Có thể khẳng định, thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Trong đó, đấu tranh giai cấp vẫn còn tồn tại, thậm chí ở nhiều khía cạnh còn gay gắt và phức tạp hơn. Hiện nay, “trật tự thế giới mới” hình thành ngày càng bộc lộ bản chất giai cấp của chủ nghĩa tư bản. Đó là trật tự bao hàm bạo lực, chiến tranh, áp bức, cường quyền, can thiệp, khủng bố. Cho dù chủ nghĩa tư bản làm dịu đi những mâu thuẫn trong lòng nó và chưa cạn kiệt khả năng phát triển, nhưng có thể khẳng định rằng tự bản thân nó đang tạo ra những điều kiện để phủ định chính nó. Điều đó vẫn làm cho cuộc đấu tranh vì mục tiêu hòa bình và tiến bộ xã hội càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn, nhất là đối với những nước đang đi theo con đường xây dựng CNXH.
Đối với vấn đề nhà nước, các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc một cách tinh vi hơn, che đậy bản chất nhà nước một cách kín đáo hơn. Họ khẳng định nhà nước tư sản hiện đại là nhà nước dân chủ nhất, ưu việt nhất, là “nhà nước phúc lợi chung”, bảo đảm phúc lợi cho tất cả mọi người dân... Đi đôi với việc đề cao nhà nước tư sản, họ không ngừng phủ nhận nhà nước xã hội chủ nghĩa và phủ nhận, xuyên tạc bản chất dân chủ và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng đó chỉ là sự ngụy biện.
Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(3), Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, GS, TS Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”.
“Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân-yếu tố bản chất nhất của dân chủ”.
Sự chênh lệch giàu nghèo, phân cực xã hội, chiến tranh, bạo lực, chủ nghĩa cường quyền vẫn tồn tại và ngày càng phức tạp. Vai trò thao túng ngày càng tăng lên của tư bản tài chính khiến kinh tế thế giới ngày càng khó quản lý và kiểm soát, dẫn đến những nguy cơ nổ tung và các phản ứng dây chuyền tác động tổng thể đến nhiều nền kinh tế và các quốc gia trên thế giới. Các cuộc khủng hoảng theo chu kỳ vẫn đang diễn ra như dự liệu, tiên đoán của C.Mác và Ph.Ăng-ghen.
Thực tế đến nay, nhiều nước đang xây dựng thành công CNXH trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Những thành tựu to lớn đã đạt được ở các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam, Trung Quốc, Cuba... chứng minh rằng, học thuyết về CNXH là học thuyết đúng đắn; quan niệm duy vật về lịch sử là quan điểm khoa học và cách mạng.
Mặc dù vậy, như V.I.Lênin đã nhắc nhở những người cộng sản rằng: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(4). Lời căn dặn của V.I.Lênin đến nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự.
Ngày nay, trước những thắng lợi to lớn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “những kẻ “đói kém” về mặt lý luận, nhưng lại “giàu có” về các thủ đoạn” vẫn tiếp tục chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, hòng mưu toan làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa, phá hoại thành quả cách mạng. Do vậy, để củng cố nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng thì điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là những người mácxít phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, lập trường kiên định, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù; không được dao động, mất lập trường.
Mặt khác, phải có khả năng nhận thức đúng những thay đổi của thời đại để nhận diện được các quan điểm sai trái, thù địch và có những thay đổi trong sách lược phù hợp với thực tiễn. Cùng với đó, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển lý luận Mác-Lênin về CNXH khoa học, vì đây là một trong những cách bảo vệ tốt nhất học thuyết khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và phong trào cộng sản trên toàn thế giới.
Có thể nói, C.Mác là người đầu tiên trong lịch sử triết học “phát hiện ra quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử loài người”(1). V.I.Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”(2).
Khi nói về giá trị, tính khoa học và bản chất cách mạng của học thuyết Mác, V.I.Lênin đã khẳng định rằng, toàn bộ giá trị của học thuyết Mác là ở chỗ, lý luận đó về bản chất là một lý luận có tính chất phê phán và cách mạng. Bất cứ sự quan tâm nào về xã hội, lịch sử đều có thể tìm thấy trong học thuyết Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp.
Trong các tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, “Sự khốn cùng của triết học”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, đặc biệt là bộ “Tư bản”, C.Mác xuất phát từ phương thức sản xuất để nghiên cứu sự vận động, biến đổi, phát triển và quy luật của lịch sử. Ở đó, phương thức sản xuất được hiểu là sự vận động của lực lượng sản xuất và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đó còn là sự liên kết các lĩnh vực vào một thể thống nhất, tạo nên tính toàn vẹn và tính cụ thể đặc trưng của một xã hội.
Nội dung này được thể hiện tập trung trong học thuyết hình thái kinh tế-xã hội. Bằng phạm trù hình thái kinh tế-xã hội, C.Mác đã thực hiện sự phân kỳ lịch sử qua những giai đoạn phát triển khác nhau với những đặc trưng cơ bản, thể hiện tính gián đoạn trong sự bao hàm, sự thay thế nhau một cách tất yếu, hợp quy luật các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội lần đầu tiên cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp con người hiểu được logic khách quan của quá trình tiến hóa xã hội. Nó vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện ở những quốc gia, dân tộc khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Bằng việc phát hiện ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác đã chỉ ra cho giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ toàn thế giới những con đường và biện pháp hiện thực để tự giải phóng khỏi ách áp bức về mặt xã hội và tạo ra những điều kiện, tiền đề cho một cuộc sống thật sự mang tính người trong xã hội cộng sản.
Mục đích của quan niệm duy vật về lịch sử là chứng minh tính tất yếu ra đời của chủ nghĩa cộng sản. Với nhãn quan của một nhà triết học, chính trị với tinh thần nhân đạo, yêu thương con người và yêu tự do vô hạn, ngay trong những tác phẩm đầu tiên khi xây dựng Chủ nghĩa Mác, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã đưa ra tư tưởng về xây dựng một thế giới cho sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thế giới. Thông qua sự phân tích tất yếu kinh tế, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã làm rõ cơ sở thực sự của các chế độ xã hội, thể chế chính trị và tính chất bất công về mặt xã hội nảy sinh từ tất yếu kinh tế và những phương thức để giải quyết các mâu thuẫn xã hội thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử.
rên nền tảng lý luận củaChủ nghĩa Mác-Lênin, cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đem lại thắng lợi to lớn của phong trào cách mạng thế giới. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, CNXH từ một học thuyết trở thành một chế độ chính trị-xã hội tồn tại đến ngày nay đã minh chứng cho giá trị và sức sống mãnh liệt, trường tồn và vai trò to lớn của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong sự phát triển của lịch sử nhân loại.
Tuy vậy, sau sự kiện CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực phản cách mạng tìm mọi cách để chống lại Chủ nghĩa Mác-Lênin, cản trở sự thâm nhập và lan rộng của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Những thế lực đòi xét lại, đòi bác bỏ nhiều vấn đề lý luận trong quan niệm duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, như lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhà nước và cách mạng xã hội...
Nhiều nhà tư tưởng tư sản đưa ra những thuật ngữ mới như: “Xã hội siêu công nghiệp”, “các nhà hợp nhất”, “phương tiện hợp nhất”, “siêu đấu tranh”, “ý thức hệ toàn cầu”... của Alvin Toffler, phái Phrăng Phuốc, “chủ nghĩa Mác mới” ở các nước phương Tây. Họ cho rằng ngày nay không còn đấu tranh giai cấp, không còn chuyên chính vô sản, chỉ còn sự hợp tác, thống nhất, sự tương trợ thuần túy lẫn nhau...
Từ quan điểm của “Quyết định luận kỹ thuật”, thuyết “Hội tụ” đến “Làn sóng thứ ba” đều nhằm gián tiếp phủ nhận phương pháp tiếp cận lịch sử bằng lý luận hình thái kinh tế-xã hội của triết học Mác, phủ nhận những mâu thuẫn, xung đột truyền thống, nhất là mâu thuẫn giai cấp, qua đó cũng phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Samuel P.Huntington (chuyên gia nghiên cứu chính trị Mỹ) cho rằng, các cuộc xung đột trong lịch sử là do sự xung đột giữa các nền văn minh với nhau...
Mặc dù quan điểm này của Huntington cũng cung cấp thêm một cái nhìn đa diện về xung đột, nhưng nguồn gốc sâu xa của các cuộc xung đột trên thế giới gần đây hoàn toàn không phải do sự khác biệt về văn hóa, văn minh, càng không phải là sự khác biệt về tôn giáo. Nguồn gốc thực sự của các cuộc xung đột lớn đó là vấn đề lợi ích (cả kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh...). Quan điểm này nhằm bác bỏ lý luận mâu thuẫn giai cấp, cách mạng xã hội của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của không gian mạng, tạo dựng môi trường và không gian xã hội mới, xóa nhòa khoảng cách về không gian, thời gian và địa vị xã hội của mỗi con người; tạo ra sự giao lưu, tiếp biến văn hóa khác hẳn về chất trên tất cả các lĩnh vực, với tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Việt Nam hiện là quốc gia có tốc độ phát triển và ứng dụng internet thuộc tốp đứng đầu thế giới1, không gian mạng được sử dụng để tương tác trong học tập, lao động, giao tiếp, giải trí của người dân đã trở nên phổ biến và quen thuộc. Chúng ta đang đứng trước cơ hội và thách thức tiếp cận khối lượng khổng lồ các sản phẩm văn hóa của nhân loại bao gồm cả sản phẩm có giá trị văn hóa và phản văn hóa. Đảng, Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại. Song, trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là sự kết nối xuyên “biên giới” trên không gian mạng, việc giao lưu, tiếp biến văn hóa vẫn còn những lệch lạc, biểu hiện ở hiện tượng “sùng ngoại” và “lai căng” văn hóa, ảnh hưởng không nhỏ đến định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến thời kỳ hội nhập.
Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia, trong đó có Việt Nam là tất yếu khách quan, song sự du nhập, “lai căng” văn hóa từ bên ngoài đối với từng quốc gia cũng khác nhau. Điều này phụ thuộc rất lớn vào việc sử dụng các thiết chế quản lý văn hóa của mỗi nước. Vì thế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa nói chung và trên không gian mạng nói riêng là vấn đề rất quan trọng. Đây là những cơ sở pháp lý cần thiết để các cấp, ngành, tổ chức, lực lượng đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm về văn hóa. Theo đó, cùng với quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước về văn hóa, cần đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, khung pháp lý về văn hóa, quản lý văn hóa ở tất cả các cấp. Đồng thời, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, nhằm phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực, tạo động lực cho bản sắc văn hóa dân tộc phát triển theo hướng hiện đại, hội nhập mà không hòa tan. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh mạng, tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; nâng cao năng lực bảo vệ hệ thống thông tin quốc gia, góp phần bảo đảm chủ quyền, an ninh, trật tự và xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh trên không gian mạng. Tiếp tục hoàn thiện, đồng bộ cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy đầu tư, sáng tạo, sản xuất, phân phối, tiêu thụ các sản phẩm, nguồn tài nguyên, dịch vụ văn hóa nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trên không gian mạng.
Trong dòng chảy phát triển của nhân loại, việc giao thoa văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc như là một lẽ đương nhiên và không một quốc gia nào có thể đứng ngoài dòng chảy đó. Trong bối cảnh ấy, cùng với các giải pháp khác, việc sử dụng sức mạnh nội sinh của văn hóa nước nhà để ngăn chặn, giảm thiểu,... sự tác động của văn hóa ngoại lai xấu độc là vấn đề cần được chú trọng. Vì thế, cần chủ động hội nhập, tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hóa, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi để các nước, các tổ chức quốc tế, các cơ quan văn hóa, du lịch nước ngoài giới thiệu tiềm năng đất nước, văn hóa, con người Việt Nam với thế giới. Trong hội nhập cần phát huy bản lĩnh văn hóa, trí tuệ con người Việt Nam giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc; giải quyết hài hòa mối quan hệ văn hóa với chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh với các nước và cộng đồng quốc tế; kiên quyết chống sự áp đặt, đồng hóa về văn hóa từ các nước lớn.
Sáng tạo lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới
NGUYỄN QUANG DƯƠNG
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương
10:40, ngày 28-07-2022
TCCS - Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đại hội XIII của Đảng khẳng định, sau 35 năm đổi mới, “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(1). Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua hơn 35 năm đổi mới cho thấy sự sáng tạo lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam có vị trí then chốt, vai trò bao trùm trong hệ thống lý luận chính trị, phản ánh mô hình tổng thể, đặc trưng bản chất của chế độ chính trị gắn với mục tiêu, phương thức, con đường phát triển đất nước. Đóng vị trí then chốt, vì lý luận này chế định đến các phân hệ - lĩnh vực khác của lý luận chính trị; đóng vai trò bao trùm vì nó thiết kế nên mô hình CNXH ở Việt Nam và vạch ra con đường hiện thực hóa từng bước mô hình đó trong từng chặng đường, từng bước phát triển.
Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Xác định mô hình CNXH với những đặc trưng cấu trúc phản ánh chất lượng phát triển của mô hình ở dạng hoàn chỉnh trong tương lai là một trong những vấn đề lý luận cơ bản đầy khó khăn, phức tạp, luôn được Đảng ta bổ sung, phát triển gắn với những bước tiến của tư duy, nhận thức. Trước đây, các nhà sáng lập CNXH khoa học chỉ mới đưa ra một số phác thảo cơ bản có tính dự báo về đặc trưng của CNXH dựa trên sự phân tích của các ông về các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã trải qua trong lịch sử, đặc biệt là những giới hạn cần phải “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa. Thực tiễn phát triển của CNXH cho thấy, CNXH về bản chất và mục tiêu là thống nhất, nhưng mô hình phát triển ở thời kỳ quá độ rất đa dạng, phong phú, do chế định bởi trình độ phát triển, đặc thù về lịch sử, văn hóa của từng quốc gia - dân tộc. Trên nền tảng chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận CNXH từ nhiều phương diện khác nhau: Từ chủ nghĩa yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, từ phương diện đạo đức, từ góc độ văn hóa, từ chủ nghĩa nhân văn. Người kiến tạo đặc trưng CNXH là một chế độ phản ánh chất lượng phát triển mới, trình độ phát triển mới thực sự ưu việt, đầy tính nhân văn cao cả. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(2). Người khẳng định: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”(3). Đối với Việt Nam, CNXH là con đường phát triển tất yếu do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo “nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(4). Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam trong gần thế kỷ qua càng chứng minh giá trị và sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Ngay từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định dứt khoát, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã thành lập Tiểu ban nghiên cứu, xây dựng “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, mà cốt lõi chính là xác định rõ mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện mô hình CNXH hiện thực ở các nước Đông Âu, Liên Xô rơi vào khủng hoảng, rồi sụp đổ; công cuộc đổi mới ở nước ta mới bắt đầu khởi động; môi trường chiến lược toàn cầu thay đổi nhanh chóng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) được công bố vào lúc mà CNXH hiện thực ở các nước Đông Âu, Liên Xô sụp đổ dây chuyền đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, đồng thời đặt ra cho Đảng ta yêu cầu phải phát huy cao độ sức sáng tạo lý luận để tìm tòi mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp thực tiễn đất nước và đặc điểm thời đại, khắc phục chủ nghĩa giáo điều dưới mọi hình thức và phòng ngừa chủ nghĩa cơ hội, nguy cơ chệch hướng XHCN.
Sáng tạo lý luận của Đảng thể hiện ở xác định mô hình CNXH Việt Nam với 6 đặc trưng. Đó là: 1- Donhân dân lao động làm chủ; 2- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; 3- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 4- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; 5- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; 6- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Đây là những đặc trưng cấu trúc phản ánh bản chất hay mục tiêu cơ bản, chất lượng phát triển của CNXH ở Việt Nam mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng và hướng tới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chính thực tiễn công cuộc đổi mới giúp Đảng ta có những hiểu biết, nhận thức mới về CNXH. Vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển thành 8 đặc trưng của CNXH Việt Nam: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(5).
So với Cương lĩnh năm 1991 thì Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung 2 đặc trưng mới, đó là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Với 8 đặc trưng này, CNXH mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng là “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người”(6). Đây cũng là mô hình CNXH “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn,dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm”(7). Cùng với sự phát triển của công cuộc đổi mới, bên cạnh việc xác định rõ những đặc trưng bản chất, cốt lõi của CNXH, Đảng ta ngày càng có những nhận thức đầy đủ hơn về thời kỳ quá độ lên CNXH, nhất là phương thức hiện thực hóa mục tiêu XHCN trong từng chặng đường phát triển đất nước phù hợp quy luật khách quan.
Các đặc trưng mô hình CNXH phản ánh mục tiêu mang tính bản chất của chế độ XHCN nêu trong Cương lĩnh đã trở thành ngọn cờ quy tụ, tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là đích hướng tới chứa đựng lý tưởng khoa học, động cơ đạo đức, vì dân tộc trường tồn, đất nước phát triển, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, vì tiến bộ xã hội và lương tri, phẩm giá con người, vì một thế giới tốt đẹp hơn. Mang lý tưởng khoa học nên đích hướng tới được luận chứng bằng căn cứ khoa học, khắc phục những quan niệm chủ quan, giáo điều trước đó; mang động cơ đạo đức nên CNXH hướng tới giá trị cao đẹp, khác với động cơ vụ lợi, hành động xu thời, cơ hội chủ nghĩa. Đặc trưng CNXH nêu trên không chỉ thể hiện ở dạng cấu trúc hoàn chỉnh phải định hướng cho tương lai, mà còn phải từng bước được hiện thực hóa, định hình trong quá trình đổi mới đất nước mà người dân được chứng thực bằng chất lượng sống cải thiện hằng ngày, bằng sức mạnh, tiềm lực, uy tín và vị thế đất nước được nâng lên.
Tính đan xen phức tạp và đấu tranh gian khổ, lâu dài giữa cái mới với cái cũ, cái tiến bộ với cái thoái bộ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Muốn đạt tới mục tiêu chủ nghĩa cộng sản, tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với tư cách là những nấc thang trung gian - như chỉ dẫn của C. Mác và Ph. Ăng-ghen: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”(8). Trên cơ sở lý luận về sự phát triển “rút ngắn”, “không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” với tư cách là hình thức quá độ “gián tiếp” đi lên CNXH được các nhà sáng lập CNXH khoa học khởi phát, V.I. Lê-nin cho rằng, “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”(9) gắn với những điều kiện và biện pháp để thực hiện bước quá độ ấy.
Trước đổi mới, Đảng ta chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường với những bước đi trung gian; vì vậy, đã vấp phải tư tưởng nóng vội, chủ quan, duy ý chí, bắt hiện thực khuôn theo các đặc trưng CNXH ở dạng cấu trúc hoàn chỉnh của tương lai. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986), trong khi khởi xướng đường lối đổi mới, đã khắc phục tư tưởng “đốt cháy giai đoạn” nêu trên bằng việc “chặng đường hóa”, “lộ trình hóa” cho cả thời kỳ quá độ với khẳng định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng”(10). Trong đó, “chặng đường đầu tiên” là bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn với mục tiêu đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề vững chắc cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là: thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau”.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001), trên cơ sở tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới, đã lượng hóa những cái phải “bỏ qua”, lượng giá những cái cần “kế thừa” chủ nghĩa tư bản để thực hiện quá độ lên CNXH: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”(11); đồng thời, khẳng định “xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”(12). Tính đan xen, khó khăn, phức tạp của thời kỳ quá độ được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế”(13).
Với những thành tựu lý luận hiện nay, phân kỳ thời kỳ quá độ được xác định gồm: “Chặng đường đầu tiên” có nhiệm vụ tạo trạng thái ổn định vững chắc để chuẩn bị tiền đề thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - “Chặng đường thứ hai” của thời kỳ quá độ - nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trù liệu ban đầu của Đảng là hoàn thành cơ bản mục tiêu của “Chặng đường thứ hai” vào năm 2020, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, chúng ta đã phải điều chỉnh lộ trình. Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu đến năm 2025 nước ta là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, là một cách diễn đạt về điều chỉnh lộ trình tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xác định nội dung cho chặng đường “hậu công nghiệp hóa” là phấn đấu trở thành nước phát triển.
Cương lĩnh năm 2011 của Đảng xác định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử... Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(14). Như vậy, nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam từng bước được bổ sung, phát triển, ngày càng hoàn thiện. Đó là cơ sở để Đảng ta tiếp tục khẳng định, thực hiện quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, khó khăn, phức tạp; vì thế, phải kiên trì, không chủ quan, nóng vội; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước, tôn trọng quy luật khách quan, tránh giáo điều, rập khuôn, máy móc. Thành công hay thất bại của sự nghiệp xây dựng CNXH phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, của bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”(15).
Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Phương hướng xây dựng CNXH Việt Nam là một nội dung quan trọng, luôn được Đảng nhận thức, bổ sung phù hợp với từng giai đoạn. Đại hội VI (năm 1986) nêu tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN. Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, vượt qua mọi rào cản đối với công cuộc xây dựng CNXH.
Cương lĩnh năm 1991 của Đảng xác định phương hướng cơ bản là: 1- Xây dựng nhà nước XHCN, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân; 2- Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; 3- Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; 4- Tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; 5- Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; 6- Xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng; 7- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta.
Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung, phát triển thành 8 phương hướng: 1- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; 2- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; 3- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; 4- Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; 5- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; 6- Xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; 7- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 8- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong các phương hướng xây dựng CNXH Việt Nam, sáng tạo lý luận quan trọng thể hiện ở việc Đảng ta xác định 3 trụ cột: Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho phát triển đất nước; Kinh tế thị trường định hướng XHCN là công cụ, phương tiện giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH Việt Nam; Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu bảo đảm quyền lực nhà nước của nhân dân và thực thi, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân.
Nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được bắt đầu từ khi đất nước bước vào đổi mới và tiếp tục được bổ sung qua các nhiệm kỳ đại hội của Đảng. Đại hội XIII của Đảng yêu cầu thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đó là “nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Theo đó, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường là một trong ba khâu đột phá chiến lược, được Đảng ta xác định từ Đại hội XI. Điểm mới lần này là nội hàm được xác định rộng và cụ thể hơn, đó là “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(16)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng”(17) của Đảng. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây chính là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Mô hình kinh tế này bảo đảm tính thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Chính thực tiễn phát triển mô hình kinh tế này đã “đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua”(18).
Tổng kết việc xây dựng Nhà nước cách mạng Việt Nam, có thể thấy, trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã kế thừa các giá trị phổ quát của nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại, đồng thời sáng tạo nên những giá trị riêng có của Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được Đảng xác định là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình đi lên CNXH ở nước ta.
Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(19)
Đại hội XIII của Đảng xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Sự vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tuân thủ nghiêm túc “nguyên tắc pháp quyền”, giải quyết tốt mối quan hệ giữa “Nhà nước, thị trường và xã hội”, từ đó Nhà nước tạo lập, dẫn dắt, kiến tạo môi trường chính trị, pháp lý, xã hội để các chủ thể kinh tế - xã hội hoạt động thuận lợi, cạnh tranh lành mạnh, phát huy tối đa năng lực, sức sáng tạo và nguồn lực, lợi thế của mình. Để thực hiện được định hướng này, Đại hội XIII của Đảng xác định rõ mục tiêu “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”(20). Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định.
Thực tiễn đổi mới của Việt Nam đã chứng tỏ Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu thực hiện quyền lực của nhân dân, “là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(21), như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định.
Những phương hướng này là kết quả tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, tham chiếu kinh nghiệm quốc tế, khẳng định Đảng ta ngày càng làm sáng rõ hơn kiểu quá độ “gián tiếp” từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH phù hợp trình độ, điều kiện của Việt Nam và thích ứng với xu hướng mới của thế giới.
Các mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong quá trình xây dựng CNXH, Đảng ta đã tổng kết, hệ thống hóa và xác định các mối quan hệ lớn và đề cập lần đầu tiên trong Cương lĩnh năm 2011. Đại hội XI của Đảng nhận thức, khi thực hiện 8 phương hướng xây dựng CNXH phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt 8 quan hệ lớn là: 1- Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; 2- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 3- Giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; 4- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; 5- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; 6- Giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; 7- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 8- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Tổng kết 5 năm giải quyết các mối quan hệ lớn này, Đại hội XII hoàn chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa”, thành mối quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhằm làm rõ hơn nhận thức rằng trong CNXH vẫn tồn tại nền kinh tế thị trường; và bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã hoàn thiện mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”, thành mối quan hệ giữa “Nhà nước, thị trường và xã hội”.
Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, xuất phát từ thực tiễn, Đảng bổ sung mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”(22).
Như vậy, Đảng đã có những điều chỉnh, bổ sung từng mối quan hệ một cách chặt chẽ, đầy đủ, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là những vấn đề mang tính quy luật khách quan, tồn tại, vận động trong điều kiện quá độ “gián tiếp”, phải được nhận thức sâu sắc và giải quyết thường xuyên ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực. Mười mối quan hệ lớn là sự khái quát cao nhận thức lý luận của Đảng trên con đường thực hiện quá độ lên CNXH.
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH có nhiều nội dung, mỗi nội dung có quy luật phát triển riêng, gắn với diễn trình lịch sử từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Trên đây là những nội dung cốt lõi thể hiện sáng tạo lý luận về CNXH và con đường lên CNXH ở Việt Nam của Đảng ta. Thành tựu công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của mô hình CNXH và quá độ lên CNXH mà Đảng ta đã tìm tòi, khẳng định, khái quát thành mô hình đặc trưng, phương thức thực hiện và phương hướng chỉ đạo. Tuy nhiên, bổ sung, phát triển, hoàn thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là một quá trình, phải dựa trên tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận. Tinh thần sáng tạo và kinh nghiệm thực tiễn dày dặn là cơ sở cho Đảng ta nâng tầm trí tuệ, tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, nhất là những vấn đề lý luận về các chặng đường “hậu công nghiệp hóa” và sau khi hoàn thành mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI./.
Báo chí và nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới
PGS, TS. NGUYỄN MẠNH HƯỞNG
Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự
13:08, ngày 18-06-2022
TCCS - Theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, một trong những nhiệm vụ quan trọng của báo chí nước ta hiện nay là chủ động tiến công, kiên quyết và thường xuyên “đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”, làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, góp phần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
1. Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (1).
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội ra sức xuyên tạc, chống phá nhằm loại bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta - chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - ra khỏi đời sống tinh thần xã hội. Chúng công kích những bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin; tập trung vào những nguyên lý cơ bản và những luận điểm lý luận then chốt; lợi dụng cả những người hiểu và vận dụng chưa đầy đủ chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thực tiễn để xuyên tạc, chống phá. Chúng tấn công chủ nghĩa Mác - Lê-nin cả về lý luận và thực tiễn; đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin; xuyên tạc, bóp méo tư tưởng Hồ Chí Minh. Các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị thường xuyên xuyên tạc, chống phá đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quá trình tổ chức thực hiện; triệt để lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm của ta trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật để chống phá; xuyên tạc sự thật, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên...
Để “hà hơi tiếp sức” cho sự chống phá trên, chúng trực tiếp tấn công vào nền báo chí cách mạng nước ta, với chiêu bài “tự do báo chí”, vu cáo Đảng và Nhà nước “vi phạm quyền tự do ngôn luận”, âm mưu phi chính trị báo chí nước ta, tách rời báo chí khỏi sự lãnh đạo của Đảng, khiến báo chí mất phương hướng chính trị, mất tính chiến đấu. Sự chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị là hết sức thâm độc, nguy hiểm. Do đó, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng và đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị có vai trò quan trọng đặc biệt, là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó có vai trò chủ công, tiên phong của các cơ quan báo chí.
2. Trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, báo chí cách mạng có vai trò đặc biệt quan trọng. Đảng ta nhiều lần chỉ rõ, báo chí cách mạng phải làm tốt chức năng tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát hiện, khẳng định và nhân rộng ra toàn xã hội cái hay, cái đẹp, những điển hình, những nhân tố mới; đồng thời, phải tích cực đấu tranh phê phán cái xấu, tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Việt Nam hiện có hệ thống báo chí phát triển với đội ngũ những người làm báo hùng hậu “khoảng 50.000 người đang làm việc trong lĩnh vực báo chí; gần 1.000 cơ quan báo chí thuộc bốn loại hình báo in, phát thanh, truyền hình và báo điện tử, trong đó có 165 cơ quan báo, 663 tạp chí, 23 cơ quan báo điện tử độc lập, 2 đài phát thanh - truyền hình quốc gia, 64 đài địa phương, 5 kênh truyền hình. Đa số các cơ quan báo chí đều đang nỗ lực để sử dụng được sức mạnh công nghệ làm báo mới” (2). Với lực lượng hùng hậu và sự đa dạng, phong phú về loại hình, báo chí cách mạng đi tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, đã và đang đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thời gian qua, báo chí nước ta đã thể hiện rõ vai trò xung kích trong đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nhiều tờ báo đấu tranh kịp thời, sắc bén, vạch rõ và làm thất bại nhiều âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; củng cố lòng tin của nhân dân đối với chế độ và sự lãnh đạo của Đảng.
Báo chí đã phổ biến, tuyên truyền kịp thời, rộng rãi chủ trương, quan điểm chỉ đạo bảo vệ nền tảng tư tưởng và công tác xây dựng Đảng, gắn với nhận diện và đấu tranh phòng, chống sự suy thoái, tham nhũng, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đồng thời, tuyên truyền, truyền bá các giá trị đạo đức, văn hóa, lối sống tốt đẹp của con người Việt Nam, những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến trong các lĩnh vực của đời sống xã hội với tinh thần “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”.
Nhiều tờ báo mở chuyên trang, chuyên mục đăng tải các bài viết trực tiếp, trực diện đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Điển hình như chuyên mục: “Đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, thù địch” của Tạp chí Cộng sản; “Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”” của Báo Quân đội nhân dân; “Bình luận - phê phán” của Tạp chí Quốc phòng toàn dân; “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam…liên tiếp có những bài đấu tranh chất lượng, có hiệu ứng xã hội tốt.
Các cơ quan báo chí đã thường xuyên trao đổi và phối hợp hiệu quả trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, chú ý đến định hướng giáo dục, định hướng đấu tranh và tổ chức lực lượng mang tính chuyên trách; truyền tải thông tin qua nhiều báo để tuyên truyền, tương tác với công chúng, qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh.
Nhiều tờ báo đã tập hợp được các nhà khoa học, nhà lý luận, hoạt động thực tiễn có uy tín tham gia tọa đàm, hội thảo, viết bài phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Một số báo tổ chức tốt các diễn đàn trực tuyến, thông qua đó định hướng chính trị tư tưởng và nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về các vấn đề “nóng”, các quan điểm sai trái, thù địch, các thông tin xấu, độc và những vấn đề mà dư luận quan tâm. Nhiều cơ quan báo chí đã phát huy hiệu quả hoạt động của các trang, nhóm, blog, kênh Youtube, tài khoản mạng xã hội… chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, các thông tin xấu, độc. Việc ngăn chặn, giám sát, triệt phá các thông tin xấu, độc từ các báo, đài, các kênh báo mạng trong và ngoài nước được các cơ quan chức năng và cơ quan báo chí nước ta quan tâm đẩy mạnh, xử phạt nghiêm các vi phạm trong hoạt động báo chí.
Thực hiện nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, báo chí cách mạng đã đóng vai trò rất quan trọng, thực sự là “vũ khí sắc bén” trong lĩnh vực này, là diễn đàn tin cậy của nhân dân, góp phần nâng cao tinh thần cảnh giác, tình yêu quê hương, đất nước, củng cố lòng tin vào chế độ, vào sự lãnh đạo của Đảng của các tầng lớp nhân dân, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo động lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh mới của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kỹ thuật số và không gian mạng, vấn đề bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng trở nên cấp bách và gặp nhiều khó khăn.
3. Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, hệ thống báo chí nước ta cũng như đội ngũ nhà báo cần tiếp tục nỗ lực, quyết tâm cao, phát huy vai trò là “vũ khí sắc bén” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, theo đó, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
Một là, nâng cao chất lượng thông tin, tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, những thông tin tốt và tích cực, làm cho những nội dung thông tin này thực sự là chủ đạo, chi phối đời sống tinh thần - thông tin xã hội, “làm loãng” và đẩy lùi các thông tin xấu, độc, tiêu cực, các quan điểm sai trái, thù địch. Cần mở rộng và nâng cao chất lượng các chuyên trang, chuyên mục định kỳ, các tuyến bài đấu tranh tư tưởng; liên kết thông tin với các nền tảng mạng xã hội và các phương tiện truyền thông mới một cách phù hợp.
Các cơ quan báo chí, đặc biệt là các tờ báo, tạp chí lớn của Đảng và Nhà nước cần “chủ động thích ứng với các phương tiện truyền thông mới, đa dạng hóa phương thức và nội dung thông tin, tuyên truyền, bảo đảm phục vụ hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại trên báo chí và các phương tiện truyền thông phù hợp với lợi ích của đất nước và nhân dân; bảo đảm lượng thông tin tốt, tích cực về đời sống xã hội là dòng chảy chính” (3). Muốn làm được như vậy, các cơ quan báo chí cần “nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội” (4).
Hai là, các cơ quan báo chí cần tổ chức lực lượng trực tiếp đấu tranh phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái, các thông tin xấu, độc bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng trên báo chí, trên các phương tiện thông tin đại chúng khác (internet, mạng xã hội,…) góp phần giữ vững trận địa tư tưởng. Tổ chức, củng cố và phát huy tốt vai trò của các lực lượng trực tiếp viết bài đấu tranh, đội ngũ cộng tác viên... đủ mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ lý luận và năng lực đấu tranh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đồng thời, có cơ chế, chính sách phù hợp để động viên, khuyến khích và bảo vệ lực lượng này trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Các tờ báo lớn của đất nước phát huy tốt hơn nữa vai trò “chủ lực” trong việc xây dựng nội dung chuyên sâu và các hình thức tuyên truyền, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân,… là cơ quan chủ lực, có nhiệm vụ xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, tuyến bài đấu tranh trọng điểm (5) nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cùng với đó, chủ động đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng để xuyên tạc sự thật, kích động, gây rối, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ” (6). Các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật, công nghệ để phát hiện, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí, truyền thông.
Ba là, chủ động phối kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các “binh chủng” thông tin từ Trung ương đến địa phương, các ngành, các cấp trong hệ thống chính trị. Sự phối hợp này cần bám sát thực tiễn, tích cực, chủ động, phát huy thế mạnh và vai trò của từng tờ báo, từng lực lượng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh. Trên cơ sở đó, tạo nên “thế trận đấu tranh” rộng khắp, thống nhất, chặt chẽ trong phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Chỉ đạo 35 Trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam sớm tạo hành lang chính trị - pháp lý, xây dựng cơ chế cụ thể, phù hợp cho việc phối hợp giữa các lực lượng đấu tranh tốt hơn; khắc phục tình trạng sự phối hợp có lúc, có nơi còn thiếu hiệu quả.
Bốn là, thực hiện tốt định hướng dư luận xã hội, đẩy lùi cácthông tin xấu, độc, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội.Quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị số 12/CT-TTg, ngày 12-5-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về chủ động cung cấp thông tin, định hướng dư luận, đẩy lùi thông tin xấu độc” (7), coi trọng “lan tỏa thông tin tích cực, nâng cao nhận thức của nhân dân trước các thông tin sai sự thật”.
Thực hiện tốt việc công khai, minh bạch thông tin về những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là những vấn đề, sự kiện “nóng”, nhạy cảm; khắc phục tình trạng các thông tin xấu, độc,thông tin giả, thất thiệt lan truyền trong xã hội trước, sau đó báo chí mới “chạy theo” khắc phục mang tính sự vụ. Kiên quyết chấn chỉnh và xử lý nghiêm sai phạm của các trang thông tin điện tử, phương tiện truyền thông xã hội.
4. Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần xây dựng, rèn luyện đội ngũ nhà báo và các cơ quan báo chí thực sự vững mạnh:
Thứ nhất, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ nhà báo đáp ứng yêu cầu đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các cơ quan báo chí cần “tập trung đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sáng và tinh thông nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền” (8). Họ phải thực sự chuyên tâm “rèn bút, luyện nghề” với tâm thế “bút sắc, lòng trong, tâm sáng”, “phò chính, trừ tà”, đấu tranh không khoan nhượng với những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch
Theo đó, niềm tin vào lẽ phải, vào chính nghĩa, vào tiền đồ, tương lai tốt đẹp của dân tộc, vào sức mạnh của đất nước, vào đường lối, quan điểm của Đảng; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp đổi mới đất nước; tinh thần phấn đấu vì nước, vì dân với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân cao; đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng... phải là những phẩm chất cần có của đội ngũ nhà báo. Nắm vững yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị; giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ báo chí; có kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, quản lý nhà nước và pháp luật cần thiết; có đủ trình độ đấu tranh… là những yêu cầu cơ bản về năng lực, cần được quan tâm bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ nhà báo. Chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng lập trường kiên định, vững vàng cho đội ngũ nhà báo, nâng cao “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước các quan điểm sai trái, thù địch và trước mọi sự công kích, lôi kéo, mua chuộc.
Thứ hai, xây dựng các cơ quan báo chí thực sự vững mạnh, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng nền báo chí, truyền thông “chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”. Quan tâm xây dựng các cơ quan báo chí đủ mạnh, nhất là đối với các cơ quan báo chí chủ lực, chuyên sâu về lý luận chính trị.
Thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch, phát triển hệ thống báo chí, truyền thông theo Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025. Thực hiện tốt việc sắp xếp tổ chức, bộ máy của các cơ quan báo chí phù hợp, bảo đảm “tinh, gọn, mạnh”, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. Trong đó, chú trọng xây dựng một số cơ quan báo chí đa phương tiện làm nòng cốt, có vai trò định hướng dư luận xã hội và đối ngoại.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước đối với hoạt động của các nhà báo và các cơ quan báo chí. Quan tâm xây dựng các tổ chức đảng trong cơ quan báo chí thật sự trong sạch, vững mạnh; khắc phục những biểu hiện “buông lỏng”, “xem nhẹ” công tác lãnh đạo đối với các cơ quan báo chí. Cùng với đó, cần “tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản báo chí, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan báo chí trong việc thực hiện định hướng thông tin, quản lý phóng viên, cộng tác viên của cơ quan báo chí (9). Kiên quyết “xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các cơ quan báo chí, phóng viên đăng tải thông tin chưa được xác minh, kiểm chứng, không có cơ sở, căn cứ, gây ảnh hưởng không tốt đến dư luận xã hội” (10).
Thực hiện nghiêm túcChỉ thị số 12/CT-TTg, ngày 12-5-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng hoạt động truyền thông, báo chí phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”; kịp thời chấn chỉnh và xử lý các vi phạm trong hoạt động báo chí, truyền thông; bảo đảm báo chí phục vụ hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước. Có cơ chế, chính sách cụ thể, thiết thực, thỏa đáng về vật chất, tinh thần để động viên, khuyến khích, nâng cao đời sống cho đội ngũ nhà báo yên tâm gắn bó với nghề và luôn giữ vững phẩm chất, đạo đức của người làm bá