Thứ Ba, 2 tháng 8, 2022

Quan điểm "Dân là gốc" trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng


1. Quan điểm “dân là gốc” trong Văn kiện Đại hội XIII được đúc rút từ lịch sử và tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò to lớn, vị thế quan trọng của nhân dân. Thực tế lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam cho thấy, triều đại nào quan tâm đến lòng dân, ý dân và thực hiện tốt vấn đề dân sinh, tạo được lòng tin của nhân dân, cố kết được dân tâm, huy động được cả nước đồng lòng, góp sức thì cường thịnh và dựng nên nghiệp lớn. Trái lại, triều đại nào chỉ lo cuộc sống xa hoa, “mặc dân khốn khổ, chẳng hề đoái nghĩ”, “nhân dân oán hận mà không biết, lòng người oán trách mà chẳng kinh”, dân chúng chống lại, lòng người ly tán... thì cuối cùng đều phải bại vong. Từ thực tế đó và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa tư tưởng đương thời, nhiều bậc tiền nhân trong lịch sử nước ta đã khẳng định, muốn làm nên nghiệp lớn phải “lấy dân làm gốc”, phản ánh vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, như: “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân” (Lý Công Uẩn); “khoan thư sức dân”, “chúng chí thành thành” (Trần Quốc Tuấn); “lật thuyền mới rõ dân như nước”, do đó phải “yêu nuôi nhân dân, để khắp các nơi làng mạc không có tiếng oán giận, than sầu” (Nguyễn Trãi); “Xưa nay nước lấy dân làm gốc/ Được nước là bởi lẽ được dân”, nên “Thất thiên kim, chớ thất nhân tâm” (Nguyễn Bỉnh Khiêm)...

Mặc dù, về cơ bản vẫn chưa vượt ra ngoài khuôn khổ của hệ tư tưởng phong kiến với nòng cốt là Nho giáo, song yếu tố tiến bộ của những tư tưởng ấy trở thành giá trị văn hóa tinh thần vô giá của dân tộc, để lại bài học quý báu: “Coi trọng dân thì thành công, coi thường dân thì thất bại”.

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm khoa học: “nhân dân là chủ thể của lịch sử”, “quần chúng là động lực của cách mạng”, “cách mạng là ngày hội của đông đảo quần chúng nhân dân”... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện “cách mạng hóa” và bổ sung quan điểm “dân là gốc” bằng sức sống thời đại. Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(1). Thực tế chứng minh, tin dân, dựa vào dân, biết khơi dậy sự đồng lòng và phát huy ý chí, khát vọng toàn dân tộc mới bảo đảm được sự trường tồn của non sông đất nước. Từ đó, Người chỉ rõ: “Nước lấy dân làm gốc... Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(2).

Quan điểm “dân là gốc” của Đảng ta chính là sự tiếp nối bài học từ truyền thống dân tộc và kế thừa trực tiếp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân. Mặt khác, những nội dung của quan điểm đó không ngừng được hoàn thiện, ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam. Trong nhiều văn kiện của Đảng đều nhất quán khẳng định vai trò của nhân dân đối với sự thành bại của đổi mới, đồng thời xác định mục tiêu đổi mới là vì nhân dân, chỉ rõ bài học nổi bật: “dân là gốc”, tất cả “vì dân, do dân”, “đổi mới vì hạnh phúc của nhân dân và dựa vào nhân dân để đổi mới”(3).

Tiếp nối tinh thần đó, Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”; kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(4).

Điều đó khẳng định, “dân là gốc” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ cương lĩnh, chủ trương, đường lối, chính sách và phản ánh quan điểm của Đảng về mục tiêu, động lực của công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Mặc dù ở những giai đoạn cụ thể và trong những thời điểm nhất định, cách thức diễn đạt có thể khác nhau, song đều nhất quán khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân.

2. Quan điểm “dân là gốc” trong Văn kiện Đại hội XIII mang nội dung toàn diện và sâu sắc, không chỉ khẳng định “vị trí trung tâm”, mà còn nhấn mạnh và đề cao “vai trò chủ thể” của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong công cuộc đổi mới đất nước nói riêng.

Một là, khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực, sức mạnh của nhân dân để xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân

Xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, bảo đảm cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân là khát vọng ngàn đời của dân tộc ta. Chăm lo lợi ích và phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân là “mục đích thiêng liêng, lý tưởng cao cả” của Đảng và cũng là “động lực của công cuộc đổi mới đất nước”. “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” là một trong những đặc trưng bản chất của xã hội XHCN mà chúng ta hướng đến. Do đó, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta không lấy lợi nhuận của một thiếu số dựa trên sự chiếm đoạt lợi ích cộng đồng làm mục tiêu tối thượng, không vì tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà “hy sinh” tiến bộ, công bằng xã hội. Trái lại, phải gắn kết hài hòa kinh tế với văn hóa, xã hội và môi trường; bảo đảm “mỗi chính sách kinh tế phải đi liền với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”, đồng thời “mỗi chính sách xã hội phải tạo động lực để kinh tế phát triển bền vững”.

Trên tinh thần ấy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm”(5). Thời gian qua, đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến nền kinh tế đất nước, song Đảng, Nhà nước ta vẫn nhất quán khẳng định “bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người dân là trên hết, trước hết” và dành nhiều nguồn lực để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn của đại dịch. Điều đó thể hiện rõ tính nhân văn, tất cả vì con người, vì nhân dân của chế độ ta, không ai có thể phủ nhận.

Để thực hiện mục tiêu và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, phải dựa vào chính sức mạnh, phát huy các nguồn lực to lớn của nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “đem tài dân, sức dân mà làm lợi cho dân”, vì “không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong, có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy, làm cũng được”(6). Thực tiễn cũng đã chứng minh, nhờ phát huy được nguồn lực và sức mạnh to lớn của nhân dân mà công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu, lập nên những kỳ tích, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc. Qua 35 năm đổi mới, đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên mọi lĩnh vực; quy mô, chất lượng nền kinh tế không ngừng nâng cao; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đều được cải thiện rõ rệt; nước ta trở thành điểm sáng trong hoàn thành các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, được bạn bè quốc tế ca ngợi.

Nhìn lại thực trạng nền kinh tế - xã hội của đất nước những năm trước đổi mới, với nền kinh tế lạc hậu, thấp kém, đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn, thách thức, “nhiều nhu cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hóa chưa được bảo đảm”, “công bằng xã hội bị vi phạm”... chúng ta càng tự hào và thấy rõ ý nghĩa lớn lao của những thành quả mà đất nước ta, nhân dân ta bằng ý chí, nỗ lực, quyết tâm để đạt được. Vì thế, “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(7).

Thực tế đó góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, tạo động lực, khí thế mới, cổ vũ tinh thần lao động sáng tạo, khơi dậy “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” và cống hiến vì sự cường thịnh, trường tồn của dân tộc. Tuy nhiên, các nguồn lực và tiềm năng sáng tạo của nhân dân chưa thực sự được khai thác và phát huy hiệu quả, đời sống của một bộ phận nhân dân chưa hết khó khăn. Vì vậy, một trong những đòi hỏi bức thiết là phải “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam”(8).

Hai là, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; thực hành dân chủ, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Sinh thời, V.I.Lênin từng cảnh báo: “Đối với đảng cộng sản..., thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là tự cắt đứt liên hệ với quần chúng”(9). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng căn dặn, Đảng Cộng sản Việt Nam “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phấn đấu”, và “ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”. Do đó, “phải dựa vào nhân dân mà xây dựng Đảng. Tức là: hết lòng ra sức phụng sự nhân dân, tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, học hỏi nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân và không một phút nào xa rời nhân dân, cùng nhân dân kết thành một khối”(10).

Tiếp nối tinh thần ấy, đồng thời trên cơ sở tổng kết các bài học thành công và chưa thành công từ thực tiễn, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”(11). Vì thế, phải “Thường xuyên tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân và thật sự dựa vào dân để xây dựng Đảng”(12), đồng thời “Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”(13).

Thực tiễn đã chứng minh, mối liên hệ gắn bó máu thịt với nhân dân là truyền thống của Đảng ta. Chính nhân dân tạo nên sức mạnh của Đảng, cùng Đảng làm nên những kỳ tích lịch sử. Trong những năm đổi mới, việc đối thoại, lắng nghe tâm nguyện của nhân dân được coi trọng; những nguyện vọng, kiến nghị, lợi ích hợp pháp, chính đáng và nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân được giải quyết kịp thời đã góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng không ngừng được phát huy.

Quan điểm “dân là gốc” cũng được quán triệt trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ hoạch định chính sách đến tổ chức thực hiện. Bằng chứng thực tế là, Quốc hội “thực sự là cơ quan quyền lực, đại biểu cao nhất của nhân dân”; nền hành chính nhà nước ngày càng “chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch, dân chủ, vì dân”; nền tư pháp không ngừng hướng đến “công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từng bước được hiện thực hóa, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đi vào thực chất và vận hành hiệu quả hơn.

Trong bối cảnh mới hiện nay, một trong những nhiệm vụ và yêu cầu bức thiết đặt ra là phải tiếp tục thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, không ngừng củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ, tăng cường đồng thuận xã hội. Do đó, phải “có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới” và không ngừng “thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”.

Ba là, dựa vào nhân dân để bảo vệ thành quả của công cuộc đổi mới, vì cuộc sống yên bình, hạnh phúc của nhân dân

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật của sự hình thành, phát triển dân tộc Việt Nam. Xây dựng CNXH gắn liền với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài của cách mạng nước ta hiện nay. Tạo lập căn cứ vững chắc trong lòng dân, xây dựng lực lượng quân sự hùng hậu bằng sức mạnh của nhân dân; lấy làng xã làm pháo đài, dựa vào dân để chiến đấu là một trong những nghệ thuật quân sự đặc sắc, là cách thức xây dựng quân đội để bảo vệ Tổ quốc rất hiệu quả của người Việt từ xưa đến nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, sự đồng lòng của nhân dân sẽ “đúc thành một bức tường đồng” vững chắc, mà bất cứ kẻ địch nào đụng phải đều cam chịu thất bại. Từ truyền thống lịch sử và thực tiễn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta khẳng định, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Do đó, phải chú trọng củng cố “thế trận lòng dân” một cách vững chắc trên nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự đồng thuận xã hội. Văn kiện Đại hội XIII xác định: Xây dựng “thế trận lòng dân”, kết hợp với xây dựng “thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân” vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”(14).

Thực tiễn những năm qua đã chứng minh một cách hùng hồn, “lòng dân” là cội nguồn sức mạnh, quyết định sự thành bại của công cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả xây dựng đất nước, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Tin vào dân, quy tụ được lòng dân, khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nhân tố quan trọng đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”.

Trước bối cảnh trong nước và quốc tế nhiều biến động rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo hiện nay, để xử lý tốt các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, giữ vững “chủ quyền số quốc gia trên không gian mạng”, tạo “vành đai an ninh”, ngăn ngừa từ sớm, từ xa các nguy cơ gây bất ổn xã hội, “lo giữ nước từ lúc nước chưa nguy” để không bị động, bất ngờ trước mọi tình huống, bảo vệ vững chắc Tổ quốc cùng những thành quả của công cuộc đổi mới, thì còn phải dựa vào nhân dân, khai thác mọi nguồn lực trong dân, phát huy tiềm năng, sức mạnh toàn dân tộc. Đó là “nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị. Mặt khác, phải dựa vào dân để “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại” với ba trụ cột là “đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân”, tạo nên thế trận liên hoàn, sức mạnh tổng hợp để bảo vệ cuộc sống yên bình, hạnh phúc của nhân dân.

3. Quan điểm “dân là gốc” sẽ tiếp tục định hướng công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam

Quán triệt quan điểm “Dân là gốc” trước yêu cầu của đất nước trong bối cảnh mới, Văn kiện Đại hội XIII đã chỉ rõ, phải thực hiện nghiêm túc và hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”:

Để thực hiện phương châm “dân biết”, cần công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạch định và thực thi chủ trương, đường lối, chính sách, trước hết là sự công khai, minh bạch về thông tin, bảo đảm “quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân”; đáp ứng “quyền được biết” của người dân về những chính sách liên quan trực tiếp đến đời sống, sinh kế của họ. Đồng thời, phải không ngừng nâng cao dân trí kết hợp với đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền để mọi người dân nắm bắt kịp thời, hiểu biết đúng đắn các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như quyền lợi và trách nhiệm công dân.

Trong nhân dân cũng có nhiều bộ phận, với trình độ, hiểu biết không đồng đều, năng lực không giống nhau. Do đó, chủ trương, chính sách đúng nhưng dân chưa hiểu, chưa đồng tình thì cần phải kiên trì tuyên truyền, giải thích cho dân để dân biết, dân hiểu, tạo sự đồng thuận, nhất trí từ nhận thức đến hành động. Thực hiện tốt phương châm “dân biết” sẽ là tiền đề cần thiết để thực hiện phương châm “dân bàn”, bởi biết mới có thể bàn, và bàn trên cơ sở của sự hiểu biết mới mang lại hiệu quả thực sự.

Để thực hiện phương châm “dân bàn”, cần tạo lập môi trường dân chủ, khơi dậy tính tích cực của mỗi công dân, bảo đảm điều kiện để nhân dân được tham gia vào các công việc của Đảng, Nhà nước và xã hội; tham gia đóng góp ý kiến trong mọi khâu của quá trình, từ hoạch định đến tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở, không được coi thường dân, cho dân là dốt nên không thèm bàn bạc, mà trái lại, “việc gì cũng phải bàn với dân”, “coi trọng ý kiến của nhân dân”, bởi “dân chúng có nhiều sáng kiến mà những người tài giỏi nghĩ mãi không ra”. Do đó, phải “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước”(15). Khi dân đã được biết, được bàn và hiểu rõ, họ sẽ chủ động, tích cực, tự giác, ra sức thực hiện trên tinh thần vui vẻ, đồng thuận và “nhất định việc gì cũng thành công”.

Để thực hiện phương châm “dân làm”, mọi đường lối, chính sách đều phải hợp lòng dân, bởi “Được lòng dân, thì việc gì cũng làm được/ Trái ý dân, thì chạy ngược chạy xuôi”(16). Khi nhân dân nhận thấy chủ trương, đường lối phản ánh đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình, họ sẽ tiếp nhận, ủng hộ và tích cực tham gia thực hiện. Muốn vậy, mọi công việc đều phải vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, lấy lợi ích và sự hài lòng, tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chuẩn đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc của các cơ quan, tổ chức cũng như của mỗi cán bộ, đảng viên.

Mặt khác, trong mọi công việc, cán bộ phải đi đầu, nêu gương làm trước theo đúng tinh thần “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đồng thời, cần tạo điều kiện công bằng, bình đẳng để mọi người dân được tiếp cận với các cơ hội phát triển, được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, được cống hiến tài năng và công sức cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để thực hiện phương châm “dân kiểm tra, dân giám sát”, cần hoàn thiện thể chế; xây dựng hệ thống pháp luật chặt chẽ và thi hành pháp luật một cách nghiêm minh, công bằng, chính trực; thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức và của từng cá nhân cán bộ lãnh đạo quản lý trước nhân dân. Mặt khác, mọi phát hiện đúng đắn của nhân dân về các sai phạm, quan liêu, tham ô, tham nhũng, tiêu cực... phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” để củng cố niềm tin của nhân dân về quyền được kiểm tra, giám sát đối với mọi công việc của các cơ quan, tổ chức; thường xuyên đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân trên tinh thần cầu thị, tập trung giải quyết các khó khăn, bức xúc của nhân dân về đời sống, việc làm, đất đai, môi trường... nghiêm cấm sự trù dập dân dưới mọi hình thức. Do đó, phải “Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở; xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, cầu thị, học hỏi, nói đi đôi với làm”(17).

Để thực hiện phương châm “dân thụ hưởng”, cần bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội bền vững, hài hòa; hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền vững; bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, quan tâm đến mọi người dân, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm, nâng cao thu nhập, đồng thời thực hiện tốt và chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương. Phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển, giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng” và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, “không để ai bị bỏ lại phía sau” trên con đường phát triển chung của đất nước.

“Dân là gốc” là một trong những nội dung cốt lõi, xuyên suốt trong Cương lĩnh, đường lối của Đảng ta. Đó không phải sự sao chép từ bất cứ học thuyết có sẵn nào mà thể hiện sự kế thừa, tiếp nối bài học từ chiều sâu lịch sử dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong Văn kiện Đại hội XIII, quan điểm “dân là gốc” được bổ sung toàn diện, phong phú và sâu sắc hơn, phản ánh tính khoa học và cách mạng, tính nhân văn và sáng tạo trong nhận thức lý luận của Đảng. Quan điểm đó tiếp tục định hướng công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ta trong bối cảnh hiện nay.

__________________

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.453.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.501-502.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.50, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2007, tr.550.

(4), (7), (8), (13), (14), (15), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.96-97, 25, 47, 191-192, 9, 71, 198-199.

(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.21.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.176.

(9) V.I.Lênin: Toàn tập, t.41, Nxb Chính trị quốc gia  Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.426.

(10), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.281, 163.

(11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.65.

(12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.226.

TS Phan Mạnh Toàn - lyluanchinhtri.vn - 11.06.2022

Quyết tâm chính trị của Đại hội XIII trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng

 

 

1. Quan điểm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí

Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng do Đảng lãnh đạo đang diễn ra rất quyết liệt, nhiều vụ án tham nhũng lớn liên quan đến cán bộ, đảng viên được phát hiện và đưa ra xét xử, thể hiện rõ quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”(1) trong xử lý tham nhũng. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được thực hiện quyết liệt với quyết tâm chính trị rất cao và đạt được nhiều kết quả quan trọng, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình ủng hộ. Chính vì vậy, Đại hội XIII tiếp tục thể hiện quyết tâm chính trị trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng.

Nhận định về kết quả công tác phòng chống tham nhũng, Văn kiện Đại hội XIII đã viết: “Chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng dần được hoàn thiện, trong đó lần đầu tiên đã mở rộng việc phòng, chống tham nhũng sang cả khu vực tư nhân. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí có bước tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả tích cực, rõ rệt, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được nhân dân đồng tình, đánh giá cao, các tổ chức quốc tế ghi nhận”(2).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta thời gian qua vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định khi “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội”(3). Từ đó, Đại hội XIII tiếp tục nhận định: “Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”(4).

Chính vì vậy, trong các văn kiện của Đại hội XIII, Đảng tiếp tục xác định “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí”(5), coi đây là một nhiệm vụ chính trị quan trọng trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo.

Trong Văn kiện Đại hội XIII, những vấn đề liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được đề cập nhiều lần với nhiều nội dung và ở nhiều phần khác nhau. Trong đó, tập trung nhất ở mục 9. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí của phần XIV - Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng với nhiều điểm mới so với Đại hội XII và các Đại hội trước, thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cụ thể:

Về vị trí, vai trò của nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng: Đại hội XIII đã xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ then chốt, với quan điểm: “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(6). Như vậy, ở các nhiệm kỳ trước, Đảng đã xác định công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt thì tại Đại hội XIII, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí được xác định là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ then chốt hay đặc biệt của then chốt (tác giả nhấn mạnh), công tác này không chỉ trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn đặc biệt cả trong xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay. Điều đó cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới.

Về quyết tâm chính trị trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí: Để khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Đại hội XIII nhấn mạnh: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn”(7). Quan điểm trên thể hiện rất rõ tư duy biện chứng của Đảng trong cuộc đấu tranh được đánh giá là rất gian nan và phức tạp này, nên dù đặt quyết tâm chính trị rất cao khi kiên quyết hành động mạnh mẽ, triệt để hơn và hiệu quả hơn, song Đảng cũng xác định phải kiên trì, bền bỉ.

Về giải pháp chung: Trên cơ sở xác định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong công tác xây dựng Đảng và quyết tâm chính trị của Đảng đối với cuộc đấu tranh này, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các giải pháp chung, xuyên suốt trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian tới là phải: “Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự”(8).

Như vậy, giải pháp chung xuyên suốt được xác định là thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính và kinh tế để tích cực phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi tham nhũng; đồng thời kết hợp với biện pháp hình sự để xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, kể cả những hành động bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc phòng, chống tham nhũng trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, toàn xã hội.

Từ các giải pháp chung xuyên suốt đó, Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra các giải pháp cụ thể để không muốn, không thể, không dám, không cần tham nhũng, cụ thể:

Một là, giải pháp để không muốn tham nhũng

Đây là điểm mới trong công tác xây dựng Đảng và là giải pháp mới trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng lần đầu tiên được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Để cán bộ, đảng viên không muốn tham nhũng, Đại hội XIII đã đưa ra giải pháp: “Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương; kiên trì giáo dục, rèn luyện đức tính liêm khiết, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí, trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức”(9).

Như vậy, để tiến tới làm cho cán bộ đảng viên không muốn tham nhũng, giải pháp được đề ra là phải thực hiện công tác giáo dục, tuyên truyền để nâng cao sự tự giác, đặc biệt là đối với những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị nhằm xây dựng ý thức không muốn tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta. Giải pháp này rất phù hợp và cần thiết ở nước ta hiện nay vì trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian qua cho thấy, không phải chỉ có những cán bộ có mức tiền lương thấp, đời sống thiếu thốn, khó khăn mới thực hiện hành vi tham nhũng mà trong thực tế có những cán bộ khá giả, thậm chí là rất giàu vẫn thực hiện các hành vi tham nhũng. Do vậy, việc thực hiện các giải pháp để cán bộ có ý thức không muốn tham nhũng là cần thiết và là điều kiện quan trọng để thực hiện không thể, không dám và không cần tham nhũng ở nước ta.

Hai là, giải pháp để không thể tham nhũng

Nhằm tiếp tục tạo ra các điều kiện để cán bộ không thể thực hiện được các hành vi tham nhũng, các giải pháp được đưa ra là: “Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch”(10). Như vậy, nội dung trọng tâm của giải pháp để không thể tham nhũng là sự nhấn mạnh đến việc tiếp tục hoàn thiện thể chế và cơ chế chính sách để không có kẽ hở cho bất kỳ ai có thể lợi dụng thực hiện các hành vi tham nhũng.

Bên cạnh đó, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định cần phải có “cơ chế bảo vệ, khuyến khích những người làm công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý tham nhũng cũng như với người tố cáo, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, đồng thời xử lý nghiêm những người lợi dụng chống tham nhũng, lãng phí để vu khống, gây mất đoàn kết nội bộ”(11). Đây là một giải pháp rất phù hợp và thiết thực để phát huy vai trò tích cực của người dân và các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

Đặc biệt, để cán bộ không thể tham nhũng thì việc “kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý; đẩy mạnh thực hiện chế độ thanh toán không dùng tiền mặt”(12) là hết sức cần thiết, bởi lẽ xét đến cùng việc quản lý chặt chẽ thu nhập, tiêu dùng và thực hiện truy xét đến cùng nguồn gốc các tài sản có giá trị của cán bộ là giải pháp căn cơ nhất để thực hiện mục tiêu không thể tham nhũng ở nước ta hiện nay.

Ba là, giải pháp để không dám tham nhũng

Nội dung trọng tâm của giải pháp này là: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí”(13). Như vậy, cùng với công tác giáo dục tuyên truyền để cán bộ không muốn tham nhũng và xây dựng thể chế, kiểm soát tài sản để không thể tham nhũng thì công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện nghiêm các hoạt động tư pháp sẽ là những “giải pháp cứng” góp phần quan trọng để cán bộ không dám tham nhũng. Đặc biệt, giải pháp “kiên quyết thu hồi tài sản tham nhũng; kịp thời xử lý, thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý khi có biểu hiện tham nhũng”(14) sẽ có tác dụng mạnh mẽ trong việc răn đe đối với những cán bộ khác, từng bước hình thành ý thức không dám tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay.

Bên cạnh đó, để khắc phục tình trạng nhũng nhiễu, tham nhũng vặt, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp, Đại hội XIII chủ trương: “xử lý nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp”(15). Thiết nghĩ, dù là tham nhũng ở mức độ nào thì cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển xã hội, các hành vi nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp cũng sẽ làm xói mòn lòng tin của người dân vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, do đó cũng cần được đấu tranh, bài trừ.

Hơn nữa, để cán bộ không dám tham nhũng, Đại hội XIII rất coi trọng công tác xây dựng bộ máy nhà nước, nhất là các cơ quan phòng chống tham nhũng các cấp với chủ trương: “Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, bảo đảm liêm chính, trong sạch, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng phòng, chống tham nhũng và các cơ quan tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng... Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu quả phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí”(16).

Bốn là, giải pháp để không cần tham nhũng

Xét đến cùng, để hạn chế và khắc phục tình trạng tham nhũng thì cùng với các biện pháp trên, cần thực hiện tốt việc trả thù lao và đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm mỗi cán bộ, công chức, viên chức có thể sống được từ tiền lương và có tích lũy từ tiền lương. Do vậy, để cán bộ, công chức, viên chức không cần tham nhũng, Đại hội XIII chủ trương “Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm công tác”(17).

Như vậy, trên cơ sở xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ đặc biệt của then chốt ở nước ta hiện nay, Đại hội đã đưa ra các giải pháp chung thể hiện quyết tâm chính trị kiên quyết, kiên trì trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, cùng với các giải pháp cụ thể để không muốn, không thể, không dám, không cần tham nhũng.

2. Một số đề xuất để thực hiện chủ trương, nhiệm vụ về đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Sự nhất quán và bổ sung thêm nhiều nội dung mới trong nhiệm vụ, giải pháp đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Đại hội XIII đã cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng trong công tác này. Vấn đề quan trọng hiện nay là làm thế nào để các chủ trương, giải pháp đó đi vào cuộc sống để tiếp tục tạo thêm những kết quả tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là thực hiện được không muốn, không thể, không dám, không cần tham nhũng.

Trên cơ sở nhận thức về tính tất yếu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. Để đưa các chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đại hội XIII vào cuộc sống, đề xuất một số biện pháp:

Một là, nâng cao nhận thức cho tất cả cán bộ, công chức, viên chức nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản lý về tác hại của tham nhũng đối với xã hội và về quyết tâm chính trị của Đảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng

Để nâng cao nhận thức cho cán bộ, công chức, viên chức nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản lý về tác hại của tham nhũng đối với xã hội. Cần đẩy mạnh công tác giáo dục để tất cả cán bộ, công chức, viên chức nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản lý thấy rõ và thấu hiểu tác hại của tham nhũng không chỉ đối với sự phát triển xã hội mà còn làm giảm sút niềm tin của nhân dân với Đảng thậm chí ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ... Muốn vậy, cần tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, nhất là Luật Phòng, chống tham nhũng đã được ban hành năm 2018 để mỗi người nhận thức đầy đủ về các hành vi tham nhũng và hiểu biết sâu sắc về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị và doanh nghiệp trong phòng, chống tham nhũng..., từ đó chủ động nhận diện và ngăn chặn các hành vi tham nhũng. Đẩy mạnh và thực hiện thực chất, có hiệu quả Quy định nêu gương của cán bộ đảng viên trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, cũng như người đứng đầu các cấp, các ngành.

Thực hiện công khai các kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế; nhất là những thông tin về các vấn đề nhạy cảm, dư luận quan tâm để giúp định hướng tốt dư luận xã hội và thể hiện sự công khai, minh bạch của Đảng, Nhà nước trong xử lý tham nhũng. Từ đó, hình thành ý thức không muốn, không thể, không dám, không cần tham nhũng ở mỗi cán bộ, công chức, viên chức nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Để nâng cao nhận thức của tất cả cán bộ, công chức, viên chức nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản lý về quyết tâm chính trị của Đảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng cần tăng cường công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng ở tất cả các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Tập trung nhấn mạnh đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của then chốt ở nước ta hiện nay, đặc biệt là tuyên truyền về quyết tâm chính trị theo hướng kiên quyết, kiên trì, không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng được thể hiện trong các văn kiện Đại hội XIII nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, hiểu biết của cán bộ, công chức, viên chức nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản lý về các chủ trương, đường lối của Đảng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Hai là, thiết lập “quỹ dưỡng liêm” để cán bộ không dám tham nhũng

Để cán bộ không dám tham nhũng, chúng ta có thể học tập cách làm của Xinhgapo(18). Theo đó, cần sớm nghiên cứu để đề xuất thực hiện chủ trương khi một người được tuyển dụng trở thành cán bộ nhà nước, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước thì hàng tháng thực hiện trích nộp lại một phần tiền lương để xây dựng quỹ (tác giả tạm gọi đó là “quỹ dưỡng liêm”) và tỷ lệ trích nộp sẽ tăng dần theo thâm niên công tác. Số tiền trích nộp lần đầu là bao nhiêu cần được xem xét cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn (ở Xinhgapo trích lần đầu là 5%).

Việc trích nộp này cũng tương tự như trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc như hiện nay. Tuy nhiên, khác với bảo hiểm xã hội là để bảo đảm cho người tham gia được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng sau khi nghỉ hưu; bảo hiểm y tế dùng để chia sẻ với người tham gia khi khám chữa bệnh; bảo hiểm thất nghiệp dùng để trợ giúp cho người lao động trong thời gian thất nghiệp chờ tìm việc làm mới, thì số tiền đóng góp vào “quỹ dưỡng liêm” như là một quỹ tiết kiệm cá nhân khi số tiền đó được ghi nhận cụ thể cho từng người và được tính lãi theo mức lãi suất do ngân hàng Nhà nước quy định và cán bộ sẽ được nhận số lãi đó vào cuối mỗi năm. Theo nguyên lý đó, những người có chức vụ càng cao, thâm niên công tác càng nhiều thì số tiền đóng góp vào quỹ càng lớn. Toàn bộ số tiền của quỹ sẽ do Nhà nước quản lý và được Nhà nước sử dụng để tạo ra giá trị tăng thêm cho quỹ. Trong quá trình công tác, nếu cán bộ có hành vi tham nhũng đã được cơ quan có thẩm quyền kết luận thì ngoài việc xử lý theo quy định của pháp luật, toàn bộ số tiền đã đóng góp cho quỹ sẽ bị trưng thu. Còn khi cán bộ nghỉ hưu hoặc nghỉ công tác mà không có bất kỳ hành vi tham nhũng nào bị xử lý thì cơ quan nhà nước sẽ thực hiện “chốt sổ”, khi đó cá nhân có quyền rút toàn bộ số tiền đã đóng góp hoặc có thể tiếp tục tham gia để nhận tiền lãi hàng tháng. Việc trích lập quỹ như vậy không chỉ giúp cho cán bộ có được một khoản tích lũy, giúp cho Nhà nước có thêm một khoản tiền để tái đầu tư phục vụ công tác quản lý và phát triển xã hội mà còn là biện pháp hữu hiệu để xây dựng ý thức không dám tham nhũng.

Ba là, thực hiện truy xét nguồn gốc đối với các tài sản phát sinh của cán bộ

Từ thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian qua cho thấy, có nhiều vụ án tham nhũng khi được phát hiện và xử lý thì số tài sản mà cá nhân có được do tham nhũng đã bị tẩu tán, gây khó khăn cho cơ quan pháp luật trong việc điều tra và thu hồi tài sản của Nhà nước. Do vậy, để cán bộ không thể tham nhũng cần thực hiện nghiêm túc Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30-10-2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trong đó, cần chú trọng đến việc truy xét nguồn gốc của những tài sản phát sinh; cụ thể, nếu cá nhân thuộc diện phải kê khai nhưng kê khai không trung thực hoặc không giải trình được một cách hợp pháp về nguồn gốc của số tài sản phát sinh của họ và những người thân (bao gồm vợ/chồng, con cái, cha mẹ...) thì có thể coi đó là tài sản do tham nhũng mà có. Khi đó sẽ tiến hành xử lý theo quy định tại Điều 20 của Nghị định trên (Quy định về xử lý hành vi vi phạm đối với người kê khai) và Điều 51 của Luật Phòng, chống tham nhũng (Quy định về xử lý hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực), cũng như theo các quy định khác của Luật Viên chức và Luật Phòng, chống tham nhũng... Thiết nghĩ, trong điều kiện quản lý thanh toán bằng tiền mặt còn gặp nhiều khó khăn như hiện nay thì việc quản lý tài sản phát sinh như vậy sẽ góp phần làm cho cán bộ không thể tham nhũng.

Để các chủ trương, giải pháp về đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng đi vào cuộc sống, quan trọng nhất là cần thực hiện tốt công tác giáo dục pháp luật, giáo dục chính trị tư tưởng để nâng cao đạo đức công vụ, liêm chính trong thực thi nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức, viên chức nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đồng thời với việc trích lập “quỹ dưỡng liêm” cần phải quản lý được thu nhập và truy xét đến cùng nguồn gốc tài sản phát sinh của cán bộ lãnh đạo, quản lý thì mới sớm xây dựng được ý thức không muốn, không thể, không dám và không cần tham nhũng ở nước ta.

__________________                

(1), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.76, 92-93, 93, 288, 193, 193-194, 193, 194, 194-195, 195, 195, 195, 195, 195, 195-196, 196.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.54.

(18) Xem: http://baochinhphu.vn/Quoc-te/Singapore-va-giai-phap-4-khong-trong-cuoc-chien-chong-tham-nhung/2382.vgp.

TS Nguyễn Văn Thắng - lyluanchinhtrị.vn - 17.06.2022

Phát huy vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên, đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp và đoàn viên thanh niên trong quân đội

 

Tổ chức Đoàn Thanh niên trong quân đội cần tiếp tục làm tốt công tác giáo dục cho doàn viên thanh niên về truyền thống, đạo đức cách mạng, truyền thống quân đội, lối sống văn hoá, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và nâng cao nhận thức về mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội. Xây dựng cho đoàn viên thanh niên có bản lĩnh chính trị vững vàng; có động cơ học tập đúng đắn, ý thức tổ chức rèn luyện kỷ luật nghiêm, phẩm chất đạo đức trong sáng, thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ quân sự, có trình độ và sức khỏe tốt, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Phát huy vai trò của Đoàn Thanh niên trong quản lý, giáo dục, rèn luyện đoàn viên thanh niên có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trên cương vị chức trách được giao.

Xây dựng tổ chức Đoàn trong quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chú trọng việc bồi dưỡng phẩm chất, trình độ, kỹ năng hoạt động công tác đoàn và phong trào thanh niên cho đội ngũ cán bộ Đoàn - lực lượng nòng cốt trong xây dựng và tổ chức các hoạt động của Đoàn trong quân đội. Tăng cường đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động của tổ chức Đoàn tạo sự thu hút, tập hợp được đông đảo đoàn viên thanh niên tham gia, xung kích trong thực hiện nhiệm vụ trung tâm của đơn vị mình.

Gắn việc phát huy vai trò tổ chức Đoàn Thanh niên với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của đơn vị trước tác động của tòa cầu hóa hiện nay. Việc thực hiện nhiệm vụ của Tổ chức đoàn và đoàn viên thanh niên phải gắn liền với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của đơn vị mà Đảng, Quân đội giao cho. Thanh niên chính là lực lượng quan trọng trong xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, mà còn là việc làm có ý nghĩa chiến lược lâu dài, góp phần xây dựng lớp thanh niên học viên thành con người mới xã hội chủ nghĩa trong lực lượng vũ trang. Vì vậy, phải gắn việc phát huy vai trò tổ chức Đoàn Thanh niên trong thực hiện nhiệm vụ với thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của đơn vị một cách có hiệu quả và chất lượng cao nhất.

Thực hiện yêu cầu này đòi hỏi Đoàn Thanh niên phải làm tốt công tác giáo dục làm cho mỗi cán bộ, đoàn viên thanh niên phải nắm chắc nội dung, mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị; Tập trung xây dựng nội dung chương trình hoạt động công tác Đoàn phong trào thanh niên hướng vào góp phần nâng cao chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Đồng thời, tích cực đổi mới nội dung, hình thức, tổ chức và phương thức hoạt động của Đoàn Thanh niên.

 

Vận dụng quan điểm của V.I. Lê-nin để xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng

 

Quán triệt quan điểm “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên”, cùng với vận dụng quan điểm của V.I. Lê-nin, hướng tới xây dựng các tổ chức cơ sở đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, cần triển khai đồng bộ một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của đảng viên trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tích cực đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; kịp thời phát hiện, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực để khuyến khích, tạo động lực cho mọi đảng viên ra sức phấn đấu, học tập, cống hiến vì sự nghiệp chung.

Hai là, thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh gắn với quan tâm chấn chỉnh tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Tiếp tục sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhất là đổi mới bộ máy bên trong. Rà soát, bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của một số tổ chức cơ sở đảng. Nghiêm túc thực hiện quy chế làm việc cấp cơ sở.

Ba là, thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Bên cạnh việc nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp ủy ở cơ sở thì cần từng bước thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở những nơi đủ điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận.

Bốn là, tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của cấp ủy tại chi bộ để nâng cao chất lượng sinh hoạt ở các loại hình chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu là việc làm trọng yếu, thường xuyên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng. Chú trọng việc thực hiện các Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và gương mẫu thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu các cấp.

Năm là, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, khắc phục tình trạng chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng, xem nhẹ tiêu chuẩn, điều kiện. Xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên hợp lý cả về lượng và chất, cơ cấu phù hợp với thực tế của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, trong lực lượng vũ trang. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định, hướng dẫn để quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên; thường xuyên rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.

HAIVAN

Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đoàn viên thanh niên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay cần tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đoàn viên thanh niên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục là yêu cầu khách quan trong việc nâng cao nhận thức cho cán bộ, đoàn viên thanh niên. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đại hội Đoàn toàn quân lần thứ VI xác định: “Giáo dục nâng cao nhận thức cho thanh niên về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Giáo dục sâu sắc lòng yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, coi trọng giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng, dân tộc, quân đội, của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và thân thế sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục cho đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp và đoàn viên thanh niên nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, về toàn cầu hóa hiện nay. Tạo mọi điều kiện cho đoàn viên thanh niên cống hiến nhiều nhất cho sự nghiệp xây dựng Quân đội tiến lên chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.

Quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng

 

Theo V.I. Lê-nin, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị lãnh đạo hoạt động của cơ quan, đơn vị. Sự vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện bảo đảm cho sự vững mạnh của toàn Đảng. Những quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng là kinh nghiệm quý để Đảng ta vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

Tổ chức cơ sở đảng là nơi nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở tuân thủ đúng chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần cụ thể hóa nghị quyết của Đảng, đấu tranh về quan điểm và rèn luyện đảng viên; gắn kết Đảng với quần chúng, vận động quần chúng thực hiện tốt chủ trương của Đảng. Thực hiện tốt công tác xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở là điều kiện tiên quyết để Đảng vững mạnh. Theo V.I. Lê-nin, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là công việc thường xuyên, liên tục và phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Đó là:

Thứ nhất, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện đường lối của Đảng ở cơ sở. Trong tác phẩm Làm gì?, V.I. Lê-nin cho rằng, để sự nghiệp cách mạng thành công “đòi hỏi phải có cho toàn nước Nga một tổ chức thống nhất gồm những người cách mạng, một tổ chức có khả năng đảm nhiệm việc lãnh đạo các tổ chức nghiệp đoàn của công nhân trong phạm vi toàn Nga”. Đặc biệt, khi đề cập đến vấn đề xây dựng đảng kiểu mới, V.I. Lê-nin khẳng định cần thành lập tổ chức đảng ở các công xưởng, nhà máy, các địa phương theo chế độ phân cấp rõ ràng. “Ở tất cả các tổ chức, các hội, các hiệp hội, không trừ một loại nào... phải tổ chức những tiểu tổ hay những chi bộ Cộng sản... những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng”. Sau khi thành lập, các chi bộ phải thực hiện cổ động, tuyên truyền,... thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với mọi tầng lớp quần chúng lao động. Thông qua thực tiễn ở cơ sở để kiểm nghiệm chủ trương, đường lối và bổ sung, phát triển đường lối của Đảng, lấy kết quả hoạt động thực tế làm thước đo đánh giá sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đảng.

Thứ hai, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; liên hệ chặt chẽ với quần chúng và lãnh đạo quần chúng thực hiện lý tưởng của Đảng. V.I. Lê-nin khẳng định: “Giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động”. Trong đó, chất lượng đội ngũ đảng viên là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng, vì vậy, V.I. Lê-nin yêu cầu các chi bộ “thông qua công tác muôn hình, muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”; qua lao động, thực tiễn đấu tranh cách mạng mà thử thách đảng viên để nâng cao uy tín của Đảng, tạo sự gắn bó, tin tưởng của nhân dân với Đảng. Trong bài viết Nhà nước của công nhân và Tuần lễ Đảng, V.I. Lê-nin cho rằng, cần “quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào Đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải là quan tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên”.

Thứ ba, bảo đảm tính đảng của tổ chức cơ sở đảng. Tính đảng được hiểu là sự thừa nhận một cách tự nguyện và trung thành tuyệt đối với nền tảng tư tưởng, mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng đã lựa chọn; tuân thủ một cách nghiêm ngặt tính tổ chức, tính kỷ luật của Đảng; là những chuẩn mực giữa lời nói và hành động trong các hoạt động xã hội. Trong bài viết Về việc phá hoại sự thống nhất, che đậy bằng những lời kêu gào thống nhất, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Ở nơi nào mà đa số công nhân giác ngộ đoàn kết xung quanh những nghị quyết rõ ràng và chính xác, thì ở đó có sự nhất trí về tư tưởng và hành động, ở đó có tính đảng và đảng”. Tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên phải nhận thức sâu sắc nghị quyết, thấm nhuần tư tưởng của Đảng, bền bỉ phấn đấu, đặt lợi ích của Đảng, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.

Thứ tư, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức đảng ở cơ sở. Theo V.I. Lê-nin, tập trung dân chủ nghĩa là kết hợp lãnh đạo, quản lý tập trung với tinh thần tích cực sáng tạo của quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước Nga, V.I. Lê-nin luôn nhất quán quan điểm: “Chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”. Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính đảng vô sản cầm quyền, mà trước hết chính là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hữu cơ giữa hai mặt dân chủ và tập trung; tập trung và dân chủ vừa đối lập nhau, vừa liên kết với nhau, mặt này là tiền đề, điều kiện cho mặt kia và ngược lại. Tập trung và dân chủ kết hợp với nhau tạo thành một chỉnh thể không thể thiếu của nguyên tắc tổ chức đảng vô sản, trong đó dân chủ là cơ sở của tập trung, còn tập trung là điều kiện để bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Phủ định hay loại trừ bất cứ mặt nào đều vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

HAIVAN

Tình hình công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nước ta hiện nay

 

Hiện nay, toàn Đảng ta có 52.125 tổ chức cơ sở đảng với 5.192.533 đảng viên. Trực thuộc đảng ủy cơ sở có 2.478 đảng bộ bộ phận và 227.328 chi bộ thuộc các loại hình tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội; đơn vị sự nghiệp; doanh nghiệp; đơn vị quân đội, công an; đơn vị ở ngoài nước.

Việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, thể hiện rõ qua các kỳ Đại hội. Những năm gần đây, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở; bổ sung, sửa đổi và ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng. Đây là hệ thống những văn bản quan trọng, làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên.

Tại các cơ sở đảng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên được cấp ủy, tổ chức đảng đề cao. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng thường xuyên đổi mới, tổ chức dưới hình thức trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở đã nhanh chóng tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sớm đưa các nghị quyết vào cuộc sống. Đơn cử, Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII được truyền hình trực tuyến với 2.700 điểm cầu, hơn 405.000 cán bộ, đảng viên tham dự; Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được kết nối với 67 điểm cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và đường truyền mở rộng đến hơn 7.400 điểm cầu cơ sở với gần 1 triệu đảng viên tham gia. Công tác tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” dần đi vào nền nếp; cấp ủy cấp trên gương mẫu thực hiện nghiêm túc, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chú trọng gợi ý, dự chỉ đạo kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân thuộc quyền quản lý; coi trọng kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm của cấp dưới. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên với nhiều cách làm hay, sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực.

Quán triệt Nghị quyết 18-NQ/TW về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết 19-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng được thực hiện đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Qua sắp xếp đã giảm trên 3.000 tổ chức cơ sở đảng ở các loại hình, trong đó giảm 565 đảng bộ xã, phường, thị trấn và giảm trên 10.000 chi bộ trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn do sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, sáp nhập thôn, tổ dân phố, góp phần tinh gọn hệ thống chính trị ở cơ sở, giảm chi ngân sách nhà nước cho hoạt động của các tổ chức đảng. Chú trọng nâng cao chất lượng cấp ủy cơ sở, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách công tác đảng. Giai đoạn 2015 - 2020, đã tổ chức trên 3.000 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho trên 325.000 lượt cấp ủy viên, bí thư cấp ủy và cán bộ chuyên trách làm công tác đảng.

Chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên; nhiều cấp ủy đã hướng dẫn nội dung sinh hoạt đối với từng loại hình chi bộ, ban hành tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát chuyên đề việc chấp hành nền nếp, đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Hầu hết các chi bộ đều đưa việc tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào nội dung sinh hoạt hằng tháng. Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, tập trung nhiều hơn cho sinh hoạt chính trị tư tưởng, công tác đảng, từng bước khắc phục tình trạng đơn điệu, hình thức trong sinh hoạt đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, từng đối tượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thực chất hơn, sát với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng đội ngũ đảng viên mới cho tổ chức đảng ở cơ sở được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ta đã kết nạp được 880.155 đảng viên, trình độ chuyên môn của đảng viên mới kết nạp được nâng lên, có đến 41,5% đảng viên có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có 3% là thạc sĩ và 0,15% là tiến sĩ, cơ cấu hợp lý theo hướng trẻ hóa và tăng tỷ lệ nữ với 67,67% là đoàn viên, 43,72% là nữ. Đặc biệt, thành công trong việc thí điểm kết nạp 6.652 chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận một số yếu kém nhất định trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, đó là: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là khả năng dự báo, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo còn nhiều khó khăn, hạn chế. Sinh hoạt chi bộ ở một số nơi vẫn còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được xem trọng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Công tác kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng; động cơ vào Đảng của một số quần chúng chưa đúng đắn. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút. Việc xét miễn, giảm công tác và sinh hoạt đảng chưa chặt chẽ, việc quản lý đảng viên đi làm ăn xa nơi cư trú còn khó khăn, phức tạp; số đảng viên xin ra khỏi Đảng, bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng lên; việc rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng chưa được tiến hành thường xuyên.

HAIVAN

Lực lượng thanh niên dễ bị lung lay trước những tác động của toàn cầu hóa

 


Toàn cầu hóa hiện nay cũng là cơ hội để các chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta, nhất là đối với thế hệ trẻ. Thanh niên quân đội về cơ bản đã được tuyển chọn kỹ những cũng không phải không có những cán bộ, chiến sĩ trẻ có bản lĩnh chính trị chưa thất vững vàng, dễ bị ảnh hưởng lung lay trước những tác động của toàn cầu hóa, của mặt trái cơ chế thị trường và đặc biệt trước sự chống phá của chủ nghĩa đế  quốc và các thế lực thù địch. Với âm mưu thủ đoạn thâm độc và xảo quyệt của chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng các đối tượng trong các tầng lớp nhân dân để tập trung chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó thanh niên quân đội là lực lượng mà chúng cũng rất quan tâm. Chúng lợi dụng những yếu tố thiếu bền vững của đặc điểm tâm lý lứa tuổi để tuyên truyền, lôi kéo, kích động thanh niên.