Thứ Ba, 9 tháng 8, 2022

Sáng tạo lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới

 Sáng tạo lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới

NGUYỄN QUANG DƯƠNG
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương

10:40, ngày 28-07-2022

TCCS - Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đại hội XIII của Đảng khẳng định, sau 35 năm đổi mới, “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(1). Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua hơn 35 năm đổi mới cho thấy sự sáng tạo lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm gia đình có công với cách mạng ở Bản Sáng, xã Quang Chiểu , huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa _Ảnh: TTXVN

Lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam có vị trí then chốt, vai trò bao trùm trong hệ thống lý luận chính trị, phản ánh mô hình tổng thể, đặc trưng bản chất của chế độ chính trị gắn với mục tiêu, phương thức, con đường phát triển đất nước. Đóng vị trí then chốt, vì lý luận này chế định đến các phân hệ - lĩnh vực khác của lý luận chính trị; đóng vai trò bao trùm vì nó thiết kế nên mô hình CNXH ở Việt Nam và vạch ra con đường hiện thực hóa từng bước mô hình đó trong từng chặng đường, từng bước phát triển.

Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Xác định mô hình CNXH với những đặc trưng cấu trúc phản ánh chất lượng phát triển của mô hình ở dạng hoàn chỉnh trong tương lai là một trong những vấn đề lý luận cơ bản đầy khó khăn, phức tạp, luôn được Đảng ta bổ sung, phát triển gắn với những bước tiến của tư duy, nhận thức. Trước đây, các nhà sáng lập CNXH khoa học chỉ mới đưa ra một số phác thảo cơ bản có tính dự báo về đặc trưng của CNXH dựa trên sự phân tích của các ông về các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã trải qua trong lịch sử, đặc biệt là những giới hạn cần phải “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa. Thực tiễn phát triển của CNXH cho thấy, CNXH về bản chất và mục tiêu là thống nhất, nhưng mô hình phát triển ở thời kỳ quá độ rất đa dạng, phong phú, do chế định bởi trình độ phát triển, đặc thù về lịch sử, văn hóa của từng quốc gia - dân tộc. Trên nền tảng chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận CNXH từ nhiều phương diện khác nhau: Từ chủ nghĩa yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, từ phương diện đạo đức, từ góc độ văn hóa, từ chủ nghĩa nhân văn. Người kiến tạo đặc trưng CNXH là một chế độ phản ánh chất lượng phát triển mới, trình độ phát triển mới thực sự ưu việt, đầy tính nhân văn cao cả. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(2). Người khẳng định: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(3). Đối với Việt Nam, CNXH là con đường phát triển tất yếu do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo “nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(4). Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam trong gần thế kỷ qua càng chứng minh giá trị và sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

Ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định dứt khoát, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã thành lập Tiểu ban nghiên cứu, xây dựng “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, mà cốt lõi chính là xác định rõ mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện mô hình CNXH hiện thực ở các nước Đông Âu, Liên Xô rơi vào khủng hoảng, rồi sụp đổ; công cuộc đổi mới ở nước ta mới bắt đầu khởi động; môi trường chiến lược toàn cầu thay đổi nhanh chóng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) được công bố vào lúc mà CNXH hiện thực ở các nước Đông Âu, Liên Xô sụp đổ dây chuyền đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, đồng thời đặt ra cho Đảng ta yêu cầu phải phát huy cao độ sức sáng tạo lý luận để tìm tòi mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp thực tiễn đất nước và đặc điểm thời đại, khắc phục chủ nghĩa giáo điều dưới mọi hình thức và phòng ngừa chủ nghĩa cơ hội, nguy cơ chệch hướng XHCN.

Sáng tạo lý luận của Đảng thể hiện ở xác định mô hình CNXH Việt Nam với 6 đặc trưng. Đó là: 1- Do nhân dân lao động làm chủ; 2- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; 3- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 4- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; 5- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; 6- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Đây là những đặc trưng cấu trúc phản ánh bản chất hay mục tiêu cơ bản, chất lượng phát triển của CNXH ở Việt Nam mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng và hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Chính thực tiễn công cuộc đổi mới giúp Đảng ta có những hiểu biết, nhận thức mới về CNXH. Vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển thành 8 đặc trưng của CNXH Việt Nam: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(5).

So với Cương lĩnh năm 1991 thì Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung 2 đặc trưng mới, đó là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạoVới 8 đặc trưng này, CNXH mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng là “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”(6). Đây cũng là mô hình CNXH “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm(7). Cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, bên cạnh việc xác định rõ những đặc trưng bản chất, cốt lõi của CNXH, Đảng ta ngày càng có những nhận thức đầy đủ hơn về thời kỳ quá độ lên CNXH, nhất là phương thức hiện thực hóa mục tiêu XHCN trong từng chặng đường phát triển đất nước phù hợp quy luật khách quan.

Các đặc trưng mô hình CNXH phản ánh mục tiêu mang tính bản chất của chế độ XHCN nêu trong Cương lĩnh đã trở thành ngọn cờ quy tụ, tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là đích hướng tới chứa đựng lý tưởng khoa học, động cơ đạo đức, vì dân tộc trường tồn, đất nước phát triển, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, vì tiến bộ xã hội và lương tri, phẩm giá con người, vì một thế giới tốt đẹp hơn. Mang lý tưởng khoa học nên đích hướng tới được luận chứng bằng căn cứ khoa học, khắc phục những quan niệm chủ quan, giáo điều trước đómang động cơ đạo đức nên CNXH hướng tới giá trị cao đẹpkhác với động cơ vụ lợi, hành động xu thời, cơ hội chủ nghĩa. Đặc trưng CNXH nêu trên không chỉ thể hiện ở dạng cấu trúc hoàn chỉnh phải định hướng cho tương lai, mà còn phải từng bước được hiện thực hóa, định hình trong quá trình đổi mới đất nước mà người dân được chứng thực bằng chất lượng sống cải thiện hằng ngày, bằng sức mạnh, tiềm lực, uy tín và vị thế đất nước được nâng lên.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm hỏi công nhân, nông dân vùng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại tỉnh Nghệ An _Ảnh: TTXVN

Tính đan xen phức tạp và đấu tranh gian khổ, lâu dài giữa cái mới với cái cũ, cái tiến bộ với cái thoái bộ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Muốn đạt tới mục tiêu chủ nghĩa cộng sản, tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với tư cách là những nấc thang trung gian - như chỉ dẫn của C. Mác và Ph. Ăng-ghen: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản(8). Trên cơ sở lý luận về sự phát triển “rút ngắn”, “không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” với tư cách là hình thức quá độ “gián tiếp” đi lên CNXH được các nhà sáng lập CNXH khoa học khởi phát, V.I. Lê-nin cho rằng, “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”(9) gắn với những điều kiện và biện pháp để thực hiện bước quá độ ấy.

Trước đổi mới, Đảng ta chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường với những bước đi trung gian; vì vậy, đã vấp phải tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, bắt hiện thực khuôn theo các đặc trưng CNXH ở dạng cấu trúc hoàn chỉnh của tương lai. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), trong khi khởi xướng đường lối đổi mới, đã khắc phục tư tưởng “đốt cháy giai đoạn” nêu trên bằng việc “chặng đường hóa”, “lộ trình hóa” cho cả thời kỳ quá độ với khẳng định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”(10). Trong đó, “chặng đường đầu tiên” là bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn với mục tiêu đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề vững chắc cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), trên cơ sở tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới, đã lượng hóa những cái phải “bỏ qua”, lượng giá những cái cần “kế thừa” chủ nghĩa tư bản để thực hiện quá độ lên CNXH: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(11); đồng thời, khẳng định “xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ(12). Tính đan xen, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế”(13).

Với những thành tựu lý luận hiện nay, phân kỳ thời kỳ quá độ được xác định gồm: “Chặng đường đầu tiên” có nhiệm vụ tạo trạng thái ổn định vững chắc để chuẩn bị tiền đề thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - “Chặng đường thứ hai” của thời kỳ quá độ - nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trù liệu ban đầu của Đảng là hoàn thành cơ bản mục tiêu của “Chặng đường thứ hai” vào năm 2020, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, chúng ta đã phải điều chỉnh lộ trình. Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2025 nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, là một cách diễn đạt về điều chỉnh lộ trình tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xác định nội dung cho chặng đường “hậu công nghiệp hóa” là phấn đấu trở thành nước phát triển.

Cương lĩnh năm 2011 của Đảng xác định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử... Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(14). Như vậy, nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam từng bước được bổ sung, phát triển, ngày càng hoàn thiện. Đó là cơ sở để Đảng ta tiếp tục khẳng định, thực hiện quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, khó khăn, phức tạp; vì thế, phải kiên trì, không chủ quan, nóng vội; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước, tôn trọng quy luật khách quan, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc. Thành công hay thất bại của sự nghiệp xây dựng CNXH phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, của bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”(15).

Ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất _Nguồn: vapa.org.vn

Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Phương hướng xây dựng CNXH Việt Nam là một nội dung quan trọng, luôn được Đảng nhận thức, bổ sung phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội VI (năm 1986) nêu tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, vượt qua mọi rào cản đối với công cuộc xây dựng CNXH.

Cương lĩnh năm 1991 của Đảng xác định phương hướng cơ bản là: 1- Xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân; 2- Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; 3- Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; 4- Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; 5- Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; 6- Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng; 7- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.

Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung, phát triển thành 8 phương hướng: 1- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; 2- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; 3- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; 4- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; 5- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; 6- Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; 7- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 8- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Trong các phương hướng xây dựng CNXH Việt Nam, sáng tạo lý luận quan trọng thể hiện ở việc Đảng ta xác định 3 trụ cột: Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát triển đất nướcKinh tế thị trường định hướng XHCN là công cụ, phương tiện giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH Việt Nam; Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu bảo đảm quyền lực nhà nước của nhân dân và thực thi, bảo vệ  quyền dân chủ của nhân dân.

Nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được bắt đầu từ khi đất nước bước vào đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các nhiệm kỳ đại hội của Đảng. Đại hội XIII của Đảng yêu cầu thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Theo đó, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một trong ba khâu đột phá chiến lược, được Đảng ta xác định từ Đại hội XI. Điểm mới lần này là nội hàm được xác định rộng và cụ thể hơn, đó là “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(16)

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng”(17) của Đảng. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây chính là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Mô hình kinh tế này bảo đảm tính thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Chính thực tiễn phát triển mô hình kinh tế này đã “đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua”(18).

Tổng kết việc xây dựng Nhà nước cách mạng Việt Nam, có thể thấy, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã kế thừa các giá trị phổ quát của nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại, đồng thời sáng tạo nên những giá trị riêng có của Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được Đảng xác định là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình đi lên CNXH ở nước ta.

Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(19)

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Sự vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tuân thủ nghiêm túc “nguyên tắc pháp quyền”, giải quyết tốt mối quan hệ giữa “Nhà nước, thị trường và xã hội”, từ đó Nhà nước tạo lập, dẫn dắt, kiến tạo môi trường chính trị, pháp lý, xã hội để các chủ thể kinh tế - xã hội hoạt động thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh, phát huy tối đa năng lực, sức sáng tạo và nguồn lực, lợi thế của mình. Để thực hiện được định hướng này, Đại hội XIII của Đảng xác định rõ mục tiêu “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(20). Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.

Thực tiễn đổi mới của Việt Nam đã chứng tỏ Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu thực hiện quyền lực của nhân dân, “là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(21), như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định.

Những phương hướng này là kết quả tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tham chiếu kinh nghiệm quốc tế, khẳng định Đảng ta ngày càng làm sáng rõ hơn kiểu quá độ “gián tiếp” từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH phù hợp trình độ, điều kiện của Việt Nam và thích ứng với xu hướng mới của thế giới.      

Các mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trong quá trình xây dựng CNXH, Đảng ta đã tổng kết, hệ thống hóa và xác định các mối quan hệ lớn và đề cập lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011. Đại hội XI của Đảng nhận thức, khi thực hiện 8 phương hướng xây dựng CNXH phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt 8 quan hệ lớn là: 1- Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; 2- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 3- Giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; 4- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; 5- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; 6- Giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; 7- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 8- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Đưa điện về buôn làng _Ảnh: Đỗ Tuấn Ngọc

Tổng kết 5 năm giải quyết các mối quan hệ lớn này, Đại hội XII hoàn chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa”, thành mối quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhằm làm rõ hơn nhận thức rằng trong CNXH vẫn tồn tại nền kinh tế thị trường; và bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã hoàn thiện mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”, thành mối quan hệ giữa “Nhà nước, thị trường và xã hội”.

Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, xuất phát từ thực tiễn, Đảng bổ sung mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(22).

Như vậy, Đảng đã có những điều chỉnh, bổ sung từng mối quan hệ một cách chặt chẽ, đầy đủ, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là những vấn đề mang tính quy luật khách quan, tồn tại, vận động trong điều kiện quá độ “gián tiếp”, phải được nhận thức sâu sắc và giải quyết thường xuyên ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực. Mười mối quan hệ lớn là sự khái quát cao nhận thức lý luận của Đảng trên con đường thực hiện quá độ lên CNXH.

Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH có nhiều nội dung, mỗi nội dung có quy luật phát triển riêng, gắn với diễn trình lịch sử từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Trên đây là những nội dung cốt lõi thể hiện sáng tạo lý luận về CNXH và con đường lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta. Thành tựu công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của mô hình CNXH và quá độ lên CNXH mà Đảng ta đã tìm tòi, khẳng định, khái quát thành mô hình đặc trưng, phương thức thực hiện và phương hướng chỉ đạo. Tuy nhiên, bổ sung, phát triển, hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là một quá trình, phải dựa trên tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Tinh thần sáng tạo và kinh nghiệm thực tiễn dày dặn là cơ sở cho Đảng ta nâng tầm trí tuệ, tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, nhất là những vấn đề lý luận về các chặng đường “hậu công nghiệp hóa” và sau khi hoàn thành mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI./.

----------------------------

Báo chí và nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

 

Báo chí và nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HƯỞNG
Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự
13:08, ngày 18-06-2022

TCCS - Theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, một trong những nhiệm vụ quan trọng của báo chí nước ta hiện nay là chủ động tiến công, kiên quyết và thường xuyên “đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”, làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, góp phần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng trao Giải A cho các tác giả, đại diện nhóm tác giả tại Lễ trao Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng lần thứ VI, năm 2021 _Ảnh: TTXVN

1. Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (1).

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội ra sức xuyên tạc, chống phá nhằm loại bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta - chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - ra khỏi đời sống tinh thần xã hội. Chúng công kích những bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin; tập trung vào những nguyên lý cơ bản và những luận điểm lý luận then chốt; lợi dụng cả những người hiểu và vận dụng chưa đầy đủ chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thực tiễn để xuyên tạc, chống phá. Chúng tấn công chủ nghĩa Mác - Lê-nin cả về lý luận và thực tiễn; đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin; xuyên tạc, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh. Các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị thường xuyên xuyên tạc, chống phá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quá trình tổ chức thực hiện; triệt để lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của ta trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật để chống phá; xuyên tạc sự thật, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên...

Để “hà hơi tiếp sức” cho sự chống phá trên, chúng trực tiếp tấn công vào nền báo chí cách mạng nước ta, với chiêu bài “tự do báo chí”, vu cáo Đảng và Nhà nước “vi phạm quyền tự do ngôn luận”, âm mưu phi chính trị báo chí nước ta, tách rời báo chí khỏi sự lãnh đạo của Đảng, khiến báo chí mất phương hướng chính trị, mất tính chiến đấu. Sự chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị là hết sức thâm độc, nguy hiểm. Do đó, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng và đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị có vai trò quan trọng đặc biệt, là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó có vai trò chủ công, tiên phong của các cơ quan báo chí.

2. Trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, báo chí cách mạng có vai trò đặc biệt quan trọng. Đảng ta nhiều lần chỉ rõ, báo chí cách mạng phải làm tốt chức năng tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát hiện, khẳng định và nhân rộng ra toàn xã hội cái hay, cái đẹp, những điển hình, những nhân tố mới; đồng thời, phải tích cực đấu tranh phê phán cái xấu, tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Việt Nam hiện có hệ thống báo chí phát triển với đội ngũ những người làm báo hùng hậu “khoảng 50.000 người đang làm việc trong lĩnh vực báo chí; gần 1.000 cơ quan báo chí thuộc bốn loại hình báo in, phát thanh, truyền hình và báo điện tử, trong đó có 165 cơ quan báo, 663 tạp chí, 23 cơ quan báo điện tử độc lập, 2 đài phát thanh - truyền hình quốc gia, 64 đài địa phương, 5 kênh truyền hình. Đa số các cơ quan báo chí đều đang nỗ lực để sử dụng được sức mạnh công nghệ làm báo mới” (2). Với lực lượng hùng hậu và sự đa dạng, phong phú về loại hình, báo chí cách mạng đi tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, đã và đang đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thời gian qua, báo chí nước ta đã thể hiện rõ vai trò xung kích trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nhiều tờ báo đấu tranh kịp thời, sắc bén, vạch rõ và làm thất bại nhiều âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; củng cố lòng tin của nhân dân đối với chế độ và sự lãnh đạo của Đảng.

Báo chí đã phổ biến, tuyên truyền kịp thời, rộng rãi chủ trương, quan điểm chỉ đạo bảo vệ nền tảng tư tưởng và công tác xây dựng Đảng, gắn với nhận diện và đấu tranh phòng, chống sự suy thoái, tham nhũng, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đồng thời, tuyên truyền, truyền bá các giá trị đạo đức, văn hóa, lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam, những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến trong các lĩnh vực của đời sống xã hội với tinh thần “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”.

Nhiều tờ báo mở chuyên trang, chuyên mục đăng tải các bài viết trực tiếp, trực diện đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Điển hình như chuyên mục: “Đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch” của Tạp chí Cộng sản; “Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”” của Báo Quân đội nhân dân; “Bình luận - phê phán” của Tạp chí Quốc phòng toàn dân; “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam…liên tiếp có những bài đấu tranh chất lượng, có hiệu ứng xã hội tốt.

Các cơ quan báo chí đã thường xuyên trao đổi và phối hợp hiệu quả trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, chú ý đến định hướng giáo dục, định hướng đấu tranh và tổ chức lực lượng mang tính chuyên trách; truyền tải thông tin qua nhiều báo để tuyên truyền, tương tác với công chúng, qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh.

Nhiều tờ báo đã tập hợp được các nhà khoa học, nhà lý luận, hoạt động thực tiễn có uy tín tham gia tọa đàm, hội thảo, viết bài phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Một số báo tổ chức tốt các diễn đàn trực tuyến, thông qua đó định hướng chính trị tư tưởng và nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về các vấn đề “nóng”, các quan điểm sai trái, thù địch, các thông tin xấu, độc và những vấn đề mà dư luận quan tâm. Nhiều cơ quan báo chí đã phát huy hiệu quả hoạt động của các trang, nhóm, blog, kênh Youtube, tài khoản mạng xã hội… chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, các thông tin xấu, độc. Việc ngăn chặn, giám sát, triệt phá các thông tin xấu, độc từ các báo, đài, các kênh báo mạng trong và ngoài nước được các cơ quan chức năng và cơ quan báo chí nước ta quan tâm đẩy mạnh, xử phạt nghiêm các vi phạm trong hoạt động báo chí.

Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, báo chí cách mạng đã đóng vai trò rất quan trọng, thực sự là “vũ khí sắc bén” trong lĩnh vực này, là diễn đàn tin cậy của nhân dân, góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác, tình yêu quê hương, đất nước, củng cố lòng tin vào chế độ, vào sự lãnh đạo của Đảng của các tầng lớp nhân dân, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo động lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kỹ thuật số và không gian mạng, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng trở nên cấp bách và gặp nhiều khó khăn.

Phóng viên các cơ quan thông tấn, báo chí trong nước và quốc tế tác nghiệp tại một buổi họp báo _ Ảnh: Tư liệu

3. Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, hệ thống báo chí nước ta cũng như đội ngũ nhà báo cần tiếp tục nỗ lực, quyết tâm cao, phát huy vai trò là “vũ khí sắc bén” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, theo đó, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:

Một là, nâng cao chất lượng thông tin, tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, những thông tin tốt và tích cực, làm cho những nội dung thông tin này thực sự là chủ đạo, chi phối đời sống tinh thần - thông tin xã hội, “làm loãng” và đẩy lùi các thông tin xấu, độc, tiêu cực, các quan điểm sai trái, thù địch. Cần mở rộng và nâng cao chất lượng các chuyên trang, chuyên mục định kỳ, các tuyến bài đấu tranh tư tưởng; liên kết thông tin với các nền tảng mạng xã hội và các phương tiện truyền thông mới một cách phù hợp.

Các cơ quan báo chí, đặc biệt là các tờ báo, tạp chí lớn của Đảng và Nhà nước cần “chủ động thích ứng với các phương tiện truyền thông mới, đa dạng hóa phương thức và nội dung thông tin, tuyên truyền, bảo đảm phục vụ hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại trên báo chí và các phương tiện truyền thông phù hợp với lợi ích của đất nước và nhân dân; bảo đảm lượng thông tin tốt, tích cực về đời sống xã hội là dòng chảy chính” (3).  Muốn làm được như vậy, các cơ quan báo chí cần “nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội” (4).

Hai là, các cơ quan báo chí cần tổ chức lực lượng trực tiếp đấu tranh phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, các thông tin xấu, độc bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng trên báo chí, trên các phương tiện thông tin đại chúng khác (internet, mạng xã hội,…) góp phần giữ vững trận địa tư tưởng. Tổ chức, củng cố và phát huy tốt vai trò của các lực lượng trực tiếp viết bài đấu tranh, đội ngũ cộng tác viên... đủ mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ lý luận và năng lực đấu tranh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đồng thời, có cơ chế, chính sách phù hợp để động viên, khuyến khích và bảo vệ lực lượng này trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Các tờ báo lớn của đất nước phát huy tốt hơn nữa vai trò “chủ lực” trong việc xây dựng nội dung chuyên sâu và các hình thức tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân,… là cơ quan chủ lực, có nhiệm vụ xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, tuyến bài đấu tranh trọng điểm (5) nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cùng với đó, chủ động đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng để xuyên tạc sự thật, kích động, gây rối, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ” (6). Các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật, công nghệ để phát hiện, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí, truyền thông.

Ba là, chủ động phối kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các “binh chủng” thông tin từ Trung ương đến địa phương, các ngành, các cấp trong hệ thống chính trị. Sự phối hợp này cần bám sát thực tiễn, tích cực, chủ động, phát huy thế mạnh và vai trò của từng tờ báo, từng lực lượng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh. Trên cơ sở đó, tạo nên “thế trận đấu tranh” rộng khắp, thống nhất, chặt chẽ trong phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Chỉ đạo 35 Trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam sớm tạo hành lang chính trị - pháp lý, xây dựng cơ chế cụ thể, phù hợp cho việc phối hợp giữa các lực lượng đấu tranh tốt hơn; khắc phục tình trạng sự phối hợp có lúc, có nơi còn thiếu hiệu quả.

Bốn là, thực hiện tốt định hướng dư luận xã hội, đẩy lùi các thông tin xấu, độc, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội. Quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị số 12/CT-TTg, ngày 12-5-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về chủ động cung cấp thông tin, định hướng dư luận, đẩy lùi thông tin xấu độc” (7), coi trọng “lan tỏa thông tin tích cực, nâng cao nhận thức của nhân dân trước các thông tin sai sự thật”. 

Thực hiện tốt việc công khai, minh bạch thông tin về những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là những vấn đề, sự kiện “nóng”, nhạy cảm; khắc phục tình trạng các thông tin xấu, độc, thông tin giả, thất thiệt lan truyền trong xã hội trước, sau đó báo chí mới “chạy theo” khắc phục mang tính sự vụ. Kiên quyết chấn chỉnh và xử lý nghiêm sai phạm của các trang thông tin điện tử, phương tiện truyền thông xã hội.

4. Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần xây dựng, rèn luyện đội ngũ nhà báo và các cơ quan báo chí thực sự vững mạnh:

Thứ nhất, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ nhà báo đáp ứng yêu cầu đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các cơ quan báo chí cần “tập trung đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sáng và tinh thông nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền” (8). Họ phải thực sự chuyên tâm “rèn bút, luyện nghề” với tâm thế “bút sắc, lòng trong, tâm sáng”, “phò chính, trừ tà”, đấu tranh không khoan nhượng với những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch

Theo đó, niềm tin vào lẽ phải, vào chính nghĩa, vào tiền đồ, tương lai tốt đẹp của dân tộc, vào sức mạnh của đất nước, vào đường lối, quan điểm của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp đổi mới đất nước; tinh thần phấn đấu vì nước, vì dân với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân cao; đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng... phải là những phẩm chất cần có của đội ngũ nhà báo. Nắm vững yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị; giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ báo chí; có kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, quản lý nhà nước và pháp luật cần thiết; có đủ trình độ đấu tranh… là những yêu cầu cơ bản về năng lực, cần được quan tâm bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ nhà báo. Chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng lập trường kiên định, vững vàng cho đội ngũ nhà báo, nâng cao “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước các quan điểm sai trái, thù địch và trước mọi sự công kích, lôi kéo, mua chuộc.

Thứ hai, xây dựng các cơ quan báo chí thực sự vững mạnh, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng nền báo chí, truyền thông “chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”. Quan tâm xây dựng các cơ quan báo chí đủ mạnh, nhất là đối với các cơ quan báo chí chủ lực, chuyên sâu về lý luận chính trị.

Thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch, phát triển hệ thống báo chí, truyền thông theo Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025. Thực hiện tốt việc sắp xếp tổ chức, bộ máy của các cơ quan báo chí phù hợp, bảo đảm “tinh, gọn, mạnh”, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. Trong đó, chú trọng xây dựng một số cơ quan báo chí đa phương tiện làm nòng cốt, có vai trò định hướng dư luận xã hội và đối ngoại.

Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động của các nhà báo và các cơ quan báo chí. Quan tâm xây dựng các tổ chức đảng trong cơ quan báo chí thật sự trong sạch, vững mạnh; khắc phục những biểu hiện “buông lỏng”, “xem nhẹ” công tác lãnh đạo đối với các cơ quan báo chí. Cùng với đó, cần “tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản báo chí, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan báo chí trong việc thực hiện định hướng thông tin, quản lý phóng viên, cộng tác viên của cơ quan báo chí (9). Kiên quyết “xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các cơ quan báo chí, phóng viên đăng tải thông tin chưa được xác minh, kiểm chứng, không có cơ sở, căn cứ, gây ảnh hưởng không tốt đến dư luận xã hội” (10).

Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 12/CT-TTg, ngày 12-5-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng hoạt động truyền thông, báo chí phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”; kịp thời chấn chỉnh và xử lý các vi phạm trong hoạt động báo chí, truyền thông; bảo đảm báo chí phục vụ hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Có cơ chế, chính sách cụ thể, thiết thực, thỏa đáng về vật chất, tinh thần để động viên, khuyến khích, nâng cao đời sống cho đội ngũ nhà báo yên tâm gắn bó với nghề và luôn giữ vững phẩm chất, đạo đức của người làm bá

Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay

 

TCCS - Việc kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay phải tiến hành toàn diện, đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm bảo đảm sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự trong sạch, tin cậy của đội ngũ cán bộ, đảng viên; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các phần tử chống đối và cơ hội chính trị, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống, phá Đảng, Nhà nước ta của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Sau 5 năm tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã “có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực”(1), góp phần “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ”(2). Tuy nhiên, “việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 vẫn còn hạn chế, khuyết điểm: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý lưởng, giảm sút ý chí; sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”(3).

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ chủ trì Hội nghị quán triệt, triển khai thực hiện Quy định số 58-QĐ/TW, ngày 8-2-2022, của Bộ Chính trị, về “Một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ Đảng” và lấy ý kiến dự thảo hướng dẫn thực hiện quy định_Ảnh: bdntw.org.vn

Trong bối cảnh mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, “bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp”(4). Tại Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII chỉ rõ: “Phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”(5). Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ Kết luận số 21-KL/TW, trong đó phải đặc biệt coi trọng và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kịp thời phát hiện, xử lý các phần tử chống đối, cơ hội chính trị và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước ta của các thế lực thù địch, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị và  ý thức “tự bảo vệ” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Đây là vấn đề cơ bản, giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay nói chung và công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng nói riêng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của internet, các phương tiện truyền thông xã hội và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng những sơ hở, yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên để tuyên truyền, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng những chiêu thức, thủ đoạn mới vô cùng thâm độc, nham hiểm. Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, một số cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện dao động, hoài nghi, gây phân rã tư tưởng, bất đồng thuận trong nội bộ Đảng, trong xã hội. Do đó, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng hiện nay. Phương châm tiến hành công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng là “tích cực chủ động, phòng ngừa, lấy phòng ngừa là chính”.

Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc; bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan, lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Khẳng định Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ cơ sở lý luận, thực tiễn chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, củng cố, tăng cường niềm tin khoa học vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, tăng cường sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong toàn Đảng, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân và sự đồng thuận về chính trị, tinh thần trong toàn xã hội. Nâng cao “sức đề kháng”, khả năng “tự bảo vệ” của cán bộ, đảng viên trước những tác động từ mặt trái kinh tế thị trường, các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch...

Hai là, thường xuyên rà soát chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Những năm qua, công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt nhiều kết quả, góp phần quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội... Tuy nhiên, công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn không ít hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thường xuyên tiến hành rà soát tình hình chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý đối với những cán bộ, đảng viên có vấn đề về chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về kết nạp đảng viên, về cán bộ và công tác cán bộ... Người được xem xét, kết nạp vào Đảng; người làm việc trong hệ thống chính trị được cử đi đào tạo ở nước ngoài, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý, giới thiệu để bầu vào cấp ủy, bầu đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và tuyển dụng, bố trí làm việc ở cơ quan, bộ phận, vị trí trọng yếu phải được cấp ủy có thẩm quyền kết luận chính trị. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm nguyên tắc, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ; về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Thực hiện tốt việc xem xét, kết luận tiêu chuẩn chính trị cán bộ trong từng nội dung công tác cán bộ theo phân cấp quản lý cán bộ. Tiếp tục rà soát cán bộ đang giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở và cán bộ trong diện quy hoạch chuẩn bị kế cận, kế tiếp các chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị - xã hội. Chú ý những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, tội phạm hình sự; liên quan đến suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; vấn đề liên quan hồ sơ, lý lịch và liên quan đến yếu tố nước ngoài.

Đảng bộ Đồn Biên phòng Chi Lăng long trọng tổ chức Lễ trao tặng Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng và kết nạp đảng viên mới cho các đồng chí đang làm nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 trên biên giới_Ảnh: TTXVN 

Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập và quan hệ với tổ chức, cá nhân người nước ngoài. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và đang công tác trong cơ quan, bộ phận trọng yếu, cơ mật phải thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước khi ra nước ngoài công tác, học tập, du lịch, thăm thân, chữa bệnh...; quy định về cán bộ, đảng viên có quan hệ hôn nhân với người nước ngoài, có con kết hôn với người nước ngoài; quy định về kỷ luật phát ngôn, cung cấp, trao đổi thông tin với tổ chức, cá nhân người nước ngoài... Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm, trong trường hợp cần thiết phải điều chuyển, bố trí công tác khác cho phù hợp... Thực hiện nghiêm quy định về việc cán bộ, đảng viên không được ra nước ngoài nếu đang trong thời gian xem xét kỷ luật, đang bị điều tra về hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm tư cách đảng viên hoặc có vấn đề liên quan đến chính trị hiện nay nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền kết luận. Thực hiện tốt công tác quản lý và có biện pháp bảo vệ cán bộ, đảng viên, lưu học sinh có liên quan đến yếu tố nước ngoài, hiện đang công tác, học tập, nghiên cứu, lao động ở nước ngoài, không để các thế lực thù địch, các cơ quan đặc biệt nước ngoài móc nối, lôi kéo, kích động hoạt động chống Đảng, Nhà nước...

Thường xuyên rà soát, kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành các quy định về chế độ bảo mật, quản lý chặt chẽ thông tin, tài liệu, giữ gìn bí mật của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang. Không để lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật quốc gia và ngăn chặn các hoạt động thu thập thông tin bí mật của các cơ quan đặc biệt nước ngoài…

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định, quy định của Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, các quy định của Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và những điều đảng viên không được làm... “Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc, nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng” (6).  

Kết hợp chặt chẽ công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, kiên quyết sàng lọc, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan bảo vệ pháp luật, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên… Kiên quyết xử lý kịp thời tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Đảng; nhất là đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật phát ngôn, làm lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, tung tin thất thiệt, lan truyền tài liệu trái phép hoặc tán phát đơn, thư nặc danh, mạo danh có nội dung sai sự thật, mang tính vu khống, nói xấu, xuyên tạc, kích động gây chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ...

Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử chống đối, cơ hội chính trị.

Các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kích động, lôi kéo, tập hợp lực lượng chống Đảng, Nhà nước ta. Chúng ra sức tán dương, cổ xúy về “giá trị vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản; xuyên tạc, hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, bịa đặt, vu cáo, nói xấu, thổi phồng hạn chế, khuyết điểm, gieo rắc hoài nghi, bi quan, kích động, chia rẽ nội bộ… làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng dao động, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng, “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị; thậm chí có người đã “tự chuyển hóa”, phụ họa, lan truyền, tán phát thông tin sai trái...

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (7). Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị hiện nay, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm và hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 20-10-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác, nắm vững âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; xác định các chủ trương, giải pháp cụ thể, khả thi đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, ngành, tổ chức, các lực lượng tạo thành sức mạnh tổng hợp đấu tranh làm thất bại hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Định kỳ tổ chức thông tin thời sự về tình hình trong nước và quốc tế cho cán bộ, đảng viên. Sử dụng hệ thống thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục lý luận chính trị, các thiết chế văn hóa và thông qua mạng internet... kịp thời phổ biến, tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giảng dạy lý luận chính trị. Tập trung tạo nguồn xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, đội ngũ cán bộ kế cận, phát hiện những cán bộ trẻ có năng khiếu, tư chất và có trình độ tư duy lý luận để đào tạo, bồi dưỡng. Chú trọng phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của các viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường, đặc biệt là đội ngũ cán bộ khoa học trong đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, sử dụng internet và các phương tiện truyền thông xã hội; hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, sử dụng các giải pháp kỹ thuật cần thiết để phòng ngừa, nhận diện, phát hiện, ngăn chặn, xử lý gỡ bỏ thông tin xấu độc trên không gian mạng. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”(8)./.

--------------------------------------

(1), (2), (3), (4), (5) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 87 - 88, 88, 89, 90 - 91, 91
(6), (7), (8) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I,  tr. 189 - 190, 183, 193 - 194

  •  
  •  
  •  
  •