Thứ Năm, 4 tháng 8, 2022

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CHÍNH UỶ, CHÍNH TRỊ VIÊN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh. Đến năm 2030 xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu này, một trong những biện pháp quan trọng là xây dựng đội ngũ chính ủy, chính trị viên các cấp trong Quân đội làm nòng cốt với phẩm chất chính trị, đạo đức, phương pháp, tác phong công tác theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính ủy, chính trị viên trong Quân đội

Ngay từ những ngày đầu của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị trong những tổ chức mầm mống của lực lượng vũ trang cách mạng. Người nhấn mạnh: “Về mặt chính trị, cấp nào cũng có một người chính trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm”. Từ đó đến nay, ở các đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng (lúc đầu từ cấp trung đội, sau là từ cấp đại đội trở lên) bên cạnh người chỉ huy quân sự bao giờ cũng có người cán bộ chính trị - người tiêu biểu cho đường lối chính trị, quân sự của Đảng, được tổ chức đảng lựa chọn và giao nhiệm vụ chỉ đạo, trực tiếp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, chịu trách nhiệm chủ yếu trước Đảng về bản chất cách mạng của đơn vị vũ trang mà mình được phân công đảm nhiệm. Là đại biểu của Đảng bên cạnh người chỉ huy, hơn ai hết, họ là người giữ nghiêm kỷ luật Đảng, nắm vững và thực hiện tốt các nguyên tắc của Đảng, thật sự tiêu biểu cho sự đoàn kết thống nhất trong tổ chức đảng và trong toàn đơn vị.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính ủy, chính trị viên phải có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh. Người chỉ rõ: “Kỷ luật phải được thi hành từ trên đến dưới. Trách nhiệm của người chỉ huy quân sự và người chính trị viên phải định rõ ràng”. Theo đó, chính ủy, chính trị viên không chỉ chấp hành nghiêm túc và triệt để mọi đường lối, chủ trương, nguyên tắc của Đảng, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, mà phải thường xuyên chăm lo củng cố, giữ gìn và tăng cường đoàn kết, kỷ luật trong nội bộ đơn vị, đoàn kết quân dân. Mỗi chính uỷ, chính trị viên phải là hạt nhân, là trung tâm xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong cơ quan, đơn vị. 

Chính ủy, chính trị viên cũng cần ham học hỏi, cầu tiến bộ. Bác Hồ cho rằng: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Sự nỗ lực học tập vươn lên là một đòi hỏi tất yếu khách quan, phù hợp quy luật phát triển của xã hội. Với người cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên, người làm công tác lãnh đạo, công tác giáo dục, xây dựng “hướng dẫn, dìu dắt quần chúng trên con đường đấu tranh” càng phải tích cực học tập phấn đấu để không ngừng tiến bộ.

Là người lãnh đạo, quản lý, chỉ huy hằng ngày tiếp xúc với bộ đội, chính uỷ, chính trị viên phải trong sáng, gương mẫu về đạo đức lối sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Tư cách của chính trị viên có ảnh hưởng rất quan trọng đến bộ đội. Người chính trị viên tốt, thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ, thì bộ đội ấy không tốt”. Chính vì vậy, Người luôn yêu cầu người cán bộ chính trị, chính uỷ, chính trị viên phải biết đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của Nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân; sống có hoài bão, có lý tưởng, có niềm tin yêu mãnh liệt đối với bộ đội và Nhân dân; có lối sống trong sáng, lành mạnh, thẳng thắn, trung thực, khiêm tốn, giản dị với mọi người; kiên quyết đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, để luôn luôn xứng đáng với lời dạy: “Chính trị viên phải làm người kiểu mẫu trong mọi việc”(5).

Một số nhiệm vụ và giải pháp

Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới, khu vực, trong nước có những diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch ra sức dùng mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc nhằm lung lạc niềm tin, lý tưởng, ý chí chiến đấu và lòng trung thành của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Xuất phát từ những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ vị trí, vai trò của chính uỷ, chính trị viên và yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, việc thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên là một tất yếu khách quan. Trong thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng trong Quân đội cần tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ chính ủy, chính trị viên, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn. Chú trọng làm tốt việc giáo dục ý thức trách nhiệm, phổ biến, tuyên truyền các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo quan điểm, Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, làm cơ sở cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, đồng thời làm cơ sở để tuyên truyền, giáo dục, đạo đức cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị.

Hai là, quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt nội dung quan điểm về rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Gắn chặt chẽ giữa bồi dưỡng đạo đức cách mạng của chính uỷ, chính trị viên với việc xây dựng bản lĩnh chính trị, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực toàn diện, rèn luyện phương pháp, tác phong công tác khoa học, dân chủ, sâu sát bộ đội, gắn bó với Nhân dân, lời nói đi đôi với việc làm.

Ba là, làm tốt công tác kiểm tra sơ tổng kết, đánh giá đúng thực trạng kết quả bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ chính uỷ, chính trị viên, chỉ rõ nguyên nhân, kinh nghiệm, làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng, kịp thời nhắc nhở, xử ký các trường hợp vi phạm phẩm chất đạo đức cách mạng.

Bốn là, mỗi chính uỷ, chính trị viên cần nêu cao ý thức, trách nhiệm, tân tụy với công việc, thực sự là tấm gương mẫu mực cả trong chiến đấu cũng như trong lao động và học tập, công tác. Phải thực sự là tấm gương, là điểm khởi phát, là chỗ dựa đáng tin cậy để đấu tranh khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, kịp thời ngăn chặn sự tha hóa về đạo đức, lối sống trong đơn vị và ngoài xã hội.

NHẬN DIỆN ÂM MƯU “DÂN SỰ HÓA” QUÂN ĐỘI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 Gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều ý kiến cho rằng: Trung ương nên chủ trương “dân sự hóa hoạt động quân sự” để hạn chế hao tốn nguồn lực đầu tư cho quốc phòng, lại huy động được sức dân trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của quân đội.

Thực chất, đằng sau những lập luận ấy là chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch, hòng phá vỡ tính tổ chức, tính kỷ luật, hạ bệ vai trò của quân đội, làm cho Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam xa rời mục tiêu, lý tưởng, nhằm hiện thực âm mưu “phi chính trị hóa quân đội”

Mưu đồ phía sau “những lời có cánh”

Trên một số trang mạng nước ngoài gần đây đăng tải nhiều bài viết tập trung “phân tích” về chủ trương, cách thức vận hành trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam. Các bài viết này “ngợi khen” việc nhất quán “mỗi người dân là một chiến sĩ” thể hiện cách làm sáng tạo, hiệu quả.

Họ thuyết giảng: Vì dịch bệnh cũng là một loại “giặc” nên đáng ra quân đội phải là lực lượng duy nhất có trách nhiệm đương đầu, ứng phó. Thế nhưng, Việt Nam đã biết cách biến mỗi người dân thành một chiến sĩ nên công cuộc chống “giặc dịch” trở nên hiệu quả.

Trên luận điệu đó, họ cố tình suy diễn: Quân đội không thể hiện được vai trò, vị trí của mình, nên cần phải “dân sự hóa hoạt động quân sự”; trao sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) cho quần chúng. Có nghĩa, phải tinh giản biên chế trong quân đội một cách mạnh mẽ, chỉ để lại một vài cơ quan chỉ đạo chiến lược; cũng nên giảm ngân sách đầu tư cho quốc phòng và không nên “nuôi” một số lượng quân thường trực “đông nhưng không mạnh” ... vì nếu có biến cố gì đi nữa, thì nhân dân ứng phó là đủ.

Với cách lập luận lập lờ nêu trên khiến không ít người thoạt nghe đã sinh ra a dua, cổ xúy, tán dương. Một số người dân đón nhận thông tin một chiều tỏ ra nghi hoặc về sức mạnh quân đội, rồi bày tỏ sự ủng hộ “dân sự hóa” một số lĩnh vực hoạt động quân sự, dành ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế...

Từ những phân tích trên, các bài viết còn viện dẫn về chuyện một số quốc gia trên thế giới không cần xây dựng lực lượng quân đội, chỉ thiết lập đội tự vệ quốc gia với quân số ít. Thậm chí, có quốc gia không bận tâm đến việc BVTQ, vì trong xu thế hội nhập, các nước sẽ biết cách tôn trọng độc lập, tự do, chủ quyền của mỗi quốc gia.

Thực chất, đây là những thủ đoạn nhằm hạ thấp ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ BVTQ, hạ bệ vai trò của QĐND Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng, BVTQ; thúc đẩy xu hướng nhận thức tiêu cực, tạo áp lực tâm lý để xới lên đề xuất “giải tán” quân đội, cắt giảm nguồn lực đầu tư cho quân đội và quốc phòng. Đây là thủ đoạn nhằm phá vỡ “lõi hạt nhân” trong kết cấu thế trận chiến tranh nhân dân, làm tan hỏng, mục rũa nền quốc phòng toàn dân từ bên trong.

Ở một diễn biến khác, những kẻ thủ ác lại rêu rao: Việt Nam đang “quân sự hóa hoạt động dân sự”. Họ cho rằng: Chống dịch là một dạng hoạt động dân sự, nhưng quân đội lại ồ ạt đưa lực lượng, vũ khí, trang bị vào “trấn áp” dịch-đó là biểu hiện “quân sự hóa hoạt động dân sự”.

Một mặt, họ quy kết quân đội không đủ mạnh, không thể làm tròn nghĩa vụ với nhân dân, nên cố tình kéo quần chúng vào một cuộc chiến “vô thưởng vô phạt”; cổ vũ người dân lên tuyến đầu để bao biện cho sự hèn nhát, sợ dịch bệnh của cán bộ, chiến sĩ quân đội. Mặt khác, họ tung hô: Đảng, Nhà nước và quân đội đang tô hồng vai trò của chính mình, “làm màu” để mị dân.

Thực chất, đây là thủ đoạn đánh tráo sự thật, xóa nhòa bản chất hoạt động bảo vệ, phục vụ nhân dân, phủ định vai trò, đóng góp to lớn của QĐND Việt Nam trong phòng, chống dịch Covid -19 suốt gần hai năm qua. Trên thực tế, QĐND Việt Nam đã khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những lực lượng xung kích trên tuyến đầu; bảo vệ nhân dân bằng tất cả tình yêu thương. Thậm chí nhiều cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến với loại “giặc vô hình” để phụng sự Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.

Vậy nên, “những lời có cánh” nêu trên, thoạt qua, có thể nhầm tưởng là hợp lý, vô hại, nhưng xét về thực chất lại chính là khuynh hướng thủ đoạn khá mới, cố tình làm sai lệch nhận thức của quần chúng, mang lại nhiều hệ lụy và hậu quả to lớn; ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội; tác động trực tiếp đến kết quả xây dựng quân đội; chi phối nghiêm trọng công cuộc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và tiềm lực, nguồn lực BVTQ trong tình hình mới.

Quân đội hùng mạnh - đất nước mới hùng cường

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, QĐND Việt Nam luôn là lực lượng nòng cốt BVTQ, trong thế trận chiến tranh nhân dân. Nghệ thuật quân sự Việt Nam ngay từ xa xưa đã thực hiện phép dụng binh “ngụ binh ư nông”- quân gửi trong dân.

Với chức năng, nhiệm vụ của mình, quân đội là lực lượng không thể thay thế, không thể phủ nhận, là công cụ sắc bén, hữu hiệu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.

Trong khi đó, tính chất, yêu cầu nhiệm vụ BVTQ trong điều kiện mới ngày càng cao; tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, mau lẹ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác động đến nhiệm vụ BVTQ. Các vấn đề xung đột, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, biên giới diễn ra phức tạp.

Các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá cách mạng Việt Nam, kích hoạt sự “chuyển màu” về chế độ, cố tình hạ bệ vai trò của Đảng và QĐND Việt Nam... Trước tình hình đó, nếu Việt Nam không có một đội quân thực sự “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” thì liệu nhiệm vụ BVTQ có thể bảo đảm trong mọi tình huống, nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, làm nền tảng cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước?

Thực tế cho thấy, kể từ sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà, thì vẫn chưa có bất kỳ phút giây những người lính Cụ Hồ được ngơi nghỉ trong cuộc chiến giữ hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Trong mọi giai đoạn lịch sử, thời kỳ phát triển, quân đội luôn là lực lượng đi đầu và khẳng định những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng, nhất là trong suốt hành trình 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Vậy nên, với chức năng, nhiệm vụ được giao, QĐND Việt Nam-lực lượng nòng cốt BVTQ rất cần những đầu tư tương xứng để có đủ tiềm lực, thực lực và sức mạnh bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó.

Ở đây, cần hiểu đúng và đủ về chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân và đặt nhiệm vụ xây dựng quân đội trong mối quan hệ tổng thể xây dựng 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong đó, với tầm nhìn chiến lược, các lực lượng phải từng bước được đầu tư để hiện đại hóa, chính quy hóa, nhưng trên hết và trước hết phải ưu tiên xây dựng QĐND Việt Nam trong mối quan hệ với các bộ phận, lực lượng khác của LLVT.

Bởi thế, trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương luôn nhất quán quyết tâm xây dựng quân đội cách mạng, nhưng đồng thời phải tiến lên chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Nghị quyết Trung ương các khóa XI, XII, XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X, XI đều xác định phải đẩy nhanh tiến độ, chất lượng từng bước tiến lên hiện đại, ưu tiên xây dựng một số lực lượng trong quân đội tiến thẳng lên hiện đại.

Đại hội XIII của Đảng nêu rõ mục tiêu phấn đấu: Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại... Đó là mục tiêu khách quan, đòi hỏi tất yếu của sự nghiệp BVTQ. Do đó, việc tập trung quan tâm, đầu tư nguồn lực cho xây dựng quân đội là nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân và sự nghiệp cách mạng.

Hiện thực về sự cống hiến lớn lao

Không có chuyện cán bộ, chiến sĩ quân đội đang “vô công rồi nghề”, “đông mà không mạnh” như những kẻ hiềm khích, chống đối, chống phá cố tình tô vẽ, thêu dệt. Mỗi công dân Việt Nam cần có trách nhiệm nâng cao nhận thức, cảnh giác trước những chiêu trò thâm độc ấy.

Hãy ngước nhìn lên bầu trời xanh của Tổ quốc. Chắc chắn rồi, sự bình yên ấy không tự nhiên có được, mà là kết quả của sự phòng vệ quốc gia từ xa, từ sớm. Ở nhiều nơi trên đất nước này vẫn có sự hiện diện của tổ chức, đơn vị quân đội luôn “dõi mắt canh trời”, trực SSCĐ 24/24 giờ, với các loại vũ khí có khả năng đánh chặn mọi nguy cơ và các mối đe dọa trong mọi tình huống; sóng radar giăng từng tấc không khí để kịp thời phát hiện bất cứ mục tiêu nào dù là nhỏ nhất xâm phạm chủ quyền bầu trời quốc gia.

Và như vậy, chắc chắn sẽ có hàng nghìn ánh mắt của cán bộ, chiến sĩ dõi lên bầu trời canh giữ bình yên, hay miệt mài thao tác vũ khí trang bị để bảo vệ, vận hành sự bình yên đó.

Hãy hình dung về 3/4 diện tích đất nước thân yêu-biển, đảo của chúng ta dẫu còn nhiều “giông bão”, nhưng chủ quyền thiêng liêng luôn được giữ vững kể từ sau ngày đất nước thống nhất, Bắc-Nam sum họp một nhà. Nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ vẫn trung kiên ngày đêm thực hiện nhiệm vụ nơi đảo xa, trên những con tàu, nhà dàn DK giữa mênh mông biển lớn.

Tất cả những người lính Cụ Hồ đều đối diện với các thiệt thòi về vật chất lẫn tinh thần, nhưng luôn không hề nao núng, thoái thác nhiệm vụ. Hãy thử đặt mình vào vị trí của những người đang ở nơi “đầu sóng, ngọn gió”, để thêm trân trọng những đóng góp của những chiến sĩ hải quân một lòng trung hiếu, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, chủ quyền Tổ quốc.

Hãy nhìn vào thực tế về một đất nước bước ra khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt. Sau mấy chục năm hòa bình lập lại, vẫn còn đó không ít bom, mìn, vũ khí tồn đọng, có thể cướp đi sự sống của người dân và hãy khắc ghi sự đóng góp của lực lượng công binh can trường đối mặt với tử thần, tái tạo sự bình an, mang đến môi trường sống an toàn cho hôm nay, mai sau.

Hãy nhìn vào nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần của các nạn nhân chất độc da cam để thấy sự nguy hại đáng sợ của vũ khí hóa học mà kẻ đi xâm lược nhẫn tâm gieo rắc lên lãnh thổ Việt Nam, để thấm ngấm đầy đủ hơn đóng góp của cán bộ, chiến sĩ hóa học đang ngày đêm đối diện với thứ kẻ thù vô hình, xua đi hiểm họa, lấy lại những điều kiện sống cần thiết, tốt đẹp cho nhân dân...

Lại phải nói rõ hơn về trí tuệ của người lính Cụ Hồ đóng góp vào cấu hình môi trường sống hiện hữu. Khi chúng ta cảm nhận về một con đường, một cây cầu, một công trình dân sinh... chỉ nhận thấy tác dụng bảo đảm giao thông, phục vụ dân sinh, kết nối giữa các vùng miền để thông thương hàng hóa. Thế nhưng, sự thật không chỉ có thế.

Khi biến cố xảy ra, khi khởi mào chiến sự, kẻ thù gây hấn, thì lập tức những công trình ấy chuyển hóa phục vụ hiệu quả cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Các nhà máy, xí nghiệp đều có tính lưỡng dụng đến mức tối ưu; các làng xã văn hóa đều bảo đảm các yếu tố, thành tố cấu thành nên khu vực phòng thủ... Những giá trị mang lại ấy là thành quả của trí tuệ Việt Nam, là sản phẩm của nền quốc phòng toàn dân, mà người lính Cụ Hồ là chủ thể tiến hành công tác tham mưu, kiến tạo.

Đó là thành quả vô cùng to lớn, kết nên từ lịch sử chiến tranh và quá trình xây dựng, BVTQ mà QĐND Việt Nam giữ vai trò nòng cốt.

Trong đó, việc kiến tạo nên lực lượng 3 thứ quân; bồi đắp cho mỗi người dân lý tưởng, bản lĩnh, kiến thức quân sự cơ bản... để có thể trở thành người chiến sĩ quả cảm bảo vệ chủ quyền đất nước, thì quả là "phép màu thần kỳ" được kết nên từ một khối lượng công việc đồ sộ mà ngay trong thời bình lớp lớp cán bộ, chiến sĩ quân đội đã và đang dày công vun đắp.

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, BẢO VỆ NHỮNG GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

 Gần 8 thập kỷ xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam thực sự là một quân đội anh hùng, “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”; được Đảng và nhân dân ta hết mực tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ và ngay cả kẻ thù cũng phải nể phục.

Tuy nhiên, thời gian qua vẫn có những luận điệu xuyên tạc nhằm hạ thấp, bôi nhọ truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.

Nhiều luận điệu xuyên tạc cần phê phán, bác bỏ

Trong quá trình thực hiện âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn tập trung xuyên tạc những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, nhất là xuyên tạc về lòng trung thành của quân đội với Đảng, với Nhà nước và nhân dân; xuyên tạc mối quan hệ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế của quân đội với những lời lẽ hết sức phản động, phản khoa học nhằm thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, hòng làm suy giảm sức mạnh chiến đấu của quân đội, làm phai mờ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế.

Sự xuyên tạc đó được thể hiện ở một số luận điệu như: “Lực lượng vũ trang (LLVT) chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức, lực lượng nào”; “xóa bỏ quy định LLVT phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”; “quân đội là chỉ của quốc gia dân tộc” và có nhiệm vụ “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân chứ không phải bảo vệ chế độ nào”. Khi Quân đội ta thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân công tác, tiến hành công tác dân vận, giúp đỡ nhân dân giải quyết các “điểm nóng” về xã hội, đấu tranh chống việc lợi dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo thì các thế lực lại xuyên tạc, vu cáo “quân đội cứu Đảng, đàn áp nhân dân”... Lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của một số cán bộ, chiến sĩ trong quan hệ với nhân dân, các thế lực thù địch ra sức kích động nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa quân đội với nhân dân: “Tuy gọi là QĐND song thực chất chỉ là công cụ bạo lực của một tập đoàn cầm quyền, không phải là quân đội mang lại lợi ích cho dân”... Chưa dừng lại ở đó, các thế lực thù địch còn xuyên tạc nghĩa vụ quốc tế vô sản cao cả của QĐND Việt Nam đối với cách mạng Lào và Campuchia trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trước đây. Chúng xuyên tạc việc QĐND Việt Nam cử lực lượng tình nguyện làm nhiệm vụ quốc tế cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng lại là “hành động xâm lược”.

Những luận điệu trên được các thế lực thù địch “nhai đi nhai lại” nhiều lần, do vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt, một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ, có thể bị tiêm nhiễm những luận điệu phản động đó. Vì vậy, chúng ta phải kiên quyết phê phán, đấu tranh.

Bảo vệ và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của quân đội

Trong điều kiện mới, trước sự tác động của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, trước yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần chú trọng nâng cao hiệu quả phòng, chống sự xuyên tạc của các thế lực thù địch về những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam nhằm giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta và Bộ đội Cụ Hồ. Trong đó cần quan tâm một số vấn đề sau.  

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng trong giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”. Vì vậy, sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta, bảo đảm giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Để bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam tiếp tục được giữ vững và phát huy trong thời kỳ mới, phải chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh; tăng cường rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội thực sự là hạt nhân, nòng cốt trong việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ.

Hai là, tăng cường sự quản lý của Nhà nước trong việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Để phát huy vai trò của Nhà nước trong giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ, Nhà nước cần ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách trong xây dựng quân đội, thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước đối với quân đội. Trong đó, Nhà nước cần có chính sách bảo đảm tốt hơn về vật chất, tinh thần; về trang bị, phương tiện kỹ thuật cho quân đội đáp ứng yêu cầu xây dựng QĐND Việt Nam trong tình hình mới. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội; chính sách đối với những người có công với cách mạng, thương binh và gia đình liệt sĩ; chính sách tạo điều kiện việc làm cho quân nhân xuất ngũ...

Ba là, phát huy tốt vai trò của đồng bào các dân tộc trong giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. “Quân với dân như cá với nước” là một cách thể hiện rất độc đáo trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ mật thiết giữa quân đội và nhân dân Việt Nam, bắt nguồn từ trong bản chất, truyền thống của quân đội cách mạng do Đảng ta giáo dục và rèn luyện. Trong tình hình hiện nay, trước những tác động của điều kiện kinh tế-xã hội, nhất là trước những tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường cũng như sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chia rẽ quân đội với nhân dân, thì sự thương yêu, giúp đỡ của nhân dân đối với quân đội càng có ý nghĩa quan trọng đối với việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ.

Bốn là, phát huy vai trò của quân đội trong giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Vấn đề cơ bản có tính quyết định trực tiếp là sự nỗ lực phấn đấu rèn luyện của toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong thực tiễn xây dựng, chiến đấu, công tác và lao động sản xuất của quân đội trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, mọi nhiệm vụ. Việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ là công việc của chính mỗi cán bộ, chiến sĩ; thể hiện cụ thể trong thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, công tác và lao động sản xuất, cũng như trong sinh hoạt đời thường của mỗi quân nhân. Để giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nỗ lực rèn luyện, phấn đấu thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Năm là, tích cực triển khai đấu tranh phòng, chống sự xuyên tạc của các thế lực thù địch về những giá trị truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của các cấp ủy đảng trong đấu tranh phòng, chống các quan điểm thù địch, sai trái, xuyên tạc, phủ nhận bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Bảo đảm các hoạt động đấu tranh theo đúng định hướng của Đảng, chặt chẽ về nguyên tắc, vững vàng về quan điểm chính trị, sâu sắc về lý luận khoa học, sắc bén trong phương pháp và đạt hiệu quả cao. Huy động lực lượng rộng rãi trong các cơ quan nghiên cứu lý luận, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan báo chí, truyền thông... tiến công chống các quan điểm thù địch, sai trái xuyên tạc, phủ nhận bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ. Bên cạnh đó, cần chủ động cung cấp đầy đủ những thông tin liên quan đến vấn đề đấu tranh dưới nhiều hình thức để kịp thời định hướng đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận bản chất, truyền thống của QĐND Việt Nam, của Bộ đội Cụ Hồ.

MÁU VẪN ĐỔ GIỮA THỜI BÌNH


Trong lúc truy đuổi đối tượng, Đại úy Hồ Tấn Dương, Phó đội trưởng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế và ma túy Công an huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đã hy sinh. 

Trưa 4/8, Đại úy Hồ Tấn Dương, cùng đồng đội phát hiện và truy bắt 2 đối tượng trộm cắp trên tuyến quốc lộ N2B. Anh đã bị đối tượng đạp vào xe máy dẫn đến té ngã.

Lực lượng làm nhiệm vụ đã khống chế hai đối tượng nghi vấn trộm tài sản trên xe tải đậu dọc đường trên tuyến quốc lộ N2B. Tuy nhiên Đại úy Hồ Tấn Dương bị chấn thương, sau đó đã hy sinh trên đường đi cấp cứu. Hai đối tượng liên quan cũng bị thương được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện Lấp Vò.

Sau sự việc, Ban giám đốc Công an tỉnh Đồng Tháp đã chỉ đạo các phòng nghiệp vụ khám nghiệm và thực hiện các biện pháp điều tra.

Theo CAND

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỆU “QUÂN ĐỘI KHÔNG CẦN THỰC HIỆN MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI”

 Các thế lực thù địch sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, tiến hành nhiều thủ đoạn, nhiều hướng tấn công theo phương châm đánh “mềm, ngầm, sâu” trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và tác động đến mọi đối tượng bằng con đường kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm suy yếu nội bộ của chúng ta.

Trong đó, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, với luận điểm kích động: “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội".  

Đòn đánh nham hiểm nhằm làm suy yếu quân đội từ gốc

Thời gian qua, các thế lực thù địch xác định tiến hành nhiều thủ đoạn tinh vi, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo lộ trình “5 hóa”, trong đó có “vô hiệu hóa quân đội”. Bởi lẽ, các thế lực thù địch đưa ra nhận định rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đang nắm chắc quân đội, công an nên chưa thể lật đổ được vai trò cầm quyền, vai trò lãnh đạo xã hội”.

Vì thế, chúng xác định âm mưu cơ bản, lâu dài là thực hiện “vô hiệu hóa quân đội” thì phải theo kịch bản, con đường “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Khi đó quân đội không còn là lực lượng chính trị tin cậy, tách rời khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ không còn công cụ đắc lực để bảo vệ Đảng nên dễ lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam.

Mục đích phản động của luận điệu nêu trên là làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ ảo tưởng, rồi dần dần xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta, không trung thành với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Nếu quân nhân nào bị ảo tưởng, nhận thức không đúng về mục tiêu, lý tưởng của Quân đội ta phải phục tùng mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ mất phương hướng chính trị.

Thực hiện thủ đoạn lấy tư tưởng là khâu đột phá, các thế lực thù địch đưa ra những luận điểm rất đa dạng và biến hóa: “Quân đội là trung lập”, “quân đội đứng ngoài chính trị”, “quân đội không cần tham gia chính trị”, “quân đội chỉ cần đề cao tính nhân dân, tính dân tộc”... Bên cạnh đó, chúng còn sử dụng con đường vòng là kích động truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, buông thả, thờ ơ với chính trị để làm suy thoái về đạo đức lối sống dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị và phai nhạt về mục tiêu, lý tưởng trong đội ngũ cán bộ, chiến sĩ.

Chưa dừng lại ở đó, các thế lực thù địch, bất mãn chính trị từng đưa ra cái gọi là kiến nghị rằng: Lời thề thứ nhất trong "10 Lời thề danh dự của quân nhân" chỉ cần diễn đạt ngắn gọn lại là “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam”, bỏ cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” và cụm từ “phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”... Chúng cũng đưa ra đề xuất "quân đội chỉ cần thực hiện “công tác chính trị”, chứ không cần thực hiện “công tác đảng” và không cần xác định "Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội".

 Nếu cán bộ, chiến sĩ quân đội không có bản lĩnh chính trị vững vàng, phân biệt rõ đúng, sai mà lại bị kích động và nhận thức không đúng đắn về sự thống nhất giữa mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam với mục tiêu chiến đấu của Quân đội ta thì tác hại rất lớn. Tác hại là không chỉ gây mơ hồ, ảo tưởng về nhận thức tư tưởng chính trị mà sẽ dẫn đến hành động dễ bị lệch lạc trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay. 

Giữ vững mạch sống, “linh hồn” của Quân đội nhân dân Việt Nam

Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ. Cội nguồn hàng đầu làm nên sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta trong gần 8 thập niên qua là do sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của QĐND Việt Nam. Vì vậy, việc thấm nhuần và thực hiện mục tiêu, lý tưởng “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” phải được xác định là mạch sống và “linh hồn” của QĐND Việt Nam, là phương châm hành động của mọi cán bộ, chiến sĩ.

Việc cần làm thường xuyên, bất di bất dịch là giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo và kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, kiên quyết phản bác, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch. Đánh giá của Đảng ta về nguy cơ: “Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”. Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải tuân thủ triệt để cơ chế, nguyên tắc lãnh đạo lực lượng vũ trang là: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với QĐND, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”. Bởi vì, có Đảng lãnh đạo mới có đường lối đúng, mới thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Đối với LLVT thì còn Đảng là còn tất cả; nếu Đảng ta không còn giữ quyền lãnh đạo xã hội, giữ quyền lãnh đạo LLVT thì sẽ mất chế độ XHCN.

Để vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch làm biến chất về chính trị Quân đội ta, cần tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhiều lực lượng xã hội. Trong đó, cần phát huy vai trò chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương, Ban chỉ đạo 35, cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng đối với các cấp ủy đảng trực thuộc, thường xuyên nắm chắc và nhận diện đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm vô hiệu hóa Quân đội ta về chính trị.

Nâng cao tính khoa học trong tổ chức hoạt động đấu tranh làm thất bại luận điểm sai trái “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của các thế lực thù địch. Về lý luận, phải chỉ rõ quân đội ra đời gắn liền với sự ra đời của nhà nước do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, nên bất cứ quân đội nào cũng mang bản chất và phục vụ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp sinh ra.

Công khai bản chất giai cấp công nhân của LLVT cách mạng, V.I. Lênin đề ra nguyên tắc xây dựng Hồng quân và Công an Xô viết là phải đặt dưới sự lãnh đạo, phải thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng Bolshevik Nga (Đảng Cộng sản Liên xô). Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ năm 1930, trong “Chánh cương vắn tắt” của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông”.

Vì thế, trong suốt quá trình tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục Quân đội ta, Người luôn nhắc nhở: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”; do đó, “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân”. Đảng ta đã nhấn mạnh rằng: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”.

Các thế lực thù địch sử dụng đòn đánh nguy hiểm làm suy yếu nội bộ Quân đội ta về chính trị thì chúng ta phải có giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, mà trực tiếp là giáo dục sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Nội dung giáo dục chính trị nói chung, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta nói riêng ở mỗi đơn vị phải phù hợp với mỗi đối tượng quân nhân, bảo đảm những nội hàm của mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” trong mỗi giai đoạn cụ thể, đặc biệt bám sát tinh thần mới mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra.

Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt công tác quản lý chính trị nội bộ, ngăn chặn và làm thất bại các hoạt động chiến tranh tâm lý của các thế lực thù địch. Chú trọng công tác dân vận, kết hợp với cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị-xã hội ở địa phương nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phản bác, vạch trần các luận điểm sai trái, phản động trên lĩnh vực tư tưởng chính trị.

QĐND Việt Nam nguyện mãi mãi là lực lượng chính trị trung thành với mục tiêu, lý tưởng “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, không có một thế lực thù địch nào có thể làm thay đổi bản chất, mục tiêu chính trị của QĐND Việt Nam-một quân đội "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội ta nỗ lực phấn đấu thực sự là đội quân chiến đấu tinh nhuệ, lực lượng chính trị tin cậy cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, vì "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

NHẬN DIỆN, PHÊ PHÁN NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

 Sau sự kiện chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, có rất nhiều luận điệu xuyên tạc, bác bỏ nhiều vấn đề lý luận trong quan niệm duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, như lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước và cách mạng xã hội... Những luận điệu này không có căn cứ khoa học, thiếu cơ sở thực tiễn nên cần phải phê phán, bác bỏ.

Âm mưu xét lại, phủ nhận những giá trị cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử

Trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đem lại thắng lợi to lớn của phong trào cách mạng thế giới. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, CNXH từ một học thuyết trở thành một chế độ chính trị-xã hội tồn tại đến ngày nay đã minh chứng cho giá trị và sức sống mãnh liệt, trường tồn và vai trò to lớn của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong sự phát triển của lịch sử nhân loại.

Tuy vậy, sau sự kiện CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực phản cách mạng tìm mọi cách để chống lại Chủ nghĩa Mác-Lênin, cản trở sự thâm nhập và lan rộng của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Những thế lực đòi xét lại, đòi bác bỏ nhiều vấn đề lý luận trong quan niệm duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, như lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước và cách mạng xã hội...

Nhiều nhà tư tưởng tư sản đưa ra những thuật ngữ mới như: “Xã hội siêu công nghiệp”, “các nhà hợp nhất”, “phương tiện hợp nhất”, “siêu đấu tranh”, “ý thức hệ toàn cầu” ... của Alvin Toffler, phái Phrăng Phuốc, “chủ nghĩa Mác mới” ở các nước phương Tây. Họ cho rằng ngày nay không còn đấu tranh giai cấp, không còn chuyên chính vô sản, chỉ còn sự hợp tác, thống nhất, sự tương trợ thuần túy lẫn nhau...

Từ quan điểm của “Quyết định luận kỹ thuật”, thuyết “Hội tụ” đến “Làn sóng thứ ba” đều nhằm gián tiếp phủ nhận phương pháp tiếp cận lịch sử bằng lý luận hình thái kinh tế-xã hội của triết học Mác, phủ nhận những mâu thuẫn, xung đột truyền thống, nhất là mâu thuẫn giai cấp, qua đó cũng phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Samuel P. Huntington (chuyên gia nghiên cứu chính trị Mỹ) cho rằng, các cuộc xung đột trong lịch sử là do sự xung đột giữa các nền văn minh với nhau...

Mặc dù quan điểm này của Huntington cũng cung cấp thêm một cái nhìn đa diện về xung đột, nhưng nguồn gốc sâu xa của các cuộc xung đột trên thế giới gần đây hoàn toàn không phải do sự khác biệt về văn hóa, văn minh, càng không phải là sự khác biệt về tôn giáo. Nguồn gốc thực sự của các cuộc xung đột lớn đó là vấn đề lợi ích (cả kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh...). Quan điểm này nhằm bác bỏ lý luận mâu thuẫn giai cấp, cách mạng xã hội của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Tính khoa học, tính cách mạng làm nên giá trị chủ nghĩa duy vật lịch sử

Có thể nói, C. Mác là người đầu tiên trong lịch sử triết học “phát hiện ra quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử loài người”. V.I. Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”.

Khi nói về giá trị, tính khoa học và bản chất cách mạng của học thuyết Mác, V.I. Lênin đã khẳng định rằng, toàn bộ giá trị của học thuyết Mác là ở chỗ, lý luận đó về bản chất là một lý luận có tính chất phê phán và cách mạng. Bất cứ sự quan tâm nào về xã hội, lịch sử đều có thể tìm thấy trong học thuyết Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp.

Trong các tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, “Sự khốn cùng của triết học”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, đặc biệt là bộ “Tư bản”, C. Mác xuất phát từ phương thức sản xuất để nghiên cứu sự vận động, biến đổi, phát triển và quy luật của lịch sử. Ở đó, phương thức sản xuất được hiểu là sự vận động của lực lượng sản xuất và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đó còn là sự liên kết các lĩnh vực vào một thể thống nhất, tạo nên tính toàn vẹn và tính cụ thể đặc trưng của một xã hội.

Nội dung này được thể hiện tập trung trong học thuyết hình thái kinh tế-xã hội. Bằng phạm trù hình thái kinh tế-xã hội, C. Mác đã thực hiện sự phân kỳ lịch sử qua những giai đoạn phát triển khác nhau với những đặc trưng cơ bản, thể hiện tính gián đoạn trong sự bao hàm, sự thay thế nhau một cách tất yếu, hợp quy luật các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người.

Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội lần đầu tiên cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp con người hiểu được logic khách quan của quá trình tiến hóa xã hội. Nó vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện ở những quốc gia, dân tộc khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Bằng việc phát hiện ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C. Mác đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ toàn thế giới những con đường và biện pháp hiện thực để tự giải phóng khỏi ách áp bức về mặt xã hội và tạo ra những điều kiện, tiền đề cho một cuộc sống thật sự mang tính người trong xã hội cộng sản.

Mục đích của quan niệm duy vật về lịch sử là chứng minh tính tất yếu ra đời của chủ nghĩa cộng sản. Với nhãn quan của một nhà triết học, chính trị với tinh thần nhân đạo, yêu thương con người và yêu tự do vô hạn, ngay trong những tác phẩm đầu tiên khi xây dựng Chủ nghĩa Mác, C. Mác và Ph.Ăng-ghen đã đưa ra tư tưởng về xây dựng một thế giới cho sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thế giới. Thông qua sự phân tích tất yếu kinh tế, C. Mác và Ph.Ăng-ghen đã làm rõ cơ sở thực sự của các chế độ xã hội, thể chế chính trị và tính chất bất công về mặt xã hội nảy sinh từ tất yếu kinh tế và những phương thức để giải quyết các mâu thuẫn xã hội thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử.

Tiếp tục bổ sung, phát triển học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học

Có thể khẳng định, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Trong đó, đấu tranh giai cấp vẫn còn tồn tại, thậm chí ở nhiều khía cạnh còn gay gắt và phức tạp hơn. Hiện nay, “trật tự thế giới mới” hình thành ngày càng bộc lộ bản chất giai cấp của chủ nghĩa tư bản. Đó là trật tự bao hàm bạo lực, chiến tranh, áp bức, cường quyền, can thiệp, khủng bố. Cho dù chủ nghĩa tư bản làm dịu đi những mâu thuẫn trong lòng nó và chưa cạn kiệt khả năng phát triển, nhưng có thể khẳng định rằng tự bản thân nó đang tạo ra những điều kiện để phủ định chính nó. Điều đó vẫn làm cho cuộc đấu tranh vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn, nhất là đối với những nước đang đi theo con đường xây dựng CNXH.

Đối với vấn đề nhà nước, các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc một cách tinh vi hơn, che đậy bản chất nhà nước một cách kín đáo hơn. Họ khẳng định nhà nước tư sản hiện đại là nhà nước dân chủ nhất, ưu việt nhất, là “nhà nước phúc lợi chung”, bảo đảm phúc lợi cho tất cả mọi người dân... Đi đôi với việc đề cao nhà nước tư sản, họ không ngừng phủ nhận nhà nước xã hội chủ nghĩa và phủ nhận, xuyên tạc bản chất dân chủ và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng đó chỉ là sự ngụy biện.

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, GS, TS Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”.

“Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân-yếu tố bản chất nhất của dân chủ”.

Sự chênh lệch giàu nghèo, phân cực xã hội, chiến tranh, bạo lực, chủ nghĩa cường quyền vẫn tồn tại và ngày càng phức tạp. Vai trò thao túng ngày càng tăng lên của tư bản tài chính khiến kinh tế thế giới ngày càng khó quản lý và kiểm soát, dẫn đến những nguy cơ nổ tung và các phản ứng dây chuyền tác động tổng thể đến nhiều nền kinh tế và các quốc gia trên thế giới. Các cuộc khủng hoảng theo chu kỳ vẫn đang diễn ra như dự liệu, tiên đoán của C. Mác và Ph.Ăng-ghen.

Thực tế đến nay, nhiều nước đang xây dựng thành công CNXH trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Những thành tựu to lớn đã đạt được ở các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Trung Quốc, Cuba... chứng minh rằng, học thuyết về CNXH là học thuyết đúng đắn; quan niệm duy vật về lịch sử là quan điểm khoa học và cách mạng.

Mặc dù vậy, như V.I. Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản rằng: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Lời căn dặn của V.I. Lênin đến nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự.

Ngày nay, trước những thắng lợi to lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “những kẻ “đói kém” về mặt lý luận, nhưng lại “giàu có” về các thủ đoạn” vẫn tiếp tục chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng mưu toan làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, phá hoại thành quả cách mạng. Do vậy, để củng cố nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng thì điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là những người mácxít phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường kiên định, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; không được dao động, mất lập trường.

Mặt khác, phải có khả năng nhận thức đúng những thay đổi của thời đại để nhận diện được các quan điểm sai trái, thù địch và có những thay đổi trong sách lược phù hợp với thực tiễn. Cùng với đó, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận Mác-Lênin về CNXH khoa học, vì đây là một trong những cách bảo vệ tốt nhất học thuyết khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và phong trào cộng sản trên toàn thế giới.

TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH, GÓP PHẦN BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA

 Bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt để triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển thành: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”.

Quan điểm BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ bài học kinh nghiệm được đúc kết từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đồng thời thể hiện bước phát triển quan trọng từ thực tiễn và lý luận của Đảng về quốc phòng, an ninh (QPAN), đối tác, đối tượng, về BVTQ trong tình hình mới.

Từ xưa đến nay, đất nước ta đã áp dụng nhiều biện pháp, như: Tích cực hoạt động bang giao, giữ hòa khí với các nước láng giềng, tránh chiến tranh khi còn có thể; chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng quân đội, tiềm lực quốc gia; giữ vững biên giới; thực hiện kế sách khoan thư sức dân... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, Việt Nam cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.

Thực tế cho thấy, BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là tư tưởng chỉ đạo, hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Kế sách này được vận dụng sáng tạo, linh hoạt thông qua việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và "thế trận lòng dân"; thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với QPAN trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội... Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động không ngừng chống phá kế sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Vì vậy, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp để đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá này. Đặc biệt, ngày 22-10-2018 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Tiếp đó, ngày 4-6-2019, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 53-KL/TW về việc chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ, triệt phá tin giả, thông tin sai sự thật, xấu độc trên internet, mạng xã hội. Hai văn bản này tạo khuôn khổ phối hợp đồng bộ, có hiệu quả giữa các cơ quan làm nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng.

Việc đặt ra yêu cầu chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, góp phần BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy xuất phát từ đánh giá, nhận định thấu đáo của Đảng ta về tình hình trong nước, những diễn biến mới và thay đổi nhanh chóng trên thế giới; phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch.

Về tình hình trong nước. Tuy đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn mà không ai có thể phủ nhận, như Đảng ta đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”; song vẫn còn tồn tại những hạn chế, khiếm khuyết, như: Sự phân hóa giàu nghèo, khoảng cách chênh lệch về sự phát triển giữa các vùng miền, vẫn còn nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực... Các thế lực thù địch, phản động luôn tận dụng những hạn chế, khuyết điểm này để suy diễn, xuyên tạc, thổi phồng hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết liệt chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Về những diễn biến mới và thay đổi nhanh chóng trên thế giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thay đổi rất mau lẹ, khó đoán định với nhiều xu hướng đáng quan ngại nổi lên (như chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, trào lưu dân túy, sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ...) đặt ra hàng loạt thách thức đối với các quốc gia. Không gian lựa chọn chiến lược của Việt Nam bị thu hẹp dưới tác động của thay đổi địa chính trị quốc tế, cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa các nước lớn. Bối cảnh mới đòi hỏi Việt Nam phải duy trì thế cân bằng chiến lược trong quan hệ với các nước để tránh đối đầu, trở thành nạn nhân của xung đột vũ trang và chiến tranh.

Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra một không gian chiến lược mới “không gian mạng”. Đây là môi trường chủ yếu, không thể thiếu trong triển khai các chiến lược, quan hệ đối ngoại, củng cố, duy trì hoạt động kinh tế-xã hội của các quốc gia, đưa tới những chuyển biến sâu sắc về mọi mặt, trong đó có những phương tiện và phương thức bảo đảm QPAN, BVTQ, tạo ra những thách thức mới...

Trong thế giới phẳng hiện nay, người dân được tiếp cận thông tin rất nhanh và phong phú, đa chiều, cả mặt thuận và mặt trái, trong đó nhiều thông tin không được kiểm chứng. Những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo trên không gian mạng tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân và sự nghiệp QPAN, BVTQ.

Phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch không ngừng thay đổi, ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt là tận dụng thành tựu khoa học, công nghệ để tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta. Không gian mạng đã được chúng tận dụng triệt để với quy mô, mức độ, đối tượng rộng khắp và rất khó kiểm soát. Các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối chủ yếu sử dụng mạng xã hội để tung tin xấu độc, tán phát tài liệu, quan điểm sai trái nhằm tuyên truyền, phá hoại nền tảng tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, từng bước thực hiện âm mưu thay đổi chế độ chính trị nước ta. Theo báo cáo của Bộ Công an, chỉ riêng năm 2020 đã phát hiện hơn 3.000 trang mạng có nội dung xấu độc, đăng tải hơn 800.000 bài viết, video clip có nội dung chống phá, hòng làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động cố tình tung nhiều thông tin không có lợi cho chính sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước ta. Ví như chúng thường lợi dụng những sự việc trên Biển Đông để bóp méo, bịa đặt, xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; kích động chiến tranh và gây chia rẽ, bất ổn trong nước; đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải xem xét lại chính sách đối ngoại theo hướng tẩy chay nước này, dựa vào nước khác... Đây là những luận điệu phản động rất nguy hiểm, cố tình phá hoại chính sách đối ngoại, quốc phòng của Việt Nam theo nguyên tắc vừa đạt được mục tiêu BVTQ vừa giữ được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Dự báo, hoạt động chống phá của các đối tượng phản động, chống đối sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát hơn trong thời gian tới. Vì vậy, để chủ động đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, gây tổn hại tới chính sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước và toàn dân, toàn quân ta; đồng thời góp phần thực hiện thắng lợi đường lối BVTQ từ sớm, từ xa, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, các cơ quan nghiên cứu lý luận, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cần chủ động hơn nữa trong công tác nghiên cứu chiến lược, nắm chắc tình hình, diễn biến trong và ngoài nước, cụ thể như: Các xu hướng vận động của thế giới và khu vực, nhất là khu vực ASEAN, Biển Đông; phân tích kỹ những cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; những diễn biến trên thế giới để chỉ rõ những tác động đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ... Trên cơ sở đó, chuẩn bị các luận cứ khoa học phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái; hoàn thiện chiến lược BVTQ, nhất là kế sách chủ động BVTQ từ trong thời bình; tập trung phát triển, hoàn thiện lý luận BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy trong tình hình mới.

Hai là, tăng cường thông tin, tuyên truyền để đạt được thống nhất cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ trương BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy. Để thực hiện được điều này, Ban Tuyên giáo Trung ương và các cấp, ngành cần thường xuyên cập nhật kiến thức về BVTQ trong tình hình mới; xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên và cập nhật thường xuyên tài liệu tuyên truyền công khai về các vấn đề dư luận trong nước và quốc tế quan tâm theo hướng dễ đọc, dễ hiểu... để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền.

Ba là, thường xuyên quan tâm nghiên cứu, nắm thật chắc tình hình tư tưởng, các xu hướng xã hội, đặc biệt là những vấn đề, sự kiện nhân dân quan tâm để kịp thời thông tin, định hướng dư luận có nhận thức đúng; không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng "khoảng trống thông tin" để xuyên tạc, kích động; tránh để người dân vì tò mò mà tìm cách tiếp cận thông tin xấu độc, thiếu kiểm chứng... Thực tế cho thấy, đây là việc hết sức quan trọng, bảo đảm giữ vững niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; phòng, chống tư tưởng, tâm lý dao động, mất lòng tin trong nhân dân và dẫn tới “tự diễn biến”, suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng không vững vàng.

Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại; chủ động cung cấp thông tin chính thống, đầy đủ cho các đối tác, cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam để họ hiểu đúng, hiểu toàn diện, tránh cách nhìn phiến diện, thiên lệch về tình hình tại Việt Nam; không để các đối tượng phản động, chống đối lợi dụng cung cấp thông tin một chiều, không đúng thực tế, gây bất lợi cho Đảng, Nhà nước ta, nhất là trong thực hiện kế sách BVTQ từ sớm, từ xa.

Năm là, luôn theo dõi sát, nắm bắt kịp thời các dạng quan điểm sai trái và những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị nhằm chủ động trong đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả. Đồng thời, cần đổi mới phương thức đấu tranh trên các mặt pháp lý, truyền thông, tuyên truyền, đặc biệt là về mặt kỹ thuật. Lực lượng chuyên trách các cấp cần đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn thông tin sai trái, tội phạm mạng...; tăng cường số lượng, chất lượng thông tin tích cực để đẩy lùi thông tin xấu độc.

Sáu là, chủ động phát hiện sớm và xử lý kịp thời những vụ việc phức tạp, nổi cộm phát sinh, những vấn đề bức xúc trong xã hội; không để các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền chống phá, không để các vụ việc phức tạp kéo dài, phát triển ngoài tầm kiểm soát, gây ra tâm lý hoài nghi, giảm lòng tin trong quần chúng nhân dân đối với các cấp chính quyền và Đảng, Nhà nước ta.