Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2022

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc

 


Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi nghiên cứu lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã đi đến một kết luận: sử ta dạy cho ta bài học này, lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một, thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Theo quan điểm của Người, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết: mọi người mang trong mình dòng máu con Lạc, cháu Hồng, là đoàn kết “mọi con dân đất Việt”, đoàn kết “mỗi một người con Rồng, cháu Tiên”. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, Người kêu gọi “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê - đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”[1] Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu dây liên lạc, hai là vì có kẻ xúi giục để chia rẽ chúng ta. Ngày nay, nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Giang sơn và chính phủ là chung của chúng ta. Vậy nên “Tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước Nam ta, để ủng hộ Chính phủ ta”[2] Người dạy rằng “Đồng bào tất cả các dân tộc, không phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà để cùng nhau xây dựng Tổ quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho tất cả các dân tộc được hạnh phúc ấm no”[3] Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng chính sách dân tộc thiểu số đối với công tác quốc phòng - an ninh, Người viết: … “Miền núi đối với quốc phòng rất quan trọng. Vì vậy, phải chăm lo đến việc củng cố quốc phòng, duy trì trật tự trị an, để chủ động tiêu diệt nhanh chóng bọn biệt kích, đập tan âm mưu của bọn phản động…Toàn Đảng, toàn dân đều phải có trách nhiệm giúp sức vào việc đó”[4]. Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta nhằm giải quyết sự chênh lệch giữa các vùng, miền trong nước, muốn vậy phải thực hiện mọi mặt thực sự bình đẳng dân tộc; đoàn kết dân tộc phải gắn với hoạch định chính sách dân tộc với những nội dung toàn diện, cụ thể.



[1] Trích thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Play Ku ngày 19/4/1946

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H.2000, tr.217.218.

 

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, H.2002, tr.282.

 

[4] Sdd, tập 11, tr.136.

Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc

 


Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác- Lênin đã có quan điểm đúng đắn về vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc với giai cấp trong cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo C.Mác và Ph.Ăng-ghen để ổn định dân tộc trong một quốc gia: “Hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ được xóa bỏ”[1]. Hai ông cũng cho rằng: “Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo”[2]. Theo hai ông để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết cần phải giải quyết sự đối kháng giai cấp. Giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện đầu tiên để giải phóng dân tộc. Trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, hai ông đã kêu gọi: “Vô sản tất cả các nước liên hiệp lại”.

Kế thừa quan điểm trên, V.I.Lênin đã hiệu triệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Ông chủ trương các dân tộc bình đẳng và giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Lênin luôn nêu cao ngọn cờ quyền dân tộc tự quyết. Ông cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội không những xóa bỏ mọi trạng thái biệt lập giữa các dân tộc, không những làm cho các dân tộc gần gũi nhau mà cũng còn nhằm thực hiện việc hợp nhất các dân tộc lại”[3].

 



[1] C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4,NxbCTQG,H.1995,tr624.

[2]  C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4,NxbCTQG,H.1995, tr 624.

 

[3] V.I.Lênin, Toàn tập, tập 30,Nxb. Tiến bộ, Mátsxcơva, 1981, tr.328.

NGHIÊN CỨU, NẮM VỮNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO CÓ Ý NGHĨA QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

 


Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc, đa tín ngưỡng, tôn giáo. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng bào các dân tộc, tôn giáo luôn luôn đoàn kết, chung tay đấu tranh chống “thiên tai, địch hoạ”, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo và công tác dân tộc, công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự.

Vì vậy nghiên cứu nắm vững vấn đề dân tộc, tôn giáo có ý nghĩa quan trọng trong tình hình hiện nay, nhất là cán bộ các cấp trong Quân đội trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Như thế cũng là tự diễn biến

 

Ông bạn cùng cơ quan tôi nhận quyết định nghỉ hưu thì đề nghị ngay cơ quan chức năng làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng về nơi cư trú.

Thủ tục hoàn thành, ông phấn khởi về sinh hoạt tại chi bộ khu phố. “Như vậy, tôi đã thực hiện đúng nguyên tắc, điều lệ sinh hoạt Đảng, những quy định của Ban Tổ chức Trung ương. Tôi không để gián đoạn sinh hoạt Đảng dù chỉ một tháng, có nghĩa là liền mạch được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người đảng viên...”.

Nghe ông bạn, người đảng viên đã nhận Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng bày tỏ điều ấy, tôi cảm mến và trân trọng biết bao nhiêu. Có thể nói, đại đa số đảng viên là cán bộ, viên chức, bộ đội, công an, công nhân viên sau khi được nghỉ hưu đều chuyển về sinh hoạt Đảng ở nơi cư trú như bạn tôi.

Tuy nhiên, vẫn có không ít đảng viên sau khi nghỉ hưu thì không mấy “mặn mà” với việc chuyển Đảng, sinh hoạt Đảng. Có đảng viên cứ khất lần việc chuyển sinh hoạt Đảng với lý do “chưa xác định chính thức nơi cư trú sau khi nghỉ hưu”.

Có người nghỉ hưu thì thôi luôn sinh hoạt Đảng, không đến cơ quan, đơn vị làm hồ sơ, thủ tục chuyển Đảng. Có người làm thủ tục chuyển sinh hoạt Đảng, nhưng nhận hồ sơ Đảng về chỉ giữ làm “kỷ niệm”, không chịu đến cơ quan, tổ chức để chuyển tiếp sinh hoạt Đảng.

Khi nghỉ hưu, có người sống “nửa phố, nửa quê” thì không trung thực, cấp ủy nơi cư trú hỏi về việc chuyển Đảng thì nói dối là “tôi chuyển Đảng về quê”; khi về quê có người hỏi việc này thì lại ráo hoảnh “tôi sinh hoạt ở chi bộ tổ dân phố”...

Tất cả trường hợp trên đều là thiếu tính đảng, đều vi phạm điều lệ và nguyên tắc của Đảng, đều là phủ định chính mình. Khi phấn đấu vào Đảng, hẳn những lời tuyên thệ, đảng viên nào cũng nhớ. Rồi khi còn công tác, chắc hẳn những đảng viên này cũng luôn tỏ rõ vừa “hồng”, vừa “chuyên” để mà tiến thủ... 

Bây giờ nghỉ hưu, không còn chức vụ, không còn “quyền”, ắt chẳng có “lợi” nên không thiết tha với Đảng nữa. Tư tưởng này rất đáng phê phán, đó cũng là biểu hiện của “tự diễn biến”, biểu hiện của cơ hội, ích kỷ, chính là tư tưởng “lợi ích đương chức”. Đảng ta là một tổ chức cách mạng và chặt chẽ, chứ không phải là một câu lạc bộ mà tồn tại những suy nghĩ, tư tưởng không đẹp đó. 

“Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất…”

 

Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng: “…Các tầng lớp tiểu tư sản tuy là sôi nổi, nhưng tư tưởng bế tắc, không có đường ra. Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”, đăng trên Báo Nhân dân, số 2120, ngày 6-1-1960. Bài báo ra đời trong thời điểm Đảng ta tròn 30 tuổi, đang lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đẩy nhanh hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bài học lớn tổng kết lịch sử, khẳng định Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng tỏ rõ là lực lượng đại biểu cho trí tuệ, ý chí của giai cấp công nhân, nhân dân Việt Nam: dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.

Lời của Người là nguồn ánh sáng chiếu rọi khắp mọi miền đất nước, được mọi cán bộ, đảng viên của Đảng trân trọng đón nhận, tạo động lực tinh thần thi đua học tập nâng cao bản lĩnh cách mạng, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, gắn bó đoàn kết cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.

Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Quân đội nhân dân Việt Nam thường xuyên được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện; không ngừng củng cố tăng cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị, phát huy truyền thống dân tộc, gắn bó mấu thịt với nhân dân, anh dũng, kiên cường, chiến đấu sáng tạo, cùng toàn dân đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.

Trong tình hình mới, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn thấm nhuần lời Bác năm xưa, thường xuyên quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong Quân đội, giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, công cụ bạo lực sắc bén, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Đảng.

Không thể xuyên tạc, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

 

Sứ mệnh lịch sử (SMLS) toàn thế giới của giai cấp công nhân (GCCN) hiện đại là phát kiến vĩ đại của C.Mác. Bằng cái nhìn duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng về sứ mệnh của GCCN trong toàn bộ học thuyết của mình, song tập trung nhất là ở lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học.

Tuy nhiên, thời gian qua, một số người nhận thức chưa đầy đủ hoặc sai lệch về SMLS của GCCN, thậm chí, có đối tượng còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận SMLS của GCCN. Góp phần phê phán các nhận thức này và bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác là nhiệm vụ chung của chúng ta hiện nay. 

Nhận thức phiến diện, luận điệu xuyên tạc

Giải phóng giai cấp, dân tộc, nhân loại thoát khỏi bóc lột, áp bức, bất công để mọi người và mỗi người được sống trong công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do. Những khát vọng cao đẹp ấy của nhân loại đã có từ bao đời. Nhưng chỉ đến thế kỷ 19, khi xuất hiện nền đại công nghiệp và cùng với đó là sự trưởng thành của GCCN và chính đảng của nó thì những cơ sở thực tiễn để hiện thực hóa khát vọng ấy mới xuất hiện đầy đủ. 

CNXH khoa học đã làm rõ những tất yếu, quy luật cùng những điều kiện, lực lượng, động lực, lộ trình để thực hiện SMLS của GCCN. Xã hội hóa trong sản xuất kinh tế và dân chủ hóa trong đời sống chính trị-xã hội là những tiền đề của CNXH do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) tạo ra. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của CNXH là nền sản xuất phát triển cao được xây dựng trên cơ sở xác lập chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là một tất yếu xuất phát từ yêu cầu xã hội hóa của sản xuất công nghiệp, được thực hiện thông qua tự giác thực hiện quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lý luận về SMLS của GCCN là cốt lõi của lý luận về CNXH khoa học.

Tuy nhiên, thời gian qua, một số người nhận thức chưa đầy đủ hoặc sai lệch về SMLS của GCCN, thậm chí, nhiều đối tượng còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận SMLS của GCCN với ý đồ không lành mạnh.

Có ý kiến cho rằng, “GCCN trên thế giới hiện nay không khác mấy GCCN của những năm 70 của thế kỷ 20”; đó chỉ là những nhóm người “trực tiếp lao động sản xuất của cải vật chất trong công nghiệp”, “trong xã hội hiện đại, công nhân đang ít đi và không chiếm đa số trong lao động”. Một nhận thức phiến diện khác cho rằng, hiện nay, vị thế của công nhân ở nhiều nước không có gì khác so với thế kỷ 19-tức là công nhân “làm thuê, không có quyền định đoạt sản xuất và phân phối”... Hoặc cũng có nhận xét rằng “hiện nay trên thế giới không thấy phong trào công nhân, chỉ thấy các phong trào xã hội”. Bên cạnh đó, một số người cho rằng, hiện nay, “SMLS của GCCN chỉ còn được tiếp tục ở một vài nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”... 

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện đại, vấn đề SMLS của GCCN là trọng điểm đấu tranh của cả GCCN và giai cấp tư sản, CNXH và CNTB cùng nhiều sắc thái chính trị-xã hội khác nhau. Họ biết rõ rằng, SMLS của GCCN là cốt lõi của CNXH khoa học và phủ nhận được sứ mệnh này là phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của GCCN và đảng cộng sản. Gần đây, trong xu thế phát triển của thế giới với trình độ kinh tế tri thức và hướng tới cách mạng công nghiệp 4.0, cũng có ý kiến cho rằng, “trong kinh tế tri thức thì SMLS là của trí thức chứ không phải của công nhân”. Đây là một nhận thức không đầy đủ.

Những phân tích sau đây có thể góp phần làm rõ hơn nhận thức liên quan đến vấn đề trí thức và SMLS của GCCN trong thời đại ngày nay.

Trí thức có vai trò rất quan trọng nhưng không thể thay thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Thứ nhất, cho dù tri thức, kiến thức khoa học có vai trò to lớn, nhưng phát triển hiện đại không vì thế mà không cần đến sản phẩm vật chất để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của mình (chẳng hạn ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, xây dựng, chữa bệnh...). Tất cả nhu cầu ấy lại chỉ có thể được thỏa mãn thông qua sản xuất vật chất và thường là thông qua sản xuất công nghiệp. Chỉ có sản xuất vật chất bằng phương thức công nghiệp mới có đủ năng lực đáp ứng nhu cầu của gần 8 tỷ người trên thế giới hiện nay. Vì vậy, nhân loại hiện nay vẫn cần tới sản xuất vật chất và lao động của GCCN để tồn tại và phát triển.

Thứ hai, GCCN hiện đại đang được trí thức hóa, trí tuệ hóa trong các cuộc cách mạng công nghiệp. Yêu cầu khách quan của sản xuất, dịch vụ hiện đại và vận hành nền sản xuất công nghiệp hiện đại đòi hỏi GCCN không ngừng nâng cao năng lực lao động, làm chủ khoa học và công nghệ. Hiện nay, khoảng 40% công nhân của các nước G7 có trình độ đại học. Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (năm 2002), gần 70% công nhân Nhật Bản có trình độ đại học. Với trình độ như vậy, trên thực tế, người ta dùng khái niệm công nhân-trí thức để chỉ nhóm lao động trình độ cao này. Thế nên, quan niệm công nhân “là người lao động thừa hành, trình độ học vấn thấp” đã lạc hậu và bất cập với thực tế.

Thứ ba, SMLS của GCCN tự nó đã mang một hàm lượng tri thức rất lớn và bản thân GCCN cũng đang trí tuệ hóa, đang tạo ra một lớp trí thức-công nhân trong lực lượng lao động của mình. Họ là các chuyên gia, nhà khoa học và công nghệ đang hằng ngày hoàn thiện, phát triển để tăng năng suất lao động, bảo đảm các yêu cầu ngày càng cao về kinh tế-xã hội và môi trường. Xã hội gọi nhóm lao động này là trí thức-công nhân hay nguồn nhân lực trình độ cao. Theo đó, cả về lý luận và thực tiễn, SMLS của GCCN không xa lạ gì với tri thức, trí thức, khoa học hiện đại. Việc tách rời tri thức với quá trình thực hiện SMLS của GCCN là một cái nhìn phiến diện.

Thứ tư, trí thức là nhóm lao động sản xuất ra các giá trị tinh thần; còn công nhân là nhóm lao động sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất, các quá trình kinh tế xét đến cùng, bao giờ cũng là yếu tố quyết định nhất. Tri thức và lao động của họ, có vai trò rất quan trọng trong phát triển hiện đại nhưng bao giờ cũng cần đến việc chuyển hóa những giá trị tinh thần đó vào thực tiễn. Những công thức, ý tưởng sáng tạo, phần mềm (software) hay nói chung là phát kiến khoa học đều cần tới công nghệ để thể hiện ra giá trị của mình. Trên thực tế, nhiều sản phẩm tinh thần chỉ có thể bộc lộ giá trị thông qua việc hóa thân vào những ứng dụng công nghệ. Khoa học cần công nghệ để thể hiện ra, công nghệ cần khoa học để tiến hóa. Hai quá trình thực tiễn này hiện nay đã gần gũi lại trong một lĩnh vực hoạt động mà hiện nay thường gọi là “cách mạng khoa học và công nghệ”. Thông qua thực tiễn đó có thể nhận định: Sản xuất vật chất là cái quyết định, sản xuất tinh thần là để phục vụ cho quá trình tồn tại của xã hội. Sáng tạo tinh thần như khoa học, văn hóa, nghệ thuật có vai trò rất quan trọng trong phát triển xã hội hiện đại, nhưng nếu chỉ tinh thần thôi thì chưa đủ nền tảng cho phát triển bền vững của xã hội loài người.

Thứ năm, SMLS thực chất là sự nghiệp của một giai cấp đảm nhận trách nhiệm lãnh đạo xã hội xây dựng một hình thái kinh tế-xã hội mới. Để làm tròn trách nhiệm ấy, đòi hỏi giai cấp có SMLS phải đạt được những yêu cầu, đặc điểm riêng. Điều đó tập trung ở 4 nội dung: Phải là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ xã hội, bao gồm cả về kinh tế (xu thế phát triển sản xuất) và chính trị (đại diện cho xu thế dân chủ hóa); phải là đại diện cho lợi ích chung của xã hội, các giai tầng và cả dân tộc; phải có một hệ tư tưởng riêng vừa phản ánh nhận thức về quy luật vận động đương thời, vừa thể hiện tính tiền phong về lý luận; phải có kết cấu, tổ chức chặt chẽ với một hạt nhân là chính đảng của giai cấp...

Một giai cấp muốn đảm nhận sứ mệnh xác lập một hình thái kinh tế-xã hội mới, nhất thiết phải đáp ứng các điều kiện trên. Đội ngũ trí thức không hội đủ các điều kiện ấy. Ngộ nhận về sự tăng lên của vai trò trí thức trong phát triển hiện đại đôi khi khiến người ta lãng quên những mối quan hệ, các đặc điểm và vị thế của trí thức trong tồn tại xã hội. Trí thức có công khái quát những tri thức lý luận và nâng cao trình độ nhận thức của phong trào công nhân. Trí thức có thể cùng với GCCN và nhân dân làm nên lực lượng của cách mạng XHCN. Thực hiện SMLS của mình, GCCN cần đến sự hợp tác của trí thức và tự mình nâng cao tri thức, kỹ năng lao động hiện đại. Nhưng đảm nhận vai trò lãnh đạo cách mạng XHCN thì chỉ có GCCN mới đủ cơ sở, điều kiện, năng lực thực tế.

Tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Cách mạng XHCN coi việc giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công và để con người phát triển trong công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do là mục tiêu cao nhất. Sứ mệnh hàng đầu của GCCN là bằng phương thức lao động công nghiệp để sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, tốt hơn cho quá trình phát triển của nhân loại. Từ đó, họ tạo ra các tiền đề, điều kiện vật chất cho xã hội mới.

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác và từ thực tiễn hiện nay, GCCN ở tất cả quốc gia với trình độ phát triển khác nhau vẫn đang tiếp tục thực hiện SMLS của mình với nhiều trình độ, cách thức khác nhau. Thậm chí, dưới góc nhìn của chủ nghĩa duy vật lịch sử, hiện nay, chính GCCN ở các nước TBCN phát triển, bằng việc làm chủ khoa học và công nghệ hiện đại, bằng năng suất lao động cao lại đang đóng góp tích cực cho việc thực hiện nội dung kinh tế kỹ thuật của SMLS của GCCN. 

Có thể khẳng định rằng, SMLS toàn thế giới của GCCN là một học thuyết về giải phóng và phát triển hiện đại do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin luận giải một cách khoa học, hệ thống. Đây là vũ khí tư tưởng của các đảng cộng sản, của GCCN trong cuộc đấu tranh với ý thức hệ tư sản và các thế lực thù địch với CNXH. Chúng ta cần luôn cảnh giác phát hiện và đấu tranh với những tư tưởng sai lầm, xuyên tạc để bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng của lý luận về SMLS của GCCN và qua đó, bảo vệ chế độ XHCN cần được xem là nhiệm vụ thường trực.

Ở Việt Nam, chúng ta cần thấm nhuần sâu sắc rằng, thực hiện thành công sự nghiệp “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển đất nước nhanh và bền vững” để tạo ra cơ sở vật chất cho CNXH và “xây dựng GCCN hiện đại, lớn mạnh” cần được xem là những cơ sở hiện thực, phương hướng chính để làm rõ và khẳng định SMLS của GCCN Việt Nam đối với dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Tiếp dân không thể ủy quyền

 

Quy định số 11-QĐi/TW của Bộ Chính trị nhấn mạnh trách nhiệm của bí thư cấp ủy các cấp phải "trực tiếp thực hiện việc tiếp dân, kịp thời đối thoại với dân khi cần thiết và xử lý, giải quyết các phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của dân theo thẩm quyền" nhằm khắc phục những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện, nhiều bí thư cấp ủy các cấp đã quyết tâm khắc phục mọi rào cản để trực tiếp lắng nghe dân, nhưng vẫn còn tình trạng cáo "bận công tác" để không chấp hành Quy định 11.

Tiếp dân không nghỉ trưa

"Tiếp dân không nghỉ trưa" là phương châm mà Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Lê Đức Thọ thực hiện trong công tác tiếp dân. Định kỳ vào tuần thứ 3 hằng tháng, trụ sở tiếp công dân tỉnh Bến Tre (số 600-B9 Nguyễn Thị Định, khu phố 7, phường Phú Khương, TP Bến Tre) lại đón công dân dự buổi tiếp dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy. Đồng chí Lê Đức Thọ và các cơ quan chức năng của tỉnh đã quen với việc tiếp dân cả trưa, hoặc tiếp một người, cùng một vụ việc nhiều lần, tiếp cho đến khi hết công dân đăng ký gặp. Gần đây nhất, ngày 20-7-2022, đồng chí Lê Đức Thọ đã tiếp xúc, lắng nghe ý kiến của 48 công dân.

Gặp gỡ, lắng nghe, chỉ đạo phương hướng giải quyết nguyện vọng của 48 công dân trong một ngày là số lượng lớn. Để có thể làm được điều đó, Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ và các cơ quan chức năng phải làm việc liên tục từ 7 giờ 30 phút và kết thúc lúc 17 giờ 15 phút cùng ngày. Các công đoạn chuẩn bị cho buổi tiếp công dân phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Trong suốt thời gian tiếp dân, tất cả chỉ có 30 phút buổi trưa để ăn uống, xử lý các công việc cá nhân rồi lại tiếp tục làm việc.

Theo đồng chí Võ Thanh Tùng, Phó trưởng ban Tiếp công dân tỉnh Bến Tre: Tiếp dân là việc làm thường xuyên của Bí thư Tỉnh ủy. Lãnh đạo, cán bộ, nhân viên các cơ quan chức năng tham gia buổi tiếp cũng theo đó mà “ai có gì thì dùng nấy”, người thì ăn bánh mì, người thì ăn đồ ăn từ nhà mang đi. Tất cả làm việc với tinh thần theo đồng chí Bí thư Tỉnh ủy chỉ đạo: Phải lắng nghe, tiếp thu toàn bộ ý kiến của người dân. Không để xảy ra tình trạng người dân đã tìm đến gặp Bí thư Tỉnh ủy nhưng lại phải ra về vì không đủ thời gian.

Với tinh thần trên, kể cả những công dân tới nhiều lần, cùng một sự việc, dù có kết luận của các cơ quan chức năng là đã xử lý đúng quy định của pháp luật, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre vẫn gặp, kiên trì lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của họ. Đơn cử như trường hợp ông Trần Hồng Lạc (121/3, lộ số 4, phường 4, TP Bến Tre) có ý kiến khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai. Ông Trần Hồng Lạc cho biết đã được Bí thư Tỉnh ủy tiếp xúc nhiều lần.

Trước đó, ngày 6-5-2021, Tỉnh ủy Bến Tre có Công văn số 36-CV/TU trả lời ông Trần Hồng Lạc rất cụ thể: “Nội dung khiếu nại của ông, cơ quan chức năng của tỉnh đã giải quyết đúng thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật và không có cơ sở để xem xét lại”. Tuy nhiên, ông Lạc vẫn không đồng tình, tiếp tục nhiều lần tìm gặp đồng chí Bí thư Tỉnh ủy để bày tỏ nguyện vọng. Từ đầu năm 2022 đến hết tháng 7-2022, tại các buổi tiếp công dân của Bí thư Tỉnh ủy, ông Lạc đã gặp, trình bày nguyện vọng với đồng chí Lê Đức Thọ tổng cộng 6/7 buổi (chỉ trừ buổi tiếp tháng 2 là ông vắng mặt). Tuy đã nắm rõ tình hình, kết quả xử lý vụ việc, nhưng đồng chí Lê Đức Thọ vẫn gặp, lắng nghe, ghi nhận ý kiến của ông Lạc, xem có tình tiết mới sẽ chỉ đạo xử lý. Được biết, từ đầu năm 2021 đến hết tháng 6-2022, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre Lê Đức Thọ đã tiếp dân 18 cuộc, với 48 lượt/141 công dân, giải quyết dứt điểm 77 vụ việc, 16 vụ việc đang tiếp tục giải quyết.

 Chủ động lắng nghe nguyện vọng của công dân, không ủy quyền trong công tác tiếp dân cũng là quyết tâm của Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam Lê Thị Thủy để thực hiện nghiêm Quy định 11. Đồng chí Ngô Văn Khiển, Phó trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy Hà Nam cho biết: "Trên địa bàn tỉnh cũng có nhiều vụ việc công dân dù đã được Bí thư Tỉnh ủy tiếp, các kiến nghị đã được chỉ đạo giải quyết theo đúng quy định nhưng công dân vẫn nhiều lần đến tìm gặp để tiếp tục bày tỏ nguyện vọng. Những trường hợp ấy, đồng chí Lê Thị Thủy đều trực tiếp gặp gỡ, lắng nghe, thậm chí đến tận địa bàn để nắm tình hình thực tế".

Không chỉ là tiếp dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về phong cách làm việc gần dân, trọng dân, luôn lắng nghe và giải quyết kịp thời mọi ý kiến của nhân dân. Trong vòng 10 năm (1955-1965), tuy tuổi cao, công việc bề bộn, Người vẫn thực hiện hơn 700 lượt đi thăm các địa phương, xí nghiệp, công trường, hợp tác xã, đơn vị bộ đội... Người đi khắp mọi nơi để thăm hỏi đồng bào và chiến sĩ, xem xét tình hình, kiểm tra công việc. Tính trung bình mỗi tháng, Người đi thăm, kiểm tra cơ sở 5 lần.

Gần dân thì có nhiều cách, mà một trong những cách để gần dân chính là làm tốt công tác tiếp dân. Cũng là tiếp dân, nắm tình hình người dân, lắng nghe dân, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú và Thanh Hóa Lê Huy Ngọ lại chọn cách: “Bà con cứ ở đó, tôi xuống với bà con, lắng nghe bà con”. Đến tận nơi lắng nghe người dân cũng là cách mà nhiều bí thư cấp ủy đang áp dụng.

Năm 2017, chúng tôi cùng đoàn công tác của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai Dương Văn Trang (nay là Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Kon Tum) thăm làng Pyầu (một làng đặc biệt khó khăn của tỉnh Gia Lai) trong hai ngày. Tại đây, đồng chí Dương Văn Trang quyết định ngủ lại nhà trưởng bản để hôm sau tiếp tục tiếp dân. Đồng chí đề nghị người dân trong làng nói hết mọi tâm tư, nguyện vọng để cùng bàn hướng giải quyết. Hiện trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Kon Tum, đồng chí Dương Văn Trang vẫn giữ thói quen tổ chức nhiều buổi đến tận nơi gặp gỡ, lắng nghe ý kiến của người dân. Ở làng, bản nào bà con nhiều ý kiến, đồng chí ngủ lại tại đó, sẵn sàng lắng nghe người dân phản ánh cả buổi tối và ngày hôm sau. Mới đây, chuyến làm việc tại thôn Làng Mới (xã Mường Hoong, huyện Đăk Glei) ngày 20-6-2022 là một lần như vậy. 

Một ngày giữa tháng 7-2022, chúng tôi đến xã Nghĩa Hòa (Lạng Giang, Bắc Giang). Tuy không phải ngày tiếp công dân định kỳ nhưng đồng chí Nguyễn Văn Tuấn, Bí thư Đảng ủy xã vừa tiếp một trường hợp phản ánh liên quan đến việc hiến đất làm đường nông thôn mới diễn ra từ năm 2017. Là người địa phương, đồng chí Nguyễn Văn Tuấn cũng hiểu rõ câu chuyện vốn không phức tạp hay sai phạm gì nên sau khi cùng uống một ấm trà, vừa chuyện trò tình làng nghĩa xóm, vừa giải thích, phân tích được-mất... công dân vui vẻ ra về, không gửi đơn thư nữa, tình làng nghĩa xóm cũng được giữ êm đẹp.

Đồng chí Nguyễn Văn Tuấn quan niệm, cấp xã là cấp gần dân nhất nên nếu đồng chí Bí thư Đảng ủy sâu sát, gần dân sẽ thuận lợi giải quyết những vấn đề từ khi mới phát sinh, tránh dẫn đến vụ việc phức tạp, vượt cấp. Theo Quy định 11 thì người đứng đầu cấp ủy cấp xã tiếp dân định kỳ 2 lần mỗi tháng, nhưng ở xã Nghĩa Hòa, Bí thư Đảng ủy xã tiếp dân định kỳ vào ngày thứ năm hằng tuần. Chúng tôi còn tình cờ biết chuyện tháng 6 vừa qua, ngày tiếp công dân trùng với ngày giỗ bố đẻ đồng chí Nguyễn Văn Tuấn. Thế là, theo đề xuất của anh, gia đình dời ngày cúng giỗ vào chủ nhật để không ảnh hưởng tới việc tiếp công dân tại trụ sở.

Những câu chuyện kể trên chỉ là số ít ví dụ cho thấy quyết tâm, hiệu quả từ công tác tiếp công dân của người đứng đầu cấp ủy. Hơn thế, đó còn là sự chủ động của người đứng đầu cấp ủy để gần dân, hiểu dân hơn.

Còn nhiều nơi làm chưa tốt

Tuy nhiên, cũng qua khảo sát, thực tế ở nhiều địa phương, việc thực hiện Quy định 11 nói chung và việc tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy nói riêng vẫn còn nơi, còn lúc chưa được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.

Theo Báo cáo số 162-BC/BNCTW ngày 16-6-2022 của Ban Nội chính Trung ương về kết quả thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, Chỉ thị số 27-CT/TW và Quy định số 11-QĐi/TW, trong năm 2021, về số cuộc tiếp công dân của bí thư tỉnh ủy, chỉ có 16 tỉnh tiếp đủ ít nhất 1 cuộc trong tháng (12 lần), 5 tỉnh không có số liệu, 14 tỉnh tiếp từ 1 đến 3 cuộc/năm, 15 tỉnh tiếp từ 4 đến 11 cuộc/năm, đặc biệt có 13 tỉnh không tiếp cuộc nào. Báo cáo cũng nêu rõ hạn chế: "Còn có tình trạng buông lỏng, "khoán trắng" cho cơ quan chức năng và cấp dưới”.

Ninh Bình là một địa phương sớm có quy chế của Tỉnh ủy về việc tiếp dân ngay sau khi Bộ Chính trị khóa XII ban hành Quy định 11. Tỉnh ủy Ninh Bình cũng thực hiện tốt việc công khai lịch tiếp dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy trên cổng thông tin điện tử của tỉnh. Tuy nhiên, theo dõi 7 tháng đầu năm 2022, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình chỉ tiếp dân được 1 buổi vào tháng 3; 6 tháng còn lại đều ủy quyền cho người khác thực hiện. Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở không ít địa phương trên cả nước, nhất là cấp tỉnh và cấp huyện.

Quy định 11 quy định rõ người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện phải trực tiếp tiếp dân định kỳ ít nhất 1 ngày trong 1 tháng và thực hiện tiếp dân đột xuất trong các trường hợp quy định. Mục đích của quy định này nhằm thiết lập một chế tài để người đứng đầu cấp ủy không thể thoái thác việc tiếp dân. Nhưng, thực tế ở nhiều địa phương, bí thư tỉnh ủy ủy quyền cho thành viên khác trong ban thường vụ tỉnh ủy hoặc trưởng ban nội chính tiếp dân, hoặc thường xuyên, hoặc trong một số lần cụ thể. Cũng có nơi, trước ngày tiếp dân định kỳ thì có thông báo hoãn, hủy. Lý do, nếu có, được đưa ra trong các trường hợp trên thường là do đồng chí bí thư tỉnh ủy, huyện ủy bận việc đột xuất.

Cũng theo Quy định 11, thời gian, địa điểm tiếp dân phải được thông báo trên trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức (nếu có) và trụ sở làm việc của người đứng đầu cấp ủy hoặc địa điểm tiếp dân. Hầu hết các địa phương có thông báo theo năm, hoặc từng tháng cụ thể trên cổng thông tin điện tử của tỉnh, đảng bộ tỉnh, báo địa phương. Trong thời đại công nghệ như hiện nay, phải khẳng định rằng đó là những kênh thông tin nhanh chóng và gần gũi với mỗi người dân. Tuy nhiên, ở không ít địa phương, thông tin về thời gian, địa điểm tiếp công dân của bí thư tỉnh ủy, huyện ủy không được đăng tải thường xuyên. Điều này cũng khiến người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa gặp khó khăn trong nắm bắt thông tin chính xác và khó khăn trong việc tiếp cận các buổi tiếp công dân của bí thư tỉnh ủy, huyện ủy.

Ở một số địa phương, sau tiếp công dân, còn có tình trạng việc chỉ đạo giải quyết và nắm bắt tình hình giải quyết vụ việc cho công dân của bí thư cấp ủy chưa sát sao, khiến thời gian kéo dài so với kết luận, gây bức xúc cho người dân. Hay như tình trạng đùn đẩy trách nhiệm vẫn xảy ra ở một số địa phương. Ông P.V.L (xin được giấu tên), một người chúng tôi gặp qua nhiều cuộc gặp bí thư tỉnh ủy, phản ánh: “Tôi đã được gặp bí thư tỉnh ủy ngày 26-6-2019, được đồng chí lắng nghe, sau đó chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc tỉnh và thanh tra tỉnh xem xét, rà soát, xử lý các kiến nghị và trả lời tôi. Tuy nhiên, tôi không nhận được câu trả lời của cơ quan chức năng. Tôi đã nhiều lần gửi đơn xin gặp bí thư tỉnh ủy thêm để cập nhật thông tin nhưng không được, thậm chí có mặt ở trụ sở tiếp công dân tỉnh những hôm bí thư có lịch tiếp công dân, nhưng không được ban tiếp công dân tỉnh chấp nhận cho gặp bí thư tỉnh ủy vì lý do “được gặp một lần thôi”.

Những hạn chế, tồn tại ấy cần sớm được khắc phục, giải quyết để nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy các cấp nói riêng, việc thực hiện Quy định 11 nói chung; cũng là để kéo gần khoảng cách giữa người đứng đầu cấp ủy và người dân.

Cần cơ chế giám sát người đứng đầu

 

 Theo Báo cáo số 162-BC/BNCTW ngày 16-6-2022 của Ban Nội chính Trung ương, năm 2021, cấp ủy các cấp đã có 142.172 cuộc tiếp dân định kỳ, 9.562 cuộc tiếp đột xuất; đã giải quyết 37.106 phản ánh, kiến nghị; đang giải quyết 4.076 kiến nghị; có 20.474 phản ánh, kiến nghị đã được chuyển tới các cơ quan chức năng, người có thẩm quyền giải quyết.

Những con số trên có thể chưa phản ánh đầy đủ công tác tiếp dân, xử lý các tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nhưng qua đó có thể thấy, việc thực hiện nghiêm Quy định 11 giúp người đứng đầu cấp ủy gần dân hơn.

Nhiều cách làm sáng tạo

Tại Quảng Bình, việc đăng ký dự phiên tiếp dân, đối thoại với dân của Bí thư Tỉnh ủy có thể thực hiện trực tuyến qua địa chỉ quangbinh.gov.vn và noichinh.quangbinh.gov.vn, hoặc đăng ký trước bằng đơn và đăng ký trực tiếp tại phiên tiếp dân. Cùng với đó, thời gian tổ chức phiên tiếp dân của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy trùng thời gian với phiên tiếp công dân của UBND tỉnh nhằm tối ưu thời gian của các thành phần tham dự.

Hay ở Hà Tĩnh, quy định tạm thời tiếp dân “3 trong 1”, bao gồm: Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh và Chủ tịch UBND tỉnh cùng chủ trì tiếp dân trong một buổi bước đầu đạt hiệu quả trong chỉ đạo, xử lý các kiến nghị của công dân. Vì tiếp dân “3 trong 1” nên lãnh đạo tỉnh cùng nắm được thông tin, có cái nhìn bao quát hơn, trong điều hành thống nhất hơn để tập trung chỉ đạo xử lý, đôn đốc giải quyết kịp thời. Hiệu quả tiếp công dân và giải quyết đơn, thư, vụ việc từ đó cũng được nâng lên.

Việc kết hợp "3 trong 1" cũng được nhiều tỉnh áp dụng, như tại Kon Tum, trong buổi tiếp công dân định kỳ gồm: Bí thư Tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh, đại diện Thường trực HĐND tỉnh và lãnh đạo đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh. Tỉnh ủy Quảng Bình cũng có nhiều cách làm hay để thực hiện hiệu quả Quy định 11. Đồng chí Nguyễn Lương Bình, Trưởng ban Nội chính Tỉnh ủy cho biết: "Tổ công tác 1743 được Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình thành lập có nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài theo ý kiến của Bí thư Tỉnh ủy. Tổ tham mưu xử lý đơn, thư (Tổ 09) được thành lập gồm các thành viên là cán bộ, chuyên viên có kiến thức chuyên sâu nhiều lĩnh vực thuộc các cơ quan chức năng để tranh thủ trí tuệ tập thể trong nghiên cứu, tham mưu xử lý, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo. Qua việc phát huy được hiệu quả hoạt động của các tổ này, nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, trong đó có nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài đã được giải quyết dứt điểm. Đây là cơ hội, môi trường để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nâng cao trình độ, kỹ năng, chất lượng thực thi công vụ".

Và không ít khó khăn

Trong các kỳ sơ kết, nhìn chung, Quy định 11 với những hướng dẫn thực hiện chi tiết, khi triển khai được các địa phương nghiêm túc thực hiện với sự đồng thuận, quyết tâm cao của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và cấp ủy các cấp. Nhờ đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kịp thời ban hành các văn bản để cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện đã mang lại hiệu quả tích cực. Đối với tỉnh Bắc Kạn, chủ động dành thời gian trực tiếp tiếp công dân, lắng nghe, đối thoại với dân; chỉ đạo xử lý, giải quyết kịp thời, dứt điểm các kiến nghị, khiếu nại của công dân là hoạt động thường xuyên của người đứng đầu cấp ủy các cấp từ nhiều năm nay. Bởi vậy, Quy định 11 tuy là nội dung mới, song thực chất việc này đã được Bắc Kạn thực hiện có nền nếp từ lâu.

Tuy nhiên, thực tế vẫn nảy sinh một số khó khăn phổ biến ở các địa phương: Số lượng đơn, thư gửi đến Bí thư Tỉnh ủy nhiều, tuy nhiên, phần rất lớn trong số đó là không đúng thẩm quyền, không đủ điều kiện xử lý. Hầu hết là những vụ việc liên quan đến lĩnh vực đất đai, chế độ chính sách; trong đó không ít vụ việc phức tạp, tồn đọng nhiều năm, qua nhiều nhiệm kỳ, gây khó khăn trong quá trình giải quyết.

Ví dụ tại Bắc Giang, từ đầu năm đến ngày 24-5-2022, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Dương Văn Thái đã tiếp nhận tổng số 549 đơn, thư các loại; đã chỉ đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy chuyển 165 đơn đến cấp, người có thẩm quyền để giải quyết, trả lời công dân; hướng dẫn 77 công dân gửi đơn đến cấp có thẩm quyền để được giải quyết; có văn bản trả lời đối với 73 đơn, thư của công dân, số còn lại xếp lưu do đơn không đủ điều kiện xử lý.

Bên cạnh đó, ý thức chấp hành pháp luật khiếu nại, tố cáo của một bộ phận công dân còn hạn chế, cố tình đòi hỏi vô lý, không đồng ý với kết quả giải quyết khách quan, đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý của cấp có thẩm quyền; thậm chí không ít trường hợp lôi kéo, móc nối với các đối tượng xấu kích động người khác khiếu kiện, lợi dụng quyền tự do, dân chủ, quyền khiếu nại, tố cáo gây mất trật tự nơi làm việc, làm ảnh hưởng đến uy tín và khó khăn cho công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy các cấp như một số địa phương, có thể kể đến như Bến Tre, Hà Nam, Vĩnh Phúc...

Chúng tôi có mặt tại xã Tường Đa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre để tìm hiểu các phản ánh, tố cáo tại đây và gặp ông Lê Hoàng Lâm, một người đang trong tâm trạng hết sức rối bời. Trước đó, ngày 20-2-2020, ông Lâm có viết bản tường trình câu chuyện ông nghe được về sai phạm của một cán bộ xã. Tuy nhiên, ông Lâm sau đó khẳng định nội dung bản tường trình hoàn toàn không có thật. Ông cho biết: "Đó là do ông Lê Văn Chiến xúi tôi viết. Bây giờ tôi hối hận lắm vì đã nghe xúi, làm điều sai".

Theo báo cáo của các cơ quan chức năng tỉnh Bến Tre và qua tìm hiểu thực tế tại địa phương, các phản ánh, tố cáo của ông Lê Văn Chiến đa số được nghe người khác kể lại. Từ đó ông cho rằng địa phương có tiêu cực nên thường xuyên phản ánh, tố cáo, thay người khác gửi đơn tới các cơ quan để yêu cầu giải quyết, ngày càng có thái độ quá khích, gay gắt. Hầu hết các nội dung mà ông Lê Văn Chiến phản ánh, tố cáo đều không cung cấp được thông tin, tài liệu có liên quan.

Ngoài những khó khăn khách quan, về chủ quan, thực tế năng lực của cán bộ ở các cấp quận, huyện, xã, phường tại một số địa phương còn nhiều hạn chế, dẫn đến công tác xử lý, phản ánh, khiếu nại của người dân không kịp thời, thậm chí để xảy ra sai sót.

Để Quy định 11 đi vào thực chất

Làm tốt công tác tiếp dân cũng là để người đứng đầu cấp ủy không rơi vào căn bệnh “quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở” mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng. Tiếp dân phải là hoạt động thực chất, tránh hình thức, đặc biệt là tình trạng sắp xếp “đại biểu chuyên trách”, chỉ đến để nói lời khen trong các buổi tiếp công dân.

Nhiều địa phương đưa ra một số kinh nghiệm để tăng cường hiệu quả công tác giải quyết kiến nghị của nhân dân như: Tăng cường giám sát của HĐND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội từ tỉnh đến cơ sở với công tác tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, đối thoại trực tiếp với dân theo quy định; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu cho bí thư cấp ủy tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo...

Như bài trước, chúng tôi đã chỉ ra tình trạng một số địa phương, người đứng đầu cấp ủy đã không thực hiện đúng quy định tiếp dân định kỳ hằng tháng. Quả thực, khối lượng công việc của người đứng đầu cấp ủy, nhất là cấp tỉnh rất lớn nên dễ ảnh hưởng đến việc sắp xếp thời gian tiếp dân. Tuy nhiên, từ kết quả của những địa phương làm tốt cho thấy, nếu xác định kế hoạch định kỳ một ngày trong tháng thì bí thư cấp ủy đều có thể chủ động sắp xếp được thời gian để tiếp dân. Bởi vậy, xây dựng quy chế tiếp công dân với quy định về thời gian khoa học, phù hợp thực tiễn cũng là giải pháp để thực hiện hiệu quả việc tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy.

Để công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy hiệu quả, những phản ánh, khiếu nại của người dân được sớm giải quyết, người dân cũng cần được nâng cao hiểu biết về các quy định liên quan để gửi đơn, thư đến đúng người, đúng địa chỉ. Không để các đối tượng xấu lợi dụng, gây mất ổn định trật tự, vi phạm pháp luật. Các địa phương cũng cần có các chế tài cụ thể hơn và xử lý quyết liệt hơn với những trường hợp cố tình gây rối, lợi dụng quyền tự do dân chủ, việc khiếu nại, tố cáo để vi phạm pháp luật. Ở Lạng Giang (Bắc Giang), với những đối tượng có biểu hiện lợi dụng quyền công dân, việc tiếp dân của bí thư cấp ủy để cố tình gây rối, lôi kéo, kích động người khác, các cơ quan đã chủ động mời báo chí vào cuộc làm rõ, thông tin để người dân nắm thông tin, không để bị lợi dụng kích động.

Mặt khác, để giảm thiểu những vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, đã có đề xuất nên chăng Quy định 11 cần bổ sung chế tài xem xét trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy các cấp nếu không tập trung giải quyết vụ việc phức tạp, đông người, kéo dài.

Ngoài ra, cùng với phổ biến, quán triệt rộng rãi Quy định 11 tới đông đảo cán bộ và người dân, công tác tiếp dân của người đứng đầu cấp ủy cần được thường xuyên đánh giá, tổng kết để kịp thời khắc phục yếu kém, đưa ra những giải pháp phù hợp hơn. Đồng thời, thường xuyên bồi dưỡng năng lực chuyên môn của cán bộ làm công tác tiếp dân và bộ phận tham mưu xử lý, giải quyết các vụ việc để không ngừng nâng cao chất lượng tiếp công dân.

Đồng chí Lê Doãn Hợp, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An từng nói: “Làm lãnh đạo phải chịu học, đọc, nghe, chịu đi cơ sở để hiểu lòng dân, để tổng kết thực tiễn, để thể hiện trách nhiệm của mình”. Bí thư Huyện ủy Lạng Giang (Bắc Giang) Tạ Huy Cần trong công tác tiếp dân ngoài việc kiên quyết không ủy quyền còn giữ thói quen đi làm bằng xe đạp. Ông cho rằng, đạp xe đi làm vừa là một cách để tập thể dục, vừa là quan sát nắm tình hình địa phương. Nhiều vụ việc hay vấn đề mới phát sinh, thậm chí cấp dưới chưa kịp báo cáo thì đồng chí đã chủ động chỉ đạo các cơ quan bám nắm giải quyết, không để sự việc diễn biến phức tạp.

Sau hơn 3 năm triển khai thực hiện Quy định 11, những rào cản lớn để bí thư cấp ủy tiếp dân, trực tiếp lắng nghe dân dần dần được tháo gỡ. Dẫu vậy, đã là quy định thì mang tính bắt buộc, cần sự gương mẫu chấp hành của đội ngũ bí thư cấp ủy, không thể để tình trạng "nơi nóng, nơi lạnh" kéo dài. Để thực hiện tốt Quy định 11, theo ông Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ cơ sở Đảng, nay là Vụ cơ sở Đảng, đảng viên (Ban Tổ chức Trung ương), trước hết là vấn đề nhận thức. Nhận thức chi phối tất cả hành động của mỗi người. Công tác tiếp công dân, không chỉ người đứng đầu cấp ủy mà cả người dân phải được nhận thức đầy đủ, đúng đắn; là một cơ chế cần được thực hiện nghiêm. Cần phải hình thành cơ chế để người dân tham gia giám sát người đứng đầu cấp ủy trong xây dựng Đảng nói chung và thực hiện Quy định 11 nói riêng. Đối với mỗi bí thư cấp ủy, nếu nhận thức rõ chấp hành Quy định 11 chính là chấp hành kỷ luật của Đảng, là chiếc "lồng cơ chế" bảo đảm cho bí thư cấp ủy phòng, chống bệnh xa dân thì công tác này sẽ đi vào thực chất. Ngược lại, nếu nhận thức chưa đúng, tìm cách đổ lỗi cho các lý do khách quan thì hiện tượng "nghị quyết trên trời, cuộc đời dưới đất" sẽ vẫn còn xuất hiện ở nhiều nơi.

Gắn bó nghĩa tình với đồng bào tôn giáo

 

Tham luận tại Hội nghị sơ kết công tác tôn giáo 6 tháng đầu năm 2022 và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm do Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức, nhiều đại biểu khẳng định: Bộ đội Cụ Hồ nói chung, LLVT Quân khu 7 nói riêng đã thực hiện tốt công tác dân vận, nhất là dân vận trong vùng đồng bào có đạo thông qua nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả, thể hiện rõ nét đặc trưng phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ gắn bó máu thịt, nghĩa tình với nhân dân.

Theo số liệu thống kê, địa bàn Quân khu 7 hiện có 14 tôn giáo đang hoạt động với gần 10 triệu tín đồ. Nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của các vị chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc, LLVT Quân khu 7 luôn quan tâm tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với đồng bào tôn giáo bằng những việc làm thiết thực.

Điển hình là chủ trương của Đảng ủy quân khu “Tăng cường gắn kết, thân thiện, hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào dân tộc và đồng bào tôn giáo” đã nhận được sự đồng thuận cao trong cấp ủy, chính quyền các địa phương, các chức sắc, chức việc, đồng bào tôn giáo và nhân dân. Thực hiện chủ trương này, từ năm 2019 đến nay, LLVT Quân khu 7 đã xây dựng hàng trăm công trình sinh hoạt văn hóa, thể dục, thể thao và hàng nghìn nhà tình nghĩa quân dân tặng các cơ sở tôn giáo và đồng bào có đạo. 

Vào dịp lễ Giáng sinh, lễ Phật đản, lễ Vu lan, Hội yến Diêu trì Cung, Ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây... các đơn vị LLVT Quân khu 7 tổ chức hàng trăm đoàn cán bộ đến thăm, chúc mừng các cơ sở tôn giáo và đại diện chức sắc tôn giáo. Qua đó góp phần tăng cường sự hiểu biết, gắn bó keo sơn giữa LLVT quân khu với các tôn giáo; kịp thời động viên, khích lệ chức sắc, chức việc tôn giáo phát huy truyền thống yêu nước, tích cực vận động tín đồ thực hiện tốt công tác quốc phòng, quân sự địa phương, củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Một trong những việc làm ý nghĩa được LLVT quân khu triển khai đồng bộ từ nhiều năm nay là tổ chức ký kết chương trình phối hợp hoạt động giữa bộ CHQS tỉnh, thành phố với các tổ chức tôn giáo trên địa bàn. Ban CHQS các quận, huyện cũng ký kết phối hợp với Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo địa phương. Nội dung ký kết khá toàn diện, tập trung phối hợp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; tuyên truyền, vận động thanh niên có đạo thực hiện tốt Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Dân quân tự vệ và Luật Dự bị động viên; tham gia các hoạt động thiện nguyện, xây tặng nhà tình nghĩa quân dân, công trình sinh hoạt văn hóa, thể thao; phối hợp giữ gìn an ninh trật tự... Các hoạt động này được duy trì đều đặn nhằm củng cố vững chắc mối đoàn kết, gắn bó giữa LLVT với các tôn giáo và giữa các tôn giáo với nhau vì mục tiêu xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh.

Mới đây, tham dự buổi nói chuyện thời sự của cán bộ thuộc Bộ CHQS tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tại Thiền tôn Phật Quang (thị xã Phú Mỹ), hàng chục nghìn tăng ni, phật tử, tu tập sinh chăm chú lắng nghe nội dung tuyên truyền về lịch sử dân tộc, truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm, những câu chuyện về văn hóa gia đình, làng xã phát triển thành tình yêu quê hương, đất nước; những ví dụ về tôn giáo đồng hành với dân tộc và trách nhiệm của công dân với Tổ quốc... Sau buổi tuyên truyền, Thượng tọa Thích Chân Quang, Trụ trì Thiền tôn Phật Quang chia sẻ: "Trong những câu chuyện kể của các chú bộ đội hôm nay như có “lửa”, vừa tăng cường sự gắn kết giữa LLVT với đồng bào tôn giáo, vừa thôi thúc mỗi tăng ni, phật tử không chỉ sống thiện tâm mà còn phải làm tròn trách nhiệm công dân với Tổ quốc".

Nâng cao chất lượng công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên

Chủ tịch Hồ Chí Minh-người sáng lập, giáo dục, rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ để góp phần xây dựng Quân đội ta trở thành một quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Để thực hiện tốt hơn nữa lời dạy của Người, đồng thời quán triệt sâu sắc Nghị quyết 847 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, thời gian qua, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 1 lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tập trung xây dựng mô hình chi bộ “4 tốt, 3 không” (4 tốt gồm: Lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; chất lượng sinh hoạt tốt; đoàn kết tốt, kỷ luật tốt và cán bộ, đảng viên tốt. 3 không là: Không có cán bộ, đảng viên mắc tệ nạn xã hội; không vi phạm quy định an toàn giao thông; không sử dụng thẻ đảng viên, giấy tờ do Nhà nước, quân đội cấp để tín chấp vay tiền, tài sản, vay nợ không có khả năng thanh toán).

Thông qua các mô hình, cán bộ, đảng viên và chiến sĩ thực hiện tự rèn trong thi đua nhằm khắc phục hạn chế, thiếu sót còn tồn tại. Cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn làm tốt công tác giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật, giáo dục truyền thống; quán triệt, rèn luyện, trau dồi cho cán bộ, chiến sĩ về phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ.

Bên cạnh đó, Đảng ủy, Bộ tư lệnh quân khu, cấp ủy, chỉ huy các cấp thường xuyên làm tốt công tác dân vận; thực hiện tốt Phong trào “LLVT quân khu chung sức xây dựng nông thôn mới”, “LLVT quân khu chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”. Các đơn vị trong quân khu đã huy động hàng chục nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ cùng các phương tiện, trang bị kỹ thuật, vượt mọi khó khăn, nguy hiểm tham gia phòng, chống thiên tai, khắc phục sự cố, hậu quả bão, lũ, được cấp ủy, chính quyền, nhân dân các địa phương ghi nhận, đánh giá cao. Qua đó, hình ảnh, phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ luôn tỏa sáng trong nhân dân.

Để chống chủ nghĩa cá nhân có hiệu quả, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu 1 xác định: Cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp phải tổ chức quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc các nội dung chuẩn mực xứng danh Bộ đội Cụ Hồ; nắm rõ, hiểu sâu các đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Các đơn vị nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tập trung đổi mới chương trình, nội dung, vận dụng sáng tạo, linh hoạt các hình thức, biện pháp giáo dục để nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ. Tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy viên, cán bộ chủ trì có bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, trình độ, năng lực, kiến thức quản lý chỉ huy, chuyên môn tốt.

Toàn quân phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân

 

Qua theo dõi, tổng hợp báo cáo cho thấy, 6 tháng đầu năm 2022, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong toàn quân đã chấp hành nghiêm hướng dẫn của Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam về tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28-12-2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới (Nghị quyết 847).

Duy trì có chất lượng đợt sinh hoạt chính trị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, với chủ đề “tự soi, tự sửa”, cán bộ, đảng viên đã nêu cao ý thức trách nhiệm tự phê bình và phê bình, khắc phục hạn chế, khuyết điểm. Cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, quần chúng xây dựng kế hoạch của tập thể và đăng ký phấn đấu cá nhân trong toàn khóa và hằng năm bảo đảm đồng bộ. Đồng thời, các cấp đưa nội dung Nghị quyết 847 vào nghị quyết thường kỳ của cấp ủy, tổ chức đảng để lãnh đạo, chỉ đạo. Qua đó nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, quần chúng về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân được nâng lên.

Việc phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ của cán bộ, đảng viên, quần chúng tiếp tục được củng cố. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đưa Nghị quyết 847 vào thực hiện các khâu đột phá, nhiệm vụ trọng tâm như: Tổ chức biên chế; huấn luyện và đào tạo; xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật, pháp luật và cải cách hành chính quân sự đã đạt được nhiều kết quả tốt, làm chuyển biến tình hình cơ quan, đơn vị.

Trong đó, các cấp đã tăng cường khả năng SSCĐ, xử lý kịp thời hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, chủ động chuẩn bị các phương án, lực lượng, phương tiện xử lý thắng lợi các tình huống an ninh phi truyền thống. Đề cao trách nhiệm trong quản lý tư tưởng, duy trì kỷ luật bộ đội, kịp thời phát hiện, ngăn ngừa cán bộ, chiến sĩ có biểu hiện vi phạm.

Hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của quân đội, có nhiều đồng chí khắc phục khó khăn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, sẵn sàng nhận nhiệm vụ nơi khó khăn, gian khổ, phức tạp, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và hy sinh bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, làm sáng đẹp hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ.

Việc đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân được triển khai đồng bộ, có hiệu quả, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp duy trì nghiêm công tác kiểm tra, giám sát, giải quyết đơn thư tố cáo, kịp thời phát hiện xem xét, xử lý nghiêm minh cán bộ, đảng viên có vi phạm. Mặt khác, đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy các cấp nêu cao ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện, chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị.

Thường xuyên chăm lo giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, tinh thần thương yêu, giúp đỡ đồng chí, đồng đội, xây dựng lối sống trong sạch, lành mạnh. Qua tổng hợp báo cáo của các đơn vị, thời gian qua, triển khai thực hiện Nghị quyết 847 của Quân ủy Trung ương, Kết luận số 01, các cơ quan, đơn vị đã xuất hiện hàng trăm mô hình, cách làm sáng tạo, hiệu quả, tiêu biểu như: “Tiếng nói chính trị viên”, “Tổ 3 người cùng tiến”; “Cơm nóng cho em tới trường”, “Nêu gương của cán bộ, đảng viên”; “Tiết học vùng biên”, “Thắp sáng biên cương”...

Thời gian tới, các cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan, đơn vị cần triển khai đồng bộ những nhóm giải pháp thực hiện Nghị quyết 847, Kết luận 01, Kết luận, Quy định Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực hiện đồng bộ giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng cấp bách.

Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp giáo dục, quán triệt cho cán bộ, đảng viên, quần chúng về vị trí, ý nghĩa, vai trò tầm quan trọng, nội dung, giải pháp của Nghị quyết 847, Kết luận 01, Cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới. Đề cao ý thức tự giác “tự soi, tự sửa”, khắc phục hạn chế, khuyết điểm của cá nhân. Chủ động làm tốt công tác kiểm tra giám sát, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiên quyết xử lý kịp thời đối với tập thể, cá nhân vi phạm, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, làm trong sạch nội bộ và uy tín quân đội.

Đưa nội dung Kết luận 01 vào thực hiện có hiệu quả 3 khâu đột phá, các nhiệm vụ chính trị trọng tâm, phong trào thi đua, cuộc vận động của các cấp, các ngành, làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình cơ quan, đơn vị. Tích cực, chủ động phát hiện mô hình mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả tuyên truyền lan tỏa sâu rộng trong cơ quan, đơn vị. Làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm khắc phục hạn chế, khuyết điểm, nâng cao chất lượng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ Năm, 4 tháng 8, 2022

Xuất hiện ngày càng nhiều các trang web, ứng dụng lừa đảo trên mạng xã hội

     Trong 6 tháng đầu năm nay, tổng số cuộc tấn công mạng gây ra sự cố vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam là 6.641 cuộc. Trung bình mỗi tuần có hơn 256 sự cố tấn công vào các hệ thống trong nước. Theo ghi nhận từ Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (NCSC) thuộc Cục An toàn thông tin, Bộ TT&TT, trong 6.641 cuộc tấn công mạng gây ra sự cố vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam đã được cơ quan này hướng dẫn xử lý, có 1.696 sự cố tấn công lừa đảo (Phishing), 859 sự cố tấn công thay đổi giao diện (Deface) và 4.086 cuộc tấn công cài mã độc (Malware). Cục An toàn thông tin cũng cho biết, tổng số cuộc tấn công mạng gây ra sự cố vào các hệ thống tại Việt Nam trong nửa đầu năm nay giảm 2,54% so với 6 tháng cuối năm 2021, tăng 127,82% so với 6 tháng đầu năm 2021. Trung bình trong 6 tháng đầu năm 2022, mỗi tháng các hệ thống thông tin tại Việt Nam phải hứng chịu 1.107 sự cố tấn công mạng, tăng 36,5% so với trung bình năm 2021. Theo phân tích của Cục An toàn thông tin, chủ yếu là do sự gia tăng mạnh của loại hình tấn công mạng lừa đảo – Phishing, khi xuất hiện ngày càng nhiều các trang web lừa đảo, ứng dụng lừa đảo trên mạng xã hội. Cũng theo Cục An toàn thông tin, thời gian gần đây, đã xuất hiện nhiều chiến dịch tấn công lừa đảo nhằm vào các ngân hàng tại Việt Nam để thu thập thông tin cá nhân, thông tin giao dịch thanh toán của người dùng. Chỉ tính từ đầu năm 2022 đến nay, cơ quan này đã nhận được khoảng 1.000 lượt phản ánh của người dân về các vụ lừa đảo trên không gian mạng. Cùng với đó, trong các tháng đầu năm nay, Cục An toàn thông tin đã phát hiện, xử lý 506 website lừa đảo giả mạo tổ chức tài chính, ngân hàng. Hỗ trợ xử lý ngăn ngừa 1,5 triệu người dùng Internet Việt Nam tránh truy cập vào các trang lừa đảo, vi phạm pháp luật. Để đảm bảo an toàn thông tin cho các hệ thống thông tin và không gian mạng Việt Nam, thời gian tới, Bộ TT&TT, trực tiếp là Cục An toàn thông tin sẽ tiếp tục giám sát, chủ động rà quét; đánh giá, thống kê và đẩy mạnh tuyên truyền, cảnh báo rộng rãi để người dùng biết và phòng tránh những nguy cơ tấn công mạng; đồng thời chú trọng đôn đốc các cơ quan, đơn vị rà soát lỗ hổng, dấu hiệu tấn công mạng. Riêng với tình trạng lừa đảo trực tuyến, Cục An toàn thông tin sẽ tổ chức chiến dịch tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân; triển khai các giải pháp phục vụ người dân như đưa vào vận hành cổng khonggianmang.vn, điểm đến về an toàn thông tin của người dân; phát triển trang DauhieuLuadao.com để cung cấp các tình huống lừa đảo điển hình giúp người dân nhận biết những phương thức lừa đảo phổ biến hiện nay tại Việt Nam và trên thế giới.