạn, chống phá chính quyền, cho rằng đó là những “tập dượt” cho cái mà chúng gọi là “cách mạng màu”. Nguy hiểm hơn, lợi dụng sự việc này xảy ra, chúng lại “nhóm lửa” ở sự việc khác, ở địa phương khác để lôi kéo sự chú ý của dư luận dù thực tế không phải như vậy…
       Trước hết, cần khẳng định những "điểm nóng" gây mất an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội ở nông thôn xảy ra không nhiều trong những năm qua. Tuy nhiên, những sự việc ấy dù là cá biệt nhưng cũng để lại nhiều hậu quả khôn lường về an ninh chính trị, kinh tế-xã hội cũng như mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
        Trước, trong và sau mỗi sự việc, các cơ quan của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương đều phải nghiêm túc phân tích, nhìn nhận, giải quyết một cách tích cực, khéo léo, đúng pháp luật, vì sự ổn định, phát triển của mỗi địa phương và của đất nước. Nhưng cùng với đó, phải luôn kịp thời, nghiêm khắc rút ra những bài học kinh nghiệm để nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, quản lý, không để tái diễn và tạo ra những tiền lệ xấu.
       Chúng ta từng có bài học kinh nghiệm trong giải quyết sự việc diễn ra ở Thái Bình năm 1997, khi nhiều nông dân bột phát chống đối chính quyền, để lại nhiều bài học kinh nghiệm do buông lỏng thực hiện dân chủ ở nông thôn. Sau khi sự việc xảy ra, từng có 3 giả thiết về nguyên nhân được đặt ra là: Do kẻ địch phá hoại, do phần tử xấu, bất mãn kích động và do chính tiêu cực của cán bộ địa phương, yếu kém của chính quyền. Sau khi xem xét kết luận, Bộ Chính trị xác định nguyên nhân chính do cán bộ địa phương sai phạm, chính quyền yếu kém. Sau đó, bài học đau xót là hơn 2.000 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật, hơn 70% tổ chức cơ sở đảng phải thay thế từ 50% đến 70% cấp ủy.
        Nhưng cũng có nhiều sự việc liên quan đến giải phóng mặt bằng, không phải cứ người dân tụ tập yêu sách là có thể có quyền lợi. Vụ việc nhiều hộ dân ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên thuê một luật sư tư vấn sau đó tụ tập nhiều ngày tại trụ sở Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đòi bồi thường vì lưới điện ảnh hưởng đến sức khỏe là một ví dụ. Sau khi nhiều cơ quan pháp luật vào cuộc, đã kết luận rõ việc hỗ trợ là thẩm quyền của địa phương, hành vi tụ tập trước trụ sở EVN là trái pháp luật.
       Cùng với việc tỉnh táo, cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn kích động tạo ra “điểm nóng” của các thế lực phản động, thù địch thì trước hết, cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là từ cơ sở phải phát huy hơn nữa vai trò của mình trong ngăn chặn, giải quyết các “điểm nóng”. Mà muốn không để xảy ra các "điểm nóng" từ gốc thì chính quyền phải mạnh, hệ thống chính trị ở địa phương phải luôn được nhân dân tin cậy.
       Gần đây, đã có một số sự việc phức tạp liên quan đến giải phóng mặt bằng được giải quyết hài hòa sau khi người đứng đầu ở một số địa phương đối thoại với nhân dân. Cách làm này cho thấy việc gần dân, tăng cường đối thoại với nhân dân là cần thiết nhưng nếu lạm dụng, sự việc nào cấp dưới cũng đẩy lên cấp trên, địa phương cũng đẩy về Trung ương thì không thể giải quyết được. Cần phải phát huy vai trò người đứng đầu ở cơ sở, thực hiện nghiêm túc các quy định về đối thoại với nhân dân, cán bộ đi cơ sở để giải quyết công việc, kiên quyết điều chuyển những cán bộ không được nhân dân tin cậy, xa dân.

nhiệm vụ chiến đấu thời bình của quân đội.




         Theo cơ quan chức năng, có dấu hiệu cho thấy các đối tượng thù địch, cơ hội chính trị đã lợi dụng vấn đề bão lũ ở miền Trung để xuyên tạc, nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong phòng, chống thiên tai, vai trò của quân đội trong tham gia cứu hộ, cứu nạn.
Tuy nhiên, những luận điệu xuyên tạc, mượn cả máu xương và sự hy sinh của những người lính xả thân vì dân, vì nước đã khiến dư luận bất bình. Ngay cả khi Trương Châu Hữu Danh cho hiển thị hàng trăm bình luận xấu, vẫn có nhiều ý kiến chân chính phản bác: “Các ông có là con người không khi bình phẩm những người đã chết, họ cho dù thuộc cộng sản, tư bản, vô thần hay có đạo? Một người tử tế luôn tôn trọng những người đã khuất, đó là đạo lý của con người, của sự nhân văn”.
         Những hiện tượng đáng buồn nêu trên khiến chúng ta nhớ đến một câu chuyện cách đây gần 5 năm. Vào năm 2016, khi 9 cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ mất tích cùng máy bay CASA 212 trong khi thực hiện nhiệm vụ cứu nạn phi công và máy bay chiến đấu Su-30MK, người dân cả nước nóng lòng dõi theo từng dòng tin về các anh thì một nhà báo đã dùng mạng xã hội tạo một cuộc thăm dò dư luận với cách đặt câu hỏi "Vì sao CASA tan xác?" cùng với các giả thuyết mang tính suy diễn khiến dư luận rất bất bình, như máy bay "tan xác", "bị bắn", "không loại trừ bị bắn vỡ" hay "máy bay chất lượng kém do tham nhũng trong ngành quốc phòng luôn bị đóng dấu mật"... Hành vi đó đã xúc phạm nghiêm trọng danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam, gây tổn thương sâu sắc đến gia đình, người thân, đồng đội của những cán bộ, chiến sĩ gặp nạn khi đang thực hiện nhiệm vụ, làm tổn hại đến chính uy tín của những người làm báo. Nhà báo trên sau đó đã bị xử lý kỷ luật, thu hồi thẻ nhà báo.
       Cách đây vài tháng, Phòng An ninh chính trị nội bộ Công an TP Đà Nẵng đã triệu tập, điều tra và xử phạt nặng một thanh niên đăng tải thông tin xúc phạm uy tín, danh dự hình ảnh lực lượng Công an nhân dân và đăng tin sai sự thật liên quan đến công tác phòng, chống dịch Covid-19. Đối tượng này đã viết những lời xuyên tạc sự hy sinh của hai chiến sĩ Công an quận Sơn Trà trong vụ truy bắt nhóm cướp giật, đua xe là “cái chết thảm”, “chết như dàn cảnh”... Cho dù đối tượng ban đầu không thừa nhận, quanh co cho rằng tài khoản Facebook bị hack, có người khác chiếm quyền sử dụng... nhưng sau đó, qua đấu tranh đã phải thừa nhận hành vi sai trái và bị xử lý.
        Đã có những bài học đắt giá như vậy, tại sao vẫn có nhiều đối tượng với suy nghĩ lệch lạc, "ăn cháo đá bát", táng tận lương tâm, bôi nhọ những người xả thân, quên mình vì cuộc sống và sự bình yên của nhân dân.
Chúng tôi cho rằng, do nhiều nguyên nhân nhưng có một lý do quan trọng là việc xử lý những đối tượng vi phạm chưa triệt để, kịp thời dẫn đến việc “nhờn luật”, coi thường kỷ cương phép nước.
       Còn nhớ sau vụ án giết người và chống người thi hành công vụ đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội), có nhiều kẻ xưng là "dân chủ", "tân tiến" tràn vào trang cá nhân của vợ một chiến sĩ công an hy sinh để xúc phạm chị và cháu bé, chế ảnh tùm lum bậy bạ rằng chị được "thuê để khóc"... Những đối tượng này còn báo cáo đánh sập trang cá nhân của chị, gửi tin nhắn xúc phạm đến gia đình, người thân chị; tìm ra địa chỉ cơ quan chị để quấy rối, đe dọa. Đó là những hành vi vô lương tâm không thể chấp nhận, song đáng tiếc nhiều kẻ vi phạm lại chưa bị trừng trị thích đáng.
Có lẽ, chỉ những kẻ không còn là con người mới đang tâm có những hành vi bịa đặt, bôi nhọ những người đã hy sinh cả tính mạng vì cuộc sống bình yên của cộng đồng, trong đó có cả bản thân họ.
       Những luận điệu xuyên tạc, những thông tin sai trái đó khi chia sẻ trên các trang mạng xã hội, có những bài đạt tới hàng nghìn lượt like và bình luận bậy bạ, khiến những người có lương tri và cán bộ, chiến sĩ quân đội rất bất bình. Gia đình, người thân, đồng đội của những người ngã xuống sẽ nghĩ gì trước những thông tin bịa đặt kia và bè đảng những kẻ cấu kết đơm đặt đó lại vẫn nhởn nhơ, không bị trừng trị hay lên án?
        Những kẻ đó có biết rằng, quân đội tham gia cứu hộ, cứu nạn, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai là một nhiệm vụ chiến đấu thời bình. Hành động tiến nhanh về những "điểm nóng", về nơi hiểm nguy, những nơi người dân đang kêu cứu, đói khát, tuyệt vọng, thậm chí đang cận kề cái chết... luôn là mệnh lệnh không lời, mệnh lệnh từ trái tim mỗi người lính Cụ Hồ. Vì muốn cứu giúp nhân dân trong thiên tai hoạn nạn mà họ đã hy sinh, đúng như lời điếu văn của đồng chí Tư lệnh Quân khu 4 đọc trong lễ truy điệu 13 liệt sĩ hôm 18-10: “Chúng ta đã, đang thực sự sống trong cuộc chiến đấu giữa thời bình, hành động “phía trước là nhân dân” với mệnh lệnh từ trái tim, luôn sẵn sàng có mặt ở nơi hiểm nguy để cứu giúp nhân dân là hành động cao đẹp, thể hiện sâu sắc phẩm chất sáng ngời và bản lĩnh của Bộ đội Cụ Hồ; của những công chức, viên chức mẫu mực, trách nhiệm, tận tụy, thực sự là công bộc, là người “đày tớ” trung thành của nhân dân!’’.

Tiếp tục vạch trần thủ đoạn của các thế lực phản động lợi dụng vụ án xảy ra ở Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội để chống phá Đảng, Nhà nước ta

 


Vụ án ở Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội được các phần tử cơ hội, chống đối, các tổ chức đội lốt “xã hội dân sự” triệt để lợi dụng, khai thác, bịa đặt, tung tin giả, thất thiệt, xuyên tạc chủ trương, chính sánh của Nhà nước, kích động người dân chống đối, lôi kéo, bơm tiền dưới danh nghĩa “ủng hộ quỹ Đồng Thuận”… Chúng hứa hẹn với các đối tượng chống đối sẽ được tổ chức quốc tế bảo lãnh, tài trợ... Sự can thiệp này khiến một số đối tượng, hám lợi, chống phá chính quyền với hành động côn đồ, manh động. Các đối tượng dưới sự chủ mưu của ông Lê Đình Kình đã hành động tàn nhẫn, dùng vũ khí, bom xăng làm 3 chiến sĩ Công an hy sinh.

Theo đó, những thông tin nhiễu loạn, thất thiệt, giả mạo tràn ngập trên nhiều phương tiện truyền thông, mạng xã hội. Họ lấy cớ vu cáo Nhà nước, chính quyền “cướp” đất của dân, Công an “đàn áp” người dân Đồng Tâm; kích động, hô hào người dân trong nước, nước ngoài đồng hành cùng “dân oan Đồng Tâm mất đất”… Chúng tập trung vào những vấn đề sau đây:

- Tung tin, vu cáo Nhà nước “cướp” đất của nhân dân.

Mọi công dân Việt Nam đều biết, đất đai là tài nguyên quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, giao quyền sử dụng cho các chủ thể theo quy định của pháp luật. Đất đai được Nhà nước giao cho các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ an ninh, quốc phòng là một trong những hướng ưu tiên để thực hiện nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên này.

Diện tích đất sân bay Miếu Môn đã được Nhà nước giao cho quân đội sử dụng vào mục đích quốc phòng là hoàn toàn cụ thể, rõ ràng, nhất quán, được thực hiện từ lâu. Cùng với thời gian đã dài và một số yếu kém, buông lỏng trong công tác quản lý của chính quyền địa phương, cán bộ liên quan, một số cá nhân, hộ gia đình đã tự ý lấn chiếm, sử dụng.

Khi thực hiện chủ trương thu hồi, các đối tượng cố tình xuyên tạc để nhiều người hiểu sai, thậm chí cố tình “lập lờ đánh lận con đen” cho rằng diện tích đó thuộc quyền sử dụng của mình và từ đó có nhiều hành vi sai trái, gây rối, chống đối kéo dài. Mục đích của chúng là vu cáo Nhà nước, chính quyền, tạo ra nhận thức sai lệch, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào nhà nước, chính quyền nhân dân, kích động tâm lý ức chế, xung đột, chống đối trong một số đối tượng này.

- Kích động phần tử chống đối với chính quyền, cơ quan chức năng nhà nước.

Lợi dụng sự việc này, chúng xuyên tạc, kích động những đối tượng chống đối với luận điệu như: phải “đấu tranh đến cùng”, “thà hy sinh cũng phải chống lại quân cướp đất”, “chống lại lợi ích nhóm, tham nhũng”… Mục đích của chúng là đẩy người dân đối đầu với chính quyền, xóa nhòa bản chất Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, phá hoại mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, hòng tạo ra nhận thức, chia rẽ, kích động tư tưởng đối đầu.

- Xuyên tạc, vu khống hoạt động nghiệp vụ của lực lượng thực thi pháp luật, vu cáo, bịa đặt Công an “đàn áp”, “tấn công” nhân dân.

Thủ đoạn của chúng là lập lờ, đánh đồng khái niệm giữa nhân dân với đối tượng chống đối, giết người, gây rối an ninh, trật tự, vu khống Công an, lực lượng chức năng “đàn áp”, “khủng bố”, sử dụng vũ khí để “tấn công nhân dân”. Thực tế, trong sự việc vừa qua, các đối tượng đã rất mưu mô, thâm độc, chuẩn bị kỹ vũ khí, phương tiện nhằm giết người thi hành công vụ với tính chất hết sức tàn độc, man rợ (bom xăng, lựu đạn, dao phóng, xây hầm chông…).

Người thi hành công vụ từ nhân dân mà ra, dựa vào nhân dân để công tác, chiến đấu, vì nhân dân mà phục vụ. Tư tưởng, bản chất, mục đích, phương châm hành động ấy luôn luôn được khắc cốt, ghi tâm trong từng cán bộ, chiến sỹ. Làm sao có thể đánh lận giữa những kẻ gây tội ác, giết hại người thi hành công vụ với khái niệm nhân dân Đồng Tâm?

- Quốc tế hóa thông tin sự việc Đồng Tâm, cố tình tạo ra nhận thức sai trái về sự việc Đồng Tâm, từ đó kêu gọi các tổ chức, cá nhân lên tiếng, can thiệp.

Để kích động cho số đối tượng quyết liệt chống đối nêu trên, các phần tử xấu đã hậu thuẫn, hứa hẹn sẽ được quốc tế bảo trợ, bảo lãnh, hỗ trợ tài chính từ bên ngoài để tổ chức, hoạt động. Nhiều đối tượng lợi dụng trực tiếp livetream, cắt, ghép, đưa những hình ảnh sai sự thật để gây hiểu nhầm, từ đó kêu gọi, kiến nghị các tổ chức nhân quyền quốc tế lên tiếng, can thiệp.

- Xuyên tạc, làm phức tạp thêm tình hình, làm giảm hình ảnh, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

Lợi dụng sự việc Đồng Tâm để gây hoang mang tâm lý, bất ổn xã hội, lựa vào thời điểm Việt Nam bước vào năm 2020 đảm nhận luân phiên Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021, Chủ tịch AIPA 41, trước thềm diễn ra nhiều sự kiện chính trị trọng đại, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng… Chúng triệt để lợi dụng, khai thác những vấn đề như Đồng Tâm, khai thác, xuyên tạc những tồn tại, bất cập trong đời sống xã hội để kích động người dân chống đối, lấy đó làm ngòi nổ, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Mục đích cuối cùng là làm suy giảm niềm tin trong nhân dân, gây bất ổn, tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng, thể chế chính trị Việt Nam. Âm mưu, thủ đoạn này toàn xã hội cần nhận diện, đấu tranh, cũng như góp phần để hiểu đúng vấn đề, bản chất sự việc.

 

Tuyên ngôn độc lập - Tượng đài của ý chí độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam

Bằng tầm nhìn thời đại, trong phần kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Với sự mẫn cảm chính trị, Người cũng dự báo: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tinh thần đó trong bản Tuyên ngôn độc lập luôn có giá trị lịch sử và thời sự sâu sắc, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dân tộc Việt Nam vẫn thường trực ý chí “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập” mà lớp lớp cha anh đã ngã xuống để chiến đấu giành được từ cuộc cách mạng mùa Thu 75 năm trước. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Điều này đã được ghi trang trọng trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ và trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền cách mạng Pháp năm 1791, đã được Hồ Chí Minh trịnh trọng nhắc lại trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945: “Tất cả mọi ngư­ời đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm đ­ược; trong những quyền ấy, có quyền đ­ược sống, quyền tự do và quyền mư­u cầu hạnh phúc… Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung s­ướng và quyền tự do”(1). Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là đất nước thoát khỏi tình cảnh nô lệ, được tự do, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân được sống trong hòa bình và thực sự được hưởng thụ các giá trị nhân văn - dân chủ, công bằng và bình đẳng,… Độc lập dân tộc là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa, là vấn đề sống còn đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đó là tất cả những điều tôi muốn; đấy là những điều tôi hiểu”(2). Thực tiễn kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy, sự tồn vong và phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc đều gắn liền với việc giữ vững nền độc lập và chủ quyền của mỗi quốc gia - dân tộc ấy. Độc lập dân tộc luôn luôn là nguyện vọng chính đáng của mỗi người sống trong cộng đồng dân tộc; vừa là mục tiêu, động lực của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột của kẻ thù xâm lược. Độc lập dân tộc là cơ sở, điều kiện không thể thiếu để thực hiện quan hệ bang giao với các dân tộc khác. Giữ vững độc lập tự chủ luôn là nguyên tắc hàng đầu bảo đảm cho các dân tộc thực hiện chính sách đối ngoại bền vững. “Tự do” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là tự do theo lý tưởng xây dựng một xã hội mới - xã hội XHCN. Độc lập là tiền đề của tự do, bởi “nếu nước được độc lập, người dân mới được tự do, nếu mất nước, ai cũng làm nô lệ”; tự do là mục tiêu và cũng là kết quả của độc lập. Đó là những giá trị cao quý, thiêng liêng nhất, không một thế lực nào có thể xâm phạm. Độc lập của dân tộc gắn liền với quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của nhân dân. Khát vọng đã trở thành hiện thực, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Song các thế lực thù địch thực dân và đế quốc chưa từ bỏ dã tâm trở lại xâm lược, đô hộ nước ta một lần nữa. Để bảo vệ độc lập dân tộc – một quyền thiêng thiêng và bất khả xâm phạm, cả dân tộc Việt Nam không phân biệt già trẻ, gái trai,... đã hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) lừng lẫy địa cầu, đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ. Với tinh thần “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" (3), “Không có gì quý hơn độc lập, tự do"(4), Kể từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công đến những ngày cuối đời, Người đã lãnh đạo Đảng và nhân dân ta liên tục tiến hành hai cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ và ác liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc, giải phóng đất nước, thống nhất Tổ quốc, mở ra kỷ nguyên hòa bình, độc lập dân tộc và CNXH. Những năm gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đứng trước thời cơ, vận hội, thuận lợi và không ít nguy cơ, thách thức, nhưng chính nhờ ý chí, khát vọng vươn lên mạnh mẽ mà dân tộc ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới đất nước; “Thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao,…” (5). Trong tình hình hiện nay, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng cạnh tranh giữa các nước lớn, khu vực vẫn gay gắt và có nhiều nét mới từ sự đan xen giữa đối tượng và đối tác; đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc; chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cường quyền; chủ nghĩa dân túy; chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy… đã và đang chi phối đến quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của các quốc gia. Trong khi đó, nước ta ngày càng hội nhập quốc tế sâu, rộng nhằm thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc. Việt Nam càng phải đề cao ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, có khát vọng vươn lên không lệ thuộc, phụ thuộc vào bất cứ lực lượng hay quốc gia nào trên con đường phát triển vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng một lần nữa xác định: "Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, đồng thời kết hợp với sức mạnh của thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc…"(6). Kỷ niệm 75 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, tiến tới Đại hội XIII của Đảng, tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung, phát triển năm 2011), hơn bao giờ hết chúng ta càng phải phát huy ý chí tự chủ, tự cường, niềm tin mãnh liệt vào con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn để xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, hùng cường, thịnh vượng. Đó là động lực, sức mạnh tinh thần to lớn để toàn dân tộc kiên định với con đường XHCN, ra sức nỗ lực hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; nhân dân được hưởng cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Nguồn: Tạp chí XD Đảng

Đấu tranh chống quan điểm cho rằng sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin

 

Đấu tranh chống quan điểm cho rằng sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin

Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có giá trị rất to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trước sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, phản động, vấn đề nhận diện và đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang trở lên cấp thiết.

Đặc biệt, từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, các thế lực thù địch trong và ngoài nước cùng với những người bất mãn  chính trị không ngừng xuyên tạc, công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác  - Lê-nin. Chúng lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, cũng như những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để gây dao động về tư tưởng, gây mất lòng tin, thiếu đồng thuận trong nhân dân, kích động, chia rẽ nội bộ để chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta.

Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội  - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô-viết đến sự sụp đổ. Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô trước đây - cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và đối ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một số lãnh đạo cao nhất trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch là những nguyên nhân trực tiếp.

Vì thế, không thể quy sự sụp đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chính sự nhận thức sai, vận dụng sai, sự phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin của một số người cao nhất trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chủ yếu. Vì vậy, quyết không được đồng nhất những sai lầm đó với bản thân chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tại sao công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc, công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam lại đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng? Cải tổ sẽ không thất bại nếu Đảng Cộng sản Liên Xô có đường lối cải tổ đúng đắn, trung thành và sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có bản lĩnh chính trị vững vàng, cảnh giác với âm mưu và hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực đế quốc thù địch, nếu xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh, trong sạch, gắn bó mật thiết với nhân dân, chống được quan liêu, tham nhũng... Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô nay đã trải qua gần 30 năm song vẫn là lời cảnh báo thường xuyên đối với các đảng cộng sản đang cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa để tránh đi vào “vết xe đổ” của Liên Xô./.