Dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội; cũng có thể được hiểu là một hình thức tổ chức của xã hội, một
hình thức tổ chức nhà nước trong đó quyền lực thuộc về nhân dân. Ở đây, dân chủ được hiểu là quyền làm chủ của
nhân dân với tư cách là quyền con người.
Nhân quyền hay còn gọi là
quyền con người là các đặc quyền tự
nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được ghi nhận, bảo
đảm bằng pháp luật quốc gia và quốc tế.
Dân
chủ, nhân quyền ở Việt Nam mang giá trị chung toàn nhân loại. Dân chủ, nhân
quyền thuộc về tất cả mọi người, không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh
tế, lãnh thổ, khu vực địa lý v.v... "Trên thực tế tính phổ biến là bản
chất của quyền con người”
Tính phổ biến của quyền con người đã được luật
pháp quốc tế công nhận. Do vậy, nó đòi hỏi các nhà nước phải hoàn
thành nghĩa vụ tôn trọng ở khắp mọi nơi, tuân thủ và bảo vệ tất cả các quyền
cho mọi người, mọi công dân, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, Bộ luật
nhân quyền quốc tế và các văn kiện quốc
tế khác liên quan đến quyền con người.
Ở
Việt Nam dân chủ, nhân quyền phụ thuộc trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính
trị và truyền thống văn hóa Việt Nam. Tính đặc thù biểu hiện:
Thứ
nhất, dân chủ ở Việt Nam là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ của đa số
nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng duy nhất cầm
quyền, vì vậy dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân,
đồng thời mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Thứ
hai, ở Việt Nam, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là công cụ, phương
tiện bảo đảm cho đa số nhân dân thực hiện quyền làm chủ, quyền con người của
mình.
Thứ
ba, dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam phản ánh truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử.
Do
đó, Việt Nam tôn trọng những giá trị chung về quyền con người mà nhân loại đã
thừa nhận, cam kết thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; đồng
thời phản đối việc áp đặt quan điểm dân chủ, nhân quyền của bất kỳ quốc gia nào
đối với Việt Nam.
Việt Nam khẳng định rằng, “quyền con người gắn
với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia”. Quyền con người gắn với
độc lập và chủ quyền quốc gia, bởi vì:
+
Việc giải phóng con người Việt Nam gắn liền với việc giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội của Việt Nam. Độc lập dân tộc và chủ quyền
quốc gia là điều kiện tiên quyết để thực hiện dân chủ và bảo đảm quyền con
người. Nếu không có độc lập dân tộc, không có chủ quyền quốc gia thì không thể
có dân chủ và nhân quyền. chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Quyền
con người của mỗi cá nhân gắn liền với quyền thiêng liêng của cả dân tộc.
+
Sự thống nhất giữa dân chủ, nhân quyền và chủ quyền
Khi
viết Bản Tuyên ngôn độc khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945, Hồ
Chí Minh đã trích những lời bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1776)
là: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Cách mạng Pháp (1789): “Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền lợi, và
phải luôn luôn dược tự do bình đẳng về quyền lợi”. Trên cơ sở khẳng định những
quyền đó là chân lý, Hồ Chí Minh đã suy luận: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền được sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”.
Trong
các văn kiện pháp lý của Liện Hợp quốc về quyền con người đều khẳng định: bảo
đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia;
không quốc gia nào, kể cả Liên Hợp quốc có quyền can thiệp vào công việc thực
chất thuộc thẩm quyền quốc gia. Do vậy, nếu ai đó cho rằng, “nhân quyền cao hơn
chủ quyền” là không thực tế, là sự xuyên tạc.
Thực
tế lịch sử Việt Nam chứng tỏ rằng khi đất nước là thuộc địa, mất độc lập thì
nhân dân mất quyền dân chủ, mỗi người dân đều mất nhân quyền. Vì vậy, giành độc
lập dân tộc trở thành điều kiện tiên quyết để thực hiện dân chủ, nhân quyền.
Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2013) và
các văn bản pháp luật của Việt Nam, quyền làm chủ, quyền con người được thể
hiện trên các lĩnh vực: các quyền về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế,
xã hội, văn hóa; các quyền của nhóm dề bị tổn thương.
*
Các quyền về dân sự, chính trị, được thể hiện ở các quyền cơ bản sau:
+
Quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm
+
Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện
+
Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị bắt, giam,
giữ
+
Quyền được xét xử công bằng
+
Quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử
+
Quyền được bảo vệ bí mật đời tư
+
Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở
+
Quyền tự do đi lại và cư trú
+
Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo
+
Quyền tham gia quản lý nhà nước (quyền bầu cử, ứng cử; tham gia thảo luận, kiến
nghị với các cơ quan nhà nước; tham gia trưng cầu dân ý; khiếu nại, tố cáo và
trách nhiệm tiếp công dân của nhà nước)
*
Các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa
+
Quyền về việc làm
+
Quyền tự do kinh doanh
+
Quyền sở hữu
+
Quyền có mức sống thích đáng
+
Quyền thành lập và gia nhập công đoàn
+
Quyền được hưởng an sinh xã hội
+
Quyền được chăm sóc sức khỏe
+
Quyền về giáo dục; quyền về văn hóa
* Các quyền của nhóm dễ bị tổn thương
+
Quyền của phụ nữ; quyền của trẻ em: quyền của người khuyết tật; quyền của người
cao tuổi
+
Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương khác: Người nghèo; người dân tộc thiểu số;
người có công; người bị nhiễm chất độc; người nhiễm HIV/AIDS