Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2023

Nhận diện một số hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa

 

Những năm qua, bằng nhiều thủ đoạn, vừa công khai, trắng trợn, vừa ngấm ngầm hòng phá hoại, bôi nhọ, công kích chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, nền văn hóa mới của dân tộc nhưng không mang lại kết quả, các thế lực thù địch đang có sự điều chỉnh thủ đoạn chống phá hòng chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.

Chúng cho rằng, vấn đề trước tiên, cốt yếu nhất là phải xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Đồng thời, xây dựng hệ thống lý luận khác, có khả năng triệt tiêu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lấy đó làm nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng một xã hội mới, theo mong ước của chúng.

Như vậy, mục tiêu tiến công trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa của các thế lực thù địch không hề thay đổi. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, chúng đã và đang sử dụng những chiêu thức mới, tiếp cận theo hướng quan hệ “mềm dẻo”, thân thiện hơn, hợp tác toàn diện, thâm nhập sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó tác động, phá hoại nền tảng tư tưởng, bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.

Trước hết, cần nhận rõ chiêu thức mới của các thế lực thù địch là, chủ động thâm nhập, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua con đường quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực, nhất là kinh tế, đối ngoại, giáo dục và đào tạo. Đây là những lĩnh vực được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, mở rộng trong quá trình hội nhập quốc tế.

Trên lĩnh vực kinh tế, chúng âm mưu thông qua hoạt động hợp tác, đầu tư để làm cho nền kinh tế phát triển chệch hướng XHCN, thiết lập hệ thống và cơ cấu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam; từ đó, tạo ra nền tảng vật chất, xã hội thuận lợi, hình thành nền “chính trị dân chủ” và “xã hội dân sự” kiểu phương Tây.

Đây chính là môi trường, điều kiện thuận lợi cho các tổ chức chính trị đối lập xuất hiện, công khai chống Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Đặc biệt, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những tồn tại, vướng mắc trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN để xuyên tạc, phủ nhận đường lối lãnh đạo, thành tựu phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, kích động tâm lý hoài nghi trong xã hội; cổ súy, tung hô việc phát triển nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, làm mất phương hướng, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN, gây bất ổn về tư tưởng, xuất hiện tình thế mới về chính trị.

Lợi dụng tình thế đó, chúng sẽ kích động đòi “dân chủ kinh tế”, yêu cầu Đảng, Nhà nước phát triển kinh tế thị trường theo kiểu phương Tây.

Đồng thời, kêu gọi “dân chủ hóa chính quyền”, từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, tạo áp lực về chính trị - xã hội, thậm chí gây bạo loạn, lật đổ, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Chúng thực hiện chính sách “thân thiện giả hiệu”, thâm nhập sâu vào hoạt động của nền kinh tế, tạo điều kiện, cơ hội tiếp cận rộng rãi với các đối tượng, tầng lớp nhân dân để xây dựng lực lượng, kích động, phá hoại nền tảng tư tưởng, thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.

Cùng với âm mưu, thủ đoạn thâm nhập vào lĩnh vực kinh tế, các thế lực thù địch đẩy mạnh “tiến công” trên lĩnh vực đối ngoại.

Chúng chủ trương, một mặt, thông qua hoạt động ngoại giao chính thức, “ngoại giao thân thiện”, tăng cường giao lưu, trao đổi, đối thoại với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực nhằm quảng bá hình ảnh, giá trị tư bản chủ nghĩa; chủ động tiếp cận móc nối, hỗ trợ, mua chuộc, lôi kéo các đối tượng, nhất là những phần tử có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội, thoái hóa, biến chất, hữu khuynh, cực đoan, thân phương Tây, tạo lực lượng nòng cốt cho “chuyển hóa” và “tự chuyển hóa” tư tưởng ngay từ bên trên, bên trong.

Mặt khác, chúng đa dạng các kênh quan hệ để tìm kiếm cơ hội, tiếp cận sâu hơn, dùng vật chất, tiền bạc mua chuộc, làm suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên.

Trong đó, vấn đề hợp tác, giao lưu về giáo dục và đào tạo, nhất là việc đi học tập, đào tạo tại các nước tư bản của thế hệ trẻ được chúng hết sức quan tâm, bởi đây là “con đường” ngắn nhất, thuận lợi nhất để xâm nhập, tác động, chuyển hóa tư tưởng ở Việt Nam hiện nay.

Thông qua việc học tập ở nước ngoài, chúng truyền bá các quan điểm, giá trị dân chủ tư sản, làm cho thế hệ trẻ có tư tưởng sùng ngoại, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, chỉ coi trọng giá trị vật chất, bàng quan về chính trị,... tạo mầm mống thúc đẩy dân chủ, nhân quyền tư sản, tiến tới xóa bỏ nền dân chủ và chế độ XHCN ở nước ta.

Một trong những chiêu thức vô cùng nguy hiểm mà các thế lực thù địch sử dụng hòng làm chuyển hóa, tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là, thúc đẩy hình thành “xã hội dân sự” theo mô thức phương Tây.

Chúng núp dưới chiêu bài “dân chủ hóa”, hình thành “kênh phản biện” để cho ra đời các tổ chức đối trọng với các cơ quan, tổ chức trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, đòi giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

Đồng thời, lợi dụng các diễn đàn tư tưởng, thông qua hoạt động hợp tác, nghiên cứu khoa học,... để tuyên truyền về “xã hội dân sự”, đề cao dân chủ tư sản, nhằm chuyển hóa lập trường, tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Trên cơ sở đề cao “xã hội dân sự”, các thế lực thù địch âm mưu phủ nhận học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng XHCN, về đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới; làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, từng bước hạn chế, tiến tới loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, xây dựng xã hội “dân chủ”, “tự do” theo kiểu phương Tây.

Để thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền tác động hướng lái truyền thông. Đây là những vấn đề rất “nhạy cảm”, luôn được chúng triệt để lợi dụng để xuyên tạc, vu cáo, chống phá ta. Một số nước phương Tây còn áp đặt “dân chủ và bảo vệ nhân quyền” là yếu tố không thể thiếu trong chính sách ngoại giao và quan hệ quốc tế.

Những năm qua, các thế lực thù địch đã dùng nhiều hình thức, biện pháp, huy động tối đa các phương tiện truyền thông để tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo trắng trợn tình hình dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo và vấn đề dân tộc ở Việt Nam.

Chúng đưa ra yêu sách đòi mở rộng dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do lập hội để tập hợp lực lượng, kích động gây bạo loạn, dẫn đến mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Đặc biệt, chúng luôn tìm mọi cách hướng lái truyền thông nhằm tác động vào quá trình xây dựng hệ thống pháp luật, nhất là thời điểm sửa đổi các văn bản pháp luật về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo hoặc ban hành các chỉ thị, nghị quyết, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng,… để bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước; kích động, lôi kéo, chia rẽ nội bộ, nhằm gây áp lực với Đảng, Nhà nước ta.

Đồng thời, thành lập nhiều tổ chức và đưa người vào Việt Nam để theo dõi, tìm hiểu, thu thập thông tin về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, tiến hành móc nối, cài cắm, truyền bá tư tưởng sai trái, vu cáo, xuyên tạc tình hình thực tế ở Việt Nam.

Để đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, âm mưu các thế lực thù địch là nhất thiết phải thực hiện “dân chủ” trong đời sống xã hội. Trước hết là thúc đẩy “dân chủ hóa” trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếp đó thực hiện “dân chủ hóa” trong truyền thông và xã hội.

Hai yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau, yếu tố thứ nhất mang tính quyết định đến tiến trình “dân chủ hóa” từ bên trên, bên trong nội bộ ta; yếu tố thứ hai sẽ đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của toàn xã hội.

Quá trình “dân chủ hóa” truyền thông là đưa dân chủ vào mạng truyền thông quốc gia và đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí, truyền thông. Con đường xâm nhập để hướng lái truyền thông của các thế lực thù địch là tác động thông qua các hoạt động hợp tác giáo dục, hội thảo, giao lưu, “mượn” các phương tiện truyền thông của Nhà nước, các địa phương, cơ quan, đơn vị để tuyên truyền cho chúng.

Lợi dụng sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), các thế lực thù địch sẵn sàng mạnh tay đầu tư tài chính cho quảng cáo, đầu tư, tài trợ các chương trình nhằm tác động, dẫn dắt giới truyền thông hoạt động theo ý đồ của chúng, đưa truyền thông tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Mặt khác, chúng còn lợi dụng các trang mạng xã hội, Facebook, blogger và một số báo, đài phương Tây, hệ thống phương tiện truyền thông của lực lượng phản động người Việt lưu vong,… để tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo, kêu gọi dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí và cạnh tranh trên lĩnh vực truyền thông, gây nhiễu loạn tư tưởng, mất phương hướng trong đời sống xã hội.

Ngoài ra, các thế lực thù địch còn tăng cường hoạt động xâm nhập, móc nối, xây dựng nhân tố bên trong để tác động tư tưởng, phá hoại bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện xâm lăng văn hóa để thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta...

Đây là những con đường mà các thế lực thù địch đang tìm mọi cách, bằng nhiều biện pháp tiến hành thường xuyên hòng chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần không ngừng nâng cao cảnh giác để giữ vững môi trường hòa bình phát triển đất nước, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Một số giải pháp xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị

    Cần quán triệt sâu sắc phương châm: gắn “xây dựng với bảo vệ”, “bảo vệ với xây dựng”; xây dựng là một nội dung của bảo vệ và là biện pháp chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội hiệu quả nhất. Như đã đề cập ở trên, mục đích thúc đẩy “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch hòng làm cho Quân đội ta từ bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng, phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng cách mạng, xa rời phương hướng chính trị, mục tiêu chiến đấu và cuối cùng dẫn tới xa rời sự lãnh đạo của Đảng. Âm mưu của họ rất thâm hiểm. Do đó, để xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị - tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ đảng viên và cán bộ chủ chốt các cấp. Đề cập đến vấn đề này, thoạt nghe có vẻ giáo điều, “muôn thuở”, nhưng thực tế không phải vậy. Trái lại, nó thật sự quan trọng và cấp thiết, nhất là trong tình hình phức tạp hiện nay, khi mà các thế lực thù địch đang thúc đẩy mạnh mẽ “phi chính trị hóa” quân đội. Quá trình tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng phải coi trọng mọi đối tượng, coi trọng tính toàn diện; nhưng trước hết và quan trọng nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên và nội dung trọng tâm là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục giữ vững bản chất giai cấp công nhân, lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu cho Quân đội. Đây là vấn đề cốt yếu nhất, là cơ sở nền tảng vững chắc đảm bảo cho Quân đội bất luận trong hoàn cảnh nào, dù khó khăn phức tạp đến đâu cũng vững vàng, không bị “diễn biến, chuyển hóa”, “phi chính trị hóa”, luôn trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân, Tổ quốc XHCN. Đồng thời, còn nhằm trang bị “vũ khí luận” cho cán bộ, đảng viên để họ đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội.

Đi đôi với giáo dục chính trị, tư tưởng, cần coi trọng xây dựng về tổ chức, trước hết là tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh. Các cấp phải thường xuyên quan tâm công tác xây dựng Đảng, coi đó là khâu then chốt, nhằm đảm bảo giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với QĐND. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và cũng là yêu cầu cấp thiết của nhiệm vụ đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, trong đó có mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Thực tiễn đã khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, quyết định sức mạnh, sự trưởng thành, chiến thắng của QĐND. Vì thế trong thời gian tới chúng ta cần phải đặc biệt coi trọng công tác này.

Để nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của tổ chức đảng các cấp, cần chú trọng kiện toàn cấp ủy gắn với tổ chức chỉ huy đảm bảo chất lượng, số lượng và cơ cấu; gắn xây dựng cấp ủy viên với cán bộ chủ chốt các cấp; chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất, năng lực, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt, trong hoạt động lãnh đạo, cấp ủy các cấp phải tăng cường sự đoàn kết, thống nhất; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, đi đôi với phân công cá nhân phụ trách; đồng thời, tích cực đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát theo phương châm: “Giám sát phải mở rộng, kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm”, nhất là việc thực hiện Nghị quyết, Điều lệ Đảng, giải quyết kịp thời, minh bạch các đơn thư tố cáo, khiếu nại và xử lý nghiêm các vi phạm. Cấp ủy các cấp lãnh đạo chặt chẽ việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về tiến hành chuẩn bị tổ chức đại hội đảng nhiệm kỳ 2015-2020. Đồng thời, thực hiện nghiêm Quy định 47-QĐ/TW, ngày 01-11-2011 về những điều đảng viên không được làm của Ban Chấp hành Trung ương.

Cùng với đó, phải thực hiện tốt và gắn chặt các mặt công tác cán bộ, tổ chức, dân vận, chính sách, tư tưởng,… Tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tổ chức tốt phong trào Thi đua Quyết thắng, các cuộc vận động, nhất là Cuộc vận động: “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, tạo khí thế thi đua sôi nổi, rộng khắp  và là nguồn động lực tinh thần to lớn cho toàn quân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Trong bối cảnh các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội, chúng ta càng phải nêu cao cảnh giác, tăng cường các biện pháp phòng ngừa những phát sinh phức tạp về tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ. Gắn liền với đó, phải hết sức coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chống việc lộ, lọt thông tin, các hiện tượng móc nối, cài cắm, xâm nhập hoặc thẩm thấu quan điểm xấu từ bên ngoài vào Quân đội dưới mọi hình thức; phấn đấu đảm bảo tuyệt đối an toàn về an ninh, chính trị, tư tưởng của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.

Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, phải thường xuyên chăm lo kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị các cấp và các tổ chức quần chúng, đoàn thể, hội đồng quân nhân. Bởi, đây là các tổ chức, cá nhân trực tiếp chỉ đạo và tổ chức triển khai các hoạt động công tác đảng, công tác chính trị - yếu tố quyết định chất lượng xây dựng Quân đội về chính trị. Từ thực tiễn, nhất là qua Sơ kết 9 năm thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX), Nghị quyết 513/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) chúng ta cần đánh giá đúng thực chất (cả ưu điểm và hạn chế, tồn tại), rút ra những bài học kinh nghiệm, để tiếp tục vận dụng thực hiện có hiệu quả trong thời gian tới. Trong đó, cần coi trọng nâng cao phẩm chất, năng lực cho chính ủy, chính trị viên để họ hoàn thành tốt chức trách, cương vị được giao; đồng thời, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính ủy, chính trị viên với người chỉ huy, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các mặt công tác, các nhiệm vụ của đơn vị.

Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN của quân và dân ta được tiến hành trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, nhanh chóng, khó lường; do đó bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, cũng có không ít khó khăn, thách thức. Trong đó, thách thức gay gắt nổi lên là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Với Quân đội ta, họ thúc đẩy mạnh mẽ “phi chính trị hóa” bằng những hình thức, thủ đoạn mới tinh vi, thâm độc. Cùng với đó là những diễn biến phức tạp mới ở Biển Đông, trực tiếp đe dọa đến chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trước tình hình trên, chúng ra cần chú trọng thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Đặc biệt, trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, mọi thông tin được chuyển tải nhanh, lan tỏa rộng, thì công tác này lại càng quan trọng, nhưng trong thực hiện có không ít khó khăn, phức tạp. Vì thế, công tác thông tin, tuyên truyền càng cần phải được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời, chính xác. Trong đó phải bảo đảm sự chủ động, giữ vững “trận địa thông tin”, làm chủ nguồn tin và độ tin cậy nguồn tin, nhằm tạo dư luận tốt trong xã hội nói chung và trong Quân đội nói riêng. Trong khi thông tin, tuyên truyền về những sự kiện nhạy cảm cần gắn với định hướng tư tưởng, giúp cho bộ đội và nhân dân nhận thức đúng và hiểu rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước, trên cơ sở đó không bị kích động bởi những thông tin xấu độc, trái chiều. Trong thời gian qua, nhìn chung chúng ta thực hiện khá tốt công tác này, nhưng bên cạnh đó cũng còn những hạn chế, vô tình tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Một vấn đề không thể thiếu của quá trình xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị đó là công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Quân đội ta đã trải qua 70 năm xây dựng và đã tiến hành tổng kết, sơ kết, tổ chức nhiều cuộc hội thảo khoa học, từ đó đúc kết nhiều bài học kinh nghiệm về công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng Quân đội về chính trị. Mặc dù thực tiễn luôn vận động, phát triển, nhưng phần lớn những bài học kinh nghiệm đó vẫn rất quý báu, còn nguyên giá trị đối với nhiệm vụ xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị hiện nay. Do đó, chúng ta cần tiếp tục quan tâm đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác đảng, công tác chính trị. Vì vậy, Tổng cục Chính trị, các trung tâm nghiên cứu, viện, học viện, nhà trường trong Quân đội có vai trò, trách nhiệm rất lớn trong công tác này. Nếu được quan tâm đầu tư về mọi mặt, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn sẽ góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới.

Chủ động đấu tranh làm thất bại thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch

    Trước hết, về mặt nhận thức, tư tưởng, cần xác định rõ: CNĐQ, các thế lực thù địch là đối tượng của cách mạng Việt Nam. Họ đã và đang tiến hành chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Do đó, chống “Diễn biến hòa bình” thực sự là “cuộc chiến” không khoan nhượng, diễn ra hằng ngày, hằng giờ, hết sức quyết liệt, phức tạp. Trong đó, đối tượng mà họ nhằm vô hiệu hóa, trước hết “phi chính trị hóa” là lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là QĐND và Công an nhân dân. Đây là lực lượng có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mục tiêu của họ nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Quân đội đứng ngoài chính trị, Đảng Cộng sản mất chỗ dựa vững chắc, mất vai trò lãnh đạo đối với Quân đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Và, một khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị vô hiệu hóa, bị xóa bỏ, thì tất nhiên chế độ XHCN sẽ sụp đổ. Để hiện thực hóa mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội và đạt mục tiêu nêu trên, các thế lực thù địch sử dụng mọi lực lượng, phương tiện, tiền bạc, vật chất và tiến hành bằng mọi biện pháp, mọi “chiêu bài” xảo quyệt, tinh vi, thâm độc, nhưng nhìn chung các hoạt động diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Nội dung mà họ tập trung tuyên truyền chống phá là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho Quân đội ta từng bước rời bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, để chống mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch đạt hiệu quả cao thì trước hết và quan trọng nhất là phải chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, cốt yếu là nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và phải chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, cả lực lượng, phương tiện, vật chất đảm bảo,… với phương pháp tiến hành (cách thức) linh hoạt, chủ động và có hệ thống giải pháp đồng bộ, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi trong “cuộc chiến” quyết liệt này.

Về lực lượng, cần có lực lượng đấu tranh rộng rãi là toàn dân và lực lượng nòng cốt được tổ chức thành hệ thống trong các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính trị, Mặt trận Tổ quốc từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là các viện, trung tâm nghiên cứu, học viện, nhà trường…; trong đó, Quân đội, Công an đóng vai trò xung kích của lực lượng nòng cốt. Những người trong lực lượng nòng cốt phải gồm các nhà nghiên cứu, khoa học có trình độ lý luận chính trị cao, kiến thức rộng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giàu kinh nghiệm viết bài đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội.

Về phương tiện, gồm các phương tiện truyền thông, đấu tranh trên in-tơ-nét, các trang mạng xã hội, Blog,… kết hợp với các phương thức tuyên truyền phong phú, đa dạng, phù hợp với tình hình và đối tượng. Đối với các cơ quan báo chí, cần có sự chỉ đạo chặt chẽ, định hướng kịp thời, phân công và phân cấp tuyên truyền về các sự kiện một cách phù hợp; trong đó báo chí quân đội phải là lực lượng nòng cốt, xung kích trong đấu tranh chống quan điểm “phi chính trị hóa” quân đội.

Về phương pháp đấu tranh, cần phải chủ động, linh hoạt, tránh thụ động khi có sự việc phức tạp xảy ra mới tổ chức tuyên truyền, đấu tranh. Quá trình thực hiện phải coi trọng đấu tranh trực diện, vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, hòng làm phai nhạt bản chất giai cấp, lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu của Quân đội, hoặc kích động gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ giữa Quân đội với Công an và Đảng, Nhà nước. Cần kết hợp đấu tranh tuyên truyền chống các luận điểm “phi chính trị hóa” quân đội một cách thường xuyên với tuyên truyền theo đợt (cao điểm), nhất là vào thời điểm tổ chức các sự kiện lớn của đất nước và Quân đội.

Về chính sách và cơ chế, cần có chính sách, cơ chế hợp lý nhằm động viên, khuyến khích và bảo vệ những người viết bài đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, trong đó có “phi chính trị hóa” quân đội. Đồng thời, có cơ chế cung cấp thông tin, định hướng tuyên truyền kịp thời và quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng chỉ đạo, quản lý báo chí và sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí trong và ngoài Quân đội để tạo nên sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

Quá trình hình thành, phát triển chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch

    Có thể nói, khái niệm “Diễn biến hòa bình” không mới và cũng không lạ đối với mọi người. Người ta biết đến cụm từ này từ thập niên 20 của Thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc (CNĐQ) sử dụng “Diễn biến hòa bình” để chống phá các nước đối địch, nhất là nước Nga - Nhà nước Xô-viết công nông đầu tiên trên thế giới vừa ra đời từ sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. Ngược dòng lịch sử, thậm chí nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: “Diễn biến hòa bình” nếu xét ở góc độ mục tiêu, tính chất, nội hàm (bao gồm cả hoạt động phản gián, lật đổ) thì xuất hiện từ thời Xuân Thu (Thế kỷ VI, trước Công nguyên), cách đây khoảng 2.700 năm, do Tôn Tử - nhà tư tưởng quân sự nổi tiếng của Trung Quốc phát kiến và được nêu tại Thiên 13 của cuốn “Binh pháp Tôn Tử”. Tư tưởng chủ đạo của “Thiên”, hay còn gọi “kế sách” này là “Bất chiến tự nhiên thành”, có nghĩa “không đánh mà thắng”. Có lẽ cũng vì thế mà sau này một số người thường gọi “Diễn biến hòa bình” bằng cái tên rất đặc trưng: “Cuộc chiến tranh không khói súng”. Như vậy, có thể khẳng định: “Diễn biến hòa bình” là cuộc chiến tranh - cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, thể chế chính trị; mà đã là chiến tranh thì dù “có khói súng” (bằng quân sự) hay “không có khói súng” (phi quân sự) cũng đều chung tính chất quyết liệt và chung mục tiêu là tiêu diệt đối phương bằng sức mạnh “Cứng” hay sức mạnh “Mềm”, hoặc kết hợp cả hai nguồn sức mạnh “Cứng” và “Mềm”. Chúng ta thấy, ngay từ đầu “Diễn biến hòa bình” không phải do CNĐQ phát kiến, nhưng hiện đang là “sản phẩm” của họ và họ có nó trên cơ sở tiếp thu tư tưởng quân sự cổ đại của nhân loại, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng thời điểm, từng giai đoạn, nhằm giành thắng lợi quyết định trong “cuộc chiến” sống còn với các quốc gia khác hệ tư tưởng, đối địch.

    Không phủ nhận CNĐQ đã đạt được những thành công nhất định trong việc sử dụng và phát triển chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Trong giai đoạn đầu, từ khoảng thập niên 20 đến thập niên 50 của thế kỷ trước “Diễn biến hòa bình” được CNĐQ xác định là một giải pháp quan trọng, giải pháp kết hợp; trong khi giải pháp quân sự, sử dụng sức mạnh quân sự đóng vai trò quyết định trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ. Đến giai đoạn kế tiếp, từ khoảng thập niên 50 (CNXH đã phát triển thành hệ thống, gồm 13 nước) đến thập niên 90, cũng như hiện nay, khi điều kiện sử dụng giải pháp quân sự bị thu hẹp và khó thực hiện, trong khi tiến công CNXH là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, thì “Diễn biến hòa bình” được CNĐQ đặc biệt coi trọng và nâng tầm thành chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Với việc sử dụng chiến lược nguy hiểm này, CNĐQ đã gây một loạt sự kiện với cái gọi là “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”,… mà thực chất là các hoạt động bạo loạn, lật đổ chính quyền ở một số nước, như: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung ga ri,… vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước. Đặc biệt, cuối thập niên 80, đầu 90, CNĐQ đã sử dụng chiến lược “Diễn biến hòa bình” để chống phá quyết liệt CNXH. Sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều nguyên nhân, nhưng rõ ràng trong đó có bàn tay chống phá của CNĐQ. Đáng chú ý là, trong quá trình tiến hành “Diễn biến hòa bình”, họ thúc đẩy mạnh mẽ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nhất là “phi chính trị hóa” quân đội, làm cho Quân đội Liên Xô hùng mạnh, với bề dày hơn 70 năm xây dựng bị vô hiệu hóa hoàn toàn. Biểu hiện cụ thể là, Quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mất phương hướng chính trị, không xác định được mục tiêu chiến đấu, mục tiêu bảo vệ và cuối cùng Đảng Cộng sản không còn chỗ dựa, không được bảo vệ, mất vai trò lãnh đạo, dẫn tới sụp đổ chế độ XHCN.

Huyênh hoang, tự đắc với chiến quả giành được và nhằm khuyếch trương chiến lược “Diễn biến hòa bình”, những quan chức Nhà Trắng và các triết gia của CNĐQ đã cao giọng dự báo về sự kết thúc của CNXH. Tiêu biểu là Francis Fukuyama - một người Mỹ gốc Nhật Bản - với bài viết “Sự cáo chung của Lịch sử” được công bố lần đầu trên Tạp chí “Lợi ích Quốc gia” Mỹ, số mùa hè 1989, sau này được hoàn chỉnh thành cuốn sách “Sự cáo chung của Lịch sử và con người cuối cùng” xuất bản năm 1992, phát hành rộng rãi ở 14 nước, với nhiều thứ tiếng khác nhau. Ý đồ chính trị của cuốn sách được thể hiện rõ: phủ nhận phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác; phủ nhận giá trị tiến bộ và khoa học của ý thức hệ giai cấp vô sản; tuyên truyền các giá trị của CNTB; luận chứng cho việc thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo. Tương tự như vậy là cuốn “Sự đụng độ giữa các nền văn minh” của S. Huntington; trong đó, ông ta biện giải và cho rằng nền văn minh phương Tây là “vô giá”, là “độc nhất vô nhị”. Điển hình trong số đó phải kể đến Tổng thống Mỹ R. Ních Sơn với cuốn sách “Chớp thời cơ” và cuốn “Năm 1999 - Chiến thắng không cần chiến tranh” nêu dự báo đến cuối Thế kỷ XX các nước XHCN còn lại sẽ “tự sụp đổ”. Đến nay đã giữa thập niên thứ 2 của Thế kỷ XXI, nhưng thực tế thì sao? Mọi người đã rõ và đều thấy rằng đó chỉ là sự võ đoán, hoàn toàn không có cơ sở, hay nói cách khác là sự ảo tưởng phi lý, phi thực tiễn.

Nhưng không vì thế mà chúng ta mất cảnh giác và xem nhẹ “Diễn biến hòa bình”, đặc biệt là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Bởi lẽ, chống phá các nước XHCN, tiến tới xóa bỏ CNXH, trong đó có nước ta, luôn là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của CNĐQ. Chừng nào CNĐQ còn tồn tại thì chừng đó họ còn giữ và theo đuổi mục tiêu đó. Tuy nhiên, tham vọng là một việc, còn đạt được hay không lại là việc khác. Hơn nữa, quyền quyết định trong vấn đề này là ở chúng ta chứ không phải họ, nên cho dù âm mưu của họ có thâm hiểm đến đâu, thủ đoạn có tinh vi, xảo quyệt đến nhường nào thì cuối cùng cũng không tránh khỏi thất bại.

Đối với nước ta, ngay sau khi kết thúc “Chiến tranh Việt Nam” - theo cách gọi của người Mỹ, và cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược - theo cách gọi của nhân dân Việt Nam, họ đã nhanh chóng tiến hành một cuộc chiến tranh mới “không khói súng” - “Diễn biến hòa bình”. Ngoại trưởng Mỹ Kitxinhgơ khi đó đã ngạo mạn tuyên bố: “Chúng ta thất bại trong chiến tranh, nhưng sẽ giành chiến thắng trong hòa bình”. Để hiện thực hóa tham vọng, họ đã liên tục tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh,… bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”; trong đó, thúc đẩy mạnh mẽ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Đáng chú ý là những năm gần đây, lợi dụng việc nước ta mở cửa, hội nhập quốc tế, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,… họ đã sử dụng những hình thức, thủ đoạn mới hết sức tinh vi, thâm độc, nguy hiểm, hòng gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo khủng hoảng niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN. Đặc biệt, nhằm thúc đẩy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân - công cụ bạo lực bảo vệ chế độ XHCN ở nước ta - họ đã phối hợp hoạt động các lực lượng phản động trong và ngoài nước để chống phá toàn diện, kể cả từ hệ thống pháp luật Nhà nước. Điển hình là, lợi dụng việc Đảng, Nhà nước và Quốc hội tổ chức lấy ý kiến nhân dân tham gia sửa đổi Hiến pháp cũng như hiện nay đang tổ chức thực thi Hiến pháp mới, các thế lực thù địch, phản động đã ra sức chống phá dưới dạng tham gia “góp ý”, “kiến nghị”,… trong đó trắng trợn đòi bỏ Điều 4 của Chương I, đòi bỏ hiến định “Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”; rằng, cần phải sửa Chương IV - “Bảo vệ Tổ quốc” với biện giải lố bịch: “Lực lượng vũ trang chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân, theo đó chỉ có chức năng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, chứ không có chức năng bảo vệ Đảng, Nhà nước hay bất cứ tổ chức chính trị nào”; rằng, “Quân đội không chịu sự lãnh đạo của Đảng”. Rõ ràng đây là những luận điểm hết sức phản động, hoàn toàn trái với cơ sở lý luận, thực tiễn. Thế nhưng đáng quan ngại là, không phải ai cũng thấy, trong đó có một số ít người do thiếu thông tin và nhận thức hạn chế đã ngộ nhận, cả tin, thậm chí bị “thuyết phục” bởi những luận điệu tuyên truyền độc hại đó. Cũng không nằm ngoài mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội, họ còn sử dụng thủ đoạn “vàng thau lẫn lộn”, đánh đồng sự hy sinh của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam với binh sĩ quân đội Ngụy quyền Sài Gòn, bằng cách ngụy biện: “họ đều hy sinh vì Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc”, từ đó đòi Nhà nước ta ghi công và cho hưởng chế độ liệt sĩ. Thật nực cười, phi lý! Điều đó cho thấy, các thế lực thù địch không từ bất cứ một thủ đoạn nào hòng đạt cho được mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội. Và, khi không thực hiện được, họ dở chiêu bài bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp uy tín của Quân đội. Cho nên chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình”, nhất là thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, đồng thời gắn liền với đó, xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị là vấn đề đặc biệt quan trọng, cấp thiết hiện nay.

    Thực chất đây là mối quan hệ giữa “bảo vệ và xây dựng”; trong đó, mỗi nội dung có nội hàm riêng, nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau. Khi giải quyết vấn đề này, cần gắn chặt hai nội dung, không được xem nhẹ bất cứ nội dung nào. Sẽ là không đúng, nếu chúng ta chỉ chú trọng một chiều đến yếu tố “bảo vệ”, tức là đấu tranh chống “phi chính trị hóa” quân đội, mà xem nhẹ yếu tố “xây dựng”, mà ở đây là xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị; tương tự như vậy, nếu chỉ xem trọng yếu tố “xây dựng”, mà không quan tâm đúng mức đến yếu tố “bảo vệ” cũng là sai. Phương pháp nghiên cứu, xem xét và giải quyết đúng đắn vấn đề này là, phải trên cơ sở tư duy biện chứng, khoa học; coi trọng giải quyết đồng bộ cả hai nội dung: đấu tranh làm thất bại mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch và đẩy mạnh xây dựng QĐND vững mạnh về chính trị.

TẤT CẢ 54 ANH EM DÂN TỘC ĐỀU LÀ MÁU MỦ, LÀ NGƯỜI VIỆT NAM MÁU ĐỎ DA VÀNG!!!! BẤT CỨ HÀNH VI CHIA RẼ, KỲ THỊ DÂN TỘC ĐỀU ĐÁNG LÊN ÁN!!!

 

Nhiều người trong tư duy, suy nghĩ còn có sự khá là kì thị người đồng bào. Mà chủ yếu là toàn các vùng miền khác không hiểu biết gì về văn hóa, con người ở đây.
Chính những người và suy nghĩ như vậy mới là mầm mống của sự bất ổn, mất đoàn kết.
Văn hóa và con người Tây Nguyên mang đậm tính sử thi, hào hùng núi rừng như tiếng cồng chiêng. Tính cách con người nơi đây rất hiền hậu, thật thà chất phác. Chính vì thế nên mới có chuyện một số người tự nhận họ khôn nên họ chuyên đi "lừa tộc" và coi đó là sự tự hào cho sự khôn lỏi đó.
Cũng như mọi dân tộc khác trên dải đất hình chữ S này, đồng bào Tây Nguyên cũng
đã đổ máu xương, đóng góp công sức to lớn cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính mãnh đất này đã sinh ra những người anh hùng dân tộc vĩ đại như Đinh Núp, Kpă Klơng, N'Trang Lơng, Kpă Ó, Y Buông, "Người lái đò trên sông Pô Cô" - Puih San (A Sanh), Ama Jhao, N'Trang Gưh, Y Jut, Săm Brăm... và hàng vạn những anh hùng Tây Nguyên khác đã ngã xuống cho đất nước được bình yên.
Trong thời bình, nhân dân Tây Nguyên đã cùng toàn Dân tộc ta thi đua giữ gìn trật tự an toàn xã hội, chủ quyền an ninh quốc gia, văn hóa - khoa học - kỹ thuật và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng; luôn tin tưởng và tuân theo vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
Chỉ một bộ phận rất rất nhỏ, một số cá nhân còn thiếu hiểu biết nên mới bị các thế lực phản động lôi kéo, dụ dỗ, thậm chí đe dọa để thực hiện hành vi vi phạm an ninh quốc gia. Và chắc chắn không chờ các bạn ở các vùng miền khác mà chính bản thân người Tây Nguyên hơn ai hết mong muốn pháp luật trừng trị nghiêm khắc những thành phần này, mang lại cuộc sống yên ổn cho buôn làng cũng như toàn vùng.
Tây Nguyên có hai mùa nắng mưa, phong cảnh hùng vĩ, sông ngòi ao hồ dày đặc, đất đai bạt ngàn đỏ ba dan màu mỡ, khí hậu trong lành, mát mẻ, khoáng sản dồi dào, giao thông kết nối liên vùng ngày càng được đầu tư hoàn thiện, đồng bộ và hiện đại như một số tuyến cao tốc chuẩn bị khởi công Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Đăk Nông - Bình Phước... Tạo ra cơ hội phát triển kinh tế to lớn trong tương lai, là vùng đất còn quá nhiều tiềm năng cần khai thác, vậy đây là cơ hội, là vùng đất đầy hứa hẹn hay là vùng đất dữ như trong suy nghĩ của một số bạn!?
Không phải ngẫu nhiên mà Đảng, Nhà nước xác định Tây Nguyên là ĐỊA BÀN CHIẾN LƯỢC về quốc phòng và an ninh, có vai trò quan trọng trong kinh tế xã hội của cả nước. Đăk Lăk là trung tâm vùng Tây Nguyên, là cái lõi của địa bàn chiến lược. Với vị trí và tầm quan trọng như vậy, chắc chắn thời gian tới Tây Nguyên nói chung và Đăk Lăk nói riêng sẽ được đầu tư mạnh hơn nữa để cất cánh.
Với những ai đã từng lên Buôn Ma Thuột thì chắc chắn không nhiều thành phố trong cả nước có thể để lại ấn tượng sâu sắc như nơi này, say cái nắng, say cái gió, say nếp nhà sàn, say hương vị cà phê Ban Mê và hơn hết là say đắm con người hồn hậu nơi đây ngay từ những cảm xúc đầu tiên.
Tây Nguyên luôn thân thiện, gần gũi, bình dị, nhưng cũng không kém sự hùng vĩ, truyền thống xen lẫn hiện đại, luôn chào mừng tất cả du khách từ khắp mọi miền đất nước ghé thăm, đầu tư, định cư và cùng phát triển!
Sau vụ việc đau lòng vừa qua tại huyện Cư Kuin, một lần nữa, chúng ta xin chia buồn đến các gia đình nạn nhân đã ra đi vì vụ việc vừa rồi, quả thực là quá đau lòng!
Người đã hi sinh và có người đã ra đi mãi mãi, những kẻ gây nên tội ác cũng đã bị bắt gần hết và chúng sẽ phải chịu hình phạt thích đáng cho hành vi man rợ của chúng.
Tuy nhiên, chúng ta không vì quá đau lòng, hay căm phẫn mà đánh đồng, gắn tội lên hết những người đồng bảo máu mủ hiền lành lương thiện của đất nước ta như một số thành phần trên mạng xã hội. Không nên kỳ thị và phân biệt họ như những kẻ man rợ kia vì họ là người dân Việt Nam vô tội. Họ cũng lao động và làm việc,họ cũng chiến đấu anh dũng trong các cuộc chiến tranh và cống hiến cho Đất Nước.
Chúng ta không nên “vơ đũa cả nắm” vì như thế là đã đạt được mục đích của các thế lực thù địch luôn muốn chia rẽ khối Đại Đoàn Kết Các Dân Tộc Việt Nam. Chúng ta phải tỉnh táo và cảm thông cho những người đồng bào trên chính quê hương của mình. Họ vô tội. Những kẻ có tội mới đúng là những người chúng ta cần lên án.
Ai trên đất nước ta cũng là Dân tộc cả! Từ "Đồng bào" là để chỉ ra rằng, chúng ta được sinh ra từ cùng một cái bọc như truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân.
Chúng ta, 54 Dân tộc anh em đã cùng nhau sinh sống trên Đất nước này và phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau như lời dạy của CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VĨ ĐẠI. Đừng vì bị kích động mà đánh mất đi sức mạnh Đại Đoàn Kết Các Dân Tộc. Vì đó là truyền thống Quý Báu của Dân Tộc Việt Nam.
Vì thế nên xin tất cả mọi người, hãy yêu nước một cách sáng suốt!
ST

THIẾU TƯỚNG, GIÁO SƯ, VIỆN SĨ TRẦN ĐẠI NGHĨA: "ÔNG VUA" VŨ KHÍ VIỆT NAM

 Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa là nhà khoa học lớn, đại diện xuất sắc cho đội ngũ khoa học Việt Nam. Ông được biết đến với danh hiệu “ông vua” vũ khí, người có công lớn trong việc xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

Ông tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13/9/1913 tại làng Chánh Hiệp, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long). Năm lên 6 tuổi, Phạm Quang Lễ chứng kiến sự ra đi của người cha thân yêu. Lời trăn trối của cha “con phải chăm lo học hành, sau này mang kiến thức của mình ra để giúp ích cho đời” đã theo ông suốt cả cuộc đời. Ông lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ và chị gái. Với tư chất thông minh vượt trội, sau khi kết thúc Đệ nhất cấp trường tỉnh Mỹ Tho, ông lên Sài Gòn theo học trường Trung học Pétrus Ký nổi tiếng. Ông luôn được thầy cô và bạn bè chú ý bởi sự thông minh và trí tuệ khác người.
Năm 1935, ông du học Pháp và sau những năm tháng học tập cần cù, với trí thông minh và nghị lực cao, Phạm Quang Lễ đã nhận được cùng lúc ba bằng đại học: Kỹ sư cầu đường, kỹ sư điện và cử nhân toán học. Sau đó ông học lấy tiếp bằng Kỹ sư hàng không, bằng của Trường mỏ và Đại học bách khoa. Trong 11 năm du học ở nước ngoài, ông đã âm thầm nghiên cứu kỹ thuật, công nghệ và hệ thống tổ chức chế tạo vũ phòng.Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp dự Hội nghị Fontainebbeau. Trong thời gian ở Pháp, Bác Hồ đã thu hút được đông đảo trí thức Việt kiều về nước phục vụ kháng chiến.
Cuộc gặp gỡ giữa ông và Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Paris đã trở thành cuộc gặp gỡ định mệnh làm thay đổi cuộc sống của Phạm Quang Lễ. Rời thủ đô Paris hoa lệ, Phạm Quang Lễ trở về Tổ quốc mang theo tâm nguyện phụng sự đất nước. Trước yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gay go, ác liệt, ngày 5-12-1946, ông được Bác Hồ giao làm Cục trưởng Cục Quân giới với trọng trách là nghiên cứu, chế tạo ra vũ khí để bộ đội ta đánh giặc. Bác nói: “Đây là việc đại nghĩa. Vì thế, từ nay Bác đặt tên cho chú là Trần Đại Nghĩa...”.
Những cống hiến vô giá cho ngành công nghiệp quốc phòngĐảm nhiệm chức Cục trưởng Cục Quân giới trong điều kiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ là một thử thách không nhỏ đối với Trần Đại Nghĩa. Tuy nhiên, với vốn kiến thức tích lũy được trong thời gian học tập ở nước ngoài, cộng với sự thông minh, trí sáng tạo, ông đã nhanh chóng bắt tay vào trực tiếp nghiên cứu và chỉ đạo nghiên cứu sản xuất vũ khí phục vụ cuộc chiến đấu của quân và dân ta.
Trong điều kiện khó khăn và thiếu thốn về nhiều mặt, ông cùng các đồng chí của mình đã chế tạo thành công súng và đạn bazoka, súng đại bác không giật (SKZ), bom bay - những loại vũ khí có trình độ hiện đại của thế giới lúc bấy giờ.
Ngày 3-3-1947 đã trở thành một mốc son của ngành Quân giới Việt Nam trong việc chế tạo khí tài, khi đạn bazoka góp phần bẻ gẫy cuộc tấn công của địch ở vùng Chương Mỹ, Quốc Oai (Hà Tây cũ). Trong chiến dịch Thu Đông năm 1947, bazoka còn bắn chìm cả tàu chiến Pháp trên sông Lô.
Sau đạn bazoka, những năm 1948 - 1949, Trần Đại Nghĩa và các đồng nghiệp trong Cục Quân giới bắt đầu nghiên cứu và chế tạo loại súng có sức công phá mạnh - súng không giật SKZ. Đây là dòng vũ khí hiện đại, mới xuất hiện lần đầu trong trận quân Mỹ đổ bộ lên đảo Okinawa của Nhật Bản hồi cuối chiến tranh thế giới thứ hai.
SKZ Việt Nam xuất trận lần đầu trong trận Phố Lu, đánh phá nhiều lô cốt địch. Năm 1950, tại chiến trường Nam Trung Bộ, trong một đêm, với loại súng không giật này ta đã loại bỏ 5 đồn giặc. Địch hoảng sợ tháo chạy khỏi hàng loạt đồn bốt khác.
Để có thể đánh đòn chí mạng vào các điểm co cụm của địch, Trần Đại nghĩa tiếp tục nghiên cứu và chế tạo thành công loại bom bay tương tự loại V1, V2 của Đức. Bom bay được cấp tốc đưa đến các vùng chiến sự khốc liệt, góp phần làm nên những thắng lợi quan trọng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược..
Trong cuốn sách “Chiến tranh Đông Dương” của Lucien Bodard, xuất bản 1963 tại Paris (Pháp), có viết: “Trước đây, người Việt chỉ có thể đột phá vào đồn bốt bằng cách lấy sức liều mạng. Nhưng bây giờ họ làm việc đó bằng bazoka hoặc SKZ (một loại đại bác không giật do Việt Minh chế tạo). Cái thứ gây khó khăn cho chúng tôi, cái thứ xuyên thủng bê tông dày 60cm là những quả đạn SKZ 8kg mà người Việt chế tạo ở Đông Dương. Chỉ cần vài quả là đủ tiêu diệt tháp canh của chúng tôi”.
Sự ra đời của những vũ khí mang tên Trần Đại Nghĩa đã đưa trí tuệ Việt Nam vươn tới đỉnh cao của nền khoa học thế giới lúc bấy giờ./.
ST


BÀN ĐÁ CHÔNG CHÊNH DỊCH SỬ ĐẢNG

 

Tôi còn nhớ hồi ấy, Già Thu còn làm việc ở một hòn đá kê bên bờ suối ngay dưới hang. Nhưng khi trời chiều, ánh mặt trời bị bóng núi và những tán cây rậm rạp che khuất, đồng chí thường chuyển chỗ làm việc sang bên kia bờ suối cách cửa hầm mấy chục mét. Bàn làm việc là một phiên đá phẳng kê trên mấy hòn đá nữa cho với tầm ngồi, ghế cũng là một phiến đá nhỏ và nhẵn. "Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng" chính nơi đây, Người đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô. Bàn đá kê ngay cạnh suối nên mỗi khi rỗi rãi sau những giờ làm vệc căng thẳng, Người thường ra suối vứt cơm thừa để câu cá. Người đặt tên cho con suối ấy là suối Lênin và ngọn núi cao đối diện, có vóc dáng sừng sững, là núi Các Mác.
Người sống rất giản dị và kham khổ. Nước lá ổi thay chè, cải soong là thức ăn chủ yếu. Ngày ấy đồng bào quanh vùng ăn độn bắp, mọi người trong cơ quan cũng ăn độn bắp. Riêng "Đồng chí già" tuổi cao, sức yếu, chúng tôi mua gạo nấu riêng cho Người ăn, nhưng Người không đồng ý. Có lần bắp non xay để lâu mới ăn đến, bị chua, chúng tôi lại đề nghị Người ăn cơm gạo không, Người vẫn không nghe. Suy nghĩ rất nhanh, Người hỏi bọn tôi:
- Có cách nào làm cho bắp non khỏi bị chua không?
Chúng tôi thưa:
- Nếu rang lên thì có thể ăn được, nhưng không ngon...
- Không ngon cũng được. Thế thì rang lên mà ăn, không nên bỏ phí. Một hạt bắp lúc này cũng quý. Về sau nên phơi khô, rồi hãy xay.
Từ đấy mỗi khi thu hoạch bắp về nhà chúng tôi thành lệ phơi khô rồi mới cho vào cối, do đó bắp để lâu vẫn ăn được. Câu thơ "cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng" chính là ra đời trong thời kỳ này, gian khổ nhưng đầy lạc quan.
Ở đâu, Người cũng luôn luôn tìm mọi cách tự cải thiện đời sống. Thời kỳ ở Pắc Bó không dài, nhưng một vườn rau quả nho nhỏ đã bén rễ, có cả cà chua và ớt (dân vùng chúng tôi trước đó chưa bao trồng ớt). Người còn cùng anh em trong cơ quan câu cá, mò ốc suối. Năm thỉnh mười hoảng, anh em mới ra chợ mua cua nấu bát canh rau ngót rừng, rau cải, hoặc mua một, hai cân thịt lợn, chỗ béo thì lạng riêng rán lấy mỡ ăn dần, còn chỗ nạc thì kho mặn, cô lại như mắm khô để dự trữ gọi là món ăn chiến lược"./.
ST

VIỆT NAM VỚI NỖ LỰC KHÔNG NGỪNG ĐẢM BẢO QUYỀN TỰ DO TÔN GIÁO CHO TOÀN DÂN

 

Vào ngày 4/4 vừa qua, người dân tộc Chăm theo đạo Bàlamôn tại Bình Thuận đã vui mừng kỷ niệm một năm ngày Lễ hội Katê được đưa vào danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia, theo Quyết định số 776/QĐ-BVHTTDL, ngày 4/4/2022 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Tại An Giang, Tháng ăn chay Ramadan 2022 Dương lịch - 1443 Hồi lịch của người Chăm theo đạo Hồi- bắt đầu từ thượng tuần tháng 4 đến tháng 5 (nhằm ngày 2/4 đến ngày 2/5) đã diễn ra với đầy đủ các nghi thức như: Lễ nguyện I’Sha, đọc kinh Qur’an, cầu nguyện hòa bình và nhiều hoạt động xã hội từ thiện, thể thao, văn nghệ giao lưu truyền thống... trong sự tôn trọng của cộng đồng và tạo mọi điều kiện thuận lợi của các cấp chính quyền.
Trong dịp lễ, Trưởng ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo Islam tỉnh đã kêu gọi các tín hữu Islam tiếp tục phát huy tình đoàn kết, luôn đồng hành, gắn bó với các tôn giáo khác và cộng đồng các dân tộc Việt Nam; tích thực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện đúng giáo lý tôn giáo Islam gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Cũng trong tháng 4, tại chùa Ratana Paphia Vararam (chùa Chín Ngàn), xã Vị Bình, huyện Vị Thủy, Hậu Giang, bà con đồng bào Khmer ở xã Vị Bình và xã Vĩnh Trung chuẩn bị thực hiện các nghi thức truyền thống rộn ràng đón Tết Chôl Chnăm Thmây với không khí nhộn nhịp, vui tươi.
Nét mặt phấn khởi, ông Thạch Bích ( ấp 4, xã Vị Bình, huyện Vị Thủy) chia sẻ: “Tết Chôl Chnăm Thmây năm nay, đồng bào Khmer tại địa phương có vụ mùa bội thu, vừa trúng mùa, vừa được giá, chuẩn bị cái Tết tươm tất hơn. Niềm vui càng nhân lên khi chùa Chín Ngàn vừa khánh thành chánh điện mới, bà con có nơi để tập trung sinh hoạt văn hóa nên rất vui."
Vào những ngày lễ, Tết, bà con tập trung về các chùa theo nghi thức cổ truyền của dân tộc Khmer, đảm bảo tổ chức trang nghiêm, đúng pháp luật, an toàn, tiết kiệm và hiệu quả.
Không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng, tâm linh, một số chùa trên địa bàn tỉnh thực hiện tốt công tác giáo dục, chăm lo cho các vị sư sãi bồi dưỡng tiếng Khmer; hỗ trợ các vị sư sãi học bổ túc văn hóa, trung cấp, đại học tại trường trong và ngoài tỉnh nhằm nâng cao kiến thức.
Vào đầu tháng 6, dịp Đại lễ Phật đản Phật lịch 2567-Dương lịch 2023, các cơ sở Phật giáo trên các tỉnh thành toàn Việt Nam được trang trí hết sức trang trọng, sẵn sàng cho việc đón tiếp đông đảo tăng ni, Phật tử, cũng như người dân tham gia Đại lễ.
Thông điệp Đại lễ Phật đản Phật lịch 2567, Hòa thượng Thích Trí Quảng, Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, kêu gọi: Tất cả tăng ni, phật tử cùng nhau dấn thân hơn nữa trên con đường thực hành Bồ tát hạnh như lời Đức Phật đã dạy; nguyện cầu chiến tranh, xung đột chấm dứt, dịch bệnh tiêu trừ, khắp chốn an vui, mưa thuận gió hòa, muôn dân an lạc, đất nước Việt Nam hùng cường thịnh vượng.
Thời gian qua, Giáo hội Phật giáo Việt Nam luôn đoàn kết, hòa hợp, củng cố, mở rộng và trang nghiêm Giáo hội, thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa các thành viên, các hệ phái, các thế hệ; vừa phát huy các giá trị đặc sắc của Phật giáo Việt Nam, vừa mở rộng và tăng cường mối quan hệ đồng đạo, tình đoàn kết giữa Phật giáo với các tôn giáo ở Việt Nam.
Không khí nhộn nhịp náo nức hoan hỷ không chỉ ở mùa Phật đản, dịp lễ Giáng sinh hằng năm tại Việt Nam từ lâu đã trở thành lễ hội của rất nhiều người chung vui, với đồng bào Công giáo ngay từ khi bắt đầu mùa Vọng…
Có thể kể ra rất nhiều các hoạt động tôn giáo đa dạng, phong phú đã và đang diễn ra thường nhật trên lãnh thổ Việt Nam. Những điểm chung của các hoạt động tôn giáo đó là phù hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc Việt, đáp ứng được nhu cầu đời sống tín ngưỡng tinh thần cộng đồng và được pháp luật bảo hộ.
Các tôn giáo cùng tồn tại trong lòng dân tộc
Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo cùng tồn tại trong lòng dân tộc và bình đẳng trước pháp luật. Chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi lãnh đạo cách mạng đã luôn thực hiện nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong từng giai đoạn cách mạng của đất nước, Đảng đã ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật phù hợp, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của nhân dân, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết các tôn giáo để xây dựng và phát triển đất nước.
Ngay sau khi nước nhà độc lập, ngày 03/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ tuyên bố “tín ngưỡng, tự do và lương - giáo đoàn kết.” Quan điểm tư tưởng đó được Đảng, Nhà nước ta thể chế bằng các văn bản pháp luật, để quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ và bảo đảm ngay trên thực tế.
Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14/6/1955 gồm 5 chương, 16 điều, quy định trách nhiệm của Chính phủ trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân và trách nhiệm, nghĩa vụ của chức sắc tôn giáo và tín đồ về hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. Trong đó nêu rõ, “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo như nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý... Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa…”.
Trong tiến trình cách mạng của đất nước, chính sách nhất quán, những nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân được khẳng định trên nguyên tắc Hiến định tại các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.
Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo được hoàn thiện theo hướng tiệm cận luật pháp quốc tế và Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị năm 1966 (ICCPR) mà Việt Nam đã tham gia thành viên, nhằm đảm bảo cho mọi người được thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng tốt hơn trên thực tế và được bảo đảm bằng các văn bản pháp luật như: Pháp lệnh 21/2004/PL-UBTVQH11 quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 22/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo; Chỉ thị 1940/CT-TTg về nhà đất liên quan đến tôn giáo. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.”
Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP và các văn bản pháp luật khác đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Sự nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo đã thực sự tác động tích cực đến đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng nhân dân; thúc đẩy sự phát triển ngày càng phong phú, đa dạng, số lượng chức sắc, người theo đạo, cơ sở thờ tự ngày càng tăng.
Qua con số thống kê được Thạc sỹ Nguyễn Văn Long, Chánh Văn phòng Ban Tôn giáo Chính phủ cung cấp, vào năm 2003, cả nước có 6 tôn giáo 15 tổ chức, với 17 triệu người có đạo, khoảng 20 nghìn cơ sở thờ tự; 34 nghìn chức sắc, 78 nghìn chức việc.
Đến năm 2022, chính quyền đã công nhận 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với trên 27,2 triệu người có đạo, trên 53 nghìn chức sắc, khoảng 148 nghìn chức việc, 29.718 cơ sở thờ tự.
Số lượng chức sắc, chức việc trong tổ chức tôn giáo có vai trò quan trọng trong tổ chức Giáo hội, là người thụ hưởng chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Bên cạnh đó, hằng năm có trên 8.000 lễ hội về tín ngưỡng, tôn giáo, với hàng vạn người theo đạo tham gia. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo được khuyến khích, tạo điều kiện tham gia các hoạt động an sinh xã hội, từ thiện xã hội, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Các tổ chức tôn giáo có trên 500 cơ sở khám chữa bệnh, trên 800 cơ sở bảo trợ xã hội, với 300 trường mầm non...
Từ năm 2018-2021, đã cấp phép xuất bản 2.027 ấn phẩm với trên 7 triệu bản in, trong đó có nhiều xuất bản phẩm được dịch ra tiếng Anh, Pháp, tiếng dân tộc và có 25 tờ báo, tạp chí của các tôn giáo đang hoạt động…
Đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo là động lực phát triển
Có thể nói, chưa bao giờ các tôn giáo có điều kiện hoạt động thuận lợi như hiện nay. Quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng. Chức sắc, chức việc, tín đồ ngày càng đông. Cơ sở thờ tự ngày càng khang trang, việc sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam được công khai theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo tăng cường giao lưu, học tập, trao đổi các đoàn với các tổ chức tôn giáo trên thế giới.
Từ năm 2011 đến nay, khoảng 2.000 lượt cá nhân tôn giáo đã xuất cảnh tham gia khóa đào tạo ở nước ngoài, tham dự hội thảo, hội nghị quốc tế liên quan đến tôn giáo. Đồng thời, gần 500 đoàn nước ngoài, với hơn 3.000 lượt người vào Việt Nam để trao đổi, giao lưu, hướng dẫn tại cơ sở thờ tự, tham dự các sự kiện tôn giáo do các tổ chức tôn giáo Việt Nam tổ chức như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3 lần đăng cai Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc VESAK, với trên 1.000 đại biểu quốc tế đến từ 120 quốc gia, vùng lãnh thổ, cùng hàng vạn quần chúng nhân dân tham dự; Lễ hội của Công giáo, Tin Lành như: Đại hội đồng Giám mục Á châu; Lễ 100 năm Tin Lành đến Việt Nam.
Bên cạnh đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Điều này đáp ứng kịp thời với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ, số lượng người nước ngoài làm việc tại Việt Nam ngày càng tăng, trong đó có một bộ phận là tín đồ tôn giáo.
Hiện cả nước có 67 điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại địa bàn các tỉnh, thành phố, chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh (41 điểm nhóm), thành phố Hà Nội (13 điểm nhóm) với sự tham gia của hàng trăm người có quốc tịch từ nhiều nước (Hàn Quốc, Philippines, Singapore, Malaysia, Nga, Mỹ, Pháp,...).
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Đảng, Nhà nước chủ trương xóa bỏ mặc cảm, định kiến, không phân biệt đối xử về thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tôn trọng ý kiến khác nhau, không trái với lợi ích đất nước, lợi ích dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, vì sự ổn định, phát triển của đất nước.
Mỗi khi Đảng có chủ trương, quan điểm mới về tôn giáo, Nhà nước kịp thời thể chế bằng những văn bản pháp luật để đưa vào thực tiễn. Đảng, Nhà nước ta cũng kịp thời chấn chỉnh để công tác tôn giáo đi vào nền nếp, đúng hướng, tạo sự tin tưởng của chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo.
Để xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần đã khẳng định “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước như ngày nay,” là do sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, trong đó có sự đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quốc hội khóa XV, có 5 vị chức sắc trúng cử đại biểu (trong đó có 4 chức sắc tôn giáo là đại biểu Quốc hội khóa XIV tái cử; 1 chức sắc ứng cử lần đầu); 88 chức sắc, chức việc và 35 tín đồ các tôn giáo trúng cử đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh; 225 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và 246 tín đồ trúng cử đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp huyện; 646 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và trên 5.000 tín đồ trúng cử đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp xã nhiệm kỳ 2021-2026, là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và tích cực tham gia các hội, đoàn thể khác như Hội Người cao tuổi Việt Nam; Hội Bảo trợ người Khuyết tật và Trẻ mồ côi Việt Nam, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam...
Trong 10 năm thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm hécta đất để xây dựng cơ sở thờ tự như: Thành phố Hồ Chí Minh đã giao 7.500m2 đất cho Tổng Liên hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây dựng Viện Thánh kinh thần học. Tỉnh Đắk Lắk giao hơn 11.000m2 đất cho Tòa Giám mục Buôn Ma Thuột. Thành phố Đà Nẵng giao hơn 9.000m2 đất cho Tòa Giám mục Đà Nẵng. Tỉnh Quảng Trị giao thêm 15ha cho Giáo xứ La Vang. Năm 2022, chính quyền các cấp đã cấp phép xây dựng, sửa chữa, cải tạo cho 486 cơ sở thờ tự tôn giáo, tăng 60 cơ sở so với năm 2021; cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho 183 điểm nhóm; cấp quyết định xuất bản cho 140 xuất bản phẩm, với trên 684,2 nghìn bản in.
Các hoạt động phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, chức việc; các hoạt động thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; sửa đổi hiến chương, điều lệ; đăng ký chương trình hoạt động hàng năm... theo đúng quy định của pháp luật; chấp thuận cho 646 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; 3.238 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc; 424 chức việc các tôn giáo được thuyên chuyển theo đúng Hiến chương, điều lệ…
Phản bác các luận điệu xuyên tạc về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Thế nhưng, thế lực xấu chưa bao giờ từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình,” lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, móc nối với số bất mãn chế độ, có tư tưởng định kiến với Đảng, Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, quy chụp những điều không có thật, yêu cầu thả người “đấu tranh cho tự do tôn giáo”...
Chúng xuyên tạc quy định “việc đăng ký điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung” trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là nhằm “kìm kẹp hoạt động tôn giáo.” Chúng lợi dụng những vấn đề xã hội về ô nhiễm môi trường, về công tác cán bộ, công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước Việt Nam để xuyên tạc quan điểm, chủ trương, chính sách pháp luật của Việt Nam, với mục tiêu gây rối loạn lòng dân, gieo rắc thị phi trong chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo, gây sự hoài nghi, giảm sút niềm tin của chức sắc tôn giáo và tín đồ quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Từ một số vụ việc nổi cộm của đời sống có liên quan đến lĩnh vực tôn giáo, các thế lực thù địch, phản động đã lồng ghép yếu tố chính trị, kích động người dân bất hợp tác với chính quyền, tham gia biểu tình, gây ra điểm nóng tôn giáo, vu cáo Nhà nước Việt Nam đàn áp tôn giáo, ngăn cấm xây sửa cơ sở thờ tự, cản trở hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của các chức sắc, chức việc, nhà tu hành.
Ở nước ngoài, một số hội nhóm, cá nhân người Việt lưu vong thông qua các trang mạng thường xuyên đăng tin, bài vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tự do tôn giáo; kích động nhân dân mà trước hết là tín đồ tôn giáo đấu tranh “đòi tự do tôn giáo,” “tự do nhân quyền;” viết thư ngỏ kêu gọi các tổ chức chính trị, cá nhân trong và ngoài nước lên tiếng can thiệp...
Những luận điệu nói trên là đi ngược lại thực tế đã và đang diễn ra tại Việt Nam. Trong những năm qua, với sự khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo phát huy nguồn lực tham gia các hoạt động an sinh xã hội của Nhà nước Việt Nam, các tổ chức tôn giáo đã chi hàng nghìn tỷ đồng cho hoạt động của các cơ sở giáo dục, cơ sở y tế, cơ sở bảo trợ xã hội và các hoạt động từ thiện nhân đạo, đồng thời tích cực tham gia cùng chính quyền địa phương trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh.
Trong những năm dịch COVID-19 hoành hành, các tổ chức tôn giáo đã chung tay cùng với chính quyền, với nhân dân không phân biệt tôn giáo nào trong công cuộc chống bệnh dịch cũng như trong công cuộc xây dựng phục hồi kinh tế xã hội sau đại dịch.
Sự chung sức, đồng lòng của toàn dân, của các cấp chính quyền từ địa phương đến trung ương đã đem lại những thành quả tích cực trong phát triển và phục hồi kinh tế của Việt Nam-được quốc tế đánh giá cao và nhận định Việt Nam là “một trong những điểm sáng phục hồi kinh tế của khu vực, là hình mẫu thành công trong phòng chống dịch bệnh, đóng vai trò tiên phong trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cam kết chuyển đổi năng lượng.”
Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) vừa diễn ra tại Thiên Tân, Trung Quốc, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính đã được mời phát biểu tại Đối thoại Chiến lược Quốc gia Việt Nam và Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) với chủ đề: "Thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới để kiến tạo tương lai đất nước" với sự tham gia của Giáo sư Klaus Schwab-Chủ tịch WEF, ông Borge Brende-Giám đốc Điều hành WEF cùng khoảng 50 lãnh đạo các tập đoàn toàn cầu là thành viên WEF.
Đây là hoạt động đối thoại quốc gia duy nhất được WEF tổ chức trong khuôn khổ hội nghị, nhằm chia sẻ kinh nghiệm của Việt Nam như một hình mẫu về phục hồi kinh tế và đang đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tạo cơ hội để trao đổi về những định hướng, chính sách và môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
Vào ngày 9/3/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông và 4 Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam đã ra mắt Sách Trắng: “Tôn giáo và Chính sách Tôn giáo ở Việt Nam.” Cùng với thực tiễn sinh động đang diễn ra, Sách Trắng “Tôn giáo và Chính sách Tôn giáo ở Việt Nam” cung cấp những thông tin cơ bản về tôn giáo, chính sách tôn giáo, thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Sách Trắng: “Tôn giáo và Chính sách Tôn giáo ở Việt Nam” cũng nêu những thách thức cần vượt qua và những hướng ưu tiên nhằm thúc đẩy việc thụ hưởng ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, tiếp tục góp phần giúp thế giới và người dân hiểu rõ và đầy đủ về chính sách tôn giáo, đời sống tôn giáo ở Việt Nam.
Đồng thời, Sách Trắng: “Tôn giáo và Chính sách Tôn giáo ở Việt Nam” chính là căn cứ xác thực giúp bác bỏ những luận điệu xuyên tạc về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam; cung cấp thông tin để người dân tỉnh táo nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, vu khống với ý đồ xấu, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, âm mưu gây bất ổn xã hội, chống phá chế độ… của các thế lực thù địch.
Tại Họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao tổ chức ngày 29/4 vừa qua, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam về việc Báo cáo của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ năm 2021 lên án Việt Nam tiếp tục vi phạm tự do, tôn giáo, tín ngưỡng, Phó Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Đoàn Khắc Việt nêu rõ: "Việt Nam ghi nhận việc Báo cáo Tình hình Tự do Tôn giáo Thế giới năm 2021 của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ đã đề cập đến những nỗ lực và tiến triển tích cực trong việc đảm bảo và thúc đẩy đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam.
Tuy nhiên, báo cáo vẫn còn một số nội dung đánh giá thiếu khách quan, không công bằng dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình tôn giáo tại Việt Nam."
“Việt Nam sẵn sàng trao đổi với phía Hoa Kỳ về các vấn đề mà hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau, đóng góp vào việc thúc đẩy Quan hệ Đối tác Toàn diện giữa hai nước,” Phó Phát ngôn viên Đoàn Khắc Việt bày tỏ.
Phó Phát ngôn viên Đoàn Khắc Việt khẳng định: Nhà nước Việt Nam luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức tôn giáo tiến hành giao lưu, hợp tác quốc tế. Thực tiễn đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hết sức phong phú và sinh động. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân, được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi.
Chính sách nhất quán của Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Những điều này đều được quy định rõ ràng trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và được đảm bảo tôn trọng trên thực tế: hiện nay, ước tính 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó trên 25 triệu người theo các tôn giáo khác nhau, chiếm khoảng 27% dân số; riêng công giáo có trên 7 triệu người, tin lành có trên 1 triệu tín hữu.
Đồng thời, Phó Phát ngôn viên Đoàn Khắc Việt cũng nhấn mạnh: "Tại Việt Nam, các hành vi lợi dụng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng để vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo pháp luật!"./.
ST