Thứ Năm, 12 tháng 11, 2020

Phát huy hơn nữa công tác dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam

 


Việt Nam là một quốc gia thống nhất đa dân tộc, đa tôn giáo. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đồng bào các dân tộc không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đoàn kết một lòng trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm, giành độc lập, tự do cho dân tộc, từng bước giải phóng con người khỏi áp bức, bất công.Những thành tựu trong thời kỳ đổi mới đã tạo ra những tiền đề, điều kiện thuận lợi để Việt Nam thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo. Những kết quả trong thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo đã góp phần thúc đẩy sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Việt Nam luôn khẳng định, con người là trung tâm của các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền con người, thực hiện dân chủ rộng rãi  là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những thành tựu của Việt Nam trong giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam; đó là những hành động vi phạm các Công ước quốc tế về nhân quyền và chủ quyền của một quốc gia độc lập. Nhân dân Việt Nam phản đối và quyết tâm chống lại những vấn đề đó.

 

 

 

 

 

 

 

Giải pháp cơ bản phát huy dân chủ, bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam

 


 Tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về dân chủ, nhân quyền của nhân dân

  Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ công dân. Nâng cao dân trí, chú trọng đến việc tuyên truyền phổ biến pháp luật, làm cho mọi người dân đều có hiểu biết và có ý thức tôn trọng và thực hiện pháp luật.  

 Bi dưỡng cho cán bộ, công chức nhà nước về pháp luật, biết tôn trọng và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và quyền con người.

 Tạo môi trường thuận lợi, nhất là thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của hệ thống chính trị để mọi người dân thực sự phát huy quyền làm chủ và quyền con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

 Phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội.

 Đẩy mạnh phát triển kinh tế nâng cao đời sống nhân dân, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo

 Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội

 Thực hiện tốt các chính sách xã hội: xóa đói, giảm nghèo; giảm thất nghiệp; thực hiện bình đẳng giới; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống.

 Mở rộng dân chủ, bảo đảm quyền con người đi đôi với tăng cường kỷ cương, pháp luật

 Tiếp tục hoàn thiện thể chế DC, NQ tạo hành lang pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn với tăng cường hiệu lực pháp luật.

 Hoàn thiện thiết chế dân chủ, trong đó tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước pháp quyền với một hệ thống pháp luật đầy đủ đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiện đại. Nội dung cốt lõi là đổi mới, hoàn thiện cơ chế để người dân kiểm soát được quyền lực nhà nước, ngăn chặn có hiệu quả các hành vi “tiếm quyền”.

Tăng cường kỷ cương, pháp luật, kỷ luật, nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền con người, các hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền để gây rối chống phá nền dân chủ của Việt Nam.

 Kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người trong nhận thức và giải quyết các vấn đề cụ thể

Việt Nam cho rằng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề dân chủ, nhân quyền cần kết hợp hài hòa nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Việt Nam là một nước đa tôn giáo, đa dân tộc; trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn thấp. Những đặc điểm đó quy định những đặc thù riêng trong việc thực hiện dân chủ và bảo đảm quyền con người. Việt Nam tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, mở rộng dân chủ và từng bước thực hiện đầy đủ nội dung các quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và các tiêu chuẩn về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.

          Đảng và Nhà nước Việt Nam sẵn sàng hợp tác và đối thoại nhằm thúc đẩy  dân chủ hóa và bảo vệ quyền con người trên cơ sở đối thoại, bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau vì mục đích thúc đẩy dân chủ và bảo vệ quyền con người. Việt Nam cam kết thực hiện các quy định nhân quyền quốc tế, thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam.

Những thành tựu cơ bản trong thực hiện dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam

 


 Trên lĩnh vực chính trị

 Quyền dân tộc tự quyết được thực hiện trong thực tiễn

Việt Nam quan niệm rằng, tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền, với quyền đó, nhân dân Việt Nam có quyền lựa chọn quyết định thể chế chính trị của mình.  Quyền tự quyết cao nhất của cả dân tộc Việt Nam trên lĩnh vực chính trị là quyền lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo đó, nhân dân Việt Nam kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định và tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.

 Mọi người dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, lứa tuổi đều bình đẳng với nhau trước pháp luật

 Công dân Việt Nam đủ điều kiện đều được tham gia bầu cử, ứng cử vào các cơ quan quyền lực Nhà nước; tham gia quản lý nhà nước và xã hội.

 Nhân dân có quyền tham gia các tổ chức xã hội, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tư tưởng và có chính kiến khác nhau (trừ việc chống đối chế độ), tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo, quyền được sống và các quyền cá nhân khác được bảo đảm.

 Trên lĩnh vực kinh tế

 Nhà nước bảo đảm quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của cá nhân và các đơn vị kinh tế, nhằm phát huy mọi tiềm năng của đất nước.

 Mọi công dân, mọi thành phần kinh tế đều được khuyến khích sản xuất, kinh doanh, làm giầu chính đáng, tạo ra nhiều việc làm nhằm khắc phục tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của người lao động, góp phần bảo đảm công bằng và an sinh xã hội

 Đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Từ năm 1986 đến nay, cứ sau 10 năm, mức sống trung bình của người dân Việt Nam tăng lên khoảng 2 lần. GDP tăng nhanh, giai đoạn 1986 - 2000 tăng bình quân 6,8%/năm; Giai đoạn 2001-2010, tăng bình quân 7.26%/năm; Từ 2011 đến 2015 tăng trưởng GDP thấp nhất là 5,25% (2012), cao nhất là 6,68% (2015); GDP bình quân đầu người năm 2016 đạt 2215 USD, tăng 106 USD so với năm 2015, năm 2018 đạt 2590 USD

 Trên lĩnh vực văn hoá, xã hội

 Nhà nước bảo đảm cho nhân dân được học hành, phát triển, được chăm sóc y tế, được tự do sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Đời sống vật chất, văn hóa - tinh thần của các tầng lớp nhân dân từng bước được cải thiện rõ rệt. Các hoạt động văn hóa, thông tin, báo chí, thể thao đã đạt được những tiến bộ quan trọng.

Hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở, phấn đấu đến 2020 80% người trong độ tuổi tốt nghiệp trung học phổ thông.

 Nhà nước Việt Nam bảo đảm về pháp luật và tạo mọi điều kiện để bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hiện cả nước có 19.000 thư viện, trên 5500 nhà văn hóa các cấp; 3200 di tích văn hóa cấp quốc gia, 48 di tích văn hóa quốc gia đặc biệt; 8 di sản văn hóa và thiên nhiên được UNESCO  vinh danh là di sản thế giới.

 Nhà nước thường xuyên quan tâm đến các chính sách an sinh xã hội. Hệ thống giáo dục, y tế ngày càng phát triển góp phần chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày càng tốt hơn.

 Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh

Quốc phòng - an ninh Việt Nam là sự nghiệp của toàn dân (quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân). Mọi công dân Việt Nam bình đẳng về quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, quốc phòng được giữ vững, an ninh chính trị, trật tự xã hội ổn định, an ninh con người được bảo đảm tốt.

Tính ưu việt của dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam

 


Dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; cũng có thể được hiểu là một hình thức tổ chức của xã hội, một hình thức tổ chức nhà nước trong đó quyền lực thuộc về nhân dân. Ở đây, dân chủ được hiểu là quyền làm chủ của nhân dân với tư cách là quyền con người.

Nhân quyền hay còn gọi là quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được ghi nhận, bảo đảm bằng pháp luật quốc gia và quốc tế.

Dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam mang giá trị chung toàn nhân loại. Dân chủ, nhân quyền thuộc về tất cả mọi người, không có sự phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế, lãnh thổ, khu vực địa lý v.v... "Trên thực tế tính phổ biến là bản chất của quyền con người”[1]

Tính phổ biến của quyền con người đã được luật pháp quốc tế công nhận. Do vậy, nó đòi hỏi các nhà nước phải hoàn thành nghĩa vụ tôn trọng ở khắp mọi nơi, tuân thủ và bảo vệ tất cả các quyền cho mọi người, mọi công dân, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, Bộ luật nhân quyền quốc tế và các văn kiện quốc tế khác liên quan đến quyền con người.

Ở Việt Nam dân chủ, nhân quyền phụ thuộc trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị và truyền thống văn hóa Việt Nam. Tính đặc thù biểu hiện:

Thứ nhất, dân chủ ở Việt Nam là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ của đa số nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng duy nhất cầm quyền, vì vậy dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.

Thứ hai, ở Việt Nam, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là công cụ, phương tiện bảo đảm cho đa số nhân dân thực hiện quyền làm chủ, quyền con người của mình.

Thứ ba, dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam phản ánh truyền thống văn hóa của  dân tộc Việt Nam, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước trong từng thời kỳ lịch sử.

Do đó, Việt Nam tôn trọng những giá trị chung về quyền con người mà nhân loại đã thừa nhận, cam kết thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; đồng thời phản đối việc áp đặt quan điểm dân chủ, nhân quyền của bất kỳ quốc gia nào đối với Việt Nam.

 Việt Nam khẳng định rằng, “quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia”[2]. Quyền con người gắn với độc lập và chủ quyền quốc gia, bởi vì:

+ Việc giải phóng con người Việt Nam gắn liền với việc giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội của Việt Nam. Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là điều kiện tiên quyết để thực hiện dân chủ và bảo đảm quyền con người. Nếu không có độc lập dân tộc, không có chủ quyền quốc gia thì không thể có dân chủ và nhân quyền. chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Quyền con người của mỗi cá nhân gắn liền với quyền thiêng liêng của cả dân tộc.

+ Sự thống nhất giữa dân chủ, nhân quyền và chủ quyền

Khi viết Bản Tuyên ngôn độc khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945, Hồ Chí Minh đã trích những lời bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1776) là: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (1789): “Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn dược tự do bình đẳng về quyền lợi”. Trên cơ sở khẳng định những quyền đó là chân lý, Hồ Chí Minh đã suy luận: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Trong các văn kiện pháp lý của Liện Hợp quốc về quyền con người đều khẳng định: bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia; không quốc gia nào, kể cả Liên Hợp quốc có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia. Do vậy, nếu ai đó cho rằng, “nhân quyền cao hơn chủ quyền” là không thực tế, là sự xuyên tạc.

Thực tế lịch sử Việt Nam chứng tỏ rằng khi đất nước là thuộc địa, mất độc lập thì nhân dân mất quyền dân chủ, mỗi người dân đều mất nhân quyền. Vì vậy, giành độc lập dân tộc trở thành điều kiện tiên quyết để thực hiện dân chủ, nhân quyền.

 Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2013) và các văn bản pháp luật của Việt Nam, quyền làm chủ, quyền con người được thể hiện trên các lĩnh vực: các quyền về dân sự, chính trị; các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa; các quyền của nhóm dề bị tổn thương.

* Các quyền về dân sự, chính trị, được thể hiện ở các quyền cơ bản sau:

+ Quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm

+ Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện

+ Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị bắt, giam, giữ

+ Quyền được xét xử công bằng

+ Quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử

+ Quyền được bảo vệ bí mật đời tư

+ Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở

+ Quyền tự do đi lại và cư trú

+ Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo

+ Quyền tham gia quản lý nhà nước (quyền bầu cử, ứng cử; tham gia thảo luận, kiến nghị với các cơ quan nhà nước; tham gia trưng cầu dân ý; khiếu nại, tố cáo và trách nhiệm tiếp công dân của nhà nước)

* Các quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa

+ Quyền về việc làm

+ Quyền tự do kinh doanh

+ Quyền sở hữu

+ Quyền có mức sống thích đáng

+ Quyền thành lập và gia nhập công đoàn

+ Quyền được hưởng an sinh xã hội

+ Quyền được chăm sóc sức khỏe

+ Quyền về giáo dục; quyền về văn hóa

*  Các quyền của nhóm dễ bị tổn thương

+ Quyền của phụ nữ; quyền của trẻ em: quyền của người khuyết tật; quyền của người cao tuổi

+ Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương khác: Người nghèo; người dân tộc thiểu số; người có công; người bị nhiễm chất độc; người nhiễm HIV/AIDS



[1] Viện Nghiên cứu quyền con người: Tài liệu tham khảo luật quốc tế về quyền con người, Nxb Lý luận chính trị, H. 2005, tr298

[2] Tài liệu tổng kết Chỉ thị 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”, Nxb CTHC, H.2012, tr13

 

Nội dung cốt lõi của công tác dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam là công tác vận động quần chúng

 


Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định nội dung cốt lõi của công tác dân tộc, tôn giáo là công tác vận động quần chúng là bởi: Việt Nam có 54 dân tộc, với khoảng 24 triệu tín đồ các tôn giáo. Đây là lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam và là quần chúng của Đảng, vì vậy nếu làm tốt công tác vận động quần chúng trong đồng các dân tộc và trong các tín đồ tôn giáo sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Cốt lõi của công tác dân tộc, tôn giáo là tuyên truyền, giáo dục để đồng bào nhận thức đúng quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước và mục tiêu của cách mạng Việt Nam; tin tưởng và thực hiện theo đúng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

 Công tác dân tộc, tôn giáo là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân Việt Nam

 Về trách nhiệm của Đảng và Nhà nước:

 Đảng luôn có chủ trương, chính sách đúng đắn về dân tộc, tôn giáo; Nhà nước trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng ban hành pháp luật, chính sách cụ thể và tổ chức thực hiện. Trong đó chú trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội đối với đồng bào các dân tộc, tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, các vùng đặc biệt khó khăn.

 Nhà nước luôn có những giải pháp thích hợp đáp ứng nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các dân tộc. Đồng thời việc giải quyết các vấn đề về hoạt động hợp pháp của các tổ chức tôn giáo, Nhà nước kiên quyết xử lý đối với mọi hành vi truyền đạo trái phép, lợi dụng tôn giáo làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, làm mất trật tự, an toàn xã hội, gây tổn hại đến đạo đức, lối sống, văn hoá, thuần phong mỹ tục của các dân tộc; xử lý nghiêm những hành vi ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo trong thực hiện nghĩa vụ công dân, những hành vi làm phương hại đến độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân, chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 Về trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội:

Các tổ chức chính trị - xã hội như: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn lao động Viêt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt nam, Hội Phụ nữ Việt Nam... là những tổ chức có vị trí, vai trò quan trọng, trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện  chính sách của Đảng và nhà nước về dân tộc và tôn giáo. Đó là lực lượng trực tiếp giáo dục đồng bào dân tộc, các tín đồ tôn giáo chấp hành tốt chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

 Về trách nhiệm của lực lượng vũ trang nhân dân:

Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong thực hiện Chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đây là lực lượng đi đầu và là lực lượng chủ yếu thực hiện tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân hiểu rõ và chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo; đồng thời là lực lượng chủ yếu nắm bắt tình hình dân tộc, tôn giáo để  tham mưu với Đảng và Nhà nước về Chính sách dân tộc, tôn giáo và trực tiếp chịu trách nhiệm xử lý các vấn đề phức tạp của dân tộc và tôn giáo, xử lý các hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù địch với Việt Nam.

 Vấn đề theo đạo và truyền đạo trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam  phải tuân thủ pháp luật của Nhà nước Việt Nam

Đây là vấn đề vừa bảo đảm bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, vừa đảm bảo quyền con người dưới ché độ XHCN ở Việt Nam, đó là:

 Đối với tín đồ các tôn giáo: Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo. Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

+ Đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành: có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác. Việc thành lập, hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo; phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc tuân theo luật pháp Việt Nam.

+ Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc mở lớp bồi dưỡng người chuyên hoạt động tôn giáo có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi mở lớp.

Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đoàn kết các dân tộc và các tôn giáo

 


Đây là quan điểm thể hiện tính nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam veè vấn đề dân tộc, tôn giáo

Vì sao? “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc’[1].

Đảng và nhà nước Việt Nam cho rằng:

Một là, đồng bào dân tộc theo tôn giáo trước hết là người Việt nam, sau đó mới là tín đồ tôn giáo, là người Việt Nam theo tôn giáo chứ không phải là người theo tôn giáo nhập quốc tịch Việt Nam. Vì vậy, ở đồng bào dân tộc theo tôn giáo có tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào và ý thức dân tộc sâu sắc. Họ đều mong muốn xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công xã hội, khao khát có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Điều đó phù hợp với mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự nghiệp do nhân dân và vì nhân dân. Đây chính là cơ sở để tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp cách mạng.

Hai là, trong quá trình cách mạng, đồng bào các tôn giáo ngày càng nhận thức sâu sắc lợi ích của bản thân và của dân tộc mình, tôn giáo mình gắn bó với lợi ích của toàn dân tộc và của cách mạng; tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải gắn liền và phụ thuộc vào độc lập, tự do của Tổ quốc; Tổ quốc có độc lập, thống nhất thì tôn giáo mới có tự do. Sự thống nhất lợi ích đó là “điểm tương đồng” căn bản, tạo động lực để đồng bào các dân tộc, các tôn giáo một lòng, một dạ theo Đảng làm cách mạng trong đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Để thực hiện tốt quan điểm này, cần thực hiện tốt các vấn đề sau:

 + Đoàn kết đồng bào dân tộc theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào dân tộc  theo tôn giáo và đồng bào dân tộc không theo tôn giáo.

Cơ sở của đoàn kết là: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”[2].

+ Kiên quyết đấu tranh chống những hành động gây chia rẽ, làm suy yếu khối đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.

-> Đây là lập trường có tính nguyên tắc trong chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

-> Chính sách còn chỉ rõ trong mọi trường hợp, cần phân biệt rõ đâu là vấn đề dân tộc, tôn giáo, đâu là vấn đề các thế lực thù địch lợi dụng chống phá để có biện pháp xử lý đúng đắn.



[1] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ Bẩy BCHTUW khoá IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr.48.

[2]  Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 239- 240.

Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân các dân tộc, còn tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.

 


Từ khi thành lập đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện rất tốt vấn đề tôn giáo, coi vấn đề tôn giáo là nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu dài của cách mạng Việt Nam. Đảng ta đề ra nhiều quan điểm về tôn giáo, trong đó quan điểm quan trọng, xuyên suốt, quan trọng hàng đầu, đó là

 + Tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân các dân tộc, còn tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng CNXH.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”[1]. Vì vậy, những giá trị của tín ngưỡng, tôn giáo, nổi lên là giá trị đạo đức chính là di sản mà chúng tôi coi trọng kế thừa, phát huy để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

+ Phải tôn trọng nhu cầu tinh thần, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân các dân tộc nhằm phát huy nhân tố tinh thần trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc.

Điều 24 Hiến pháp (2013) Việt Nam quy định:

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

-> Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng phải tuân thủ pháp luật, không đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc. Mọi người được quyền thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng không cản trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân với Tổ quốc.

-> Nhà nước bằng pháp luật bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các tôn giáo về quyền và nghĩa vụ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

-> Các hành vi bị nghiêm cấm[2]:

 Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo nhằm (Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau); Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.

Như vậy, vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là vi phạm pháp luật, phải bị xử lý bằng pháp luật. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối, làm mất an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, chống đối Đảng, Nhà nước cũng là vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, phải bị pháp luật xử lý.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tập 3, tr. 431.

[2] Điều 5 Luật tín ngưỡng, tôn giáo

Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo

 


Từ khi thành lập đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã thực hiện rất tốt vấn đề dân tộc, tôn giáo đã đạt được những thành tựu rất quan trong, được thể hiện trên các nội dung sau:

 Quyền dân tộc tự quyết, quyền tự do tôn giáo, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, các tôn giáo được bảo đảm

Mọi người dân Việt Nam được pháp luật bảo đảm để tự do theo hoặc không theo tôn giáo; mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền tự do tôn giáo của người dân đều bị trừng trị.

Phật giáo: Số lượng tín đồ Phật giáo được thống kê vào năm 1999 là 7,1 triệu người, hiện nay là 10 triệu người;

Các dân tộc có quyền lựa chọn con đường phát triển; ngày nay đó chính là việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo là nguyên tắc cơ bản trong quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo.

- Hệ thống chính trị vùng đồng bào dân tộc và miền núi, đồng bào tôn giáo được tăng cường và củng cố, nhất là ở cấp cơ sở. Tình hình chính trị, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi, vùng tôn giáo cơ bản ổn định. Quốc phòng, an ninh được giữ vững.

- Đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, miền núi và đồng bào tôn giáo được cải thiện[1]. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được hình thành, phát triển. Đã hình thành nhiều vùng chuyên canh các loại cây công nghiệp như: cà phê, chè, hồ tiêu, điều với số lượng lớn. Công tác xoá đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn, hàng năm tỷ lệ đói nghèo ở vùng dân tộc thiểu và miền núi giảm đáng kể. 

- Về văn hóa - xã hội:

+ Trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo từng bước được nâng lên, đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ

+ Văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số, các tôn giáo được tôn trọng, bảo tồn và phát huy.

+ Việc khám chữa bệnh cho người nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngày càng được quan tâm



[1] Tổng cục Thống Kê: Tổng điều tra dân số 1.4.2019. Tình trạng hộ không có nhà ở đang dần được cải thiện trong hai thập kỷ qua, từ mức 6,7 hộ/10.000 hộ vào năm 1999 xuống còn 4,7 hộ/10.000 hộ năm 2009 và đến nay là 1,8 hộ/10.000 hộ.

Đồng bào dân tộc ít người ở Việt Nam phần lớn đều có đạo, luôn bị các thé lực thù địch chống phá

 


Cộng đồng người Khơme Nam Bộ, sinh sống chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ theo Phật giáo Nam tông. Đó là trường phái chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Ấn Độ. Khối người Chăm, sinh sống chủ yếu ở các tỉnh Nam Trung bộ theo đạo Hồi. Người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, chủ yếu theo đạo Tin lành. Cộng đồng dân tộc thiểu số ở phía Bắc (chủ yếu là người Mông, Dao) theo đạo Tin lành. Thực tế này cho đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ trong việc giải quyết vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo ở Việt Nam.

Trong lịch sử các thế lực thù địch đã luôn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo như là một công cụ để xâm lược, thống trị Việt Nam (như đã đề cập về sự du nhập tôn giáo và thủ đoạn chia rẽ các dân tộc và tôn giáo ở phần trên).

Hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam bằng nhiều thủ đoạn sau:

- Lợi dụng những khó khăn về kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc, tôn giáo và những hạn chế, yếu kém trong giải quyết vấn dân tộc, tôn giáo của chính quyền để  chống phá Việt Nam

Mặc dù Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, xã hội ở các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo sinh sống, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, đời sống đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo vẫn còn nhiều khó khăn. Các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng thực tế đó để chống phá cách mạng Việt Nam:

+ Tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, vu khống chính quyền phân biệt đối xử, “đàn áp dân tộc thiểu số”, “đàn áp tín đồ tôn giáo”, nhằm chia rẽ, tạo sự đối lập giữa đồng bào dân tộc, tôn giáo với Đảng và chính quyền.

+ Kích động các phần tử chống đối, lừa gạt quần chúng tụ tập đông người tiến hành biểu tình, gây bạo loạn chống đối chính quyền...

+ Lợi dụng sinh hoạt tôn giáo để biểu dương lực lượng, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân; đòi “tự do hoạt động tôn giáo” ngoài vòng pháp luật

- Xuyên tạc các vấn đề về lịch sử dân tộc, vấn đề tôn giáo gây ra nhiều “điểm nóng” về chính trị - xã hội

Sự xuyên tạc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, tập trung ở một số vấn đề như:

Xuyên tạc lịch sử, đòi Việt Nam phải công nhận một số dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Nam bộ là dân tộc bản địa và thực hiện những yêu sách theo công ước quốc tế về người bản địa.

Tôn giáo hoá các dân tộc thiểu số để chống phá cách mạng Việt Nam, là thủ đoạn rất nguy hiểm và thâm độc. Tr­ước mắt, chúng đang tiến hành trên 3 vùng , đó là:

Đối với vùng Tây Nguyên: Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc thiểu số kết hợp với tổ chức phản động Tin lành Đề Ga để  nhằm thực hiện chủ trương “Tin lành hoá các dân tộc Tây Nguyên”;

Đối với vùng Tây Nam Bộ: Các thế lực thù địch tiếp tục kích động, gây hằn thù chia rẽ ng­ười Khơme với ng­ười Kinh. Chúng chỉ đạo bọn phản động tiến hành kích động, lôi kéo quần chúng đấu tranh đòi ly khai, thành lập nhà nước Khơme Crôm.

Đối với vùng Tây Bắc: Các thế lực thù địch tăng cường đư­a ng­ười từ n­ước ngoài về, dùng tiền mua chuộc, dụ dỗ đồng bào ng­ười Mông di cư, phá rừng bất hợp pháp, truyền đạo Tin lành trái phép vào các tỉnh miền núi, lừa dối đồng bào là “Vua Mèo” đã về.

- Tìm cách quốc tế hoá vấn đề dân tộc, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam

Các thế lực thù địch luôn ra sức tuyên truyền cho cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, nhân danh các công ước quốc tế để quốc tế hóa vấn đề dân tộc, tôn giáo nhằm can thiệp vào nội bộ các dân tộc, các tôn giáo ở Việt Nam, như: “Quyền dân tộc tự quyết”, Dự luật “Quyền tự do tôn giáo không bị đàn áp”, “Luật tự do tôn giáo quốc tế”. Nhân danh “dân chủ”, “nhân quyền”, họ lớn tiếng đòi Đảng và Nhà nước Việt Nam phải cho các tổ chức tôn giáo hoạt động độc lập, tách khỏi sự quản lý của Nhà nước và tìm mọi cách để cho ra đời các tổ chức tôn giáo phản động ở nước ngoài và trong nước như: “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, “Tin lành Đề ga”... và tuyên truyền cho tính “hợp lý”, “đại diện” của các tổ chức đó đối với tôn giáo Việt nam.

- Sử dụng bọn phản động người Việt Nam ở nước ngoài móc nối với các phần tử cơ hội, chống đối  trong nước để chống phá Việt Nam

Đáng quan tâm hiện nay đối với Việt Nam là các phần tử phản động đội lốt các tôn giáo đang tăng cường tuyên truyền, dụ dỗ, mua chuộc quần chúng theo đạo, gây thanh thế, hoạt động ngoài vòng kiểm soát của Nhà nước; kích động tín đồ chống lại chính sách của Đảng, Nhà nước (không chấp hành nghĩa vụ quân sự, không nộp thuế kinh doanh...). Chúng còn tăng cường phát triển tà đạo, mua chuộc kích động người Khơme theo Phật giáo Nam tông đòi ly khai tách khỏi Giáo hội Phật giáo Việt Nam và mưu đồ đòi thành lập nhà nước Khơme Crôm ở Nam bộ; nhà nước Đề Ga ở Tây Nguyên.

 

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo nhưng đồng bào dân tộc, tôn giáo rất đoàn kết

Hiện nay Việt Nam có 54 dân tộc (tộc người)[1]. Theo kết quả Tổng điều tra dân số ngày 01/4/2019 là 96.208.984 người. Trong đó, người Kinh chiếm 85,3% dân số; 53 dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14,7% dân số. Các dân tộc ở Việt Nam c­ư trú xen kẽ với nhau, đây chính là yếu tố tạo nên tính cộng đồng của các dân tộc Việt Nam. Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Mỗi dân tộc ở Việt Nam vừa mang đặc điểm chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam vừa có bản sắc văn hóa riêng.

Đặc điểm nổi bật nhất của các dân tộc ở Việt Nam là truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. truyền thống đó hình thành, phát triển từ yêu cầu chinh phục thiên nhiên để lao động sản xuất và đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam càng được phát huy mạnh mẽ, trở thành một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Hiện nay, ở Việt Nam có 14 tôn giáo với 38 tổ chức và hệ phái tôn giáo khác nhau[2], trong đó có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Đạo Hồi, Đạo Tin lành, Đạo Cao đài, phật giáo Hoà hảo; các tôn giáo lớn chủ yếu du nhập từ nước ngoài như: Phật giáo, Công giáo, Đạo Hồi, Đạo Tin lành. Sở dĩ Việt Nam có nhiều tín ngưỡng, tôn giáo là do:

Một là, Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc, đó là yếu tố khách quan để hình thành nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

Hai là, do vị trí địa lý Việt Nam tiếp giáp với với nhiều địa tôn giáo, đó là điều kiện thuận lợi để các tôn giáo bên ngoài tiếp cận, xâm nhập vào Việt Nam.

Ba là, lịch sử Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, các thế lực ngoại xâm luôn sử dụng tôn giáo như là công cụ để thực hiện mục đích xâm lược, thống trị của chúng.

Một số đặc điểm nổi bật của tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam

Thứ nhất, có tính dung hợp, đan xen, hoà đồng, dễ chấp nhận sự hiện diện của các tôn giáo khác.  

Thứ hai, các tôn giáo chính có ảnh hưởng lớn trong xã hội đều du nhập từ bên ngoài vào và nhiều, ít được “Việt hóa”. Các tôn giáo du nhập vào Việt Nam, dù “tự nhiên” như Phật giáo hay “áp đặt” như Thiên Chúa giáo vẫn hoà quyện với văn hóa dân tộc, tạo nên một nền văn hóa thống nhất nhưng phong phú.

Thứ ba, nhìn chung tôn giáo ở Việt Nam có sự hoà hợp, chung sống hoà bình, các tôn giáo khác nhau nhưng đều có chung mục đích sống “tốt đời, đẹp đạo”, tích cực góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, ở một số thời điểm lịch sử nhất định, giữa các tôn giáo cũng có sự “bất hoà” do các thế lực thù địch âm mưu chia rẽ tôn giáo để thực hiện ý đồ chính trị.

Tuy Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo nhưng ở Việt nam không có xung đột dân tộc, sắc tộc, mâu thuẫn tôn giáo; các dân tộc luôn đoàn kết gắn bó; các tôn giáo hòa đồng, thực hiện cuộc sống “tốt đời đẹp đạo”. Các dân tộc, các tôn giáo ở Việt Nam luôn luôn coi mình là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, luôn phát huy tinh thần đoàn kết, chủ nghĩa yêu nước, khí phách anh hùng của một dân tộc anh hùng để cùng dựng xây tổ quốc.



[1] Phụ lục 1

[2] Phụ lục 2

DÂN CHỦ KIỂU MỸ

 


Bình luận về cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ hiện đang đến hồi gay cấn, chuyên gia Daria Kislitsyna, Giám đốc bộ phận chương trình khu vực của Viện nghiên cứu xã hội (EISS) lưu ý đến sự chia rẽ quy mô lớn trong xã hội Mỹ, mà theo bà, cả hai bên đều sử dụng các phương pháp kiểm phiếu gian lận và bẩn thỉu để đạt được chiến thắng.

Ở một số bang, chúng ta có thể quan sát thấy cái thường được gọi là 'bước nhảy vọt về dân chủ'. Khi đầu tiên có sự ủng hộ cho một ứng cử viên, và sau đó là sự gia tăng rất mạnh số phiếu bầu cho người kia. Tất cả điều này chỉ ra có rất nhiều câu hỏi đối với hệ thống.

Theo bà Daria Kislitsyna, bản thân hệ thống này có thể đã lỗi thời, mặc dù đã có lúc nó được coi là một trong những nền chính trị dân chủ và tiên tiến nhất. Đó là chưa nói đến những nỗ lực có chủ đích của con người.

Thứ Tư, 11 tháng 11, 2020

TRƠ TRẼN THÌ KHÔNG AI QUA ĐƯỢC CHÚNG ,VỚI THỦ ĐOẠN NHÉT CHỮ VÀO MỒM NGƯỜI KHÁC.

 

Hết xuyên tạc bán biển đảo rồi hội nghị Thành Đô năm 2020 VN sẽ sáp nhập vào TQ mà lũ Ma Giáo này xuyên tạc. 

 Bao năm nay chúng vẫn luôn cố gắn cắn phá cho bằng được. Lôi kéo con chiên tham gia công cuộc phục quốc của lũ Ngụy. 

Gần đây, trang facebook  của bọn phản động  "Thanh niên công giáo " cố tình  bịa đặt lời nói  của  cố TBT NVL. Đúng là ma giáo

Nếu không có việc, có lẽ ma giáo nên kéo chiên qua Mỹ đòi lại công bằng cho ông Trump thì tốt hơn.

Thanh niên công giáo chính nghĩa  không ai làm  điều này.

Bá Duy 

Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thâm độc lợi dụng vấn đề tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

 Việt Nam có chính sách nhất quán là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.

Giải pháp góp phần ngăn chặn tin giả trên mạng xã hội

 Nạn tin giả không phải là mới, song những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông, nhất là internet và mạng xã hội thì tin giả xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành vấn nạn với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Xử lý nghiêm việc đưa tin bão lụt sai sự thật trên mạng xã hội

 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc giao các Bộ: Công an, Thông tin và Truyền thông phối hợp với các cơ quan liên quan tăng cường quản lý, phát hiện, xử lý nghiêm hành vi thông tin bão lụt sai sự thật trên mạng xã hội.

Đấu tranh với các hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc

Tôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm, thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Đây cũng là lĩnh vực dễ bị lợi dụng vào các hoạt động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thâm độc này là vấn đề cấp thiết. Bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo. Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo, Việt Nam được ví như “bảo tàng tôn giáo” của thế giới. Điều đó đã góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam thêm phong phú và đặc sắc. Hiện nay, ở Việt Nam có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận tư cách pháp nhân; 60 cơ sở đào tạo tôn giáo thuộc Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Phật giáo Hòa Hảo. Việt Nam có chính sách nhất quán là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo hay vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Điều đó đã quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật của nước ta. Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đến thăm và chúc mừng chức sắc Công giáo nhân dịp Lễ Giáng sinh năm 2019 tại Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam. (Ảnh: Quochoi.vn). Ngay sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL khẳng định: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện, chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo”. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) khẳng định “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng đã chỉ rõ: “Quan tâm và tạo điều kiện cho các tôn giáo sinh hoạt theo Hiến chương, Điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Các Hiến pháp của nước ta năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều thể hiện rõ quan điểm nhất quán và xuyên suốt là tôn trọng quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Năm 2016, Quốc hội ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Chính phủ có Nghị định hướng dẫn tổ chức thực hiện. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng phù hợp với yêu cầu của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ mới của đất nước, đồng thời thể hiện sự tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm hơn nữa quyền tự do tôn giáo của nhân dân. Hiện 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có 26 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số; có hơn 8 ngàn lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo hàng năm, thu hút sự tham gia đông đảo của các tín đồ và quần chúng nhân dân. Đặc biệt, nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam, trong đó có các sự kiện kỷ niệm 500 năm Cải chánh đạo Tin lành (năm 2017), Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak (năm 2019), Tổng hội dòng Đa Minh thế giới (năm 2019)… Những nỗ lực này của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Chống lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ chức sắc và tín đồ một số tôn giáo không nhận ra thực tế này. Họ có nhiều tham vọng chính trị và bị tác động, ảnh hưởng bởi luận điệu tuyên truyền, lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, nên đã có những hành động cực đoan, quá khích chống lại chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo nói riêng và trên các lĩnh vực nói chung. Họ đã lợi dụng tôn giáo, lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ xã hội chủ nghĩa dưới chiêu bài “đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”. Họ đã liên kết và phụ họa với các thế lực thù địch, các phần tử phản động, chống đối ở cả trong và ngoài nước trong hoạt động chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chiêu bài của họ là đối lập tôn giáo với chế độ xã hội chủ nghĩa, tách các tôn giáo khỏi khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Để thực hiện điều đó, họ sử dụng các thủ đoạn xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo, bịa đặt, vu cáo cấp chính quyền phân biệt đối xử, đàn áp tôn giáo để kích động, chia rẽ trong nước và hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế… Họ coi các đối tượng cực đoan chống đối trong các tôn giáo là lực lượng nòng cốt để lôi kéo tập hợp quần chúng làm đối trọng với Đảng, Nhà nước và thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Cùng với việc hậu thuẫn cho các lực lượng này hoạt động chống phá đất nước, họ còn phối hợp chặt chẽ với các cá nhân, tổ chức quốc tế thiếu thiện chí để bịa đặt, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Họ cho rằng Chính phủ Việt Nam đàn áp mọi tôn giáo, thường bắt giữ những người biểu tình ôn hòa đòi hỏi "tự do" tín ngưỡng và "tự do" thờ phụng. Nhiều tổ chức tôn giáo không được Chính phủ công nhận và không cấp giấy phép sinh hoạt… Đây là những luận điệu bịa đặt cũ rích được lặp đi, lặp lại với ý đồ chính trị xấu xa. Điều đó không chỉ gây khó khăn cho công tác tôn giáo mà còn là nguyên nhân và điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thành lập các hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ, gây mất đoàn kết dân tộc và đe dọa ổn định chính trị - xã hội; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội. Nhà nước ta bên cạnh việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng nghiêm cấm mọi hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân. Bất kỳ ai, nếu vi phạm pháp luật dù với bất cứ lý do gì đều sẽ bị xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật. Có thể khẳng định, những luận điệu cho rằng Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo chỉ là những đánh giá chủ quan, phiến diện của một số người thiếu thiện chí với Việt Nam. Những luận điệu sai trái này không thể làm khó Việt Nam trên con đường xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh, mở rộng hợp tác, giao lưu trên trường quốc tế. Nguồn: Báo điện tử ĐCSVN

Một số tổ chức phản động lợi dụng dịch bệnh để chống phá Việt Nam

Những hành vi lợi dụng dịch Covid-19 để tung thông tin xấu độc, chống phá Nhà nước, chính quyền trên mạng xã hội sẽ bị xử lý triệt để và nghiêm khắc. Đây là thông tin được Thượng tá Nguyễn Thành Lợi, Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, chia sẻ trong cuộc phỏng vấn với phóng viên VOV trong bối cảnh lợi dụng dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, trong thời gian qua, nhiều đối tượng đã liên tục phát tán những thông tin xấu độc với mục đích gây hoang mang dư luận, phá hoại nền sản xuất trong nước và nghiêm trọng hơn là chống phá Nhà nước, chính quyền. một số tổ chuc phan dong da xuyen tac ve dich benh covid-19 tai Việt Nam Thượng tá Nguyễn Thành Lợi, Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao. Phóng viên: Lợi dụng tình hình dịch Covid-19 có những diễn biến phức tạp, nhiều đối tượng đã phát tán những thông tin trái chiều trên mạng xã hội. Ông đánh giá như thế nào về tác động của những thông tin này tới cuộc sống của nhân dân? Thượng tá Nguyễn Thành Lợi: Trong thời gian qua, lợi dụng tình hình dịch Covid-19 có nhiều diễn biến phức tạp, trên không gian mạng đã xuất hiện rất nhiều thông tin liên quan đến dịch bệnh. Trong đó bên cạnh những thông tin tích cực còn có cả những thông tin xuyên tạc sai sự thật về tình hình dịch bệnh, công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Bộ Y tế, cũng như các bộ ngành gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Một thủ đoạn khác cũng rất đáng chú ý là các đối tượng lợi dụng khoảng trống thông tin khi các báo đài chính thống chưa kịp đăng tải những thông tin mang tính chất công bố chính thức thì chúng đã lồng ghép những thông tin sai sự thật để đăng tải trước gây hoang mang trong dư luận. Nghiêm trọng hơn, một số tổ chức phản động lưu vong như Việt Tân, Chính phủ Quốc gia Việt Nam Lâm thời, VOICE… và một số đối tượng chống đối trong và ngoài nước cũng rất tích cực phát tán những thông tin mang nội dung chống phá. Chúng còn chi hàng nghìn USD để thực hiện các quảng cáo chính trị trên Facebook nhằm tuyên truyền, xuyên tạc về tình hình dịch bệnh tại Việt Nam, công kích “Chính phủ bưng bít thông tin, yếu kém trong xử lý dịch bệnh”. mot so to chuc phan dong da xuyen tac ve dich benh covid-19 tai viet nam hinh 3 Những tin đồn về Covid-19 như thế này được các đối tượng phát tán với mục đích gây hoang mang dư luận và làm rối loạn xã hội. Phóng viên: Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã triển khai những biện pháp gì để ngăn chặn những hành vi sai trái nói trên? Thượng tá Nguyễn Thành Lợi: Trước tình hình trên, lãnh đạo Bộ Công an, Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao đã chỉ đạo các phòng nghiệp vụ phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng của Bộ Thông tin Truyền thông và các ban ngành liên quan để điều tra, xác minh, làm rõ các trường hợp đăng tải những thông tin sai sự thật trên không gian mạng để đấu tranh xử lý theo đúng quy định của pháp luật đồng thời yêu cầu dỡ bỏ hoặc đính chính những thông tin nói trên. Phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ để gỡ bỏ những thông tin sai sự thật. Đến nay, Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao cũng đã phối hợp với công an các địa phương tổ chức xác minh và đấu tranh với hơn 600 trường hợp các thông tin sai sự thật trên không gian mạng và đã xử phạt hành chính trên 130 đối tượng, trong đó có một số nghệ sĩ và những người có ảnh hướng lớn đối với xã hội. Tuy nhiên, việc xử lý các đối tượng phát tán thông tin giả, thông tin sai sự thật gặp không ít khó khăn. Những thông tin này chủ yếu được đăng tải trên không gian mạng, mạng xã hội. Việc này được thực hiện rất dễ dàng bởi các đối tượng chỉ cần có thiết bị kết nối mạng và vài cú click chuột là đã có thể đăng tải bất kỳ thông tin gì mà không chịu sự kiểm duyệt. Ngoài ra, lợi dụng các tính năng của mạng xã hội, trong đó có tính năng chia sẻ, các đối tượng sẽ phát tán thông tin tức thời tới rất nhiều hội nhóm, trong đó có các hội nhóm có hàng chục nghìn thành viên. Điều này khiến các cơ quan quản lý và các nhà cung cấp dịch vụ gặp rất nhiều khó khăn trong việc kiểm soát và xác định những thông tin nào là thông tin chính xác và thông tin nào là thông tin giả để ngăn chặn. Hơn thế nữa, một số nhà cung cấp dịch vụ xuyên biên giới như Youtube, Google, Facebook trong thời gian qua vẫn chưa phối hợp và tuân thủ triệt để các quy định pháp luật của Việt Nam cũng như hợp tác với các cơ quan chức năng của Việt Nam trong việc ngăn chặn, xử lý những tin giả tán phán trên những nền tảng mà họ cung cấp. Nguồn: VOV