Thứ Tư, 10 tháng 8, 2022

BÁC HỒ VỚI PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC

 

Trang nhất Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 10-8-1965 có đăng Huấn thị của Hồ Chủ tịch và hình ảnh Hồ Chủ tịch đến thăm Đại hội thi đua "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược".
Tại đại hội, Bác Hồ đến dự và có bài nói chuyện ngắn gọn. Bác biểu dương khen ngợi tỉnh Quảng Bình, đảo Cồn Cỏ, đội cao xạ Nguyễn Viết Xuân, phân đội bảy Hải quân đã có cố gắng lớn đạt thành tích nhiều mặt. Mặc dầu vậy, Bác cũng nhắc nhở, có thành tích thì phải nhớ đó là những thành tích bước đầu, không được phép chủ quan tự mãn; phải từ những thành tích bước đầu để cố gắng hơn nữa.
Điều quan trọng là Bác đã phát động phong trào thi đua ngay tại đại hội này. Đối tượng thi đua là các lực lượng vũ trang nhân dân, mục tiêu thi đua mang tính đặc thù, cụ thể, đấy là tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; vừa chiến đấu vừa huấn luyện giỏi. Kỷ luật, đoàn kết nội bộ quân dân; đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ chiến sĩ trong mọi tình huống. Nếu đồng lòng quyết tâm cao thì từ một địa phương và ba đơn vị gương mẫu nhất kỳ này, các địa phương, các đơn vị khác sẽ học tập, thi đua, nhờ đó mà có thêm nhiều tấm gương mới, càng xứng đáng hơn là những con dân của một dân tộc anh hùng !
Thực hiện lời Bác dạy, Bộ CHQS tỉnh Tây Ninh đã đẩy mạnh phong trào thi đua trên các mặt công tác trong toàn lực lượng. Tạo khí thế, cổ vũ, động viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ hưởng ứng góp phần thực hiện tốt các khâu đột phá, khắc phục khâu yếu, mặt yếu, khơi dậy ý thức tự lực tự cường, vượt qua khó khăn, thách thức, phát huy truyền thống “ Trung dũng kiên cường, năng động sáng tạo, đoàn kết quyết thắng” và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Qua các đợt thi đua, xuất hiện ngày càng nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”, "mô hình hay, cách làm sáng tạo" trên các lĩnh vực công tác, trực tiếp góp phần xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện mẫu mực tiêu biểu, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

LỄ PHONG TƯỚNG TRONG CĂN NHÀ TRANH CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP


Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị chỉ huy vĩ đại của quân và dân Việt Nam, “người học trò gần gũi và xuất sắc” của Hồ Chủ tịch.
Cơ duyên dường như đã sắp đặt cho cuộc gặp của Đại tướng và Bác trên con thuyền tại Thúy Hồ, Côn Minh, Trung Quốc, và kể từ đây, hai con người vĩ đại này đã viết nên những trang sử vàng chói lọi cho lịch sử Việt Nam.
Dưới sự dìu dắt và chỉ dạy của Bác, người học trò Võ Nguyên Giáp tham gia các hoạt động cách mạng say mê và đầy nhiệt huyết. Bằng sức trẻ của mình, tháng 12/1944, ông đã được Bác giao phó trọng trách thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam sau này. Chỉ huy lực lượng nòng cốt của quân và dân ta lúc bấy giờ, ông đã giành được nhiều chiến công vang dội.
Sau chiến thắng Việt Bắc - Thu Đông, nhận thấy thời cơ để cuộc kháng chiến chống Pháp của quân ta chuyển sang một giai đoạn mới, Bác và Trung Ương đã quyết định thành lập Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội quốc gia Việt Nam, đồng thời phong quân hàm cho nhiều cán bộ trong đó đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong hàm Đại Tướng, và chủ trương này được Hồi đồng Chính phủ vô cùng hoan nghênh trong cuộc họp vào ngày 19/1/1948.
1 ngày sau đó, Bác Hồ đã đặt bút ký vào sắc lệnh phong quân hàm cho nhiều cán bộ lãnh đạo. Ngoài đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại Tướng, những đồng chí khác như Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong quân hàm Thiếu tướng, duy chỉ có đồng chí Nguyễn Bình được phong quân Hàm Trung Tướng. Buổi lễ sắc phong này được chính phủ dự kiến tổ chức vào ngày 27/5/1948, nhưng sau đó trời mưa lớn liên tiếp khiến nước suối dâng cao, đại biểu không thể mạo hiểm trèo đèo lội suối đến tề tựu đông đủ. Chính vì lẽ đó, sự kiện lịch sử và trọng đại này đã được dời đến ngày hôm sau 28/5/1948.
Ngày đó, điều kiện chiến đấu còn khó khăn, thời tiết lại không ủng hộ nên các chiến sĩ của ta chỉ kịp dựng tạm một ngôi nhà tranh bằng nứa bên dòng suối ở cánh đồng Nà Lọm (Phú Đình, Định Hóa, Thái Nguyên). Một căn nhà tranh được dựng nên vội vã, hội trường cũng chỉ được trang trí bằng vài lẵng hoa rừng nhưng dường như không thể nào che lấp đi sự uy nghiêm của lá cờ đỏ sao vàng, cùng sự nổi bật của dòng băng rôn ghi khẩu hiệu : “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi/Thống nhất độc lập nhất định thành công”.
Giữa cái mùi thơm thoảng thoảng của mùi nứa mới cùng tiếng suối ầm ầm chảy cảnh bên, Bác từ từ tiến lên trước bàn thờ Tổ Quốc, tay Người cầm bản Sắc lệnh, đọc to và dõng dạc tên đồng chí Võ Nguyên Giáp. , và gọi ông lên đứng bên cạnh mình. Giây phút đó, hai người không còn đơn thuần là thầy trò mà thực sự là những người chiến sĩ cùng nhau kề vai tác chiến vì sự độc lập của nước nhà. Ai nấy đều hồi hộp chờ đợi khoảng khắc lịch sử đó diễn ra, nhưng thật bất ngờ là Bác lại không nói lời nào.
Người chỉ nắm chặt lấy bản Sắc lệnh trong tay, mắt đượm lệ, chắc có lẽ là vì niềm vui không sao tả xiết. Cuối cùng, Người đưa chiếc khăn mùi xoa lên lau nhẹ nước mắt, nhìn thẳng xuống hội trường mà dõng dạc nói rằng:
“ Các cụ ta qua bao nhiêu thế hệ chiến đấu cho độc lập mà không thành, nhắm mắt mà chưa thấy dân tộc được tự do. Chúng ta may mắn hơn nhưng còn phải bao nhiêu hy sinh cố gắng. Hôm nay, việc phong Tướng cho chú Giáp là kết quả của bao nhiêu hy sinh, chiến đấu của đồng bào, đồng chí, chúng ta phải quyết giành được độc lập, tự do để thỏa lòng những người đã mất”.
Nói rồi, Bác quay sang, nhìn thẳng vào mắt đồng chí Võ Nguyên Giáp, nói:
“ Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác trao cho chú hàm Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ, làm tròn sứ mệnh mà nhân dân thác phó”.
Rồi liền trao bản Sắc lệnh trong tay, và kể từ ngày hôm đó Quân đôi Nhân dân Việt Nam đã có vị Đại tướng đầu tiên, đưa quân và dân ta giành được hết chiến thắng này đến chiến thắng khác, dẫn lối đến với bến bờ của tự do.HP
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản
Thích
Bình luận
Chia sẻ

TUỔI TRẺ CỦA ĐẠI TƯỚNG CHU HUY MÂN


Đại tướng Chu Huy Mân là một danh tướng của thời đại Hồ Chí Minh. Cuộc đời cách mạng của ông tiêu biểu cho một thế hệ thanh niên Việt Nam:
“Sống đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà!”...
Hòa mình trong bão lửa cách mạng
Đại tướng Chu Huy Mân tên thật là Chu Văn Điều, là con trai út trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Yên Lưu, tổng Yên Trường, phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Hòa, TP Vinh, tỉnh Nghệ An). Theo hồi ký “Đại tướng Chu Huy Mân: Thời sôi động” (Đại tá Lê Hải Triều thể hiện, NXB Quân đội nhân dân), thuở nhỏ, dù cha mất sớm, mẹ một mình nuôi 9 anh chị em nhưng từ năm 8 tuổi, Chu Văn Điều đã được gia đình cho đi học chữ Hán ở trường làng.
Cậu bé Chu Văn Điều sớm cảm nhận được nỗi cực khổ, cơ hàn của đồng bào dưới chế độ thực dân nửa phong kiến hà khắc, vô nhân đạo. Lớn lên giữa vùng đất Nghệ An địa linh nhân kiệt, chàng thanh niên Chu Văn Điều đã tiếp thu tinh thần yêu nước thương nòi, nung nấu chí căm thù quân xâm lược, từ đó xác định tư thế, quyết tâm của tuổi trẻ: Thà chết vinh còn hơn sống nhục!
Năm 1929, phong trào cộng sản phát triển mạnh ở nước ta. Tháng 11-1929, Chu Văn Điều 16 tuổi đã tham gia mít tinh lớn ở xã, nghe diễn thuyết và cùng hô những khẩu hiệu hợp với lòng người: “Đánh đổ đế quốc Pháp”, “Thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, nhà máy cho thợ thuyền”, “Giành chính quyền về tay công nông”... Từ lúc đó, Chu Văn Điều đã tự nguyện hòa mình vào cơn bão lửa rực sáng mang tên “cách mạng”, rồi ông được phân công làm Đội phó Đội Thanh niên xích vệ xã Yên Lưu, tham gia bảo vệ Phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh.
Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới hơn 17 tuổi. Trong lễ kết nạp, ông tuyên thệ: “Nguyện chiến đấu trọn đời cho Đảng, cho cách mạng, nếu bị bắt bớ, cực hình tra tấn quyết không cung khai, dù phải chịu tù đày quyết không nản chí, vào sống ra chết quyết không sờn lòng”. Lời thề sắt son ấy theo ông suốt chặng đường cách mạng-đường đời sau này, giúp ông vượt qua hàng chục trận đòn roi tàn bạo của bọn bang tá tay sai thực dân ngay từ những ngày đầu chúng thi hành chính sách khủng bố trắng, rồi những lần bị bắt giam trong nhà lao Vinh, những năm tháng bị tù đày khổ sai ở nhà ngục Kon Tum-chốn “rừng thiêng nước độc”.
Trong những ngày ông bị tra tấn ở ngay giữa làng quê mình, không phụ niềm tin, lòng trông đợi của bà con thôn xóm, ông đã kiên cường, bất khuất, dù bị tra tấn ngất đi cũng quyết không đeo thẻ “Quy thuận”, không ký sổ đầu hàng “từ nay không theo cộng sản nữa”.
Không khuất phục được ông, bọn bang tá đành phải thả ông về. Đồng bào khâm phục, thương xót ông, đã bí mật gửi quà bánh, gạo, thức ăn đến để ông chữa trị vết thương. Và từ đó ông đã nhận ra chân lý: Nhân dân không bao giờ xa Đảng, bà con luôn ở bên cạnh Đảng, sẵn sàng bảo vệ và giúp đỡ Đảng. Đảng càng kiên định, vững vàng thì lòng dân càng rộng mở. Chân lý đó khiến ông luôn hướng đến dân, tin dân, dựa vào dân, nhất là khi phải tìm cách giải quyết những khó khăn của cách mạng.
Năm 1936, Chu Văn Điều đổi tên thành Chu Huy Mân, được cử đi dự Hội nghị Tỉnh ủy Nghệ An mở rộng tại Nghi Lộc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ông được phân công làm Chính trị viên Mặt trận Đường 9-Đông Hà-Savannakhet.
Trên đường nhận nhiệm vụ, ông biết chủ đồn điền khai thác gỗ vùng Tân Lâm là Nguyễn Như Hà (thường gọi là Bát Hà) đang bị chính quyền cách mạng bắt giam. Bát Hà là người đã thuê ông làm công khi ông mới vượt ngục Kon Tum, đang tìm cách bắt liên lạc với Đảng. Nhờ Bát Hà làm cho ông tấm thẻ bài mang tên Lê Thế Mỹ (bí danh của Đại tướng Chu Huy Mân) và cây thánh giá mà ông đã vượt qua sự truy bắt gắt gao của kẻ thù, tiếp tục hoạt động.
Khi được đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị hỏi cách ứng xử với Bát Hà, ông thẳng thắn nhận xét Bát Hà không ưa gì cách mạng, nhưng ông vẫn tin tưởng đề xuất Tỉnh ủy giao một nhiệm vụ gì đó ủng hộ kháng chiến cho Bát Hà. Sau đó, Bát Hà được chính quyền cách mạng thả tự do và giao làm Chủ tịch Ủy ban Ủng hộ kháng chiến huyện Cam Lộ, hoạt động tích cực trong việc vận động nhân dân đóng góp lương thực, thực phẩm ủng hộ cách mạng, bảo đảm hậu cần cho bộ đội Mặt trận Đường 9-Đông Hà-Savannakhet đánh Pháp.
Năm 1958, ông được giao làm Chính ủy Quân khu Tây Bắc. Trong hai năm chỉ huy bộ đội tại đây, ông góp phần quan trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở các vùng dân tộc thiểu số.
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Quân khu Tây Bắc có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số từng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, lập được thành tích trong kháng chiến chống Pháp nhưng chưa được tổ chức giáo dục để kết nạp Đảng. Trong khi đó, địa bàn Quân khu Tây Bắc rộng lớn, việc đến các thôn, bản rất khó khăn vì đường sá vừa xa, vừa xấu, nhiều nơi không có đảng viên.
Trước tình hình đó, ông cùng tập thể lãnh đạo tổ chức kế hoạch giáo dục phát triển đảng viên mới từ nguồn đồng bào từng tham gia kháng chiến, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, vừa bảo đảm nguyên tắc xây dựng Đảng nhưng vừa sáng tạo phù hợp thực tiễn. Sau hơn một năm kiên trì triển khai kế hoạch, hầu hết nông thôn Tây Bắc đã có cơ sở đảng. Mấy năm sau, trong đội ngũ đảng viên người dân tộc thiểu số, có nhiều người trở thành cán bộ chủ chốt cấp huyện. Nhờ niềm tin nơi dân, hành động luôn hướng về dân, trong thời gian ngắn, ông đã hoàn thành nhiệm vụ tưởng chừng không thể.
Hay như vào cuối năm 1960, khi ông làm Trưởng đoàn cố vấn giúp cách mạng Lào tổ chức cuộc hành quân thần tốc, bí mật tấn công Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng. Đêm đó, bộ đội Lào muốn trú chân trong một bản người Lào Sủng nhưng sợ không an toàn vì dân trong bản chịu ảnh hưởng của phỉ Vàng Pao. Giờ phút đó, ông đã tin dân, mạnh dạn vào bản, nói tiếng Lào Sủng, giải thích cho dân bản rõ bộ đội Lào đang đi đánh quân phiến loạn, tay sai của đế quốc Mỹ, bảo vệ nhân dân các bộ tộc Lào. Đồng thời, ông cùng đồng đội thăm hỏi, chăm sóc y tế cho dân. Nhờ đó, dân bản chuyển từ nghi ngại sang ủng hộ, chủ động mời bộ đội Lào nghỉ lại bản.
Vị tướng “gánh hai vai”
Năm 1945, ông chỉ huy lực lượng tự vệ vũ trang tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Quảng Nam, sau đó được phân công đảm nhiệm Chính trị viên Tỉnh đội. Từ đây, tài năng xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức thế trận quốc phòng của ông được phát huy. Với ông, phương châm xây dựng lực lượng vũ trang là lấy giáo dục chính trị và bồi dưỡng cán bộ làm chính, cán bộ trưởng thành về chính trị là cơ sở để học tập, nắm vững và không ngừng sáng tạo nghệ thuật quân sự.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khen ngợi Đại tướng Chu Huy Mân là người chịu khó học tập, rèn luyện, vừa biết cả chính trị, quân sự và công tác tổ chức, vừa có kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu. Trong một lần Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc với Đại tướng Chu Huy Mân, khi biết ông đang làm cả nhiệm vụ chỉ huy và công tác chính trị, Người đã nói với ông: “Chú chịu khó gánh cả hai vai cho khỏe càng tốt”. Vì câu chuyện này, bộ đội Tây Nguyên gọi ông với bí danh “Hai Mạnh”, mạnh về quân sự-mạnh về chính trị.
Nhớ lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Chu Huy Mân luôn coi trọng cả công tác chính trị và quân sự, chính trị làm nền tảng cho quân sự. Ông cho rằng, quân Mỹ mạnh hơn hẳn bộ đội ta về quân số, vũ khí, trang bị, kỹ thuật quân sự, cách đánh của quân Mỹ là tận dụng tối đa sức mạnh của vũ khí. Điều đó khiến cuộc chiến đấu của ta với địch thêm ác liệt, ảnh hưởng đến tinh thần, tâm lý bộ đội. Vì vậy, ông cùng tập thể lãnh đạo đơn vị chủ trương chú trọng củng cố tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, quan tâm xây dựng phẩm chất chính trị, tinh thần cho bộ đội.
Những chiến công thắng Mỹ- ngụy của Mặt trận Tây Nguyên, của Quân khu 5, những bước tiến bộ của bộ đội Pa-thét Lào... đều có dấu ấn của ông trong xây dựng bộ đội về chính trị, tổ chức bộ đội chiến đấu và vận động nhân dân tham gia xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh.
Cho đến tận cuối đời, Đại tướng Chu Huy Mân vẫn trăn trở với công tác xây dựng bộ đội về chính trị tư tưởng. Vị tướng “Hai Mạnh” của Quân đội ta luôn mong muốn phát huy vai trò của người chính ủy, chăm lo xây dựng quân đội tinh nhuệ, trước hết phải tinh nhuệ về chính trị, tinh thần là chủ yếu; chú trọng bồi dưỡng cán bộ về các mặt chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, năng lực và tác phong công tác. Ông đúc kết lại: Chỉ có người cộng sản chân chính, trung thực, vô tư mới trồng được con người cộng sản chân chính./,
Ảnh: Tư lệnh Quân khu 5 Chu Huy Mân
Nguồn: QĐND
Có thể là hình ảnh về 1 người
2

Loa phường liệu đã hết sứ mệnh

 Chỉ trong 2 ngày, trang Việt Tân đã viết liên tục 8 bài viết về vấn đề Hà Nội muốn đưa loa phường về tới từng thôn, tổ dân phố. Thậm chí, trang này còn tổ chức khảo sát lấy ý kiến nhằm xem thái độ của cư dân mạng (chủ yếu là đám chống đối) với chính sách này như thế nào. Và tất nhiên, với các anh em hải ngoại vài chục năm rồi không được đặt chân đến Hà Nội, thù ghét với cộng sản thì phản đối là điều đương nhiên.

Tại sao Việt Tân lại quan tâm đến vấn đề loa phường của Hà Nội như vậy?

Vì Việt Tân chăm lo cho người dân Hà Nội hay phải đóng tiền để vận hành hệ thống loa phường? Tất nhiên là không, mà đơn thuần là nhằm vào Tân Chủ tịch Hà Nội Trần Sĩ Thanh, cũng như bôi nhọ chính quyền Hà Nội mà thôi.

Thay vì chê trách, chúng ta thử bàn xem loa phường liệu đã hết sứ mệnh?

Nhiều người cho rằng với rất nhiều phương thức giao tiếp hiện đại thì loa phường đã kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình. Tuy nhiên, mặc dù có rất nhiều loại hình báo chí thì duy chỉ có loa phường mới có khả năng cá biệt hóa thông tin ở quy mô phường, xã.

Nhiều người cũng cho rằng những thông tin dân sinh thì hoàn toàn có thể dùng hình thức thông báo trên Face.book, Zalo. Điều đó không sai. Tuy nhiên, thực tế thì trên Face.book, Zalo mỗi ngày có cả rừng thông tin: cầm lao cướp giết hiếp, chính trị gia lỡ mồm, ngôi sao giải trí thiếu quần áo… những vấn đề dân sinh cấp phường sẽ không có nhiều người chú ý tìm đọc. Truyền thông áp đặt rằng: "loa phường giải quyết được việc này khi người nghe không có nhiều lựa chọn về tin tức; từ đó, để truyền tải thông tin hữu ích nhất, liên quan trực tiếp tới đời sống của cư dân trong khu vực".

Loa phường, cũng giống như báo in, đài phát thanh, đài truyền hình, có thể kém ưu thế hơn so với truyền thông xã hội. Nhưng nó vẫn có những giá trị truyền thông, vẫn là thứ không thể loại bỏ trong cuộc sống của người dân Hà thành./.

Xuyên tạc lịch sử đang "ký sinh" trên nghệ thuật thứ 7

 Nói về các nội dung trong dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi) đang được trình Quốc hội xem xét, đóng góp ý kiến, đại biểu Phạm Trọng Nhân, đoàn Bình Dương cho rằng, chỉ vài ngày nữa dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi) sẽ được thông qua, song những người làm điện ảnh chân chính, tâm huyết vẫn còn đó không ít tâm tư để tiếp tục chuyển tải những thông điệp về cuộc sống qua từng lăng kính, thước phim.

Bên cạnh việc tiếp thêm những chế định để điện ảnh nước nhà bay cao, vươn xa thì dự luật này phải đảm đương sứ mệnh là công cụ bảo vệ nền tảng tinh thần của xã hội cũng như những sự thật thiêng liêng trước những thông tin xuyên tạc lịch sử, những nội dung xấu, độc, đồi trụy mà nhiều nền tảng xuyên biên giới phổ biến trên không gian mạng đang ngang nhiên tấn công vào tâm thức người xem.

Tuy nhiên, dự thảo lại xây dựng cơ chế hậu kiểm đối với phổ biến phim trên không gian mạng mà điển hình là các nền tảng xuyên biên giới tại điểm a khoản 2 Điều 18, điểm b khoản 2 Điều 21 và khoản 1 Điều 27. Trong khi việc để các nền tảng này tự do đi lại trên mặt trận văn hóa thời gian qua đã gây nên những tổn thương không hề nhỏ đến đời sống tinh thần của xã hội.

Dẫn chứng kể từ khi xâm nhập thị trường Việt Nam, Netfix đã phổ biến ít nhất 3 phim có nội dung vi phạm chủ quyền lãnh thổ đất nước như “Gửi thời thanh xuân ấm áp của chúng ta” đến “Bà Ngoại trưởng” và gần đây nhất là “Bill Gates”.

Như vậy, từ câu chuyện trong đời sống thực với giàn khoan HD 981 thì nay chủ quyền lãnh thổ đã và đang đối diện với một hình thái khác mà việc xuyên tạc lịch sử đang ký sinh lên nghệ thuật thứ bảy và những thành tựu khoa học công nghệ. Rõ ràng vị khách này không hề có thiện chí cũng như thiếu sự tôn trọng chủ nhà và dĩ nhiên không phải vô tình để vi phạm hết lần này đến lần khác. Hệ lụy của nó sẽ đi đến đâu nếu tiếp tục để môn Lịch sử là môn tự chọn của học sinh ở lứa tuổi đã bắt đầu có những tư duy và nhận thức độc lập.

Gỡ bỏ nội dung sai phạm là một việc làm không nhiều ý nghĩa vì người xem đã kịp tải xuống để đăng tải trên các nền tảng khác. Do đó, mặc dù báo cáo giải trình đã cố gắng lý giải nhưng chưa thể thỏa mãn với những gì đã và đang diễn ra trên không gian mạng.

Điều đáng nói là các nội dung độc hại đang từng ngày lần mò len lỏi, cài cắm vào tâm thức người xem, mà tệ hại nhất là giới trẻ khi smartphone đã quá phổ biến và việc xem các nội dung trên các nền tảng này mọi lúc, mọi nơi. Không dừng lại ở đó, các nền tảng xuyên biên giới này còn kiếm lợi bất chính khi doanh thu hàng ngàn tỷ đồng từ cung cấp dịch vụ nhưng chưa đóng một đồng tiền thuế tại nhiều nước sở tại trong đó có Việt Nam.

Với khối lượng đăng tải và truy cập phim hiện nay chưa có giải pháp hiệu quả nhằm kiểm soát khối lượng thông tin này. Tuy nhiên, việc lấy những khó khăn về nhân lực để lý giải cho quy định hậu kiểm đối với phổ biến phim trên không gian mạng, trong khi các công đoạn tiền kiểm hiện nay đều được số hóa và được thực hiện trên các phần mềm chuyên dụng mà các cơ quan thông tấn báo chí quốc gia hiện đang duyệt từng chương trình truyền hình nước ngoài, bao gồm hàng chục ngàn bộ phim mỗi năm trên hàng chục kênh truyền hình phát sóng 24/7 vào Việt Nam liệu đã đủ thuyết phục hay chưa?

Nếu như các nền tảng Google, Facebook, Tiktok âm thầm theo dõi, định vị, thay đổi tâm thức người dùng từ khi gõ phím, tìm kiếm đến việc ghi âm các cuộc thoại, phân tích thông tin chứa đựng trong đó đến các thao tác tưởng chừng vô hại như những like, share, thả tim trên các dòng trạng thái thì việc cung cấp các dịch vụ phim ảnh qua các nền tảng xuyên biên giới cũng là một cách thức tấn công vào tâm thức con người bằng những tư tưởng sai lệch về giá trị văn hóa được lồng vào những câu chuyện tưởng chừng chỉ mang tính chất giải trí.

Do đó, cơ quan thẩm tra và Quốc hội phải cân nhắc kỹ lưỡng về hậu kiểm đối với việc phổ biến phim trên không gian mạng. Cần giải pháp để các nền tảng xuyên biên giới không có bất kỳ cơ hội nào xâm lấn bờ cõi tư tưởng văn hóa người xem nói riêng và hàng chục triệu người nói chung./.

Chiêu trò tẩy trắng chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng những đồng đô la!

 Mới đây nhiều tờ báo ca ngợi em Tăng Vân Khanh, học sinh lớp 12 Văn, trường THPT Chuyên Nguyễn Trãi, Hải Dương vừa đỗ 7 trường Đại học Mỹ danh giá và được cấp các mức học bổng với tổng trị giá lên đến hơn 25 tỷ đồng từ một bài luận 650 từ viết về người Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tuy nhiên, điều đáng nói là em đã tư duy theo cách gọi của người Mỹ về "cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam" là “Cuộc chiến tranh Việt Nam". Xin đặt câu hỏi ai đã dạy em cách gọi ấy và không biết gia đình, dòng họ em có ai hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước không nhưng rõ ràng đây là một chiêu trò tẩy trắng cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của người Mỹ khi họ chọn chủ đề du học là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam!

Rõ ràng là, 21 năm Mỹ xâm lược Việt Nam, chia đôi đất nước để dễ bề thôn tính, hàng triệu người Việt Nam đã đổ máu để đổi lấy thống nhất, độc lập trước 1 đội quân đế quốc xâm lược chia đôi đất nước. Thế mà, không biết tự bao giờ mà một bộ phận giới trẻ Việt Nam hôm nay như Tăng Vân Khanh lại có thể gọi là "Cuộc chiến tranh Việt Nam? rồi ngày mai, ngày kia những đứa con của Tăng Vân Khanh có tiếp tục được chính người mẹ các cháu có dạy cho các cháu như vậy không? Nếu đúng như thế thì thật là đau buồn!

Cách đây 27 năm, ngày 11/7/1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã chính thức tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam; rạng sáng ngày 12/7/1995 (giờ Việt Nam), Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt đã chính thức tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ. Đây là kết quả của một hành trình dài với những nỗ lực bền bỉ của cả hai bên quyết tâm gác lại quá khứ hướng tới tương lai, từ một cựu thù đến nay hai nước đã trở thành đối tác toàn diện.

Tuy nhiên, sau 27 năm bình thường hóa quan hệ, những gì Mỹ mong muốn ở Việt Nam đang nằm ngoài sức tưởng tượng của đa số người Việt Nam bởi trước mắt chúng ta, những người dân Việt Nam chỉ nhìn thấy bức tranh kinh tế của nó nhưng sẽ không hiểu hết đằng sau đó Mỹ đang muốn gì ở Việt Nam.

Sau khi Mỹ rút quân khỏi miền Nam, giới lãnh đạo Hoa Kỳ đã tuyên bố: 30 năm sau người Mỹ sẽ trở lại Việt Nam không phải bằng bom đạn mà bằng Dollas và người Việt Nam sẽ phải chào đón họ như những người anh hùng...

Trong một lần sang thăm Việt Nam, Tổng thống Binclinton cũng từng nhắc lại ý định này trước hàng nghìn sinh viên các trường Đại học Việt Nam rằng "những gì mà người Mỹ trước đây chưa thực hiện được ở Việt Nam thì chính những thế hệ người Việt Nam sau này sẽ thay họ thực hiện nó..." Vậy thì những gì họ chưa thực hiện được mà họ mong muốn những thế hệ người Việt thay họ thực hiện?

Mỹ đã từng xâm lược Việt Nam và họ đã thất bại, những người đã từng làm tay sai tiếp tay cho Mỹ cũng thất bại và đó cũng là điều mà họ muốn một bộ phận người Việt Nam hôm nay và mai sau tiếp tục làm tay sai cho họ lần nữa. Muốn đạt được mục đích đó không có con đường nào duy nhất ngoài việc tác động chuyển hóa tư tưởng bằng đầu tư giáo dục, về lâu dài những con người ấy sẽ nắm giữ các vị trí quan trọng trong Đảng, Nhà nước họ có thể dưới sự điều khiển, dật dây của Mỹ làm chuyển hóa toàn bộ hệ tư tưởng hiện nay của chúng ta.

Để thực hiện mục tiêu này, Năm 2016, Đại học Fulbright Việt Nam được thành lập tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên khi tiến hành các hoạt động giáo dục họ đã cương quyết không đưa các môn Lý luận Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh vào chương trình dạy học đồng thời mở ra các ngành, chuyên ngành đào tạo theo hơi hướng giá trị thực dụng phương tây, xã hội dân sự... Thực chất là nhằm tới phá vỡ nền tảng XHCN đưa một thế hệ người Việt theo học mang nặng tư duy sùng bái Mỹ, thậm chí có tư tưởng chống lại chế độ hoặc ngấm ngầm hoặc công khai.

Trong suốt quá trình bình thường hóa quan hệ, Mỹ luôn tìm mọi cách can thiệp vào lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo của Việt Nam, thậm chí luôn dung túng những kẻ bất mãn chống lại nhà nước Việt Nam thì câu hỏi đặt ra Mỹ đang muốn gì ở Việt Nam đã quá rõ. Hiện chúng ta có trên dưới 30.000 sinh viên đang học tập tại Mỹ và rất có thể các em lại là những phương tiện, tai sai đắc lực cho Mỹ mà việc đầu tiên là tẩy trắng cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam bằng chính những đồng USD./.

Tổ chức ân xá quốc tế và những trò lố "phá hoại nhân quyền"

 Một tổ chức được thành lập ở Luân Đôn, Anh dưới vỏ bọc bảo vệ nhân quyền. Kể từ khi thành lập, tổ chức này đã không che giấu tham vọng trở thành “người phán xử”, khi liên tục đưa ra các cáo buộc và nhận xét mang tính một chiều, thiếu khách quan về tình hình chính trị- xã hội của các nước. Đó là tổ chức Ân xá quốc tế (AI)

Tổ chức Ân xá quốc tế (AI) là một tổ chức phi Chính phủ được thành lập năm 1961 bởi luật sư người Anh tên là Peter Benenson. Tổng thư kí hiện nay là bà Agnès Callamard, người Pháp. Tổ chức này liên tục đưa ra các cáo buộc sai sự thật về tình hình chính trị- xã hội của các nước. Đặc biệt là các nước thuộc khu vực “nóng” trên thế giới, không thân phương Tây, chọn lựa con đường phát triển riêng, như : Cuba, Chile, Venezuela, Nga, Afghanistan, Qatar, Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam và một số nước Đông Nam Á.

Với Việt Nam, đặc biệt sau vụ gây rối ở Tây Nguyên năm 2005, tổ chức này càng thường xuyên đưa ra nhiều đánh giá phiến diện, bóp méo sự thật, có tính chất kích động, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Khi Việt Nam nằm trong danh sách những nước có tỷ lệ người mắc Covid-19 và tử vong cao, đất nước đã nhanh chóng thực hiện những biện pháp chống dịch nghiêm ngặt, đồng thời tiêm vaccine toàn dân. “Chìa khoá thành công của Việt Nam chính là kêu gọi lòng yêu nước của toàn nhân dân để đối phó với Covid-19”. Đó là nhận xét chung của các cơ quan thông tấn uy tín hàng đầu thế giới. Ngay cả Reuteurs, Telegraph, Global News,… cũng đã dành nhiều bài viết ca ngợi thành quả chống dịch của Việt Nam.

Thế nhưng, tổ chức Ân xá quốc tế khi đó lại đưa ra cái gọi là: “Thông cáo kêu gọi Việt Nam tôn trọng nhân quyền khi dùng quân đội tiếp tục kiểm soát dịch bệnh tại TP.HCM”. Bà Emerlynne Gil, Phó Giám đốc Nghiên cứu khu vực của tổ chức Ân xá quốc tế còn giả vờ lo ngại vi phạm nhân quyền ở Việt Nam: “Các biện pháp giãn cách được quân đội giúp thực thi đang cản trở nhiều người bị tổn thương, đặc biệt ở TP.HCM, không tiếp cận được nguồn lương thực để sinh tồn trong cuộc khủng hoảng y tế hiện nay”. Tuy nhiên, họ hoàn toàn phớt lờ đi khối lượng khổng lồ các công việc để duy trì an ninh cũng như an sinh cho người dân ở TP.HCM khi đó. Và càng cố tình muốn lấp liếm hoàn cảnh dịch phức tạp nhưng người Việt vẫn được nhận cứu trợ của Chính phủ cũng như nhiều tổ chức thiện nguyện khác.

Không những thế, tổ chức này còn bất chấp, đánh tráo khái niệm “người vi phạm pháp luật” với các “nhà hoạt động dân chủ”, “tội phạm” với “tù nhân lương tâm” (danh xưng không có trong bất cứ bộ luật nào). Những kẻ điều hành tổ chức đã kêu gọi cộng đồng quốc tế gây sức ép, tạo áp lực, đưa ra những yêu sách phi lý đòi Việt Nam trao trả tự do cho một số đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam như Hà Văn Nam, Hoàng Đức Bình, Nguyễn Thúy Hạnh,…

Đến đây, có lẽ người Việt đã phần nào nhận diện được bộ mặt thật của tổ chức tổ chức Ân xá quốc tế và thực hư của cái gọi là báo cáo nhân quyền mà tổ chức này đã “trình làng” trước cộng đồng quốc tế thời gian qua. Âm mưu của tổ chức Ân xá quốc tế không chỉ là gây cản trở, hướng lái quá trình xử lý các đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia mà là can thiệp vào các công việc nội bộ của Việt Nam. Thông qua hoạt động can thiệp để hậu thuẫn, kích động các đối tượng chống đối, tạo dựng nhân tố chính trị đối lập trong nội bộ, tiến tới việc gây bất ổn chính trị Việt Nam. Thông qua hoạt động can thiệp để đạt được lợi ích trong quan hệ đối ngoại; đồng thời qua đó từng bước tác động vào thể chế, chính sách, pháp luật của Việt Nam.

Nhìn chung, với cách nhìn một chiều, dựa trên các quan điểm chính trị lệch lạc, thiếu khách quan, không tôn trọng sự thật, tổ chức Ân xá quốc tế sẽ còn tiếp tục diễn thêm nhiều trò lố khác với Việt Nam. Vấn đề đã và đang đặt ra là cần phải quam tâm, giải quyết, trong đó, giải pháp cốt lõi hiện nay đó là người dân phải có nhận thức đúng đắn và hành động kịp thời, nhằm đảm bảo giá trị của nhân quyền Việt Nam, đứng vững trước sự “mũi dùi” của các tổ chức như Ân xá quốc tế. Từ đó, góp phần bảo vệ an ninh đất nước và lợi ích của dân tộc./.

Họ còn nhớ hay họ sẽ quên?

 Hai phần ba người dân Campuchia ở vào độ tuổi dưới 30, độ tuổi trung bình của đất nước này là 26 - thuộc nhóm trẻ nhất châu Á. Họ được sinh ra sau “thời đại diệt chủng” diễn ra ở những năm 70 của thế kỷ trước. Giai đoạn ấy, chế độ Khmer Đỏ đã tiêu diệt ¼ dân số của quốc gia này. Độ tuổi quá trẻ nói lên điều gì? Có thể, họ sẽ không hình dung ra tội ác của Khmer Đỏ ngay cả khi đứng giữa Tuol Sleng, Choeung Ek hay Anlong Veng. Và chính vì không hình dung được, nên họ có một cái nhìn hời hợt. trống trải về sự kiện này. Rồi, họ hoài nghi, họ lãng quên. Đó chính xác là những gì đã, đang và sẽ diễn ra…

Ngày 23/05/2022, Trung tâm Tư liệu Campuchia (DC-CAM) tổ chức một ngày tưởng nhớ cho các nạn nhân Khmer Đỏ tại Takeo và Kampong Cham. Đáng buồn rằng, phần lớn những người tham gia buổi hôm ấy là những người già, trung niên và thiếu vắng những người trẻ. Giám đốc DC-CAM Youk Chhang cho biết buổi lễ nhằm giúp người trẻ tìm hiểu về những hành động tàn bạo của Khmer Đỏ, đồng thời xoa dịu nỗi đau của những người sống sót.

Nhiều người trẻ Campuchia và Việt Nam không biết rằng, trong những giờ phút khó khăn nhất từ 1977 - 1979, có tới hàng trăm ngàn người Campuchia vượt biên tị nạn ở Việt Nam. Những người này sau đó trở về sau khi kết thúc chiến tranh, trở thành một phần của “những người Campuchia mới” và họ trực tiếp tham gia tái thiết đất nước Campuchia. Họ cần biết rằng, Khmer Đỏ đã tấn công vào lãnh thổ Việt Nam khiến nửa triệu người mất nhà cửa và hơn 100.000 ha đất nông nghiệp phải bỏ hoang vì giao tranh.

Việt Nam là quốc gia duy nhất bấy giờ giúp Campuchia khôi phục lại hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng hành chính, các trường học mở cửa trở lại, các ngôi chùa Phật giáo trở lại hoạt động, các thành phố được tái định cư. Tháng 06/1980, Việt Nam viện trợ không hoàn lại 180.000 tấn lương thực cho Campuchia - con số viện trợ lớn nhất mà Việt Nam dành cho một quốc gia khác và cũng là con số viện trợ lớn nhất mà Campuchia được nhận cho đến thời điểm hiện tại. Cần biết rằng vào những năm đó, Việt Nam vẫn còn rất nghèo đói vì phải chống Trung Quốc ở phía Bắc và chiến đấu chống Khmer Đỏ ở phía Tây Nam, vừa phải lo khắc phục hậu quả chiến tranh trong nước… Đó dường như là tất cả những gì người ta gọi là nhân đạo trên thế giới này.

Liên Hợp Quốc tiếp nhận toàn bộ Campuchia sau khi Việt Nam Việt Nam rời đi vào cuối tháng 9/1989. Các quốc gia được LHQ tiếp nhận thường chỉ còn lại đống đổ nát, nạn đói, bệnh dịch, nhưng Campuchia lại không rơi vào tình cảnh ấy. Nhưng, nhiều người trẻ Campuchia dường như nghĩ rằng chính LHQ mới là đối tượng chính giúp Campuchia tái thiết đất nước… Điều đó là sai!

Chuyên trang Modern Diplomacy bình luận: “Nhiều người Campuchia thậm chí còn không biết rằng Việt Nam là quốc gia duy nhất đã giải cứu họ khỏi những khó khăn của chế độ diệt chủng”.

Giáo sư Pankaj Jha của Đại học Delhi viết: “Việt Nam chưa bao giờ được nhìn nhận, tôn vinh theo đúng những gì mà quốc gia này đã cống hiến”.

Lãng quên cũng là một tội ác. Tội ác này không gây ra thương tổn trực tiếp cho những người khác, nhưng chúng gây ra thương tổn cho lịch sử. Và lãng quên chính là điểm bắt đầu cho những tội ác khác dần hình thành và len lỏi. Nhưng, “vấn nạn” lãng quên không chỉ diễn ra với nhiều người trẻ Campuchia và còn diễn ra âm thầm trong tâm trí một bộ phận giới trẻ Việt Nam./.