Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2020

Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung

QĐND Online – Sáng 23-10, nhân dịp khai mạc Lớp tập huấn về công tác đón tiếp tuyên truyền năm 2020, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức phát động quyên góp ủng hộ đồng bào các tỉnh miền Trung bị ảnh hưởng bởi mưa lũ thời gian qua. Dự lễ phát động có Thiếu tướng Bùi Hải Sơn, quyền Trưởng ban Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tư lệnh Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh; Đại tá Đinh Quốc Hùng, Bí thư Đảng ủy Đoàn 969, Chính ủy Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đông đảo cán bộ, chiến sĩ, công chức, viên chức người lao động Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại lễ phát động, Thiếu tướng Bùi Hải Sơn thông tin: Trong những ngày qua, các đợt mưa lũ lớn liên tục, kéo dài đã ảnh hưởng hết sức nặng nề đến một số tỉnh miền Trung, đặc biệt tại các tỉnh Thừa Thiên-Huế; Quảng Trị; Quảng Bình; Hà Tĩnh… Mưa lũ gây ngập lụt nghiêm trọng, nhiều khu dân cư bị chia cắt, cô lập, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn tính mạng, tài sản và đời sống nhân dân các tỉnh miền Trung. Tính đến nay, số người chết và mất tích đã lên đến hơn 100 người; hàng nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi. Nhiều công trình cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi bị sạt lở, vùi lấp; hàng nghìn héc-ta cây trồng, hoa màu; thủy sản của nhân dân bị thiệt hại nặng nề. Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung Thiếu tướng Bùi Hải Sơn phát động quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung. Ảnh: THANH HUYỀN. Đặc biệt, tại xã Phong Xuân, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế đã xảy ra các sự cố sạt lở đất nghiêm trọng khiến 17 công nhân công trình thủy điện Rào Trăng 3 mất tích và 13 cán bộ, sĩ quan của đoàn đi cứu hộ cứu nạn hy sinh. Cùng với đó, lúc 1 giờ ngày 18-10, 1/2 quả núi tại xã Hướng Phùng, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị đã sạt lở xuống doanh trại của Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 337 (Quân khu 4) khiến 22 cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát động cả nước chung tay góp sức ủng hộ đồng bào miền Trung, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động cán bộ, chiến sĩ, công chức, viên chức, người lao động trong toàn cơ quan với tình cảm và trách nhiệm, tinh thần tương thân tương ái, “lá lành đùm lá rách”, tích cực quyên góp ủng hộ, hỗ trợ đồng bào các tỉnh miền Trung khắc phục hậu quả mưa lũ, sớm phục hồi sản xuất, ổn định đời sống. Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh quyên góp ủng hộ đồng bào miền Trung Lãnh đạo Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ủng hộ đồng bào bị lũ lụt. Ảnh: THANH HUYỀN. Ngay sau lễ phát động, các cơ quan, đơn vị trực thuộc Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành quyên góp được hàng chục triệu đồng ủng hộ đồng bào miền Trung, đồng thời tiếp tục tuyên truyền, kêu gọi cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, chiến sĩ, người lao động toàn cơ quan tham gia ủng hộ, thời gian từ ngày 23-10 đến hết 31-10. Nguồn QĐND

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2020

Giáo viên phát ngôn về sách Tiếng Việt 1, Cánh Diều: Bộ “không cấm” nhưng... “đố dám”

            Trước phản ứng gay gắt của dư luận, ngày 15/10, Bộ GD&ĐT đã yêu cầu nhóm chủ biên SGK Tiếng Việt lớp 1, Cánh Diều chỉnh sửa một số nội dung được phản ánh.

Nhiều ý kiến cho biết, nhiều bài Tập đọc trong sách Tiếng Việt 1, Cánh Diều trúc trắc, khó đọc, nội dung ngô nghê. Những bài tập đọc này nằm ở phần đầu sách, và học sinh đã học qua.

Tuy nhiên, Bộ GD&ĐT vẫn có yêu cầu điều chỉnh trước phản ánh của dư luận, là do những phần mà dư luận có ý kiến thì chưa dạy tới.

Đối với việc phát ngôn của giáo viên, Bộ không có bất cứ chỉ đạo nào về việc cấm giáo viên phát ngôn về SGK Tiếng Việt lớp 1 Cánh Diều. Ngược lại, Bộ GD&ĐT rất mong nhận được ý kiến góp ý của người trực tiếp giảng dạy.

“Bộ GD&ĐT biết thông tin về SGK Tiếng Việt lớp 1 của bộ sách Cánh Diều hơi chậm so với phản ánh của báo chí vì trước đó Bộ có đi kiểm tra, dự giờ một loạt địa phương, và thấy không giáo viên nào có ý kiến gì về bất cập trong chương trình hay SGK”, Thứ trưởng Độ cho biết.

Giáo viên không dám lên tiếng vì lãnh đạo trường nhắc nhở

Một giáo viên tiểu học ở Hà Nội cho biết, dù Bộ GD&ĐT không cấm giáo viên lên tiếng nhận xét về SGK, nhưng mỗi trường lại có những quy định khác nhau. Riêng đối với trường cô, năm nay ngay từ đầu năm, trong cuộc họp, các giáo viên đã được quán triệt: Tất cả mọi phát ngôn chỉ có hiệu trưởng mới được phép. Do đó, giáo viên tuân thủ, không dám phát ngôn trái với quy định.

Một nhóm giáo viên khác cho biết, khi họ chia sẻ những bài viết liên quan đến nhận định của các chuyên gia, các nhà giáo dục… về sách Tiếng Việt 1, Cánh Diều, dù chỉ vào nhóm kín của trường, lập tức nhận được lời nhắc nhở từ phía lãnh đạo nhà trường.

Theo vị lãnh đạo này, giáo viên không nên chia sẻ những bài viết như vậy, vì hiện tại cần làm yên tâm giáo viên và phụ huynh, bởi vì chính trường đã lựa chọn bộ sách này. Nếu có gì chưa phù hợp thì Bộ sẽ có hướng dẫn điều chỉnh.

Hơn nữa, đó cũng chỉ là quan điểm của một vài người về bộ sách. Giáo viên nên lắng nghe chia sẻ của người biên soạn nói về cuốn sách để có cái nhìn toàn diện hơn.

“Tôi không hiểu sao lãnh đạo nhà trường mà lại có thể ngăn cản giáo viên đưa ra chính kiến của mình về SGK như vậy. Nếu những ý kiến đó trôi nổi trên mạng, không ai kiểm soát thì không nói làm gì. Nhưng đằng này là ý kiến của các nhà giáo, chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà văn… Họ chỉ ra rất nhiều lỗi sai, mà có thể giáo viên tiểu học cũng không nhận ra được, thì phải xem xét, thảo luận. Hơn nữa, Bộ GD&ĐT cũng đã có chỉ đạo lắng nghe ý kiến của mọi tầng lớp, trong đó có giáo viên. Vậy mà chúng tôi vẫn bị ngăn cản”, một giáo viên bức xúc.

Cũng theo giáo viên này, vào sáng hôm sau, Hiệu trưởng của Trường tiếp tục có chỉ đạo giáo viên không được đưa ra những phát ngôn gây hoang mang về sách Tiếng Việt 1, Cánh Diều.

Từ thực tế đó, câu hỏi đặt ra là, vậy những ý kiến của giáo viên về sách Tiếng Việt 1, Cánh Diều mà theo Bộ GD&ĐT là tích cực liệu đã đầy đủ, khách quan hay chưa? Ngay trong nhóm kín, trong trường, giáo viên đã không dám nêu ý kiến, thì khi tiếp cận với các lãnh đạo Bộ GD&ĐT, họ có dám nói thật suy nghĩ của mình về sách hay không?

Nếu coi ý kiến của giáo viên rất quan trọng trong việc triển khai SGK mới, Bộ GD&ĐT cần phải có những giải pháp để lắng nghe được phản ánh chân thực từ phía giáo viên. Ví dụ, có hình thức xử lý thích đáng đối với những lãnh đạo ngăn cản giáo viên đưa ra quan điểm của mình. Có như vậy, mới có được những góp ý, phản biện, thay vì chỉ nghe những lời khen một chiều.

Cuộc tranh luận trực tiếp cuối cùng của Tổng thống Trump và ứng viên Biden.

          Cuộc tranh luận trực tiếp cuối cùng giữa ứng viên tổng thống đảng Cộng hòa - đương tim Tổng thống Donald Trump và đối thủ Dân chủ - cựu Phó tổng thống Joe Biden diễn ra lúc 9 giờ tối ngày 22/10 giờ miền Đông nước Mỹ (8 giờ sáng ngày 23/10 giờ Việt Nam) ở Nashville, bang Tennessee. Nữ phóng viên thường trú Nhà Trắng của đài NBC Kristen Welker là người dẫn dắt cuộc tranh luận.
          Ủy ban các cuộc tranh luận tổng thống trước đó cho biết, các chủ đề cho cuộc “đấu khẩu” cuối cùng giữa 2 ứng viên là: Chiến đấu với Covid-19, các gia đình Mỹ, chủng tộc tại Mỹ, biến đổi khí hậu, an ninh quốc gia và sự lãnh đạo.
         Cuộc tranh luận dự kiến kéo dài 90 phút và giống hình thức cuộc đầu tiên, với mỗi 15 phút thảo luận cho một chủ đề. Các ứng viên có 2 phút để trình bày về từng chủ đề theo câu hỏi của người dẫn chương trình và trong phần này, ứng viên nào nói thì ứng viên kia sẽ bị tắt mic, theo các quy định mới được Ủy ban tranh luận công bố hôm 19/10. Sau đó, hai ứng viên sẽ chuyển sang phần tranh luận mở và mic của 2 người không bị bắt trong phần này.
          Quy định tắt mic được Ủy ban tranh luận đưa ra sau cuộc tranh luận đầu tiên hôm 29/9 của hai ứng viên bị biến thành một màn “cãi vã” khi họ liên tục ngắt lời nhau và tranh nhau nói. Ủy ban tranh luận không muốn tái diễn một màn “đấu khẩu” hỗn loạn tương tự.
          Chiến dịch tranh cử của ông Trump đã chỉ trích quy định mới trên, cho rằng điều đó không công bằng. Bill Stepien, quản lý chiến dịch tranh cử của ông Trump, hồi đầu tuần này cũng gửi một bức thư tới Ủy ban tranh luận, chỉ trích về việc không lựa chọn chủ đề chính sách đối ngoại, điều mà chiến dịch của ông Trump xem là một điểm yếu của ông Biden.

LỜI NÓI CUỐI CÙNG "VÌ NHÂN DÂN"

         "Việc thì gấp, vì nhiệm vụ, vì nhân dân, chúng ta phải làm!”.

     Đó là lời nói sau củng của Thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Phó tư lệnh Quân khu 4. Khi chỉ huy đoàn công tác vượt lũ, băng rừng tìm phương án cứu hộ đồng bào gặp nạn, lúc dừng chân tại Trạm kiểm lâm 67, cách thủy điện Rào Trăng 3 khoảng 13km, anh đã động viên mọi người như thế. Lời nói của vị tướng và những hình ảnh cuối cùng của đoàn công tác trước thời khắc định mệnh rạng sáng 13/10/2020 được lực lượng cứu họ tìm thấy trong chiếc camera năm ở hiện trường.

     Đó là lời nói cuối cùng của Thiếu tướng Nguyên Văn Man mà chúng ta nghe được. Giọng nói trầm ấm, gương mặt hiền từ, cương nghị của anh cùng các đồng đội bên ánh lửa của cái đêm định mệnh ấy gieo vào tâm khảm những người đang sống và được sống nguồn xúc cảm rất đỗi thiêng liêng. Tướng Man nói, nhỏ nhẹ, thân tình như một lời tâm sự, nhưng lại là một mệnh lệnh dứt khoát, là quân lệnh như sơn, rằng vì nhiệm vụ, vì nhân dân, phải làm tất cả những gì có thể!

     Lời nói của Thiếu tướng Nguyễn Văn Man thể hiện trách nhiệm, sứ mệnh của người lính "Bộ đội Cụ Hồ". Với anh và những đồng đội đã hy sinh, đó là lời nói sau cùng. Nhưng với đội ngũ quân nhân, đó là mệnh lệnh trái tim, là động lực, là chất xúc tác làm sáng rõ hơn, sâu sắc hơn bổn phận, sứ mệnh trước Đảng, trước dân của Bộ đội Cụ Hồ. Lời nói ấy đi vào lịch sử công tác phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.


     Ai đó, nếu có lúc nào đó ước muốn, tham vọng cá nhân chưa tròn, hay nhìn thấy những điều chưa tốt trong hàng ngũ quân nhân, cũng xin đừng vội buông lời cay nghiệt, so bì, kiểu như: “Lương bộ đội cao lắm!”, “Bộ đội bây giờ sướng lắm!”... Bởi vì Bộ đội Cụ Hồ, trong mọi hoàn cảnh, thời bình cũng như thời chiến, việc thì gấp, vì nhiệm vụ mà họ quyết làm, dù phải gặp hiểm nguy cũng không quản ngại, sẵn sàng chấp nhận hy sinh vì bình yên của Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân.

 

 

MỐC SON LỊCH SỬ NGÀY GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ 10/10/1954 - 

Kể từ “Chiếu dời đô” của Vua Lý Thái Tổ năm 1010 đến nay, Thăng Long - Hà Nội đã trải qua và chứng kiến nhiều thăng trầm lịch sử. Quân, dân Hà Nội, thế hệ sau tiếp bước thế hệ trước kiên cường tranh đấu, bền bỉ lao động, sáng tạo nền văn hiến rực rỡ, lập nhiều chiến công hiển hách lưu danh muôn đời. Trong tiến trình lịch sử phát triển Thủ đô Hà Nội, ngày 10-10-1954 là một mốc son lịch sử, đánh dấu thất bại hoàn toàn của thực dân Pháp ở Việt Nam, mở ra thời kỳ phát triển mới của Thủ đô và đất nước.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân Thủ đô Hà Nội và cả nước không có ước nguyện nào hơn là được sống trong không khí hòa bình để xây dựng, phát triển. Nhưng thực dân Pháp dưới sự ủng hộ của đế quốc Mỹ, đã dã tâm cướp nước ta một lần nữa, gây hấn ở Nam Bộ (23-9-1945) và phát động chiến tranh ra cả nước. Ngày 19-12-1946, hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân, dân Hà Nội đã cùng với nhân dân cả nước nhất tề đứng lên đánh giặc cứu nước.

Với cuộc chiến đấu 60 ngày đêm vô cùng oanh liệt, Hà Nội đã mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, kìm chân và tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện để cơ quan đầu não và các lực lượng kháng chiến của ta tạm rút khỏi Hà Nội an toàn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ do Trung ương giao. Sau 9 năm chiến đấu ngoan cường, thông minh, gan dạ, đầy sáng tạo của quân và dân ta, đặc biệt là sau thất bại trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ năm 1954, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ (20-7-1954) công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; chấp nhận rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam.

Theo Hiệp định Giơnevơ, Hà Nội nằm trong khu vực tập kết 80 ngày của địch. Biết trước âm mưu của Pháp lợi dụng thời gian này để phá hoại các cơ sở kinh tế, văn hóa của ta, lôi kéo người di cư vào Nam, làm cho Hà Nội trở thành trống rỗng, mọi công việc bị đình trệ. Chúng ta đã chủ động có kế hoạch đề phòng, đấu tranh, đồng thời chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để tiếp quản Thủ đô một cách trọn vẹn.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và trực tiếp là Đảng ủy tiếp quản, các tầng lớp nhân dân Thủ đô, nòng cốt là công nhân, tự vệ các nhà máy, xí nghiệp, công sở, đã đấu tranh quyết liệt với địch, bảo vệ gần như nguyên vẹn máy móc, thiết bị, hồ sơ, nguyên vật liệu; đồng thời đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư vào Nam. Cùng thời gian này, cuộc đấu tranh của ta trên bàn Hội nghị ngoại giao ở Phù Lỗ cũng giành thắng lợi, buộc thực dân Pháp phải chuyển giao thành phố cho ta theo đúng nguyên tắc đã quy định tại Hiệp định Giơnevơ.

Đúng 16 giờ ngày 9-10-1954, những tên lính Pháp cuối cùng đã rút qua cầu Long Biên; quân ta hoàn toàn kiểm soát thành phố. Sáng ngày 10-10-1954, Ủy ban Quân chính thành phố và các đơn vị quân đội nhân dân gồm cả bộ binh, pháo binh, cao xạ, cơ giới,... chia làm nhiều cánh lớn đã mở cuộc hành quân lịch sử vào Hà Nội. Hai mươi vạn nhân dân Thủ đô náo nức trong rừng cờ đỏ sao vàng, với niềm vui sướng tột độ của những người đã gần 9 năm bị kìm nén dưới gót sắt của giặc nay được giải phóng, đã đón mừng đoàn quân chiến thắng trở về. 15 giờ chiều cùng ngày, hàng vạn nhân dân trang nghiêm dự lễ chào cờ do Ủy ban Quân chính tổ chức với sự có mặt của các đơn vị quân đội nhân dân tham gia tiếp quản thành phố. Cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay trên đỉnh Cột cờ cổ kính... Cả Hà Nội rạo rực niềm vui giải phóng, tự hào về sức mạnh hùng hậu kháng chiến, vô cùng biết ơn Đảng và Bác Hồ kính yêu.

Hà Nội được giải phóng không chỉ là niềm vui mừng của người dân Thủ đô mà còn là một sự kiện lịch sử, một ngày hội lớn của nhân dân cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài. Nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước đều họp mít tinh, liên hoan chào mừng Thủ đô giải phóng. Bạn bè quốc tế, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới cùng chia vui, đưa tin và giới thiệu về chiến thắng vang dội của chúng ta./.

 HC.

 

NHÌN LẠI 14 LẦN XÂM LƯỢC VIỆT NAM CỦA KẺ THÙ PHƯƠNG BẮC

(Không tính các cuộc xâm lấn nhỏ)

Bên cạnh vô số cuộc xâm lấn quy mô nhỏ hoặc trung bình, đã có 14 lần các triều đại phương Bắc xua đại quân xâm lược toàn diện nước Việt

1. Cuộc xâm lược của nhà Ân

Theo Truyền kỳ Phù Đổng, Năm 1218 TCN Ân Cao Tôn (giặc Ân) thời kỳ hùng mạnh nhất xâm lấn Việt Lạc đều bị quân ta đánh bại tháo chạy nhục nhã.

2. Cuộc xâm lược của nhà Tần

Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng, vua đầu tiên của Trung Hoa cho Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng Việt Lạc. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa. Nhưng mấy năm sau chúng đã bị quân Việt đánh bại, chết quá nửa, Đồ Thư bị giết chết.

3. Cuộc xâm lược của nhà Tây Hán

Năm 181 TCN, Triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang đánh Nam Việt. Quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam phải tháo chạy.

4. Cuộc xâm lược của nhà Đông Hán

Năm 30 SCN, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt Lạc. Dân Việt do bà Trưng Trắc làm thủ lĩnh vùng lên đánh đuổi quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.

5. Cuộc xâm lược của nhà Lương

Đầu năm 545, nhà Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem 8 vạn quân sang xâm lược Vạn Xuân đánh chiếm thành Tô Lịch. Năm 550 nhà Lương có biến loạn, quân Lương phải rút về nước, Triệu Việt Vương tổ chức phản công quét sạch quân giặc, giải phóng hoàn toàn đất nước.

6. Cuộc xâm lược của nhà Nam Hán

Năm 938, Trung Hoa Nam Hán sai Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn nước ta. Với trận đồ bát quái cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã đại thắng quân Hán.

7. Cuộc xâm lược của nhà Tống (lần 1)

Năm 981, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm lấn nước Việt theo đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi nên tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi (tức Lê Đại Hành). Với trận Chi Lăng oai hùng quân ta đánh tan quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo.

8. Cuộc xâm lược của nhà Tống (lần 2)

Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo 30 vạn quân sang xâm lấn nước ta nhưng chúng bị ta đánh tan tác trên sông Như Nguyệt.

9. Cuộc xâm lược của Mông Cổ (lần 1)

Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, ở vùng Vân Nam. Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và hùng mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu. Năm 1257, từ Vân Nam tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai) đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long. Vua Trần Thái Tông phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu.

10. Cuộc xâm lược của nhà Nguyên (lần 2)

Năm 1283, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan cùng Toa Đô và Ô Mã Nhi sang đánh nước ta. Hội nghị Diên Hồng đồng thanh xin “Đánh” nhưng Vua Nhân Tôn muốn hàng để cứu muôn dân, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói: “Nếu Bệ Hạ muốn hàng xin chém đầu tôi trước đã”. Hưng Đạo Vương đem quân đánh giết chết Toa Đô, bắt 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.

11. Cuộc xâm lược của nhà Nguyên (lần 3)

Tháng 12/1287, Thoát Hoan kéo 50 vạn quân, 800 chiến thuyền, 100 chiếc tàu chở lương thực sang xâm chiếm nước ra. Quân Nguyên chiếm được Thăng Long. Trần Khánh Dư đưa quân phục ở bến Vân Đồn và phá tan đoàn thuyền lương. Tháng 3/1288, Thoát Hoan sai Ô mã Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan chạy về vùng Bắc Giang và Lạng Sơn bị quân Đại Việt chặn đánh tan tành.

12. Cuộc xâm lược của nhà Minh

Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thanh Hoá). Cuối năm 1427, giặc Minh lại đưa thêm 2 đạo quân sang đánh Đại Việt. Đạo quân do Liễu Thăng cầm đầu với hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. Đạo quân do Mộc Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. Tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu Thăng, đánh tan quân tiếp viện bắt sống hơn 3 vạn quân Tàu. Mộc Thạnh nghe tin, bỏ chạy. Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh. Nghe tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan [Thăng Long], viết thư cầu hòa và xin rút. Số tù binh, hàng binh và vợ con được thả về Tàu lên hơn 10 vạn người.

13. Cuộc xâm lược của nhà Thanh

Năm 1788, Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh đánh Đại Việt chiếm Thăng Long. Hoàng đế Quang Trung kéo quân ra Nghệ An, nghỉ 10 ngày mộ được 10 vạn quân và 100 con voi. Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 sẽ kéo quân đi, và hẹn ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết lại tại Thăng Long. Sáng mùng 5 Tết, quân ta tiến vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp lên ngựa tháo chạy. Giặc Tàu chết chật sông Hồng.

14. Cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979

Chiến tranh biên giới 1979 hay Chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt nổ ra ngày 17/2/1979 khi Trung Quốc đưa 600.000 quân xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới 6 tỉnh phía Bắc buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia. Ngày 16/3/1979 chúng thất bại, nhục nhã tháo lui về nước. Cuộc chiến để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ ngoại giao Việt-Trung mới được bình thường hóa.

Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy kẻ thù phương Bắc luôn tìm cách thôn tính nước ta suốt 1000 năm đô hộ, đến giờ chúng vẫn chưa từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta. Nhưng bất cứ cuộc xâm lược phi nghĩa nào của chúng đều thất bại không thể khuất phục được dân tộc Việt Nam và buộc chúng phải trả giá./.

Xử lý nghiêm chiêu trò tiếp tay “truyền thông đen” phá hoại đại hội Đảng

      Trong Di chúc trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
      Thật không thể chấp nhận những người đứng trong tổ chức, trước khuyết điểm, sai phạm của người khác chẳng những không phê bình chân thành và đấu tranh thẳng thắn, làm rõ vi phạm, khuyết điểm của đồng chí mình theo đúng kỷ luật, pháp luật, thông qua các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể mà lại “ném đá giấu tay”, tiếp tay cho “truyền thông đen”, thậm chí cho các thế lực thù địch.
Đây cũng chính là một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng ta đã chỉ ra: “... Lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau, hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng”.
      Vì vậy, để đấu tranh hiệu quả với thủ đoạn, chiêu trò thâm hiểm trên, đã đến lúc phải thực hiện kiên quyết, triệt để hơn các quy định của pháp luật về quản lý internet, mạng xã hội, xử lý các hành vi vu khống, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác. Trong đó, cần xử lý nghiêm minh, xét xử công khai và có hình phạt thích đáng để làm gương với những hành vi tội phạm có tổ chức, quy mô rộng, thời gian kéo dài như các vụ việc ở Thanh Hóa, Đắc Lắc; đặc biệt, phải tìm ra đối tượng chủ mưu, đứng đầu, nếu là cán bộ, đảng viên càng phải xử lý nghiêm minh theo đúng kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
      Với cấp ủy đảng các cấp, cần thực hiện nghiêm túc chỉ đạo tại Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng: “Phải tỉnh táo, cảnh giác, chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị, bất mãn”.
      Đối với những đối tượng lập ra các hội, nhóm “truyền thông đen”, để phát tán thông tin kích động, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và đại hội đảng các cấp, đề nghị các cơ quan pháp luật cần tăng cường quản lý, với các đối tượng không chuyển biến sau khi đã giáo dục thuyết phục, cần có biện pháp xử lý theo pháp luật, không để họ lũng đoạn mạng xã hội, coi thường kỷ cương phép nước, gây bức xúc trong xã hội!

Phải hiểu đúng giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Không thể “nhầm lẫn” hoặc cố tình đánh tráo khái niệm “nghệ thuật chớp thời cơ” tài tình của Đảng ta với “sự ăn may của lịch sử”(?!)

 

Nhằm hạ thấp ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cuộc cách mạng này, một số thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị thường rêu rao: “Cách mạng Tháng Tám là thứ quả ngọt trời cho” (?!), hoặc “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự ăn may của lịch sử!” (?!)... Để biện hộ cho luận điệu đó, họ cho rằng: Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong bối cảnh xuất hiện “khoảng trống quyền lực”; cuộc cách mạng này không có đối tượng cụ thể, trực tiếp và những người làm cách mạng chỉ tiến công vào một cánh cửa chính trị khép hờ (?!). Sự thật lịch sử cho thấy, những luận điệu nói trên là hoàn toàn bịa đặt!

Kỷ niệm 75 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám thành công (19-8-1945 - 19-8-2020) và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2-9-1945 - 2-9-2020) _Đồ họa: Vũ Trung Duy

Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài, cùng những người bất mãn với chế độ, những kẻ cơ hội chính trị đã không ngừng xuyên tạc, công kích nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với việc tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phê phán Cương lĩnh, đường lối của Đảng, thì một trong những thủ đoạn thâm độc của họ là bóp méo sự thật lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khi thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm của Đảng, họ thường hạ thấp ý nghĩa của những thắng lợi to lớn của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Không thể phủ nhận là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi trong điều kiện khách quan có những yếu tố thuận lợi. Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tạo cho dân tộc ta một cơ hội hết sức thuận lợi: Kẻ thù của dân tộc ta lúc đó là thực dân Pháp và phát-xít Nhật đã tự loại nhau. Trên thực tế, từ sau đêm 9-3-1945, đối tượng chủ yếu của cách mạng Việt Nam là phát-xít Nhật. Khi đội quân Quan Đông mạnh nhất của phát-xít Nhật bị Hồng quân Liên Xô đánh bại ở Mãn Châu (Trung Quốc), giáng đòn quyết định buộc phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, thì ở Việt Nam lúc đó quân Nhật hoảng loạn, quân Pháp chưa đủ sức quay lại, chính quyền tay sai hoang mang cực độ, tạo điều kiện khách quan chín muồi cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi.

Tuy nhiên, dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu mà điều kiện chủ quan chưa chín muồi cho việc chớp thời cơ, phát động khởi nghĩa, thì cách mạng cũng không thể thành công. Thực tế đã cho thấy, cũng trong hoàn cảnh khách quan thuận lợi (thắng lợi của Đồng minh và thất bại của phát-xít Nhật), không phải nước nào cũng tiến hành được một cuộc khởi nghĩa để giành lại độc lập dân tộc. Tại thời điểm đó, chỉ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, toàn dân đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa lật đổ sự thống trị của phát-xít Nhật và bọn tay sai, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của một quá trình chuẩn bị đầy đủ lực lượng cách mạng của Đảng ta. Đồng thời, nó cũng là kết quả của việc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, tích cực theo dõi tình hình, dự đoán chính xác thời cơ và kiên quyết lãnh đạo nhân dân đứng lên chớp thời cơ để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Trong hai yếu tố chủ quan và khách quan thì yếu tố chủ quan là động lực chính quyết định đến sự thành, bại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thành quả đấu tranh lâu dài, gian khổ với biết bao máu xương của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng từ cuối thế kỷ XIX. Đảng Cộng sản Đông Dương - người kế tục vai trò lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước trước đó  - đã đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 lên một tầm cao mới với một cương lĩnh chính trị đúng đắn cùng trình độ tổ chức đường lối cách mạng sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của nước ta lúc bấy giờ. Trong đó, việc xác định chính xác đối tượng cần phải đánh đổ là thực dân Pháp cùng lực lượng tay sai của chúng được khẳng định từ sớm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (tháng 2-1930).

Mô phỏng những ngày đấu tranh Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trong Chương trình biểu diễn nghệ thuật đặc biệt chào mừng Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9: "Lời thề độc lập" (9-2020)_Ảnh: TTXVN _Nguồn: hochiminh.vn

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào giải phóng dân tộc trải qua nhiều chặng đường thăng trầm, quyết liệt, dẫn tới cao trào cách mạng mới sau khi Mặt trận Việt Minh được thành lập dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hai tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (năm 1939), Trung ương Đảng đã họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939. Hội nghị đã phân tích sâu sắc bản chất của cuộc chiến tranh, đặc điểm cơ bản của cách mạng Đông Dương và nhận định: “Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ bùng và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh rực rỡ”(1). Hội nghị còn chỉ rõ: Chiến tranh đã thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của xã hội thuộc địa - phong kiến lên đến đỉnh tột cùng, đòi hỏi phải được giải quyết, gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương; Hội nghị chủ trương đấu tranh chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát-xít, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và tất cả bọn tay sai của đế quốc, đòi hòa bình, cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn.

Ngày 22-9-1940, quân phát-xít Nhật tràn vào Việt Nam. Hội nghị Trung ương Đảng họp từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, chỉ rõ kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phát-xít Pháp - Nhật. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương mở rộng (tháng 5-1941) nhận định: Lúc này, ở Đông Dương, lực lượng phản cách mạng gồm có: “1. Thống trị Pháp ở Đông Dương và bọn tay sai của chúng. 2. Phát xít Nhật và bọn tay sai của chúng nó”(2). Nguyện vọng và mục đích của nhân dân Đông Dương hiện nay là đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập. Lực lượng cách mạng ở Đông Dương hiện nay là nhân dân Đông Dương, không phân biệt dân tộc, giai cấp. Đánh Pháp, đuổi Nhật là nhiệm vụ chung của nhân dân Đông Dương.

Sau ngày phát-xít Nhật đảo chính lật đổ quyền thống trị của thực dân Pháp (ngày 9-3-1945), tình hình chính trị ở Đông Dương có những thay đổi lớn. Chỉ thị ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương với nhan đề “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” chỉ rõ: “a, Đế quốc Pháp mất quyền thống trị ở Đông Dương, không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt ta nữa - mặc dầu ta vẫn phải đề phòng cuộc vận động của bọn Đờ Gôn định khôi phục quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương. b, Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương. c, Bọn Pháp kháng chiến đang đánh Nhật là đồng minh khách quan của nhân dân Đông Dương lúc này”(3).

Ngày 24-3-1945, Chính phủ Pháp ra tuyên bố với những lập luận hết sức xảo trá hòng che đậy và lừa dối dư luận nhưng vẫn để lộ dã tâm sẽ chiếm lại Đông Dương sau khi Nhật thất bại. Từ đó, Pháp ráo riết hoạt động, từ Pa-ri, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đờ Gôn, qua Bộ phận liên lạc của Pháp ở Viễn Đông (SLFEO) đặt ở Can-cút-ta (Ấn Độ), đến Phái bộ 5 do Xanh-tơ-ny đứng đầu đặt bản doanh tại Côn Minh (Trung Quốc). Đồng thời, Chính phủ Pháp chỉ thị cho Đại sứ của mình ở Trung Quốc và các viên tướng cầm đầu số lính Pháp bị Nhật đánh bại sang Hoa Nam (Trung Quốc) phối hợp với Phái bộ 5 thực hiện các âm mưu chuẩn bị tái xâm lược Đông Dương.

Ngay sau khi Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng ra mệnh lệnh khởi nghĩa (ngày 12-8-1945), thực dân Pháp càng đẩy mạnh các hoạt động nhằm nhanh chóng tái xâm lược Đông Dương. Ngày 13-8-1945, Đờ Gôn tuyên bố với Đác-giăng-li-ơ rằng sẽ cử ông ta làm Cao ủy ở Đông Dương, nắm toàn bộ quyền lực tại đây. Cùng ngày 13-8-1945, Bộ phận liên lạc của Pháp ở Viễn Đông tại Can-cút-ta quyết định cho máy bay thả dù xuống Đông Dương một bộ sậu chính trị gồm các ủy viên của nước Cộng hòa Pháp (việc này mãi đến ngày 22-8-1945 mới thực hiện được). Ngày 19-3-1945, tướng A-léc-xan-đri quyết định cử một đội tiền trạm gồm các sĩ quan tình báo (trước đây chạy trốn sang Trung Quốc) vào Hà Nội để chuẩn bị đón một phái đoàn đầy đủ của Pháp sẽ có mặt ở đây. Ngày 14-8-1945, Đờ Gôn cử Lơ-cléc làm Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang Pháp ở Đông Dương.

Thực dân Pháp tổ chức các toán biệt kích xâm nhập vào Việt Nam bằng hai đường: đường biển, do Phái bộ 5 chỉ huy, xuất phát từ một số đảo ở Hoa Nam (Trung Quốc); đường hàng không, xuất phát từ căn cứ quân sự ở Can-cút-ta, do máy bay của tình báo Anh đưa vào và nhảy dù xuống những địa điểm đã chọn.

Vào 18 giờ ngày 15-8-1945, hai ca-nô có vũ trang chở chừng 30 người cả Pháp và Việt đi qua Quảng Yên, hướng về cảng Hải Phòng. Cùng ngày 15-8-1945, một toán biệt kích đường biển gồm 5 tên do Blăng-sa cầm đầu đổ bộ vào Hải Phòng, định đi ngược sông Hồng lên Hà Nội. Đường sông bị cấm, cả 5 tên bị quân Nhật bắt giam, đến ngày 23-8-1945 mới đến được Hà Nội. Ngày 21-8-1945, một toán gồm 5 người Pháp và 1 người Việt nhảy dù xuống vùng tháp Mỹ Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, bị du kích ta tóm gọn. Ngày 22-8-1945, một toán biệt kích người Pháp do thiếu tá tình báo Xanh-tơ-ny - người phụ trách Phái bộ 5  - cầm đầu bám theo máy bay chở đoàn OSS của Mỹ từ Côn Minh đến Hà Nội. Đêm 22-8-1945, có 3 toán biệt kích nhảy dù: một toán do Mét-xme cầm đầu nhảy dù xuống Phúc Yên, bị dân quân ta tóm gọn (đến tháng 10-1945 mới được phóng thích); một toán do Xê-đin cầm đầu nhảy dù xuống Tây Ninh, bị quân Nhật bắt được và đưa đi Sài Gòn; một toán nhảy dù xuống vùng Hiền Sĩ (Nam Giao, tỉnh Thừa Thiên), định bắt liên lạc với Bảo Đại nhưng bị dân quân ta bắt gọn. Ngày 23-8-1945, một nhóm 4 tên dùng xuồng lớn đột nhập vào cửa Thuận An, bị dân quân ta bắt. Ngày 27-8-1945, một toán biệt kích nhảy dù xuống vùng Lai Bằng - cách Huế khoảng 20km, bị dân quân ta bắt. Tàu biển Cray-xắc đưa 16 tên đổ bộ lên đảo Cát Bà cũng bị quân ta tóm gọn. Ngày 28-8-1945, một toán biệt kích nhảy dù xuống vùng đường ven biển gần thị trấn La Gi và mấy ngày sau, một toán nữa nhảy dù xuống khu vực suối Kiết ở Tánh Linh (tỉnh Bình Thuận) đều bị dân quân ta bắt giữ...

Đấy là những kẻ thù từ nước ngoài thâm nhập vào nước ta để chống phá Cách mạng Tháng Tám. Dù chúng vào bằng đường hàng không hay đường thủy thì cũng cho thấy một điều là: Đây là những hành động không hề đơn độc, mà là có ý đồ móc nối với những tên tay sai cũ của thực dân Pháp hòng tổ chức lực lượng chống đối chính quyền cách mạng, chuẩn bị cơ sở cho quân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam sau khi phát-xít Nhật đầu hàng.

Quân Nhật tuy đã tuyên bố đầu hàng Đồng minh nhưng vẫn còn nguyên lực lượng và trang bị vũ khí, khí tài chiến tranh trong tay! Đảng ta chủ trương vận động sĩ quan và binh lính Nhật “án binh bất động”, trao vũ khí cho Việt Minh và Quân giải phóng Việt Nam để được bảo toàn tính mạng. Tuy nhiên, không phải ở đâu và lúc nào họ cũng đều hưởng ứng chủ trương đó của ta. Không ít nơi, quân Nhật vẫn có hành động quân sự chống phá ta. Ở huyện Lý Nhân (tỉnh Hà Nam), quân Nhật không những không giao kho thóc cho ta mà còn gọi viện binh từ Phủ Lý về, nổ súng chống lại lực lượng khởi nghĩa vào ngày 20-8-1945. Ở Hà Nội, quân ta tấn công vào trại bảo an binh, quân Nhật đưa xe tăng đến bao vây trại, hỗ trợ cho những phần tử bảo an ngoan cố và đòi tước vũ khí của tự vệ ta. Ta thuyết phục, quân Nhật mới chịu rút. Ở Lộc Ninh, sĩ quan Nhật ra lệnh bắn vào dân quân và đồng bào ta. Giao tranh đã nổ ra và chúng chỉ chịu đầu hàng sau khi một lực lượng của chúng bị quân ta tiêu diệt. Ở Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi), quân Nhật vẫn tiến hành các hoạt động khủng bố Việt Minh, bị dân quân ta đánh trả mới chịu co cụm về thị xã. Đặc biệt, trong cuộc chiến đấu chống quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên từ ngày 19 đến ngày 24-8-1945, lực lượng cách mạng tiêu diệt một số tên, buộc quân Nhật ở thị xã và các đồn lẻ trong tỉnh Thái Nguyên phải hạ vũ khí, bức hàng toàn bộ hệ thống chính quyền và quân đội tay sai của Nhật trong tỉnh. 

Với 82.260 quân phát-xít Nhật chờ ngày nộp vũ khí cho Đồng minh trong bối cảnh chính quyền cách mạng đang trong giai đoạn “trứng nước”, rõ ràng lực lượng này vẫn là một đối tượng mà ta phải tập trung đối phó.

Sau đêm Nhật đảo chính Pháp (ngày 9-3-1945), hệ thống chính quyền làm tay sai cho Nhật ở Việt Nam đã được dựng lên trên cơ sở hệ thống chính quyền của Pháp vừa sụp đổ. Trong cao trào kháng Nhật, cứu quốc, trước sự tiến công của Việt Minh, bộ máy chính quyền tay sai bị suy yếu, bất lực và đi đến tan rã từng bộ phận, trước hết là cấp xã, rồi đến cấp huyện. Đến Tổng khởi nghĩa, chính quyền ở nhiều huyện nhanh chóng thuộc về nhân dân, nhưng cũng ở nhiều nơi, chúng ta phải dùng áp lực của quần chúng kết hợp với trấn áp bằng bạo lực, trừng trị những tên ngoan cố để giành chính quyền. Ở cấp tỉnh và cấp kỳ, cuộc đấu tranh để xóa bỏ bộ máy chính quyền tay sai diễn ra gay go, phức tạp hơn. Dựa vào lực lượng bảo an, vào tổ chức phản động và hy vọng được quân Nhật bảo vệ, hầu hết thị trưởng, tỉnh trưởng và khâm sai đều có hành động phản kháng trước cao trào cách mạng của quần chúng. Đối với đối tượng này, ta đã phải kết hợp thuyết phục với dùng áp lực của quần chúng và lực lượng vũ trang. Ngày 23-8-1945, cuộc khởi nghĩa ở Huế đã nổ ra với sức mạnh của lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế có ý nghĩa hết sức to lớn, vì Huế là dinh lũy của chế độ phong kiến, trung tâm đầu não của chính quyền bù nhìn cả nước, nơi đóng quân và bộ máy tối cao của cố vấn Nhật.

Cùng với việc đánh đổ bộ máy chính quyền tay sai, cuộc đấu tranh với các lực lượng vũ trang do Nhật tổ chức và các đảng phái chính trị phản động cũng diễn ra hết sức gay go, phức tạp.

Hàng chục vạn lính bảo an và cảnh sát do Nhật tổ chức, trang bị và huấn luyện đã được giao cho những tên tay sai người Việt chỉ huy. Bọn này vốn là thành viên của các tổ chức chính trị phản cách mạng hoặc sĩ quan của Pháp chuyển sang làm tay sai cho Nhật. Bằng công tác binh vận, Việt Minh đã xây dựng cơ sở bí mật trong lực lượng vũ trang của địch. Đến ngày Tổng khởi nghĩa, nghe theo lời hiệu triệu cứu nước của Việt Minh, cùng với hoạt động của các cơ sở cách mạng ở bên trong cũng như sức ép của lực lượng chính trị quần chúng nổi dậy, nhiều đơn vị vũ trang của địch tự nộp vũ khí đầu hàng. Tuy vậy, ở rất nhiều nơi, để đập tan sự kháng cự của những tên cầm đầu ngoan cố, chúng ta phải sử dụng sức mạnh quân sự để trấn áp, giành chính quyền.

Ở miền Nam, hai triệu tín đồ đạo Cao Đài có vũ trang do Trần Quang Vinh cầm đầu theo Nhật chống lại cách mạng.

Cả nước lúc bấy giờ có đến mấy chục tổ chức chính trị phản động có hoặc không có vũ trang, do Pháp, Nhật hoặc Quốc dân Đảng Trung Hoa dựng nên. Trong đó, một số tổ chức từng theo Pháp, sau chuyển sang làm tay sai cho Nhật; một số tổ chức theo Nhật bị Pháp đàn áp và giam cầm, sau khi Nhật đảo chính Pháp thì được Nhật “hà hơi tiếp sức”, tiến hành chống phá cách mạng. Các cá nhân và tổ chức từng làm tay sai cho Pháp và phải nằm im sau ngày Nhật đảo chính Pháp, trước tình hình mới, bắt đầu ngóc đầu dậy với hy vọng Pháp quay trở lại. Các tổ chức phản động khác từng được bọn quân phiệt phản động Trung Hoa Dân quốc nuôi dưỡng thì trong bối cảnh quân đội Trung Hoa Dân quốc tràn vào Việt Nam với danh nghĩa quân đồng minh giải giáp quân Nhật, cho rằng đây là cơ hội thuận lợi để nhảy ra cướp thành quả cách mạng của nhân dân ta. Điều cực kỳ nguy hiểm là dù mỗi tổ chức phản động đó có những mưu đồ, tính toán riêng nhưng đều có chung mục tiêu là lật đổ chính quyền cách mạng!

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh, nhân dân cả nước vùng dậy cướp chính quyền, làm Cách mạng Tháng Tám thành công (Trong ảnh: Những ngày Tháng Tám sôi sục ở Hà Nội (ảnh trái) và ở Sài Gòn (ảnh phải)) _Nguồn: hochiminh.vn

Trong hoàn cảnh như vậy, để giành thắng lợi, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 phải làm tê liệt và tan rã tất cả các tổ chức chính trị phản động đó. Rõ ràng, đây là công việc không hề đơn giản trong điều kiện lực lượng vũ trang của ta còn chưa đủ mạnh. Để đập tan sự chống đối của các thế lực phản động, bóp chết ngay từ trong “trứng nước” những âm mưu, hành động xâm lược của thực dân Pháp sau khi bị Nhật đảo chính, đạp tung cánh cửa cản trở con đường tiến lên giành thắng lợi, Đảng ta phải sử dụng rất nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh. Không chỉ tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh, không chỉ biết phân hóa kẻ thù, mà Đảng ta còn kiên quyết lãnh đạo quần chúng nổi dậy trừng trị những tên ác ôn ngoan cố, sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp, đè bẹp sự phản kháng của các lực lượng quân đội phát-xít Nhật cũng như làm thất bại ngay từ đầu âm mưu trở lại thống trị Đông Dương của thực dân Pháp dù phải hy sinh xương máu.

Trong khi lực lượng chống cộng hay định kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam cố tình xuyên tạc lịch sử, thì không ít người vẫn tôn trọng sự thật khách quan khi nghiên cứu, đánh giá về Cách mạng Tháng Tám. William J. Duiker, một nhà sử học Mỹ có khá nhiều nghiên cứu về Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tách biệt rõ những “hoàn cảnh ngẫu nhiên” thuận lợi cho Cách mạng Tháng Tám với nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định thuộc về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. William J. Duiker cho rằng: “Nhưng chỉ riêng các điều kiện khách quan thì không làm nên một cuộc cách mạng, và ở đây công lao thuộc về những người Cộng sản. Họ đã có thể chớp lấy thời cơ được mở ra vô cùng thuận lợi vào lúc kết thúc cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương. Ở các xứ thuộc địa khác, khoảng trống ấy (tức thời cơ - TG) có thể được lấp đầy bởi lực lượng dân tộc chủ nghĩa không Cộng sản. Nhưng ở Việt Nam, các phần tử dân tộc chủ nghĩa đã không thể đứng lên chấp nhận thách thức (...). Chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương sở hữu ý thức về sự kịp thời và thấu hiểu được sự tinh tế có tính chiến lược của hoàn cảnh để vùng lên đúng lúc. Điểm cuối cùng này mới là quan trọng”(4).

Thực tế lịch sử nêu trên hoàn toàn bác bỏ luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không có đối tượng, Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi của Đảng ta lúc bấy giờ) chỉ biết lợi dụng thời cơ, và thắng lợi của cuộc cách mạng này “là sự ăn may của lịch sử!”./.

Nguồn: Tạp chí cộng sản.

CON VỀ RỒI, MẠ ĐỪNG KHÓC, CON THƯƠNG....

 “Mạ ơi...

Con xin người, xin người đừng khóc
Lệ chan mưa...mưa lạnh ngắt, Mạ ơi
Con về rồi, xin Mạ lau khô mắt,
Để ôm con như ngày bé thơ ngây,
Con trai Mạ đã trở về đây
Nhưng lặng im, con không chào Mạ nữa....
Mạ thương yêu, con về, không đi nữa,
Công tác lần này, lần cuối, Mạ ơi,
Con biết Mạ mong ngóng khôn nguôi
Nên chúng con về, xin Mạ thôi suy nghĩ
Trước tên con, thêm hai từ “Liệt sĩ”
Lính thời bình...xin đứng vững, Mạ ơi....
Đừng cúi đầu, nước mắt Mạ sẽ rơi
Cả cuộc đời, giọt lệ nào chảy ngược?
Cho con xin, một lần, Mạ đừng ước
Vì chẳng phép màu nào hiện giữa đau thương
Con về rồi, ấm cúng giữa khói hương
Mạ yên tâm, con không còn lạnh nữa
Bát cơm úp...Mạ đặt trên mâm cỗ...
Lính thời bình, chẳng sợ đói, Mạ ơi...
Bùn trên người, hôi hám, họ chê bôi...
Con mặc kệ, KIÊN TRUNG - con làm trước,
Còn chữ HIẾU, thôi đành, để ngược
Con cúi đầu, xin trả Mạ kiếp sau...
Mạ thương yêu, mai con ở đất sâu
Thăm thẳm sao bằng...nỗi sầu trong mắt Mạ?
Huế khóc ai, mưa chi mà tầm tã?
Tầm tã sao bằng...trái tim Mạ nơi xa?
Mạ ơi,
Người ta nghĩ, lính chúng con tướng tá
Thời bình nhàn tênh, nằm đó rung đùi
Ai tướng tá? ai ăn trên, ngồi trốc?
Ai cơm bưng, ai nước rót cả đời?
Con chỉ biết...từ nay... Mạ bưng nước
Đặt trước con, răng cắn chặt, cúi người...
Con chỉ biết, ngày này nhiều năm nữa
Mười ba bát cơm... chan nước mắt Mạ rơi...!
Xót xa của người đời sẽ có lúc phai phôi
Xót xa lòng Mạ, bao giờ nguôi cho được?
Con dốc lòng vì Nhân dân, Đất nước
Nên Mạ đừng buồn, đừng khóc... thương đau,
Mạ yêu ơi, từ nay trở về sau
Lá cờ đỏ phủ trên lồng ngực đỏ
Con trai Mạ chẳng hoá thành bất tử
Chỉ Tổ Quốc thiêng liêng... bất tử mãi trong con...!
Con về đây rồi....
.....Mạ nín đi nào.....
.........Xin đừng khóc.......
..........Con thương...........”
Vũ Phương Trang

Một số giải pháp tăng cường đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội chính trị đang gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta với nhiều hình thức và thủ đoạn tinh vi, thâm độc; một trong những nội dung chúng tập trung chống phá là xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; chống phá nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phê phán, đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc, bóp méo sự thật về đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; cổ xúy “phi chính trị hóa” quân đội... Bản chất và mưu đồ của họ là từng bước làm cho quân đội biến chất về chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” dẫn tới sa rời sự lãnh đạo của Đảng, giảm sút sức chiến đấu. 

Để tăng cường đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh thần của Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, mỗi cấp ủy đảng và từng cán bộ đảng viên cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt bảy nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết đã nêu; trong đó cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, thường xuyên nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mỗi quân nhân về cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. 

Đây là giải pháp, đồng thời là yêu cầu đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị, của các tổ chức đoàn thể, quần chúng trong đơn vị cùng toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng cần nhận thức rõ cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay là một trong những nhiệm vụ chính trị mang tính cấp bách, thường xuyên và lâu dài. Đây là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản với các thế lực thù địch, phản động nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận, quan điểm của Đảng, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ những giá trị tư tưởng, lý luận đúng đắn, bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã dày công xây dựng. 

Hai là, chủ động bám sát các vấn đề, sự kiện, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo thế chủ động trong mặt trận đấu tranh trên internet, mạng xã hội.

Thực hiện phương châm chỉ đạo công tác tư tưởng phải đi trước, đón đầu; không để “khoảng trống” thông tin để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc chống phá, các cơ quan chức năng cần quan tâm nghiên cứu biên soạn các tài liệu chuyên khảo, tham khảo để phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, kỹ năng đấu tranh cho các lực lượng.

Thực hiện tốt việc cung cấp thông tin cho cán bộ, chiến sỹ theo quy định; đồng thời luôn sâu sát với quần chúng để nắm chắc tình hình tư tưởng của bộ đội, từ đó đề ra các biện pháp và hình thức giáo dục, động viên, định hướng tư tưởng phù hợp, kịp thời; xây dựng cơ quan, đơn vị, các tổ chức đảng thành những tập thể đoàn kết, thống nhất, có môi trường văn hóa tốt, có tính đấu tranh cao trong bảo vệ các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, bảo vệ các đường lối, chủ trương và nghị quyết của đảng.

Ba là,  huy động sức mạnh tổng hợp của các tập thể, cá nhân, các tổ chức, chủ động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đây là giải pháp cơ bản nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả đơn vị trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên internet, mạng xã hội. Đa dạng hóa hoạt động đấu tranh theo hướng: thiết lập và sử dụng các trang web, blog, diễn đàn để đăng tải các bài viết với nội dung tuyên truyền các quan điểm chính thống, định hướng dư luận, phản bác hoặc tiến hành đấu tranh phản bác ngay tại các trang mạng “độc hại”, phản động được đối tượng sử dụng. Xây dựng và mở rộng đội ngũ cộng tác viên đưa tin, viết bài, bình luận đặc biệt chú trọng tới việc bồi dưỡng để nâng cao trình độ của Lực lượng 47; nâng cao chất lượng các bài viết đấu tranh phản bác với luận cứ khoa học, tính thuyết phục cao. Kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp; giữa xây và chống, trong đó lấy xây là chính; chủ động cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan báo chí để đấu tranh, ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả.

Bốn là, quản lý chặt chẽ, chủ động áp dụng các biện pháp kỹ thuật, ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng “độc hại” một cách hiệu quả.

Các đơn vị cần quán triệt cho mọi cán bộ, chiến sỹ nắm chắc và tự giác thực hiện các quy định của Nhà nước, của đơn vị khi truy cập internet, tham gia các trang mạng xã hội; đồng thời cần chủ động phối hợp với các đơn vị cung cấp dịch vụ, nghiên cứu sử dụng các giải pháp về công nghệ thông tin để ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu, độc trên các trang mạng. Đặc biệt, cần chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ để xâm nhập, chiếm quyền quản trị, điều hành các trang web, blog, diễn đàn mạng xã hội để vô hiệu hóa hoặc ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng có nội dung “độc hại” trong một thời gian nhất định. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ, lọt bí mật của Đảng, Nhà nước, Quân đội, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc phát tán những đơn thư nặc danh, mạo danh, hoặc thư có danh nhưng có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động.

Chủ động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, của cả hệ thống chính trị và mọi cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu trên sẽ góp phần ngăn chặn hiệu quả, giảm tác hại từ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động trên internet, mạng xã hội và các phương tiện truyền thông, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.