Thứ Hai, 8 tháng 8, 2022

Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

 1. Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước

1.1. Kiên trì mục tiêu và con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đi tìm đường, mở đường, dẫn đường cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu và con đường duy nhất đúng ở Việt Nam sau khi các phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản bị thất bại. Nâng cao bản lĩnh chính trị, tầm trí tuệ, luôn luôn đổi mới sáng tạo, không bao giờ từ bỏ mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn phải luôn luôn là quan điểm nhất quán của Đảng, trở thành hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta trong công cuộc đổi mới. Đây là nội dung khởi đầu trong quá trình vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp cách mạng ở nước ta.

1.2. Biến khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thành hiện thực

Khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đất nước “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” như tiêu đề sau dòng tên nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” của văn bản hành chính nhà nước do Người nêu lên. Trong Di chúc, Người viết điều mong muốn cuối cùng: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[1]. Để biến khát vọng đó thành hiện thực, cần chú trọng một số điểm sau đây:   

Cần có quyết tâm chính trị cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sự quyết tâm cao trong cách mạng và Người đã truyền quyết tâm đó cho toàn Đảng, toàn dân. Đó là quyết tâm trong Cách mạng Tháng Tám: dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập; là “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”[2]; là “Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/Quyết chí ắt làm nên”[3]; là hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi; là “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!”[4]. Trong Di chúc, Người nêu: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”[5]. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người luôn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn đân tộc, vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội. Tiếp nối, nhân lên, lan tỏa sự quyết tâm đó chính là sự vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới. Quyết tâm chính trị còn ở sự đổi mới sáng tạo thích ứng với yêu ccầu phát triển bền vững trong điều kiện mới của đất nước, điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Nói đi đôi với làm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu điều này ngay trong trang đầu cuốn sách Đường cách mệnh năm 1927: “Nói thì phải làm”[6] và “xắn tay áo làm”[7] khi nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hoá,  tháng 2/1947. Hiện nay, càng cần phải chú ý khắc phục bốn biểu hiện: Nói nhiều nhưng làm ít; Nói thì hay nhưng làm thì dở; Nói mà không làm; Nói một đằng làm một nẻo. Quyết tâm phải đi liền với chương trình, kế hoạch hành động thiết thực đáp ứng đủ các điều kiện thực tế. Có nghị quyết đúng là điều rất quan trọng, nhưng chưa đủ. Có quyết tâm cũng là cần nhưng vẫn chưa đủ. Điều cần và đủ bên cạnh những yếu tố đó là kế hoạch thiết thực, tỉ mỉ, có khả năng thực thi, có tổ chức thật sự phù hợp, có sự dốc lòng, dốc sức của cả toàn Đảng, toàn dân từ khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”[8]. Sự phồn vinh, hạnh phúc của cả dân tộc thể hiện ở những chỉ số tổng hợp, trong đó có cả sự bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản, ở kết quả của quá trình phấn đấu đạt mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

1.3. Tăng cường công tác xây dựng Đảng nói riêng và hệ thống chính trị nói chung trong sạch, vững mạnh

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cần thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Phải xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” để Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong mọi lĩnh vực, phải là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng. Đảng ta là con đẻ của dân, không có mục đích tự thân; do đó Đảng phải có trách nhiệm hiếu với dân. Trong công cuộc đổi mới, nói đến xây dựng hệ thống chính trị còn phải nói đến xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội khác. Đảng, với vị trí, vai trò hạt nhân của hệ thống chính trị không thể trong sạch, vững mạnh nếu Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân yếu kém. Vì vậy, để vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, cần chú ý xây dựng một Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân thật sự vững mạnh.

2. Ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

2.1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa dẫn đường cho sự phát triển bền vững của dân tộc

Tư tưởng, đạo đức, phong cách là tổ hợp các thành tố nói lên toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là những giá trị văn hóa trường tồn, dẫn đường cho dân tộc ta đi lên. Toàn Đảng, toàn dân ta tìm thấy trong di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh những giá trị của sự phát triển, của khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những yếu tố truyền cảm hứng cho nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc đổi mới, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tiến hành nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tức là bước vào “một cuộc chiến đấu khổng lồ”[9]“chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”[10] đúng như Người đã tiên lượng trong Di chúc. Chính vì thế, Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định lấy tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, hành động với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện khi đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khi cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh.

2.2. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cơ sở để Đảng và nhân dân ta xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Trong tất cả các nguồn lực để phát triển thì nguồn lực con người Việt Nam là quan trọng nhất. Hệ giá trị con người Việt Nam cần xây dựng trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong công cuộc đổi mới giai đoạn hiện nay chính là những nội dung trên cơ sở bắt nguồn từ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đất nước đang cần có những con người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc, để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Đó là những người yêu nước nhiệt thành, có đủ phẩm chất đạo đức cách mạng, có tầm cao trí tuệ trong một đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế. Giá trị con người đó có trong di sản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà toàn Đảng, toàn dân cần học tập và làm theo. Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay cũng là xuất phát từ sự nghiệp giải phóng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và mục tiêu cuối cùng là giải phóng con người. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2.3. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa quốc tế sâu sắc

Di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh là di sản của một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Di sản đó không chỉ là tài sản quý báu của dân tộc Việt Nam, mà còn là tài sản của nhân loại tiến bộ. Những vấn đề toàn cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng tất cả mọi người Việt Nam cũng như những người có lương tri trên thế giới thực hiện đã góp phần xây dựng một thế giới tiến bộ, văn minh. Do đó, UNESCO đã đánh giá rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Chúng ta đang sống trong một thế giới với nét chủ đạo là hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển, nhưng vẫn còn đó những bất an hiện tại và tiếp tục có những rủi ro khó lường trong tương lai. Thế giới luôn đổi thay nhưng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sống mãi với ý nghĩa truyền cảm hứng cho sự phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại, làm cho các dân tộc, mọi người thoát khỏi sự áp bức, bất công, vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ.

Nguồn: GS, TS MẠCH QUANG THẮNG

Giảng viên cao cấp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Tăng cường hợp tác quốc phòng Việt Nam - Campuchia

 

Sáng 8-8, tại Trụ sở Bộ Quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Văn Nghĩa, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đã đón, hội đàm với Đại tướng Hun Manet, Phó tổng Tư lệnh kiêm Tư lệnh Lục quân Quân đội Hoàng gia (QĐHG) Campuchia.

Tại hội đàm, Trung tướng Nguyễn Văn Nghĩa bày tỏ vui mừng được đón Đại tướng Hun Manet cùng Đoàn QĐHG Campuchia thăm Việt Nam, nhất là trong bối cảnh hai nước đang triển khai nhiều hoạt động thiết thực kỷ niệm 55 năm Ngày thiết lập ngoại giao Việt Nam - Campuchia (24-6-1967 / 24-6-2022), “Năm Hữu nghị Việt Nam - Campuchia 2022”; chúc mừng Đảng Nhân dân Campuchia giành chiến thắng gần như tuyệt đối trong cuộc bầu cử hội đồng xã, phường vào tháng 6 vừa qua.


Trung tướng Nguyễn Văn Nghĩa tin tưởng rằng, chuyến thăm của Đại tướng Hun Manet sẽ góp phần tạo thêm xung lực mới cho quan hệ hợp tác giữa hai quân đội, góp phần củng cố và tăng cường hơn nữa quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa hai nước. Khẳng định, thời gian qua, quân đội hai nước vừa đảm nhiệm vai trò nòng cốt trên mặt trận phòng, chống dịch ở mỗi nước, vừa phối hợp triển khai đạt những kết quả quan trọng, hiệu quả các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng theo kế hoạch hợp tác hằng năm.

Theo đó, hai bên đã phối hợp tổ chức thành công nhiều hoạt động ý nghĩa trong “Năm Hữu nghị Việt Nam - Campuchia 2022”, đặc biệt là lễ kỷ niệm trọng thể 45 năm “Con đường tiến tới đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot” của Thủ tướng Campuchia Samdech Techo Hun Sen và Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Campuchia lần thứ nhất. Tích cực triển khai các hoạt động trao đổi đoàn, nhất là đoàn cấp cao; hợp tác đào tạo tiếp tục được hai bên quan tâm thúc đẩy; kịp thời hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau phù hợp với nhu cầu và khả năng của mỗi bên.


Bên cạnh đó, các quân khu, bộ đội biên phòng và lực lượng bảo vệ biên giới hai nước đã phối hợp trao đổi tình hình, triển khai tuần tra chung, giao lưu kết nghĩa, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, góp phần tăng cường quan hệ hữu nghị giữa quân đội và nhân dân hai bên, nhất là các khu vực giáp biên.

Về phương hướng hợp tác thời gian tới, hai bên nhất trí tiếp tục nâng cao hiệu quả hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên biên giới. Các quân khu, lực lượng bảo vệ biên giới hai bên cần tiếp tục duy trì hiệu quả các cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin; sẵn sàng phối hợp ứng phó hiệu quả thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống; đấu tranh phòng, chống tội phạm, di cư tự do bất hợp pháp, bảo đảm an ninh, an toàn khu vực biên giới hai nước.

Hai bên khẳng định coi trọng hơn nữa hợp tác đào tạo, tập huấn, xác định đây là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược lâu dài; tăng cường hợp tác tuyên truyền, giáo dục về quan hệ hữu nghị hai nước, hai quân đội; thúc đẩy triển khai các hoạt động về nguồn, các hoạt động giao lưu, kết nghĩa giữa quân đội hai nước.

Về hợp tác trong khuôn khổ đa phương, Trung tướng Nguyễn Văn Nghĩa chúc mừng Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tư lệnh QĐHG Campuchia vừa qua đã tổ chức thành công các hội nghị quân sự, quốc phòng ASEAN. Khẳng định, Việt Nam luôn ủng hộ và sẽ phối hợp chặt chẽ với Campuchia tổ chức thành công các hội nghị quân sự, quốc phòng trong năm đảm nhiệm Chủ tịch ASEAN 2022. Nhân dịp này, Trung tướng Nguyễn Văn Nghĩa trân trọng mời Đại tướng Hun Manet dự Hội nghị Tư lệnh Lục quân các nước ASEAN, Giải bắn súng quân dụng các nước ASEAN và Triển lãm Quốc phòng quốc tế năm 2022 do Việt Nam tổ chức. 

Tin, ảnh: VĂN HIẾU

Chủ động phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa

 

Bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt để triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển thành: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”.

1. Quan điểm BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ bài học kinh nghiệm được đúc kết từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đồng thời thể hiện bước phát triển quan trọng từ thực tiễn và lý luận của Đảng về quốc phòng, an ninh (QPAN), đối tác, đối tượng, về BVTQ trong tình hình mới.

Từ xưa đến nay, đất nước ta đã áp dụng nhiều biện pháp, như: Tích cực hoạt động bang giao, giữ hòa khí với các nước láng giềng, tránh chiến tranh khi còn có thể; chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng quân đội, tiềm lực quốc gia; giữ vững biên giới; thực hiện kế sách khoan thư sức dân... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, Việt Nam cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.

Thực tế cho thấy, BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là tư tưởng chỉ đạo, hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Kế sách này được vận dụng sáng tạo, linh hoạt thông qua việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và "thế trận lòng dân"; thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với QPAN trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội... Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động không ngừng chống phá kế sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Vì vậy, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp để đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá này. Đặc biệt, ngày 22-10-2018 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Tiếp đó, ngày 4-6-2019, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 53-KL/TW về việc chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ, triệt phá tin giả, thông tin sai sự thật, xấu độc trên internet, mạng xã hội. Hai văn bản này tạo khuôn khổ phối hợp đồng bộ, có hiệu quả giữa các cơ quan làm nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng.

Chủ động phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Ảnh minh họa / qdnd.vn 

2. Việc đặt ra yêu cầu chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, góp phần BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy xuất phát từ đánh giá, nhận định thấu đáo của Đảng ta về tình hình trong nước, những diễn biến mới và thay đổi nhanh chóng trên thế giới; phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch.

Về tình hình trong nước. Tuy đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn mà không ai có thể phủ nhận, như Đảng ta đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”; song vẫn còn tồn tại những hạn chế, khiếm khuyết, như: Sự phân hóa giàu nghèo, khoảng cách chênh lệch về sự phát triển giữa các vùng miền, vẫn còn nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực... Các thế lực thù địch, phản động luôn tận dụng những hạn chế, khuyết điểm này để suy diễn, xuyên tạc, thổi phồng hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết liệt chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Về những diễn biến mới và thay đổi nhanh chóng trên thế giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thay đổi rất mau lẹ, khó đoán định với nhiều xu hướng đáng quan ngại nổi lên (như chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, trào lưu dân túy, sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ...) đặt ra hàng loạt thách thức đối với các quốc gia. Không gian lựa chọn chiến lược của Việt Nam bị thu hẹp dưới tác động của thay đổi địa chính trị quốc tế, cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa các nước lớn. Bối cảnh mới đòi hỏi Việt Nam phải duy trì thế cân bằng chiến lược trong quan hệ với các nước để tránh đối đầu, trở thành nạn nhân của xung đột vũ trang và chiến tranh.

Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra một không gian chiến lược mới-“không gian mạng”. Đây là môi trường chủ yếu, không thể thiếu trong triển khai các chiến lược, quan hệ đối ngoại, củng cố, duy trì hoạt động kinh tế-xã hội của các quốc gia, đưa tới những chuyển biến sâu sắc về mọi mặt, trong đó có những phương tiện và phương thức bảo đảm QPAN, BVTQ, tạo ra những thách thức mới...

Trong thế giới phẳng hiện nay, người dân được tiếp cận thông tin rất nhanh và phong phú, đa chiều, cả mặt thuận và mặt trái, trong đó nhiều thông tin không được kiểm chứng. Những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo trên không gian mạng tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân và sự nghiệp QPAN, BVTQ.

Phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch không ngừng thay đổi, ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt là tận dụng thành tựu khoa học, công nghệ để tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta. Không gian mạng đã được chúng tận dụng triệt để với quy mô, mức độ, đối tượng rộng khắp và rất khó kiểm soát. Các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối chủ yếu sử dụng mạng xã hội để tung tin xấu độc, tán phát tài liệu, quan điểm sai trái nhằm tuyên truyền, phá hoại nền tảng tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, từng bước thực hiện âm mưu thay đổi chế độ chính trị nước ta. Theo báo cáo của Bộ Công an, chỉ riêng năm 2020 đã phát hiện hơn 3.000 trang mạng có nội dung xấu độc, đăng tải hơn 800.000 bài viết, video clip có nội dung chống phá, hòng làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động cố tình tung nhiều thông tin không có lợi cho chính sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước ta. Ví như chúng thường lợi dụng những sự việc trên Biển Đông để bóp méo, bịa đặt, xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; kích động chiến tranh và gây chia rẽ, bất ổn trong nước; đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải xem xét lại chính sách đối ngoại theo hướng tẩy chay nước này, dựa vào nước khác... Đây là những luận điệu phản động rất nguy hiểm, cố tình phá hoại chính sách đối ngoại, quốc phòng của Việt Nam theo nguyên tắc vừa đạt được mục tiêu BVTQ vừa giữ được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

3. Dự báo, hoạt động chống phá của các đối tượng phản động, chống đối sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát hơn trong thời gian tới. Vì vậy, để chủ động đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, gây tổn hại tới chính sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước và toàn dân, toàn quân ta; đồng thời góp phần thực hiện thắng lợi đường lối BVTQ từ sớm, từ xa, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, các cơ quan nghiên cứu lý luận, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cần chủ động hơn nữa trong công tác nghiên cứu chiến lược, nắm chắc tình hình, diễn biến trong và ngoài nước, cụ thể như: Các xu hướng vận động của thế giới và khu vực, nhất là khu vực ASEAN, Biển Đông; phân tích kỹ những cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; những diễn biến trên thế giới để chỉ rõ những tác động đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ... Trên cơ sở đó, chuẩn bị các luận cứ khoa học phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái; hoàn thiện chiến lược BVTQ, nhất là kế sách chủ động BVTQ từ trong thời bình; tập trung phát triển, hoàn thiện lý luận BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy trong tình hình mới.

Hai là, tăng cường thông tin, tuyên truyền để đạt được thống nhất cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ trương BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy. Để thực hiện được điều này, Ban Tuyên giáo Trung ương và các cấp, ngành cần thường xuyên cập nhật kiến thức về BVTQ trong tình hình mới; xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên và cập nhật thường xuyên tài liệu tuyên truyền công khai về các vấn đề dư luận trong nước và quốc tế quan tâm theo hướng dễ đọc, dễ hiểu... để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền.

Ba là, thường xuyên quan tâm nghiên cứu, nắm thật chắc tình hình tư tưởng, các xu hướng xã hội, đặc biệt là những vấn đề, sự kiện nhân dân quan tâm để kịp thời thông tin, định hướng dư luận có nhận thức đúng; không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng "khoảng trống thông tin" để xuyên tạc, kích động; tránh để người dân vì tò mò mà tìm cách tiếp cận thông tin xấu độc, thiếu kiểm chứng... Thực tế cho thấy, đây là việc hết sức quan trọng, bảo đảm giữ vững niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; phòng, chống tư tưởng, tâm lý dao động, mất lòng tin trong nhân dân và dẫn tới “tự diễn biến”, suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng không vững vàng.

Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại; chủ động cung cấp thông tin chính thống, đầy đủ cho các đối tác, cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam để họ hiểu đúng, hiểu toàn diện, tránh cách nhìn phiến diện, thiên lệch về tình hình tại Việt Nam; không để các đối tượng phản động, chống đối lợi dụng cung cấp thông tin một chiều, không đúng thực tế, gây bất lợi cho Đảng, Nhà nước ta, nhất là trong thực hiện kế sách BVTQ từ sớm, từ xa.

Năm là, luôn theo dõi sát, nắm bắt kịp thời các dạng quan điểm sai trái và những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị nhằm chủ động trong đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả. Đồng thời, cần đổi mới phương thức đấu tranh trên các mặt pháp lý, truyền thông, tuyên truyền, đặc biệt là về mặt kỹ thuật. Lực lượng chuyên trách các cấp cần đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn thông tin sai trái, tội phạm mạng...; tăng cường số lượng, chất lượng thông tin tích cực để đẩy lùi thông tin xấu độc.

Sáu là, chủ động phát hiện sớm và xử lý kịp thời những vụ việc phức tạp, nổi cộm phát sinh, những vấn đề bức xúc trong xã hội; không để các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền chống phá, không để các vụ việc phức tạp kéo dài, phát triển ngoài tầm kiểm soát, gây ra tâm lý hoài nghi, giảm lòng tin trong quần chúng nhân dân đối với các cấp chính quyền và Đảng, Nhà nước ta.

Nguồn: TS LỤC ANH TUẤN, Thư ký khoa học chuyên trách, Hội đồng Lý luận Trung ương

Vai trò của gia đình trong giáo dục cho thế hệ trẻ ý chí, khát vọng phát triển đất nước theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

 


(LLCT) - Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, Đảng ta xác định “Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng”(1)... Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Bài viết đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý chí, khát vọng phát triển đất nước cho thế hệ trẻ: nâng cao nhận thức của các gia đình về vai trò, trách nhiệm trong giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ; xác định nội dung giáo dục cụ thể và phương pháp giáo dục phù hợp; phát huy vai trò các chủ thể cùng gia đình trong việc giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ.

Khát vọng, theo cách hiểu phổ quát, là một trạng thái tinh thần, phản ánh sự ước ao, mong muốn thiết tha của con người về những điều lớn lao, tốt đẹp với sự thôi thúc mạnh mẽ(2). “Khát vọng phát triển của một dân tộc là sự cộng hưởng những khát vọng vươn lên của cộng đồng, của con người cùng quốc gia - dân tộc, tạo thành nguồn năng lượng nội sinh to lớn, sống động và sức mạnh vô song. Đó chính là động lực trung tâm của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương lai”(3). Việt Nam là dân tộc có truyền thống đoàn kết, văn hiến, anh hùng, khát vọng phát triển đất nước thật sự là sức mạnh nội sinh phi thường, cội nguồn tạo nên những kỳ tích trong suốt tiến trình hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước. 

Trong Văn kiện Đại hội XIII, vấn đề phát huy “ý chí, khát vọng” phát triển đất nước là nội dung được đề cập nhiều lần và được coi là nguồn lực nội sinh để thực hiện thành công mục tiêu phát triển, “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(4). Để thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi sự tham gia của tất cả các chủ thể trong xã hội vào việc “Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”(5), trong đó, gia đình được xác định là chủ thể tiên quyết. 

1. Vai trò của gia đình trong giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ 

Gia đình là nơi hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện giáo dục đối với thế hệ trẻ. Đây là môi trường giáo dục đầu tiên và lâu dài trong cuộc đời của mỗi con người, ở đó, tình cảm ruột thịt và bầu không khí, ấm cúng, hòa thuận giữa các thành viên gia đình có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giáo dục nhân cách con người. Về mặt nội dung, giáo dục của gia đình bao hàm tất cả các yếu tố, từ văn hóa gia đình đến văn hóa cộng đồng, từ đạo đức, lối sống, hành vi ứng xử đến các tri thức khoa học... Gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục để hình thành nhân cách con người. Những mầm mống ban đầu của nhân cách, từ sở thích, lối sống đến ước mơ, hoài bão, ý chí, khát vọng... của mỗi cá nhân đều được hình thành chủ yếu ngay từ môi trường gia đình. 

Trong chiều dài lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, vai trò của gia đình với việc giáo dục ý chí và khát vọng cho thế hệ trẻ được minh chứng qua lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Thông qua những bài hát ru khi còn nằm trong nôi, những lời dăn dạy của ông bà, cha mẹ hằng ngày... mà lòng yêu nước, ý chí căm thù giặc ngoại xâm, khát vọng độc lập tự do đã hình thành và được mài giũa. Do đó, lớp lớp thế hệ người Việt Nam, đặc biệt là những chàng trai, cô gái còn rất trẻ, với ý chí, khát vọng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã không tiếc tuổi xuân, xung phong ra trận chiến chống quân thù. Đó là những chàng trai sẵn sàng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước; Mà lòng phơi phới dậy tương lai”; là những cô gái hiên ngang bất khuất trước kẻ thù “Đầu ngẩng cao bất khuất; Ngay trong phút hy sinh”... là sức mạnh nội sinh đưa đến độc lập, tự do cho dân tộc.

Trong thời kỳ đất nước thống nhất, tiến hành công cuộc xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước, gia đình đã là môi trường giáo dục cho thế hệ trẻ niềm tin, khát vọng vượt qua khó khăn, gian nan để phát triển đất nước. Khát vọng đó đã chuyển hóa thành sức mạnh to lớn đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng những năm 80 của thế kỷ XX; vượt qua cuộc chấn động chính trị toàn cầu khi mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ và những thử thách khắc nghiệt do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực những năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu những năm 2008 - 2009, đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; vượt lên, kiềm chế thành công đại dịch Covid-19, hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất do dịch bệnh gây ra, ổn định kinh tế - xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân, duy trì tăng trưởng...

Chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như hiện nay. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới. Chính vì vậy, khát vọng của dân tộc ta hiện nay đó là: Xây dựng Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển hùng cường, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng XHCN. Và mục tiêu cụ thể, đó là: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao(6)

Như vậy, khi bối cảnh xã hội thay đổi, khát vọng của dân tộc có nội dung và biểu hiện mới, đòi hỏi các chủ thể giáo dục, đặc biệt là giáo dục gia đình cần có nội dung và cách thức giáo dục mới để khơi dậy mạnh mẽ ý chí và khát vọng cống hiến, khát vọng phát triển đất nước của mỗi cá nhân. 

Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, chức năng giáo dục của một bộ phận gia đình, đặc biệt là vấn đề giáo dục ý chí, khát vọng vươn lên, khát vọng cống hiến... có phần bị coi nhẹ. Do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, ở một số gia đình, cha mẹ mải mê làm kinh tế mà thiếu đi sự quan tâm, giáo dục con cái, giao phó việc giáo dục con cái cho nhà trường; đặc biệt, một vấn đề rất đáng lo ngại hiện nay đó là, nhiều gia đình khi thực hiện chức năng giáo dục thì chỉ chú trọng vào giáo dục các giá trị liên quan đến quan hệ ứng xử (phẩm chất trung thực, kính trọng, lễ phép, khiêm tốn, biết vâng lời...), các hoạt động trong đời sống hằng ngày ở gia đình và ngoài xã hội, trong khi nội dung giáo dục về tình yêu quê hương đất nước lại không được giáo dục thường xuyên trong gia đình(7)

Hệ quả là một bộ phận thế hệ trẻ hiện nay sống ích kỷ, vụ lợi, vì lợi ích cá nhân mà sẵn sàng làm tổn hại đến lợi ích chung; một số thanh, thiếu niên sống buông thả, vô trách nhiệm với chính bản thân và với cộng đồng xã hội, thiếu ước mơ, hoài bão, ý chí, khát vọng vươn lên, khát vọng cống hiến, mất phương hướng trong cuộc sống, bàng quan trước mọi vấn đề của đất nước... 

Đây là những vấn đề đáng lo ngại không chỉ của mỗi gia đình mà là vấn đề lo ngại của cả quốc gia, dân tộc, bởi thế hệ trẻ là tương lai của đất nước. Do đó, vấn đề đặt ra là cần phát huy mạnh mẽ vai trò của gia đình trong việc giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ với những nội dung và hình thức phù hợp, hiệu quả.

2. Giải pháp phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý chí, khát vọng phát triển đất nước cho thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay

Đảng ta chủ trương: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng(8)... Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ”(9). Điều này cho thấy, quan điểm của Đảng tại Đại hội XIII rất chú trọng tới hệ giá trị gia đình và vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ, trong đó có giáo dục về ý chí và khát vọng phát triển đất nước. Để chủ trương của Đảng trở thành hiện thực, đạt hiệu quả cao, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các gia đình về vai trò, trách nhiệm trong việc giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ

Chủ thể tiên quyết trong hoạt động giáo dục này là gia đình. Do đó, cần nâng cao nhận thức cho từng thành viên, đặc biệt là các bậc phụ huynh (ông bà, cha mẹ) về vai trò và trách nhiệm trong việc giáo dục ý chí, khát vọng cho con trẻ. Khắc phục tình trạng thờ ơ hoặc coi nhẹ vấn đề này trong giáo dục ở một số gia đình hiện nay. Vì vậy, cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền để các gia đình hiểu rõ trách nhiệm, với tư cách là “tế bào” của xã hội, gia đình cần coi việc giáo dục lòng yêu nước và ý chí, khát vọng phát triển đất nước là một chuẩn mực, một giá trị cơ bản trong hệ giá trị gia đình Việt Nam hiện nay, từ đó áp dụng nội dung và phương pháp giáo dục một cách linh hoạt để đem lại hiệu quả. 

Thứ hai, xác định nội dung cụ thể trong hoạt động giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ của mỗi gia đình

Muốn phát huy được vai trò của các gia đình trong việc giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ, trước hết cần xác định rõ nội dung cần giáo dục. Đó là truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội; “giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm với đất nước, với xã hội”(10). Như vậy, có thể xác định, giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ trong gia đình hiện nay là giáo dục những nội dung cơ bản sau:

Giáo dục đức tính trung thực, tình nghĩa và lối sống có trách nhiệm. Nền giáo dục trong xã hội hiện đại, đặc biệt là giáo dục ý chí, khát vọng vươn lên của thế hệ trẻ đòi hỏi gia đình không chỉ giáo dục những chuẩn mực đạo đức, lối sống trong các mối quan hệ ứng xử hằng ngày mà cần “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện..., có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”(11). Do đó, cần giáo dục thế hệ trẻ đức tính trung thực, tình nghĩa và lối sống có trách nhiệm (với bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội); tuân thủ chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; bản lĩnh dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.  

Giáo dục tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, lao động. Xã hội hiện nay cần những con người tích cực, chủ động, sáng tạo trong cuộc sống, trong học tập, lao động và công tác để phát huy được mọi tiềm năng thế mạnh của bản thân và thích ứng hiệu quả với môi trường xã hội nhiều biến động. Đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ “Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”(12) mà Đảng ta đặt ra thì đòi hỏi hoạt động giáo dục gia đình cần theo hướng khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của thế hệ trẻ trong cuộc sống. Có như vậy mới “Tạo động lực cho thanh niên xung kích trong học tập, lao động sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp; làm chủ các kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(13).

Giáo dục lý tưởng sống có ước mơ, hoài bão, có ý chí vươn lên và khát vọng cống hiến. Ước mơ, hoài bão là những nhu cầu và biểu hiện tự nhiên ở mỗi con người. Tuy nhiên, để những ước mơ, hoài bão đó được nuôi dưỡng, được chắp cánh, trở thành khát vọng và ý chí quyết tâm thực hiện khát vọng đó thì cần có sự khơi dậy, khích lệ, đặc biệt là sự giáo dục mang tính định hướng đúng đắn của gia đình để những ước mơ, khát vọng trở thành hiện thực, không chỉ vì lợi ích cá nhân, mà còn đem lại những giá trị tích cực cho đất nước.  

Giáo dục lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc: Giáo dục lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc không phải là những nội dung mang tính to tát, xa vời, khó thực hiện, mà cha mẹ có thể kể những câu chuyện về lịch sử dân tộc, những thắng lợi hào hùng, những hy sinh mất mát của ông cha ta trong các trận chiến chống giặc ngoại xâm, đó là những câu chuyện về các anh hùng dân tộc, những khó khăn và những thành quả đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hay gần gũi hơn nữa là những truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ, quê hương..., tất cả điều đó đều góp phần hình thành, nuôi dưỡng lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ. 

Thứ ba, xác định phương pháp giáo dục phù hợp với hoạt động giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ trong gia đình

Để phát huy hiệu quả vai trò của gia đình trong giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay cần chú trọng một số phương pháp sau: 

Phương pháp nêu gương. Trong hoạt động giáo dục nói chung, đặc biệt là giáo dục gia đình nói riêng thì nêu gương là phương pháp thực sự hiệu quả. Chính vì vậy, khi giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ trong gia đình, bản thân người lớn - ông bà, cha mẹ cần là tấm gương sáng, là người truyền lửa cho con cháu trong cuộc sống - với nhân cách đạo đức tốt; lối sống có trách nhiệm, luôn chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật; tích cực, chủ động và có ý chí vươn lên trong học tập, lao động, đem lại đời sống gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh; nhiệt tình tham gia các hoạt động vì cộng đồng, đóng góp tích cực cho sự phát triển của địa phương, khát vọng cống hiến nhiều hơn nữa cho xã hội... Những hành động cụ thể đó của người lớn trong gia đình sẽ là bài học sinh động và thuyết phục tác động hiệu quả đến việc hình nhân cách, ý chí và khát vọng vươn lên, khát vọng cống hiến của con trẻ.

Phương pháp tổ chức hoạt động rèn luyện thói quen. Đây là phương pháp quyết định đến việc hình thành nhân cách con người. Bởi nhân cách không thể chỉ hình thành dựa trên những lời dạy, những hình ảnh mang tính nêu gương, mà trực tiếp nhất, phải dựa trên những hành vi cụ thể, dần dần trở thành thói quen của con người. Do đó, trong giáo dục ý chí và khát vọng cho trẻ thì cha mẹ cần tổ chức nhiều hoạt động khác nhau như: hoạt động học tập, hoạt động lao động, hoạt động thiện nguyện, hoạt động bảo vệ môi trường, hoạt động sáng tạo khám phá thế giới, hoạt động tìm hiểu lịch sử - văn hóa dân tộc..., để con được trực tiếp tham gia. Đồng thời, tạo môi trường thuận lợi để con có điều kiện thực hiện, rèn luyện những thói quen tốt ngay từ nhỏ, góp phần hình thành nhân cách, lối sống vì cộng đồng và khát vọng phát triển, khát vọng cống hiến.

Phương pháp khen thưởng, trách phạt. Khen thưởng là cách khích lệ bằng vật chất hoặc tinh thần khi trẻ có những hành động, việc làm tốt; là hình thức cha mẹ biểu thị sự đồng tình, sự tán dương những thành tích đạt được của con nhằm động viên, khuyến khích con tiếp tục thực hiện những hành vi, cử chỉ đẹp của mình. Khoa học tâm lý giáo dục cho thấy, khen thưởng là một phương pháp giáo dục hiệu quả đối với thế hệ trẻ, vì trẻ em nào cũng muốn được cha mẹ biểu dương, khen thưởng khi làm được việc tốt hoặc khi có tiến bộ. Do vậy, để giáo dục trẻ có ý chí và khát vọng vươn lên trong cuộc sống, nuôi dưỡng khát vọng cống hiến, khát vọng phát triển đất nước thì cha mẹ cần có sự khen thưởng, động viên, khích lệ khi con có những hành động thể hiện sự nỗ lực cố gắng vươn lên trong cuộc sống, có những hành động cụ thể (dù nhỏ bé) thể hiện ước mơ, hoài bão và khát vọng chinh phục thế giới, khát vọng đóng góp cho cộng đồng... 

Bên cạnh đó, cha mẹ cần sử dụng phương pháp trách phạt (như nhận xét nghiêm khắc về điều sai trái, phê bình, khiển trách...) nhằm giúp trẻ thấy cái đúng, cái sai; cái tốt, cái xấu, cái nên làm và không nên làm. Đồng thời, định hướng cho con những chuẩn mực, giá trị đạo đức, lối sống trong gia đình và ngoài xã hội, những giá trị về tình yêu và niềm tự hào dân tộc.

Thứ tư, phát huy vai trò của các chủ thể cùng gia đình trong việc giáo dục ý chí, khát vọng cho thế hệ trẻ

 Giáo dục con người, đặc biệt là thế hệ trẻ là nhiệm vụ lâu dài, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi sự tham gia, đóng góp của nhiều chủ thể và nhiều nguồn lực. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng môi trường văn hóa một cách toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư... Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, con người giàu lòng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý...”(14). Như vậy, có thể thấy rằng, liên quan đến giáo dục con người có ba chủ thể chính, đó là: gia đình, nhà trường và xã hội. Mỗi chủ thể có vị trí, vai trò, nội dung, cách thức giáo dục khác nhau và giữa các chủ thể này có sự liên hệ, tác động qua lại với nhau, hỗ trợ nhau trong quá trình giáo dục con người phát triển toàn diện. Chính vì vậy, để phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý chí, khát vọng phát triển cho thế hệ trẻ một cách hiệu quả, đòi hỏi gia đình cần có mối liên hệ mật thiết với nhà trường và cộng đồng xã hội.

Ngoài môi trường gia đình, trẻ còn sống trong môi trường nhà trường và cộng đồng. Do đó, giáo dục gia đình sẽ không phát huy hiệu quả nếu ở trường học, các thầy cô chỉ quan tâm dạy chữ mà không chú ý tới dạy cách làm người, dạy cách trở thành một công dân gương mẫu, công dân có trách nhiệm với xã hội. Đồng thời, cần phát huy vai trò của chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, động viên, giáo dục thế hệ trẻ. Gắn kết và phát huy mạnh mẽ vai trò của các chủ thể giáo dục là một giải pháp không thể thiếu góp phần phát huy hiệu quả vai trò của gia đình trong việc giáo dục ý chí và khát vọng vươn lên phát triển đất nước của thể hệ trẻ Việt Nam hiện nay.

Nguồn: TS TRẦN THỊ THÚY CHINH

Học viện Chính trị khu vực I

 

Không thể xuyên tạc, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

 

Sứ mệnh lịch sử (SMLS) toàn thế giới của giai cấp công nhân (GCCN) hiện đại là phát kiến vĩ đại của C.Mác. Bằng cái nhìn duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng về sứ mệnh của GCCN trong toàn bộ học thuyết của mình, song tập trung nhất là ở lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học.

Tuy nhiên, thời gian qua, một số người nhận thức chưa đầy đủ hoặc sai lệch về SMLS của GCCN, thậm chí, có đối tượng còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận SMLS của GCCN. Góp phần phê phán các nhận thức này và bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác là nhiệm vụ chung của chúng ta hiện nay. 

Nhận thức phiến diện, luận điệu xuyên tạc

Giải phóng giai cấp, dân tộc, nhân loại thoát khỏi bóc lột, áp bức, bất công để mọi người và mỗi người được sống trong công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do. Những khát vọng cao đẹp ấy của nhân loại đã có từ bao đời. Nhưng chỉ đến thế kỷ 19, khi xuất hiện nền đại công nghiệp và cùng với đó là sự trưởng thành của GCCN và chính đảng của nó thì những cơ sở thực tiễn để hiện thực hóa khát vọng ấy mới xuất hiện đầy đủ. 

CNXH khoa học đã làm rõ những tất yếu, quy luật cùng những điều kiện, lực lượng, động lực, lộ trình để thực hiện SMLS của GCCN. Xã hội hóa trong sản xuất kinh tế và dân chủ hóa trong đời sống chính trị-xã hội là những tiền đề của CNXH do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) tạo ra. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của CNXH là nền sản xuất phát triển cao được xây dựng trên cơ sở xác lập chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là một tất yếu xuất phát từ yêu cầu xã hội hóa của sản xuất công nghiệp, được thực hiện thông qua tự giác thực hiện quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lý luận về SMLS của GCCN là cốt lõi của lý luận về CNXH khoa học.

Tuy nhiên, thời gian qua, một số người nhận thức chưa đầy đủ hoặc sai lệch về SMLS của GCCN, thậm chí, nhiều đối tượng còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận SMLS của GCCN với ý đồ không lành mạnh.

Có ý kiến cho rằng, “GCCN trên thế giới hiện nay không khác mấy GCCN của những năm 70 của thế kỷ 20”; đó chỉ là những nhóm người “trực tiếp lao động sản xuất của cải vật chất trong công nghiệp”, “trong xã hội hiện đại, công nhân đang ít đi và không chiếm đa số trong lao động”. Một nhận thức phiến diện khác cho rằng, hiện nay, vị thế của công nhân ở nhiều nước không có gì khác so với thế kỷ 19-tức là công nhân “làm thuê, không có quyền định đoạt sản xuất và phân phối”... Hoặc cũng có nhận xét rằng “hiện nay trên thế giới không thấy phong trào công nhân, chỉ thấy các phong trào xã hội”. Bên cạnh đó, một số người cho rằng, hiện nay, “SMLS của GCCN chỉ còn được tiếp tục ở một vài nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”... 

Trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện đại, vấn đề SMLS của GCCN là trọng điểm đấu tranh của cả GCCN và giai cấp tư sản, CNXH và CNTB cùng nhiều sắc thái chính trị-xã hội khác nhau. Họ biết rõ rằng, SMLS của GCCN là cốt lõi của CNXH khoa học và phủ nhận được sứ mệnh này là phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của GCCN và đảng cộng sản. Gần đây, trong xu thế phát triển của thế giới với trình độ kinh tế tri thức và hướng tới cách mạng công nghiệp 4.0, cũng có ý kiến cho rằng, “trong kinh tế tri thức thì SMLS là của trí thức chứ không phải của công nhân”. Đây là một nhận thức không đầy đủ.

Những phân tích sau đây có thể góp phần làm rõ hơn nhận thức liên quan đến vấn đề trí thức và SMLS của GCCN trong thời đại ngày nay.

Trí thức có vai trò rất quan trọng nhưng không thể thay thế sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Thứ nhất, cho dù tri thức, kiến thức khoa học có vai trò to lớn, nhưng phát triển hiện đại không vì thế mà không cần đến sản phẩm vật chất để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của mình (chẳng hạn ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, xây dựng, chữa bệnh...). Tất cả nhu cầu ấy lại chỉ có thể được thỏa mãn thông qua sản xuất vật chất và thường là thông qua sản xuất công nghiệp. Chỉ có sản xuất vật chất bằng phương thức công nghiệp mới có đủ năng lực đáp ứng nhu cầu của gần 8 tỷ người trên thế giới hiện nay. Vì vậy, nhân loại hiện nay vẫn cần tới sản xuất vật chất và lao động của GCCN để tồn tại và phát triển.

Thứ hai, GCCN hiện đại đang được trí thức hóa, trí tuệ hóa trong các cuộc cách mạng công nghiệp. Yêu cầu khách quan của sản xuất, dịch vụ hiện đại và vận hành nền sản xuất công nghiệp hiện đại đòi hỏi GCCN không ngừng nâng cao năng lực lao động, làm chủ khoa học và công nghệ. Hiện nay, khoảng 40% công nhân của các nước G7 có trình độ đại học. Theo thống kê của Tổ chức Lao động quốc tế (năm 2002), gần 70% công nhân Nhật Bản có trình độ đại học. Với trình độ như vậy, trên thực tế, người ta dùng khái niệm công nhân-trí thức để chỉ nhóm lao động trình độ cao này. Thế nên, quan niệm công nhân “là người lao động thừa hành, trình độ học vấn thấp” đã lạc hậu và bất cập với thực tế.

Thứ ba, SMLS của GCCN tự nó đã mang một hàm lượng tri thức rất lớn và bản thân GCCN cũng đang trí tuệ hóa, đang tạo ra một lớp trí thức-công nhân trong lực lượng lao động của mình. Họ là các chuyên gia, nhà khoa học và công nghệ đang hằng ngày hoàn thiện, phát triển để tăng năng suất lao động, bảo đảm các yêu cầu ngày càng cao về kinh tế-xã hội và môi trường. Xã hội gọi nhóm lao động này là trí thức-công nhân hay nguồn nhân lực trình độ cao. Theo đó, cả về lý luận và thực tiễn, SMLS của GCCN không xa lạ gì với tri thức, trí thức, khoa học hiện đại. Việc tách rời tri thức với quá trình thực hiện SMLS của GCCN là một cái nhìn phiến diện.

Thứ tư, trí thức là nhóm lao động sản xuất ra các giá trị tinh thần; còn công nhân là nhóm lao động sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất, các quá trình kinh tế xét đến cùng, bao giờ cũng là yếu tố quyết định nhất. Tri thức và lao động của họ, có vai trò rất quan trọng trong phát triển hiện đại nhưng bao giờ cũng cần đến việc chuyển hóa những giá trị tinh thần đó vào thực tiễn. Những công thức, ý tưởng sáng tạo, phần mềm (software) hay nói chung là phát kiến khoa học đều cần tới công nghệ để thể hiện ra giá trị của mình. Trên thực tế, nhiều sản phẩm tinh thần chỉ có thể bộc lộ giá trị thông qua việc hóa thân vào những ứng dụng công nghệ. Khoa học cần công nghệ để thể hiện ra, công nghệ cần khoa học để tiến hóa. Hai quá trình thực tiễn này hiện nay đã gần gũi lại trong một lĩnh vực hoạt động mà hiện nay thường gọi là “cách mạng khoa học và công nghệ”. Thông qua thực tiễn đó có thể nhận định: Sản xuất vật chất là cái quyết định, sản xuất tinh thần là để phục vụ cho quá trình tồn tại của xã hội. Sáng tạo tinh thần như khoa học, văn hóa, nghệ thuật có vai trò rất quan trọng trong phát triển xã hội hiện đại, nhưng nếu chỉ tinh thần thôi thì chưa đủ nền tảng cho phát triển bền vững của xã hội loài người.

Thứ năm, SMLS thực chất là sự nghiệp của một giai cấp đảm nhận trách nhiệm lãnh đạo xã hội xây dựng một hình thái kinh tế-xã hội mới. Để làm tròn trách nhiệm ấy, đòi hỏi giai cấp có SMLS phải đạt được những yêu cầu, đặc điểm riêng. Điều đó tập trung ở 4 nội dung: Phải là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ xã hội, bao gồm cả về kinh tế (xu thế phát triển sản xuất) và chính trị (đại diện cho xu thế dân chủ hóa); phải là đại diện cho lợi ích chung của xã hội, các giai tầng và cả dân tộc; phải có một hệ tư tưởng riêng vừa phản ánh nhận thức về quy luật vận động đương thời, vừa thể hiện tính tiền phong về lý luận; phải có kết cấu, tổ chức chặt chẽ với một hạt nhân là chính đảng của giai cấp...

Một giai cấp muốn đảm nhận sứ mệnh xác lập một hình thái kinh tế-xã hội mới, nhất thiết phải đáp ứng các điều kiện trên. Đội ngũ trí thức không hội đủ các điều kiện ấy. Ngộ nhận về sự tăng lên của vai trò trí thức trong phát triển hiện đại đôi khi khiến người ta lãng quên những mối quan hệ, các đặc điểm và vị thế của trí thức trong tồn tại xã hội. Trí thức có công khái quát những tri thức lý luận và nâng cao trình độ nhận thức của phong trào công nhân. Trí thức có thể cùng với GCCN và nhân dân làm nên lực lượng của cách mạng XHCN. Thực hiện SMLS của mình, GCCN cần đến sự hợp tác của trí thức và tự mình nâng cao tri thức, kỹ năng lao động hiện đại. Nhưng đảm nhận vai trò lãnh đạo cách mạng XHCN thì chỉ có GCCN mới đủ cơ sở, điều kiện, năng lực thực tế.

Tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Cách mạng XHCN coi việc giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công và để con người phát triển trong công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do là mục tiêu cao nhất. Sứ mệnh hàng đầu của GCCN là bằng phương thức lao động công nghiệp để sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, tốt hơn cho quá trình phát triển của nhân loại. Từ đó, họ tạo ra các tiền đề, điều kiện vật chất cho xã hội mới.

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác và từ thực tiễn hiện nay, GCCN ở tất cả quốc gia với trình độ phát triển khác nhau vẫn đang tiếp tục thực hiện SMLS của mình với nhiều trình độ, cách thức khác nhau. Thậm chí, dưới góc nhìn của chủ nghĩa duy vật lịch sử, hiện nay, chính GCCN ở các nước TBCN phát triển, bằng việc làm chủ khoa học và công nghệ hiện đại, bằng năng suất lao động cao lại đang đóng góp tích cực cho việc thực hiện nội dung kinh tế kỹ thuật của SMLS của GCCN. 

Có thể khẳng định rằng, SMLS toàn thế giới của GCCN là một học thuyết về giải phóng và phát triển hiện đại do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin luận giải một cách khoa học, hệ thống. Đây là vũ khí tư tưởng của các đảng cộng sản, của GCCN trong cuộc đấu tranh với ý thức hệ tư sản và các thế lực thù địch với CNXH. Chúng ta cần luôn cảnh giác phát hiện và đấu tranh với những tư tưởng sai lầm, xuyên tạc để bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng của lý luận về SMLS của GCCN và qua đó, bảo vệ chế độ XHCN cần được xem là nhiệm vụ thường trực.

Ở Việt Nam, chúng ta cần thấm nhuần sâu sắc rằng, thực hiện thành công sự nghiệp “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển đất nước nhanh và bền vững” để tạo ra cơ sở vật chất cho CNXH và “xây dựng GCCN hiện đại, lớn mạnh” cần được xem là những cơ sở hiện thực, phương hướng chính để làm rõ và khẳng định SMLS của GCCN Việt Nam đối với dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.

PGS, TS NGUYỄN AN NINH

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh