Thứ Hai, 8 tháng 8, 2022

Lễ thượng cờ kỷ niệm 55 năm thành lập ASEAN

Sáng ngày 8/8/2022, tại trụ sở Bộ Ngoại giao, nhân dịp kỷ niệm 55 năm ngày thành lập ASEAN và 27 năm Việt Nam tham gia ASEAN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã chủ trì Lễ Thượng cờ ASEAN 2022.


Lễ thượng cờ kỷ niệm 55 năm thành lập ASEAN - Ảnh 1.

Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khẳng định vị thế và hình ảnh của ASEAN ngày càng được nâng cao, vai trò và tiếng nói ngày càng được coi trọng ở tầm khu vực và quốc tế - Ảnh: BNG

Cùng tham dự có Đại sứ các nước ASEAN và đại diện các nước đối tác của ASEAN, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh, Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà và đại diện UBND thành phố Hà Nội cùng phóng viên báo chí trong và ngoài nước.

Phát biểu tại Lễ Thượng cờ, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn điểm lại những thành công ASEAN đạt được trong 55 năm qua, khẳng định vị thế và hình ảnh của ASEAN ngày càng được nâng cao, vai trò và tiếng nói ngày càng được coi trọng ở tầm khu vực và quốc tế; đồng thời nhấn mạnh Cộng đồng ASEAN ngày nay đã trở thành một đại gia đình với hơn 700 triệu người dân với GDP đạt hơn 3.200 tỷ USD, là nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới và được biết đến là một khu vực hòa bình, ổn định với những nền kinh tế năng động, ổn định.



Tuy nhiên, ASEAN đang đứng trước nhiều thách thức chưa từng có do đại dịch COVID-19 cùng những chuyển dịch về địa chính trị, kinh tế và các thách thức phi truyền thống. Bối cảnh này đòi hỏi ASEAN phải nỗ lực hơn nữa nhằm củng cố nền móng, thúc đẩy phục hồi nhanh chóng, bền vững và bao trùm sau đại dịch đồng thời xây dựng Tầm nhìn ASEAN sau năm 2025 cho giai đoạn tiếp theo của Cộng đồng.

Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tin tưởng ASEAN sẽ tiếp tục hướng đến những tầm cao mới nhằm đáp ứng lợi ích của người dân ASEAN và vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Lễ Thượng cờ ASEAN vào dịp kỷ niệm ngày thành lập ASEAN 8/8 hằng năm là thông lệ đáng tự hào của tất cả các nước thành viên ASEAN. Lá cờ ASEAN là biểu tượng cho tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác của Hiệp hội và khát vọng hoà bình, ổn định, phát triển thịnh vượng của tất cả các nước thành viên dưới mái nhà chung là Cộng đồng ASEAN./.

Một số hình ảnh tại Lễ thượng cờ:

Lễ thượng cờ kỷ niệm 55 năm thành lập ASEAN - Ảnh 3.

Lễ Thượng cờ ASEAN vào dịp kỷ niệm ngày thành lập ASEAN 8/8 hằng năm là thông lệ đáng tự hào của tất cả các nước thành viên ASEAN - Ảnh: BNG

Lễ thượng cờ kỷ niệm 55 năm thành lập ASEAN - Ảnh 4.

Lá cờ ASEAN là biểu tượng cho tình đoàn kết, hữu nghị, hợp tác của Hiệp hội và khát vọng hoà bình, ổn định, phát triển thịnh vượng của tất cả các nước thành viên dưới mái nhà chung là Cộng đồng ASEAN - Ảnh: BNG

Lễ thượng cờ kỷ niệm 55 năm thành lập ASEAN - Ảnh 5.

Ảnh: BNG

Lễ thượng cờ kỷ niệm 55 năm thành lập ASEAN - Ảnh 6.

Ảnh: BNG

Lễ thượng cờ kỷ niệm 55 năm thành lập ASEAN - Ảnh 7.

BẢN LĨNH VIỆT NAM!

     Tại hội nghị Paris 1973, Bà Nguyễn Thị Bình làm trưởng đoàn đàm phán của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Bà trả lời câu hỏi của nhà báo nước ngoài:
- Nhà báo hỏi: "Có quân đội miền Bắc ở miền Nam không?". 
- Bà Bình trả lời: "Dân tộc Việt Nam là một, người Việt Nam ở Bắc cũng như ở Nam đều có nghĩa vụ chiến đấu chống xâm lược".
- Nhà báo hỏi: Thưa bà cho biết “Vùng giải phóng ở đâu?”
- Bà Bình trả lời: “Nơi nào Mỹ ném bom, bắn phá thì đó chính là vùng giải phóng của chúng tôi. Nếu không tại sao Mỹ lại phải ném bom?”.
     Thật khâm phục người Phụ nữ nhỏ bé, một mình đương đầu với cả một dàn Nhà báo Phương Tây sừng sỏ, nhiều thủ đoạn, chiêu trò. Nhưng với bản lĩnh tuyệt vời, ý kiến sắc bén, sát đúng với tình hình đang diễn ra ở cả hai miền Việt Nam. Một mình bà dung dung, tự tại trên Chiến Trường Ngoại giao.     Kính phục, thật kính phục bà! Chúc bà thật nhiều sức khỏe, hạnh phúc (Hiện nay bà chuẩn bị bước sang tuổi 95)./.
Yêu nước ST.

CHỦ TỊCH CUBA RA LỆNH CHUYỂN TẤT CẢ NHIÊN LIỆU CÓ THỂ RA KHỎI HIỆN TRƯỜNG TRONG ĐÊM 6/8 VÀ RẠNG SÁNG 7/8!

     Nhằm hỗ trợ Cuba trong việc dập tắt đám cháy, tối 6/8, ba máy bay trực thăng và một chiếc Boeing 737-700 của không quân Mexico cùng vật liệu hỗ trợ dập lửa đã đến Cuba.
     Ngay sau đó, vào rạng sáng 7/8, một máy bay của Venezuela với nhiều chuyên gia xử lý thảm họa mang theo 20 tấn bọt chữa cháy và bột hóa chất tới hỗ trợ Cuba.
     Tới thời điểm này, Cuba đã nhận được đề nghị hỗ trợ của các nước: Nicaragua, Argentina, Nga, Bolivia, Colombia, Chile và các nước Mỹ Latinh- Caribe khác.
---
     Được tin vụ cháy nổ xảy ra ngày 5/8/2022 tại khu công nghiệp tại tỉnh Matanzas, Cuba, gây thiệt hại và mất mát nghiêm trọng, ngày hôm nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã gửi điện thăm hỏi tới đồng chí Miguel Díaz-Canel, Bí thư thứ Nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch nước Cộng hòa Cuba; 
     Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã gửi điện thăm hỏi tới đồng chí Manuel Marrero Cruz, Thủ tướng nước Cộng hòa Cuba; 
     Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ gửi điện thăm hỏi tới đồng chí Esteban Lazo Hernandez, Chủ tịch Quốc hội Chính quyền Nhân dân nước Cộng hòa Cuba. 
     Cùng ngày, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã gửi điện thăm hỏi tới Bộ trưởng Ngoại giao Cuba Bruno Rodriguez Parrilla./.



Yêu nước ST.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 08 THÁNG 8 NĂM 1957!

         “Nước Việt Nam là một khối thống nhất về mặt dân tộc, lịch sử và kinh tế, và không một lực lượng nào trên thế giới có thể chia cắt được Việt Nam”!
     Là sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Diễn từ tiệc chiêu đãi ở Bêôgrát (Nam Tư)”, Báo Nhân dân đăng trên số 1248, ngày 08 tháng 8 năm 1957.
     Trong chuyến thăm và làm việc của Đoàn cao cấp Chính phủ Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đến Nam Tư, phát biểu tại tiệc chiêu đãi của nước chủ nhà dành cho Đoàn ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông báo cho bạn biết về việc đế quốc Mỹ đã nhảy vào thế chân thực dân Pháp, cấu kết với bọn bù nhìn ở miền Nam Việt Nam bội ước, phá hủy các điều ước đã ký tại Hiệp nghị Giơnevơ, biến đường giới tuyến tạm thời ở vĩ tuyến 17 thành một đường biên giới, cố tình chia cắt đất nước Việt Nam lâu dài.
     Với tinh thần “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lấy độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn thể dân tộc Việt Nam. Lời của Bác là ý chí sắt đá của Đảng, quyết tâm của cả dân tộc, động viên quân và dân cả nước giữ vững ý chí, quyết tâm, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa anh em để chiến đấu, chiến thắng quân xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
     Quân đội nhân dân Việt nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân, khắc ghi lời Bác Hồ dạy luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao đã cùng với toàn Đảng, toàn dân đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ toàn quân cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có thái độ phân biệt đúng, sai, không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”./.
Môi trường ST.

HẠ CÁNH KHÔNG AN TOÀN!

         Ông Ninh Văn Chủ, nguyên Giám đốc CDC Quảng Ninh, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Giám đốc CDC miền Bắc vui mừng khi nhận quyết định nghỉ hưu, nghĩ rằng như thế đã là an toàn, ông ta liên tiếp tổ chức nhiều bữa tiệc chia tay nghỉ hưu với quy mô lớn, với hàng trăm người ở những khách sạn và du thuyền 5 sao tại thành phố Hạ Long trong bối cảnh hiện nay ngành Y tế cả nước gặp nhiều khó khăn như: Nợ lương nhân viên y tế, hay lương thấp, áp lực công việc cao khiến nhân viên y tế bỏ việc nhiều, vật tư y tế còn nhiều thiếu thốn…
     Dư luận cả nước và báo chí lên tiếng mạnh mẽ về việc tổ chức bữa tiệc chia tay nghỉ hưu của Ninh đại quan nhân, nó còn hoành tráng hơn cả Lễ nhường ngôi xa xỉ của Hoàng đế Càn Long bên tàu khi ông ta làm Thái Thượng hoàng để cho con là Gia Khánh làm Hoàng đế. Ninh đại quan nhân vung tay quá trán, tự mình vả vào mặt mình. Hậu quả là Thường trực Tỉnh ủy Quảng Ninh đã giao Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy khẩn trương kiểm tra, xác minh, làm rõ dấu hiệu vi phạm. Ngày 7/8, Ủy Ban kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Ninh đã ban hành quyết định kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với Đảng ủy bộ phận Trung tâm CDC Quảng Ninh và ông Ninh Văn Chủ, nguyên Bí thư Đảng ủy Bộ phận Trung tâm CDC Quảng Ninh, nguyên Giám đốc CDC Quảng Ninh.
     Kết quả thế nào thì hồi sau sẽ rõ nhưng một khi "cảnh sát Đảng" vào cuộc thì lành ít dữ nhiều! Cán bộ, đảng viên lấy nhân dân làm trung tâm để phục vụ. Chỉ một vị Giám đốc CDC mà đã thế này thì những quan chức khác khi chia tay, về vườn sẽ như thế nào. Cần chấn chỉnh kịp thời, không để thành tiền lệ xấu cho các quan chức khác. Suốt ngày rêu rao "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" nhưng ông Ninh Văn Chủ đã làm ngược lại. Cần thanh kiểm tra đối với Đảng ủy bộ phận Trung tâm CDC Quảng Ninh và ông Ninh Văn Chủ, nguyên Bí thư Đảng ủy Bộ phận Trung tâm CDC Quảng Ninh, nguyên Giám đốc CDC Quảng Ninh. Nhân dân ủng hộ cách làm của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh./.
Môi trường ST.

Thủ đoạn xuyên tạc, hướng lái vụ án tại “Tịnh thất Bồng Lai”

 Xung quanh vụ án “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại “Tịnh thất Bồng Lai”, xuất hiện luồng thông tin tiêu cực, không đúng sự thật do các đối tượng xấu lan truyền hòng làm nhiễu dư luận.

Về vụ án này, ngày 21/7, HĐXX TAND huyện Đức Hòa (tỉnh Long An) đã tuyên án sơ thẩm đối với 6 bị cáo. Theo đó, bị cáo Lê Tùng Vân (90 tuổi) bị tuyên 5 năm tù; các bị cáo Lê Thanh Nhất Nguyên (31 tuổi), Lê Thanh Hoàn Nguyên (30 tuổi), Lê Thanh Trùng Dương (27 tuổi) cùng mức án 4 năm tù; bị cáo Lê Thanh Nhị Nguyên (24 tuổi) 3 năm 6 tháng tù và bị cáo Cao Thị Cúc (62 tuổi) 3 năm tù. Trong phần luận tội, đại diện viện kiểm sát cho rằng, hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo đã phạm tội có tổ chức nhưng tại phiên tòa không có ý thức khai báo, không có thái độ ăn năn để hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Ngay sau khi bản án sơ thẩm được đưa ra, các cá nhân, tổ chức chống đối, cơ hội chính trị đã nhanh chóng đăng đàn xuyên tạc bản chất vụ án, đánh võng thông tin, hướng lái tiêu cực. Những cái tên quen thuộc như Việt Tân, Đài Á châu Tự do – RFA, BBC news Tiếng Việt… liên tục tung ra những bài viết với các luận điệu sai trái. Các đối tượng viết bài quy kết rằng, việc kết án các bị cáo trong “Tịnh thất Bồng Lai” là không có căn cứ, quá trình xét xử thiếu công minh; chính quyền đang “đàn áp tự do tôn giáo” bằng một điều luật “mơ hồ”... Từ đó, số này kêu gọi các quốc gia, tổ chức quốc tế can thiệp, gây sức ép với Việt Nam để trả tự do cho những người bị kết án.

Vụ án “Tịnh thất Bồng Lai” liên quan các yếu tố mà các đối tượng xấu lợi dụng xuyên tạc, chính trị hoá. Thứ nhất, đây là vụ án nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận. Những hành vi vi phạm tại đây diễn ra từ lâu, có tổ chức. Tuy nhiên, cái tên “Tịnh thất Bồng Lai” chỉ thực sự “nóng” và nhận được sự chú ý của cộng đồng khi “hiện tượng mạng” Nguyễn Phương Hằng đăng đàn tố cáo. Sau những cuộc phát sóng trực tiếp (livestream) với hàng trăm ngàn người cùng theo dõi ở một thời điểm của Nguyễn Phương Hằng thì mọi nhất cử, nhất động của “Tịnh thất Bồng Lai” đều gây chú ý dư luận. Thứ hai, các bị cáo trong vụ án đã mượn danh cơ sở tôn giáo để trục lợi.

Với phương châm lợi dụng vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo làm ngòi nổ để chống phá chế độ, các thế lực thù địch, phản động, chống đối, cơ hội chính trị đã nhanh chóng hướng lái “chính trị hoá” vụ án “Tịnh thất Bồng Lai”. Về vấn đề này, Ban Tôn giáo Chính phủ cho biết, qua trao đổi với Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cho thấy, “Tịnh Thất Bồng Lai” là cơ sở thờ tự không hợp pháp.

Theo báo cáo của UBND tỉnh Long An gửi Ban Tôn giáo Chính phủ, cơ sở trên có một số sai phạm như: các công trình xây dựng đều do cá nhân đứng tên và xây dựng trên đất ở nông thôn; bà Cao Thị Cúc là chủ cơ sở trên đã sử dụng đất trồng lúa vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; UBND xã cũng đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và buộc bà Cúc khôi phục tình trạng ban đầu của đất. Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, vụ việc này có dấu hiệu lợi dụng tôn giáo để trục lợi, mặc dù chủ cơ sở khẳng định chỉ thờ tượng Phật tại gia, không phải sinh hoạt tôn giáo.

Ngay từ những giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, các đối tượng xấu đã ra sức “kêu oan”, “khóc mướn” cho các đối tượng trong vụ án và vu khống chính quyền làm oan người vô tội. Họ cố tình che đậy bản chất vi phạm của “Tịnh thất Bồng Lai”, biến các đối tượng trong vụ án thành “nạn nhân” của chế độ.

Ngày 5/11/2021, Báo CAND đã có bài viết “Sự thật về nơi gọi là “Tịnh Thất Bồng Lai”, “Thiền am bên bờ vũ trụ”” để vạch trần những góc khuất, vi phạm tại đây. Ngày 10/6/2022, Chuyên đề An ninh thế giới tiếp tục đăng tải bài viết “Những chiêu trò của các bị can trong vụ “Tịnh thất Bồng Lai - Thiền am bên bờ vũ trụ”, chỉ ra các chiêu trò của các đối tượng trong vụ án. Ngoài ra, nhiều tờ báo khác cũng đăng tải, cập nhật rõ thông tin về sai phạm tại “Tịnh thất Bồng Lai”.

Qua quá trình tổ tụng, các cơ quan chức năng có đầy đủ tài liệu, chứng cứ để khẳng định các bị cáo trong vụ án xảy ra tại “Tịnh thất Bồng Lai” đã có hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo và có hành vi chống đối, vu khống cơ quan chức năng khi thực thi nhiệm vụ. Những sai phạm xảy ra tại “Tịnh thất Bồng Lai” diễn ra có tổ chức, trong một thời gian dài, đã xúc phạm trực tiếp đến uy tín, danh dự của nhiều cá nhân, tổ chức như: Công an huyện Đức Hòa, ông Trần Ngọc Thảo (Thượng tọa Thích Nhật Từ, Ủy viên Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó ban Phật giáo quốc tế và trụ trì chùa Giác Ngộ)...

Ngoài ra, qua các video, clip được chính các bị cáo chia sẻ, lan truyền trên kênh Youtube “5 chú Tiểu - Thiền Am bên bờ vũ trụ” và “Nhất Nguyên - Hoàn Nguyên Official” trước khi bị bắt, có thể thấy các đối tượng trong “Tịnh thất Bồng Lai” có hành vi xúc phạm đạo Phật, xuyên tạc giáo lý của Phật giáo, xúi giục mọi người không tôn trọng tôn giáo và pháp luật.

Việc xét xử sơ thẩm vụ án “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại “Tịnh thất Bồng Lai” đã được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Quá trình xét xử đảm bảo nguyên tắc tranh tụng công khai, dân chủ.  Nếu không đồng ý với bản án sơ thẩm, các bị cáo hoàn toàn có quyền kháng cáo đến toà án cấp trên trực tiếp. Vì vậy, chẳng có lý do gì để các “nhà dân chủ” vu khống rằng việc xét xử là thiếu công bằng, bản án được đưa ra là “bất công”, “phi lý”!

Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Tuy nhiên, tự do tôn giáo phải đi liền với tôn trọng pháp luật. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Không ai được phép xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật, xúc phạm đến tổ chức, cá nhân. Bản chất của “Tịnh thất Bồng Lai” là lợi dụng tôn giáo để trục lợi. Việc thành lập và hoạt động của cơ sở này trái quy định của pháp luật, không đúng với quy tắc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Ngay trong phiên toà sơ thẩm, bản thân các bị cáo cũng cho biết hoạt động không theo tôn giáo nào. Thực tế, hoạt động của các bị cáo trong vụ án “Tịnh thất Bồng Lai” đã ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự của địa phương và gây chia rẽ tôn giáo. Việc xử lý các bị cáo, toà đã cân nhắc kỹ các yếu tố, đảm bảo có lý, có tình. Do đó, những luận điệu cho rằng chính quyền “đàn áp tôn giáo” đang được các đối tượng chống phá đưa ra là không thể chấp nhận.

Đằng sau những luận điệu xuyên tạc bản chất vụ án “Tịnh thất Bồng Lai” là mục đích làm nhiễu loạn tình hình, gây phân tâm dư luận, kích động sự mâu thuẫn trong xã hội hòng tạo ra sự mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đồng thời, bằng các luận điệu sai trái, các thế lực bên ngoài đang cố tình bẻ lái, dựng chuyện nhằm bôi nhọ hình ảnh, làm giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và tìm kiếm những tác động từ bên ngoài hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Những hoạt động này đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích xã hội.

Những đánh giá sai lệch về công tác phòng, chống mua bán người ở Việt Nam

 Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Trong mọi chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm.

Đánh giá phiến diện, thiếu khách quan

Ngày 19/7 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố báo cáo tình hình buôn người năm 2022. Đây là báo cáo hằng năm theo Đạo luật Bảo vệ nạn nhân bị mua bán của Hoa Kỳ năm 2000 do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trình lên Quốc hội nước này, trong đó nhận xét công tác phòng, chống mua bán người của 188 quốc gia trên thế giới nhằm kêu gọi Chính phủ các nước thực hiện nghiêm túc Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung.

Trong báo cáo tình hình buôn người năm 2022, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xếp Việt Nam trong nhóm 3, tụt 18 bậc so với năm 2021 (năm 2021, đánh giá Việt Nam thuộc nhóm 2) cùng với các nước như Brunei, Campuchia, Malaysia, Myanmar tại Đông Nam Á và một số nước khác như Trung Quốc, Cuba... Cũng theo báo cáo này, những nước nằm trong nhóm 3 có thể bị hạn chế nhận một số viện trợ từ Hoa Kỳ trong tương lai. Báo cáo trên có những nhận xét không khách quan, không phản ánh những nỗ lực to lớn của Việt Nam trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người trong thời gian qua.

Liên quan đến vấn đề trên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng ngày 21/7 khẳng định: “Bộ Ngoại giao Mỹ ra báo cáo năm 2022 về tình hình mua bán người trên thế giới với các thông tin không xác thực, không phản ánh đầy đủ, chính xác về tình hình và nỗ lực phòng, chống mua bán người của Việt Nam”.

Không ngừng nỗ lực đấu tranh với nạn buôn người

Việc nhìn nhận, đánh giá một vấn đề cần phải dựa trên những thông tin xác thực, có các hoạt động kiểm chứng, khảo sát thực tế, nếu không sẽ đưa ra những nhận xét thiếu khách quan, phiến diện. Điều này tác động không tốt đến quan hệ ngoại giao hai nước, gây ra những hiểu lầm đáng tiếc và tạo cớ để các thế lực thù địch suy diễn, xuyên tạc về công cuộc phòng, chống tội phạm mua bán người ở Việt Nam nói riêng, công tác đảm bảo quyền con người nói chung.

Thực tế, việc phòng, chống mua bán người được Đảng, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và được tiến hành trên nhiều lĩnh vực, từ phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm cũng như hỗ trợ nạn nhân. Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về phòng, chống mua bán người. Những nỗ lực, cố gắng của Việt Nam trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người thời gian qua là toàn diện, rõ nét. 

Tại Điều 150 và Điều 151, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định rõ về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi. Đặc biệt, Luật Phòng, chống mua bán người được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2012 đã quy định khung pháp lý quan trọng làm cơ sở cho công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tội phạm mua bán người. Với mục tiêu huy động mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia phòng ngừa, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tội phạm mua bán người trên phạm vi toàn quốc, ngày 10/5/2016, Thủ tướng Chính phủ quyết định lấy ngày 30/7 hằng năm là “Ngày Toàn dân phòng, chống mua bán người”. Nghị định số 62/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân của họ. Ngày 11/2/2019, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao ban hành Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về “Tội mua bán người”; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 193/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, quyết định này có hiệu lực từ ngày 9/2/2020. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 1944/QĐ-TTg ngày 18/12/2021 của Chương trình thực hiện Kết luận số 13-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025, định hướng đến năm 2030, nhất là các phương án, kế hoạch, giải pháp đảm bảo ANTT, phòng, chống tội phạm trong và sau dịch bệnh COVID-19.

Ngày 18/7 vừa qua, hướng tới Ngày Thế giới và Toàn dân phòng chống mua bán người, các bộ: Lao động, Thương binh và Xã hội, Công an, Quốc phòng và Ngoại giao cũng đã ký Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành, tiến hành xác minh, xác định, giải cứu, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án mua bán người.

Việt Nam cũng tích cực hợp tác quốc tế về phòng, chống mua bán người, phát huy vai trò của cơ quan đại diện ở nước ngoài trong việc nắm tình hình, kịp thời phát hiện và giải cứu nạn nhân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, hồi hương công dân Việt Nam là nạn nhân bị mua bán trở về nước. Các điều ước quốc tế, hiệp định song phương, đa phương, các thỏa thuận hợp tác về phòng, chống mua bán người mà Việt Nam là thành viên được triển khai thực hiện có hiệu quả. Theo đó, ngày 20/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành Kế hoạch triển khai thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự của LHQ. Việt Nam tiếp tục nỗ lực thực hiện Kế hoạch triển khai Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM) nhằm củng cố môi trường di cư minh bạch, ngăn chặn nguy cơ mua bán người trong các hoạt động di cư quốc tế, trong đó đề ra các giải pháp toàn diện và bao trùm nhằm nâng cao hiệu quả quản lý di cư, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người di cư nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nguy cơ mua bán người, giảm tội phạm mua bán người, tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ hiệu quả các nạn nhân của thực trạng mua bán người. Trên thực tế, tình hình phòng, chống mua bán người trong nước và qua biên giới cũng luôn được rà soát để kịp thời có biện pháp xử lý phù hợp, khắc phục những khó khăn do đại dịch COVID -19 gây ra.

Không chỉ xâm hại quyền con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, đạo đức, nhân phẩm, tính mạng của các nạn nhân, tội phạm mua bán người còn gây ảnh hưởng xấu đến nền tảng đạo đức, giống nòi, thuần phong mỹ tục, tác động trực tiếp đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm ấy, những năm qua, các cơ quan chức năng của Việt Nam từ Trung ương đến địa phương luôn thể hiện trách nhiệm cao, thái độ kiên quyết trong phối hợp đấu tranh, ngăn chặn, xử lý tội phạm mua bán người. Các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương đã chú trọng xây dựng, duy trì hoạt động các chuyên trang, chuyên mục, chương trình phát thanh, truyền hình tuyên truyền về phòng, chống mua bán người, trong đó tập trung tuyên truyền về các phương thức, thủ đoạn mới, địa bàn trọng điểm của tội phạm này, những đối tượng có nguy cơ cao trở thành nạn nhân, quyền lợi mà nạn nhân được hỗ trợ và đường dây nóng tiếp nhận thông tin về nạn nhân và vụ việc. Đồng thời, đẩy mạnh công tác truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng và mạng xã hội...

Về nhiệm vụ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, Việt Nam đang tích cực xây dựng, triển khai quy trình chuẩn về hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng đồng; xây dựng quy chế phối hợp liên ngành, liên cấp về tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân và cung cấp kết nối dịch vụ tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân và người nghi là nạn nhân bị mua bán. Củng cố, phát triển, cải thiện chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước trong công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, bảo đảm tính sẵn có, dễ tiếp cận; đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ hỗ trợ nạn nhân và thí điểm các mô hình hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng đồng. Đồng thời, lồng ghép nội dung phòng, chống mua bán người vào các chương trình phòng, chống tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội, giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, bình đẳng giới, bảo vệ trẻ em và các chương trình phát triển kinh tế xã hội khác…

Theo số liệu của Cục Cảnh sát hình sự, từ năm 2010-2020, trên địa bàn cả nước đã điều tra, khám phá 4.116 vụ, khởi tố 6.012 bị can phạm tội mua bán người ra nước ngoài; trong số này có 419 vụ, 476 bị can mua bán trẻ em ra nước ngoài. Theo báo cáo của các TAND, kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ năm 2016 đến năm 2021 về tội mua bán người đã giải quyết là 450 vụ/506 vụ án đã thụ lý; tội mua bán người dưới 16 tuổi đã giải quyết là 190 vụ/225 vụ án thụ lý. Đây là những con số “biết nói” minh chứng những nỗ lực không biết mệt mỏi của Việt Nam trong phòng, chống nạn mua bán người.

Cần phải nhìn nhận đúng một thực tế là không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới, hoạt động mua bán người tiếp tục diễn biến phức tạp. Ðây là công việc nhiều khó khăn, trở ngại nhưng với quyết tâm chính trị và bằng kinh nghiệm của mình, Việt Nam sẽ tiếp tục huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia phòng ngừa, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tội phạm mua bán người. Trong bối cảnh tội phạm mua bán người hình thành các đường dây, tổ chức xuyên quốc gia, Việt Nam chủ trương tăng cường hợp tác với các nước trên thế giới, các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tội phạm mua bán người.

Liên quan đến bản Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nhấn mạnh: “Chúng tôi mong muốn phía Hoa Kỳ trong thời gian tới hợp tác chặt chẽ hơn nữa để có đánh giá đầy đủ về tình hình và nỗ lực phòng, chống mua bán người của Việt Nam. Chúng tôi cũng sẵn sàng trao đổi với các nước, trong đó có cả Hoa Kỳ cũng như các bên liên quan về các vấn đề hợp tác cụ thể để cùng nhau triển khai hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người”.

Luận điệu sai trái về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

 Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được xác định là nội dung trọng tâm của đổi mới chính trị tại Việt Nam. Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã tích cực thảo luận, lấy ý kiến đóng góp để hoàn thiện Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.

Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá, nhiều đối tượng xấu đã xuyên tạc, công kích, đưa ra các bài viết làm sai lệch bản chất vấn đề. Một số bài viết cho rằng đã là nhà nước pháp quyền thì không thể đi đôi với XHCN, đưa ra “kiến nghị” đòi bỏ nội dung XHCN trong đề án xây dựng nhà nước pháp quyền.

Thậm chí, một số người nhân danh cấp tiến, đổi mới để vu cáo rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện “đứng trên pháp luật” nên không thể có nhà nước pháp quyền; cho rằng việc đưa ra định hướng XHCN chỉ để mang lại lợi ích cho Đảng chứ không phải vì lợi ích quốc gia, dân tộc; việc đặt đề án xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là nhằm che đậy cho bản chất độc tài của chế độ… Những luận điệu trên  thể hiện rõ ý đồ chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử, tư tưởng về nhà nước pháp quyền xuất hiện từ sớm, gắn với các nhà tư tưởng nổi tiếng như Socrates (469-399 Tr.CN), Aristoteles (384-322 Tr.CN), Cicero (l06-43 Tr.CN), John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hegel (1770 - 1831) v.v… Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.

Những yếu tố cơ bản để xây dựng một nhà nước pháp quyền là xã hội có dân chủ, đất nước có một hệ thống pháp luật đầy đủ và mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia. Tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà các quốc gia khác nhau sẽ xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền cụ thể một cách thích hợp.

Tại Việt Nam, mô hình mà chúng ta lựa chọn là nhà nước pháp quyền XHCN. Điều này đã được ghi nhận cụ thể tại khoản 1, Điều 2 Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, đây là bộ máy quyền lực của chính quần chúng nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của đại đa số người dân trong xã hội.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tại Việt Nam, Đảng, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đều kiên quyết bị xử lý.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là “đứng trên pháp luật”, “không tuân thủ pháp luật” như những gì các đối tượng xấu cố tình bôi nhọ. Tất cả các tổ chức của Đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật tuỳ theo tính chất, mức độ, hậu quả sẽ bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Việc Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Sau 35 năm thực hiện đổi mới, kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 6%/năm), cơ cấu kinh tế thay đổi theo chiều hướng tích cực, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Môi trường hoà bình, ổn định được giữ vững, là tiền đề quan trọng để đất nước phát triển. Công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm bình quân trên 1,4%/năm giai đoạn 2016 – 2020. Lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục cũng đạt được nhiều thành tựu. Trong quan hệ quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng tăng cao và được bầu giữ nhiều vị trí quan trọng trong các tổ chức quốc tế. Đây là những minh chứng rõ ràng khẳng định Việt Nam đang phát triển đúng hướng.

Quá trình phát triển cũng bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết, trong đó có vấn đề tham nhũng, suy thoái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống văn hoá, xã hội còn diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề tồn tại kéo dài khiến dư luận bức xúc, ảnh hưởng tới sự uy nghiêm của luật pháp và niềm tin của người dân vào thể chế. Tuy nhiên, những tồn tại đó có nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập, mở cửa, luật pháp chưa đầy đủ, còn những kẽ hở bị lợi dụng; công tác quản lý Nhà nước còn những yếu kém, còn tình trạng cán bộ, đảng viên suy thoái, nhũng nhiễu.

Vấn đề là Đảng, Nhà nước ta nghiêm túc nhìn nhận hạn chế, thiếu sót, đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài để chấn chỉnh, đặc biệt là việc xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Vì vậy, không có lý do gì để các đối tượng tự xưng “nhà dân chủ” để giở trò “đâm bị thóc, chọc bị gạo”, xuyên tạc tình hình, bôi nhọ Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Đằng sau luận điệu đòi xoá bỏ một số điều luật trong Bộ luật Hình sự

 Khi loài người đang ở thời kỳ mông muội, họ đã biết đặt ra các quy ước, quy định bằng miệng hay các chỉ dấu với nhau. Các quy định đó đưa ra giới hạn để mọi người phải tuân thủ và đảm bảo các nguyên tắc chung. Khi xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ, nhà nước xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, buộc tất cả mọi người trong xã hội đó có nghĩa vụ chấp hành, tuân thủ và nếu như ai vi phạm thì phải chịu các biện pháp xử lý tương ứng.

Thời đại ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều quản lý xã hội bằng pháp luật và các quốc gia hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tình hình, đặc điểm, điều kiện cụ thể. Điều đó thể hiện sự tiến bộ, văn minh của loài người.

Thế nhưng, hiện một số người, nhất là số cơ hội chính trị có quan hệ với các tổ chức thù địch, đối tượng phản động lưu vong, chống phá Nhà nước từ bên ngoài đang tìm cách đi ngược lại sự văn minh, tiến bộ xã hội. Các đối tượng tìm kiếm sự can thiệp từ bên ngoài nhằm kêu gọi xóa bỏ một số điều luật với các mục đích chính trị xấu.

Chẳng hạn, các đối tượng kêu gọi xóa bỏ một số điều luật được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), bao gồm một số điều luật thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia như: Điều 109 "Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân"; Điều 117 "Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam". Hay như Điều 331 "Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" thuộc Chương XXII về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính...

Đằng sau luận điệu đòi xoá bỏ một số điều luật trong Bộ luật Hình sự -0
Ảnh minh họa.

Thực chất, việc kêu gọi xóa bỏ các điều luật này xuất phát từ các đối tượng có âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Vậy, mục đích của các đối tượng kêu gọi xóa bỏ các điều luật này là gì?

Thứ nhất, các đối tượng đang muốn đưa mình thoát khỏi "vùng cấm" của luật pháp, muốn đứng ngoài vòng pháp luật để dễ bề hoạt động chống phá mà không bị chế tài pháp luật xử lý. Các đối tượng đang cố gắng tạo cho mình một vành đai an toàn, nằm trong "nhóm lợi ích" vượt ra ngoài sự quản lý của pháp luật để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước như: Tuyên truyền chống Nhà nước; thành lập các tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam… mà không bị pháp luật cấm đoán.

Thứ hai, các đối tượng muốn gây sự chú ý từ bên trong lẫn bên ngoài, thông qua các hoạt động tuyên truyền kêu gọi, tẩy chay, đòi xóa bỏ các điều luật nhằm gây sự chú ý cho dư luận trong nước cũng như cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức theo dõi nhân quyền, các cơ quan truyền thông thiếu thiện chí, thường xuyên có các bài viết chống phá Việt Nam như đài RFA, RFI... Các hoạt động kêu gọi nhằm đánh lạc hướng dư luận để tạo suy nghĩ rằng môi trường chính trị của Việt Nam đang "rối ren"; tâm lý người dân bất ổn, hoang mang, qua đó hòng tạo áp lực dư luận để đòi hỏi phải thay đổi các quy định hoặc xóa bỏ các điều luật này.

Thứ ba, tất cả các hoạt động kêu gọi xóa bỏ các quy định của điều luật trên không nằm ngoài âm mưu tạo ra môi trường thuận lợi để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, mục đích hướng đến là thay đổi nhận thức của đông đảo quần chúng toàn xã hội, tiến tới xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc kêu gọi xóa bỏ một số điều luật trong Bộ luật Hình sự Việt Nam nhằm xuyên tạc, vu khống, hạ bệ hình ảnh Việt Nam, cho rằng chúng ta vi phạm dân chủ, nhân quyền; vu cáo nhà nước sử dụng các điều luật này để "bóp nghẹt" quyền tự do dân chủ, các quyền căn bản của công dân được Hiến định.

Các đối tượng chống phá muốn xóa bỏ các điều luật nói trên đều nằm trong âm mưu, ý đồ hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và đây không phải là thủ đoạn mới. Các Bộ luật Hình sự trước đây khi ban hành và thực thi thì các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động cũng tìm cách đả phá, đòi huỷ bỏ những điều luật mà họ cho rằng "lạc hậu", "trói cột", "bịt miệng"…

Thời gian qua, đã có nhiều đối tượng phạm tội, bị truy tố theo các tội danh quy định tại Điều 109, Điều 117, Điều 331, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Trong đó, phạm tội quy định tại Điều 117 "Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" có thể kể đến các đối tượng như: Nguyễn Đình Thành (SN 1991, trú tại xã Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, Bình Dương), Nguyễn Năng Tĩnh (SN 1976, trú tại xóm 11, xã Quỳnh Hưng, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An), Nguyễn Đức Hùng (trú tại phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh)… Các đối tượng này đều có hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Việt Nam. Những hành vi này ảnh hưởng đến an ninh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, tác động đến đời sống tinh thần và sự thống nhất về nền tảng tư tưởng chính trị, làm ảnh hưởng đến niềm tin của quần chúng nhân dân vào hệ thống chính trị… Hành vi phạm tội của các đối tượng đều bị truy tố, xử lý theo tội danh, điều khoản tương ứng, đúng quy định pháp luật.

Thực tế, không phải vì nhận thức thiếu hiểu biết dẫn tới phạm pháp mà hầu hết các đối tượng đều hiểu rõ những hành động của mình là trái với quy định của pháp luật, là phạm tội, nhưng với các động cơ khác nhau, họ vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Thậm chí không ít đối tượng dù bị cơ quan chức năng nhiều lần cảnh cáo, nhắc nhở hay xử phạt hành chính, xử lý hình sự nhưng sau đó vẫn bất chấp, cố tình thực hiện hành vi, thách thức pháp luật. Do đó, việc xử phạt với các điều khoản tương ứng hành vi, tính chất phạm tội là việc làm đương nhiên của cơ quan bảo vệ pháp luật. Điều đó càng cho thấy sự nghiêm minh của pháp luật và việc xử lý đó được cộng đồng xã hội đồng tình ủng hộ (ngoại trừ các phần tử tham gia các tổ chức phản động, chống phá Nhà nước).

Một nguyên tắc trong xây dựng nhà nước pháp quyền là phải thượng tôn pháp luật, không ai có thể đứng ngoài pháp luật. Dù là ai, vị trí nào, gia thế ra sao thì khi vi phạm đều xử lý bình đẳng và pháp luật hình sự cũng quy định rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, những ai chủ mưu, cầm đầu, cố tình thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, phạm tội nhiều lần, tái phạm nguy hiểm… thì sẽ bị tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngược lại, những ai vì nhận thức thấp kém, phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo; biết ăn năn, hối lỗi, thành khẩn khai báo… thì được giảm nhẹ hình phạt. Khi xét xử, luận tội, toà án xem xét công và tội rõ ràng, công minh.

Việc điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo tuân thủ theo quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, quá trình xét xử đảm bảo việc tranh tụng dân chủ trước toà. Các vụ án xét xử bị cáo theo các tội danh mà các đối tượng thường xuyên có hoạt động kêu gọi xóa bỏ như Điều 109, Điều 117, Điều 331 Bộ luật Hình sự cũng đảm bảo theo quy định, nguyên tắc đó. Các hoạt động tố tụng đều thực hiện theo các trình tự, thủ tục được luật pháp quy định, thể hiện sự công khai, minh bạch, trách nhiệm trong các hoạt động công tố và các bản án được xem xét khách quan, người dân ủng hộ, điều này cũng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Ổn định chính trị - xã hội là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Bài học từ một số quốc gia vùng Trung Đông, Bắc Phi, Nam Mỹ… cho thấy, khi xã hội bất ổn, rối ren, hậu quả khủng hoảng đến với người dân là không thể lường, sự bất ổn đó tác động trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, làm đảo lộn đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Và một trong những nguyên do dẫn tới sự bất ổn đó là có bàn tay chống phá của các thế lực xấu, sự bào mòn các giá trị căn bản của luật pháp và xã hội.

Do đó, bảo vệ sự ổn định chính trị - xã hội, tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật là yếu tố căn bản, góp phần tạo nên một xã hội công bằng, bền vững, loại trừ các nguy cơ can thiệp, chống phá, lật đổ chính quyền nhân dân, đó là mục tiêu tối thượng trong công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Việc đòi bỏ điều luật này, điều luật kia dưới vỏ bọc dân chủ, nhân quyền chỉ là chiêu trò, thủ đoạn của các thế lực chống phá nhằm gây rối ren, bất ổn xã hội.

Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng luôn được đảm bảo ở Việt Nam

Những luận điệu cho rằng những chính sách tôn giáo của Việt Nam không phù hợp với luật pháp quốc tế là vô căn cứ. Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật.

Tháng 5/2022 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra “Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới”, trong đó có những thông tin sai lệch về vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam với các góc nhìn phiến diện, dẫn chứng thiếu khách quan. Với 52 trang, bên cạnh sự ghi nhận những mặt tích cực của Việt Nam về vấn đề dân chủ, nhân quyền trong năm qua, báo cáo cho rằng: “Việt Nam đã bắt giữ, tra tấn, tước đoạt mạng sống của người dân một cách tùy tiện”; “can thiệp vào đời sống riêng tư của người dân”; “hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet”... Trong đó, báo cáo nói đến tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân, đồng thời đưa ra các chỉ trích chính quyền Việt Nam phân biệt đối xử người dân theo đạo và không theo đạo.

Sự thật về tình hình sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam

Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cho thấy, Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng và tôn giáo (trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ông bà tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu). Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hàng năm, Việt Nam có gần 13.000 lễ hội, gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa - thể thao và ngành nghề.

Riêng trong lĩnh vực tôn giáo, Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm 27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được nhà nước công nhận hoặc cấp chứng nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn 57,4 ngàn chức sắc, trên 147 ngàn chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ theo các tôn giáo hiện nay: Phật giáo 15,1 triệu; Công giáo 7,1 triệu; Cao đài 1,1 triệu; Tin lành 1 triệu; Hồi giáo 80.000; Phật giáo Hòa hảo 1,3 triệu, còn lại là các tôn giáo khác (Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Bà La môn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo…).

Ở khắp mọi miền của đất nước, đặc biệt là tại các thành phố, các trung tâm tôn giáo lớn như Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Tây Ninh, Cần Thơ…, các sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá sôi nổi, đa dạng và phong phú.

Hoạt động của các thiết chế tôn giáo đã có những đóng góp nhất định trong việc tập hợp và vận động quần chúng theo đạo - một lực lượng quan trọng trong khối đại đoàn kết dân tộc - tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Các ngày lễ trọng, các lễ nghi, lễ hội tôn giáo được tổ chức ngày càng trang nghiêm, quy mô hơn trước và thu hút ngày càng đông đảo tín đồ tham dự. Nhiều sinh hoạt tôn giáo đã trở thành sinh hoạt văn hoá cộng đồng được đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia với tinh thần phấn khởi, yên tâm và tin tưởng. Các lễ hội như lễ Phật đản của Phật giáo, lễ Noel của Công giáo và đạo Tin Lành, lễ kỷ niệm ngày khai đạo của đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo, tháng ăn chay Ramadan của Hồi giáo…  được tổ chức trọng thể, trang nghiêm và đảm bảo an ninh trật tự. Lễ hội của mọi tôn giáo đều trở thành hội lễ chung vui của toàn dân tộc như Lễ hội Đền Hùng, lễ Noel, lễ hội La Vang.

Đặc biệt lễ Phật đản của Phật giáo đã chính thức được UNESCO công nhận là một trong những lễ hội tôn giáo lớn của thế giới. Một số lễ hội mang tính thế tục được dư luận quan tâm đánh giá cao, như: Lễ cầu siêu cho những người đã hy sinh trong cuộc kháng chiến do Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức năm 2005; Đại hội hành hương La Vang lần thứ 27 kết hợp “Năm Thánh thể” với quy mô lớn do Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ chức; Lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội thánh do Tổng hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) tổ chức năm 2005…

Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, trong 16 năm (2001-2017), số tín đồ của các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tăng lên 6% trong dân số. Đó là chưa kể các tôn giáo nhóm nhỏ (chủ yếu là các nhóm Tin lành tư gia) chưa được công nhận và các hiện tượng tôn giáo mới rất khó thống kê số lượng người theo. Số lượng tín đồ các tôn giáo đều tăng lên, trong đó tăng nhanh nhất là tín đồ đạo Tin lành, từ 670.000 người năm 2004 đã tăng lên tới trên 1,2 triệu tín đồ năm 2015, tức là tăng gấp gần 2 lần trong 10 năm. Sự phát triển có tính chất đột biến của đạo Tin lành diễn ra chủ yếu ở khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Đây cũng là hai địa bàn có sự chuyển đổi đức tin tôn giáo diễn ra mạnh mẽ nhất trong thời kỳ đổi mới.

Việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra “Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới”, trong đó cho rằng, nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam về vấn đề dân tộc, tôn giáo không tương đồng với Công ước quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền con người. Thậm chí, báo cáo đưa ra những cái nhìn lệch lạc như “Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là bước thụt lùi về tự do tôn giáo”, “tạo ra cơ sở pháp lý để đàn áp, bóp nghẹt tôn giáo”. Cho rằng Việt Nam đề ra chính sách pháp luật nhưng trên thực tế “không thực hiện”… Có thể thấy, đây không phải là lần đầu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố các báo cáo có nội dung sai lệch về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Nhiều lần, trong các báo cáo đều có nội dung nói rằng, Hiến pháp Việt Nam quy định quyền tự do tôn giáo, tuy nhiên Chính phủ “vẫn tiếp tục hạn chế các hoạt động có tổ chức của nhiều tôn giáo”, “một số tín đồ tôn giáo tiếp tục bị đàn áp hoặc sách nhiễu”.

Với số lượng tín đồ, chức sắc, cơ sở thờ tự, trường đào tạo, số lượng kinh sách được xuất bản của các tôn giáo tăng lên nhanh chóng trong thời gian qua, những hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng và thực tế hoạt động sôi động của các tổ chức tôn giáo hiện nay là những minh chứng rõ nhất cho những thành tựu của việc tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Thực tiễn này đã bác bỏ mọi nhận xét thiếu khách quan về việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Đối với các luận điệu cho rằng, Việt Nam có các hoạt động đàn áp tôn giáo, cấm đoán các tổ chức tôn giáo hoạt động, đây là những vu cáo vô căn cứ.

Chẳng hạn, lâu nay tại Việt Nam đã xuất hiện không ít hoạt động tôn giáo trái pháp luật của một số tổ chức Tin Lành nước ngoài chưa được cấp phép, điển hình là các đạo lạ mang danh nghĩa Tin Lành truyền vào Việt Nam như Tân Thiên địa, Hội thánh của Đức Chúa Trời mẹ... Hoạt động của phần lớn các tổ chức này trái với văn hóa truyền thống của dân tộc, nhuốm màu mê tín dị đoan, có dấu hiệu trục lợi, nhiều tổ chức vi phạm pháp luật. Đối với các hoạt động vi phạm pháp luật của các tổ chức này, lực lượng chức năng Việt Nam đã nhắc nhở, chấn chỉnh và xử lý dựa trên quy định pháp luật.

Cần những đánh giá khách quan

Như vậy, ở Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là đàn áp tôn giáo. Một điều dễ nhận thấy, đánh giá sai lệch vì những lý do khác nhau vẫn ẩn sau ngọn cờ tôn giáo. Đối với Việt Nam, các thế lực cực đoan, chống đối luôn tìm mọi thủ đoạn để tách rời tôn giáo ra khỏi sự quản lý của nhà nước, cốt để dễ dàng lợi dụng các tôn giáo vào những mục đích chống phá. Thực tế cho thấy, việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và một số quốc gia phương Tây thường xuyên tổ chức các cuộc điều trần về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia “không có tự do tôn giáo” cũng chỉ nhằm mục đích tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Hơn nữa, cần phải thấy rằng, không thể có tự do tôn giáo tuyệt đối. Bởi xét về bản chất, tôn giáo là một tổ chức tập hợp những người tin theo một đối tượng tôn thờ. Mọi tổ chức tồn tại, hoạt động trong xã hội đều phải chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nước, tuân thủ quy định của pháp luật. Các tôn giáo cũng phải chịu sự quản lý của Nhà nước, phải chấp hành quy định của pháp luật và điều này hoàn toàn phù hợp với khoản 3, Điều 18 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”. Do đó, việc ban hành các văn bản pháp luật để tiến hành quản lý nhà nước đối với các tôn giáo là nhu cầu tất yếu, khách quan của mọi quốc gia trên thế giới.

Chính vì vậy, những luận điệu cho rằng những chính sách tôn giáo của Việt Nam không phù hợp với luật pháp quốc tế là vô căn cứ. Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân; nỗ lực bảo đảm cho các tôn giáo được hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật.

Mưu đồ lợi dụng Hội nghị thượng đỉnh tự do tôn giáo để chống phá Việt Nam

 Hội nghị Thượng đỉnh về tự do tôn giáo quốc tế năm 2022 được tổ chức từ ngày 28 - 30/6 tại Washington DC, Hoa Kỳ. Cũng như năm 2021, Nguyễn Đình Thắng - đối tượng cầm đầu tổ chức Ủy ban cứu người vượt biển (gọi tắt là BPSOS) tiếp tục lợi dụng hội nghị này để tuyên truyền, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam nhằm đánh bóng tên tuổi cho tổ chức và tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ.

Thông thường, một kẻ lợi dụng vỏ bọc đấu tranh vì nhân quyền, tự do tôn giáo như Nguyễn Đình Thắng sẽ được số đối tượng cơ hội chính trị ở hải ngoại tung hô, ủng hộ. Thế nhưng, Nguyễn Đình Thắng lại bị chính số người Mỹ gốc Việt tại hải ngoại “bóc mẽ”, vạch trần là kẻ xảo trá chính trị, lợi dụng lòng tin của cộng đồng để ăn chặn tiền gửi, mà đỉnh điểm của việc này chính là vụ Holy Ngô, kẻ từng tham gia tổ chức BPSOS kiện Nguyễn Đình Thắng ra tòa án Mỹ về những bất minh tài chính. Chỉ điều đó cũng phần nào phản ánh bản chất của kẻ cơ hội Nguyễn Đình Thắng.

Nguyễn Đình Thắng lợi dụng các diễn đàn nhằm đánh bóng tên tuổi cho tổ chức, qua đó tìm kiếm những nguồn tài trợ bù đắp vào những thiếu hụt tài chính do bị cộng đồng hải ngoại tẩy chay. Và đây không phải là lần đầu tiên Nguyễn Đình Thắng lợi dụng các sự kiện để tiến hành âm mưu chống phá.

Trước đó, tại diễn đàn tại APF 2016 diễn ra ở Đông Timor, đối tượng đã có ý định cử một phái đoàn tham dự để công khai tuyên truyền, ủng hộ số chống đối trong nước, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo, vu cáo chính quyền Việt Nam cưỡng chế đất và tài sản của người dân trái pháp luật; vận động chính giới các nước can thiệp, đề nghị Việt Nam cho phép thành lập các “nghiệp đoàn tự do và độc lập”... Khi Hội nghị Thượng đỉnh tự do tôn giáo quốc tế 2022 diễn ra, kẻ “té nước theo mưa” Nguyễn Đình Thắng lại ráo riết thực hiện các hoạt động chống phá.

Trở lại Hội nghị Thượng đỉnh tự do tôn giáo quốc tế 2022, đây là một diễn đàn mở để các tổ chức có thể tham gia, miễn là có tiền. Do đó, để tham gia hội nghị này, Nguyễn Đình Thắng chỉ cần đăng ký và nộp lệ phí tham gia làm “đối tác tài trợ”. Sau đó, đối tượng tuyên truyền là thành viên ban tổ chức hội nghị, được phân công chủ trì 2 phiên thảo luận với chủ đề “giới trẻ lãnh đạo” và “chiến dịch toàn cầu cho các tù nhân tôn giáo”. Đồng thời tự nhận mình là tổ chức người Việt duy nhất tham dự hội nghị này. Thực hiện ý đồ chống phá Việt Nam, từ ngày 28 - 30/6/2022, BPSOS đã tham gia, tổ chức nhiều hoạt động như: Tham gia tuần hành và vận động đòi trả tự do cho số đối tượng trong nước như Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Văn Hoá và Ybum Byă; tổ chức thảo luận, đưa ra cái gọi là “bằng chứng” nhằm xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam…

Thật nực cười cho những hành động của BPSOS khi vận động đòi trả tự do cho số đối tượng vi phạm pháp luật chỉ vì họ theo một tôn giáo nào đó và chúng huyễn hoặc rằng đây là hành động “đàn áp tôn giáo”. Trong khi đó, các trường hợp như Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Văn Hoá và Ybum Byă đều là các đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam, đã được đưa ra xét xử công khai, bản án dành cho các đối tượng là đúng người, đúng tội, hoàn toàn thích đáng và mọi hành động vận động đòi trả tự do cho số đối tượng trên là phi lý.

Để có thể thấy bản chất của Nguyễn Đình Thắng trong việc này, chúng ta có thể tìm hiểu về nhân thân của những người đang được Thắng kêu gọi trả tự do. Nguyễn Bắc Truyển (SN 1968, trú tại phường 4, quận 4, TP Hồ Chí Minh), đang phải chấp hành bản án 11 năm tù, 3 năm quản chế về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Trong vụ án này, Truyển cùng các đối tượng gồm Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn và Nguyễn Văn Đài đều là các thành viên sáng lập ra tổ chức Hội Anh em dân chủ do Nguyễn Văn Đài là người khởi xướng, cầm đầu. Hội Anh em dân chủ do các đối tượng thành lập ngày 24/4/2013 có tên gọi, logo, biểu tượng, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Hội có chủ tịch và các phó chủ tịch, có trưởng đại diện của các vùng, miền Bắc, Trung, Nam và hải ngoại.

Trên cơ sở cương lĩnh vắn tắt, hội đã thực hiện hàng loạt các hành vi như: Xây dựng cơ cấu tổ chức, thành lập và phân công nhiệm vụ cho các ban, tổ chức họp các hội viên vào tối thứ bảy hoặc chủ nhật hàng tuần; có kế hoạch đào tạo hội viên, phát triển lực lượng, thực hiện nhiều hình thức tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; có quan hệ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài để vận động ủng hộ tài trợ kinh phí cho hội hoạt động, lập dự án xin tài trợ cho hoạt động của hội; lợi dụng các sự kiện chính trị, sự kiện nhạy cảm trong nước để kích động người dân phản đối chính quyền. Theo bản án phúc thẩm, Nguyễn Bắc Truyển bị phạt 11 năm tù, quản chế 3 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Theo cáo trạng, từ năm 2013, Nguyễn Văn Hóa đã lập tài khoản Facebook “Nguyễn Văn Hóa” (Maria Luygonjaga) để chia sẻ, phát tán các bài viết, video, hình ảnh có nội dung kích động, xuyên tạc sự thật. Đối tượng đã tuyên truyền các luận điệu phản động, trái với đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Việc làm của Hoá nhằm mục đích kích động người dân tụ tập, biểu tình sau sự cố môi trường biển và tình hình lũ lụt trên địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Từ năm 2014 đến đầu năm 2015, Nguyễn Văn Hóa đã sử dụng blog “Luoishoa” để đăng tải, phát tán các tài liệu có nội dung tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin, bịa đặt gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Nội dung các tài liệu này do Nguyễn Văn Hóa copy, đăng tải, phát tán các bài viết của các đối tượng chống phá khác. Ngoài ra, một số tài liệu, hình ảnh, video do Hóa tự làm hoặc biên tập lại và gửi cho các báo, đài phản động nước ngoài để tiếp tục phát tán. Các đối tượng này đều có hoạt động vi phạm pháp luật tại Việt Nam.

Về vấn đề tự do tôn giáo, chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Trên thực tế, thời gian vừa qua, Việt Nam không ngừng nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo, chính sách tín ngưỡng, trong đó có việc thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.

Điều đó được thể hiện trong nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam, trong đó có các sự kiện như kỷ niệm 500 năm cải chánh đạo Tin lành (năm 2017), Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak (năm 2019), Tổng hội dòng Đa Minh thế giới (năm 2019)... Những nỗ lực này của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Mục đích của Nguyễn Đình Thắng và BPSOS tham gia vào các sự kiện này chính là việc “đánh bóng” tên tuổi nhằm thu hút sự chú ý của các tổ chức quốc tế và kiếm tài trợ để phục vụ cho các hoạt động cũng như có thêm nguồn thu nhập cho đối tượng cầm đầu tổ chức BPSOS chứ không hề mang lại “tự do tôn giáo” như chúng rêu rao.

Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

 1. Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước

1.1. Kiên trì mục tiêu và con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đi tìm đường, mở đường, dẫn đường cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu và con đường duy nhất đúng ở Việt Nam sau khi các phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản bị thất bại. Nâng cao bản lĩnh chính trị, tầm trí tuệ, luôn luôn đổi mới sáng tạo, không bao giờ từ bỏ mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn phải luôn luôn là quan điểm nhất quán của Đảng, trở thành hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta trong công cuộc đổi mới. Đây là nội dung khởi đầu trong quá trình vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp cách mạng ở nước ta.

1.2. Biến khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thành hiện thực

Khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đất nước “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” như tiêu đề sau dòng tên nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” của văn bản hành chính nhà nước do Người nêu lên. Trong Di chúc, Người viết điều mong muốn cuối cùng: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[1]. Để biến khát vọng đó thành hiện thực, cần chú trọng một số điểm sau đây:   

Cần có quyết tâm chính trị cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sự quyết tâm cao trong cách mạng và Người đã truyền quyết tâm đó cho toàn Đảng, toàn dân. Đó là quyết tâm trong Cách mạng Tháng Tám: dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập; là “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”[2]; là “Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/Quyết chí ắt làm nên”[3]; là hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi; là “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!”[4]. Trong Di chúc, Người nêu: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”[5]. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người luôn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn đân tộc, vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội. Tiếp nối, nhân lên, lan tỏa sự quyết tâm đó chính là sự vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới. Quyết tâm chính trị còn ở sự đổi mới sáng tạo thích ứng với yêu ccầu phát triển bền vững trong điều kiện mới của đất nước, điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Nói đi đôi với làm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu điều này ngay trong trang đầu cuốn sách Đường cách mệnh năm 1927: “Nói thì phải làm”[6] và “xắn tay áo làm”[7] khi nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hoá,  tháng 2/1947. Hiện nay, càng cần phải chú ý khắc phục bốn biểu hiện: Nói nhiều nhưng làm ít; Nói thì hay nhưng làm thì dở; Nói mà không làm; Nói một đằng làm một nẻo. Quyết tâm phải đi liền với chương trình, kế hoạch hành động thiết thực đáp ứng đủ các điều kiện thực tế. Có nghị quyết đúng là điều rất quan trọng, nhưng chưa đủ. Có quyết tâm cũng là cần nhưng vẫn chưa đủ. Điều cần và đủ bên cạnh những yếu tố đó là kế hoạch thiết thực, tỉ mỉ, có khả năng thực thi, có tổ chức thật sự phù hợp, có sự dốc lòng, dốc sức của cả toàn Đảng, toàn dân từ khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”[8]. Sự phồn vinh, hạnh phúc của cả dân tộc thể hiện ở những chỉ số tổng hợp, trong đó có cả sự bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản, ở kết quả của quá trình phấn đấu đạt mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

1.3. Tăng cường công tác xây dựng Đảng nói riêng và hệ thống chính trị nói chung trong sạch, vững mạnh

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cần thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Phải xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” để Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong mọi lĩnh vực, phải là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng. Đảng ta là con đẻ của dân, không có mục đích tự thân; do đó Đảng phải có trách nhiệm hiếu với dân. Trong công cuộc đổi mới, nói đến xây dựng hệ thống chính trị còn phải nói đến xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội khác. Đảng, với vị trí, vai trò hạt nhân của hệ thống chính trị không thể trong sạch, vững mạnh nếu Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân yếu kém. Vì vậy, để vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, cần chú ý xây dựng một Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân thật sự vững mạnh.

2. Ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

2.1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa dẫn đường cho sự phát triển bền vững của dân tộc

Tư tưởng, đạo đức, phong cách là tổ hợp các thành tố nói lên toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là những giá trị văn hóa trường tồn, dẫn đường cho dân tộc ta đi lên. Toàn Đảng, toàn dân ta tìm thấy trong di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh những giá trị của sự phát triển, của khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những yếu tố truyền cảm hứng cho nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc đổi mới, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tiến hành nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tức là bước vào “một cuộc chiến đấu khổng lồ”[9]“chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”[10] đúng như Người đã tiên lượng trong Di chúc. Chính vì thế, Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định lấy tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, hành động với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện khi đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khi cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh.

2.2. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cơ sở để Đảng và nhân dân ta xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Trong tất cả các nguồn lực để phát triển thì nguồn lực con người Việt Nam là quan trọng nhất. Hệ giá trị con người Việt Nam cần xây dựng trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong công cuộc đổi mới giai đoạn hiện nay chính là những nội dung trên cơ sở bắt nguồn từ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đất nước đang cần có những con người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc, để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Đó là những người yêu nước nhiệt thành, có đủ phẩm chất đạo đức cách mạng, có tầm cao trí tuệ trong một đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế. Giá trị con người đó có trong di sản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà toàn Đảng, toàn dân cần học tập và làm theo. Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay cũng là xuất phát từ sự nghiệp giải phóng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và mục tiêu cuối cùng là giải phóng con người. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2.3. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa quốc tế sâu sắc

Di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh là di sản của một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Di sản đó không chỉ là tài sản quý báu của dân tộc Việt Nam, mà còn là tài sản của nhân loại tiến bộ. Những vấn đề toàn cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng tất cả mọi người Việt Nam cũng như những người có lương tri trên thế giới thực hiện đã góp phần xây dựng một thế giới tiến bộ, văn minh. Do đó, UNESCO đã đánh giá rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Chúng ta đang sống trong một thế giới với nét chủ đạo là hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển, nhưng vẫn còn đó những bất an hiện tại và tiếp tục có những rủi ro khó lường trong tương lai. Thế giới luôn đổi thay nhưng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sống mãi với ý nghĩa truyền cảm hứng cho sự phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại, làm cho các dân tộc, mọi người thoát khỏi sự áp bức, bất công, vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ.

Nguồn: GS, TS MẠCH QUANG THẮNG

Giảng viên cao cấp Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh