Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2023

Giá trị hiện thực của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 Giá trị hiện thực của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên nền tảng của Cuộc cách mạng công nghiệp được thực hiện trước tiên ở nước Anh (vào cuối thế kỷ XVIII), đánh dấu bước chuyển biến từ nền sản xuất thủ công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trước hết là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản – một lực lượng chính trị độc lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội. Cuộc đấu tranh đó đã đặt ra yêu cầu khách quan: phải có lý luận dẫn đường. Và, chủ nghĩa Mác ra đời để đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng thời, chính thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản đã trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và không ngừng bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chủ nghĩa Mác.

Gần hai thế kỷ kể từ khi C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng đầu tiên tại nước Đức, được V.I. Lênin kế tục và phát triển tại nước Nga, điều đó càng khẳng định tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bởi, nó không những chỉ ra bản chất bóc lột, phơi bày bản chất sâu xa, những mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại trong lòng chế độ tư bản - nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, mà còn dự báo chính xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Đồng thời, vạch ra cho giai cấp vô sản phương pháp cách mạng để giải phóng giai cấp, đưa xã hội loài người tiến lên.

Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các phong trào yêu nước, các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đều bị thất bại vì không có đường lối phù hợp. Điều đó đặt ra yêu cầu khách quan, cấp thiết là phải khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước. Từ thực tiễn đó, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam; trong đó, tập trung trước hết vào việc thành lập một chính đảng để lãnh đạo cách mạng. Và ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời, đánh dấu một sự kiện đặc biệt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ điều kiện đặc thù của xã hội Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã giải quyết sáng tạo và thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ phong kiến, thực dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Thành tựu phát triển toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời kỳ đổi mới đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Điều đó khẳng định tầm vóc, ý nghĩa, giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, nhằm thực hiện mưu đồ thay đổi đường hướng chính trị ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng trên mọi phương diện, bằng mọi biện pháp, hòng phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin trong giai đoạn hiện nay; làm phai nhạt niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với mục đích cuối cùng là xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi đời sống chính trị - tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng bằng các luận điệu xuyên tạc, công kích, chống phá rất đa dạng:

Về tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Các thế lực thù địch sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau để phủ nhận, xuyên tạc. Trước hết, họ phủ nhận tài năng kiệt xuất của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin; đồng thời, cho rằng: C. Mác và V.I. Lênin là những nhà xã hội duy tâm, siêu hình và không tưởng; học thuyết Mác chỉ là sự sao chép sống sượng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh và triết học cổ điển Đức; là sản phẩm lai tạo hỗn hợp mang tính chủ quan, áp đặt được tua lại nhiều lần. Đây là sự xuyên tạc vô căn cứ và có chủ đích của các thế lực thù địch. Cần thấy rằng, tính khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin được đúc rút, khái quát nhờ tài năng kiệt xuất của cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin trong thực tiễn hoạt động chính trị sôi động của các ông. Nhờ đó mà các ông đã  tạo ra bước ngoặt cách mạng trong lý luận, xác lập một thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong xem xét và cải tạo hiện thực, từ đó xây dựng nên Học thuyết của mình. Nhìn vào thực tiễn lịch sử, nếu không có những bộ óc vĩ đại, với một thế giới quan khoa học, cách mạng thì không thể đáp ứng được đòi hỏi của lịch sử.

Đối với những quan điểm, nguyên lý có tính chất nền tảng, là những phát kiến vĩ đại của chủ nghĩa Mác – Lênin, họ tập trung xuyên tạc hòng hạ thấp, phủ nhận các nội dung: học thuyết hình thái kinh tế - xã hội; học thuyết giá trị thặng dư; học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Họ còn phê phán quan điểm của C.Mác về luận điểm đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội; cho rằng: những luận điểm này làm nghèo đi những hình thức tiến hóa của xã hội, khuyến khích hận thù, cổ vũ cho chiến tranh, độc quyền, độc đoán, mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp liên miên không phù hợp với xu thế của thời đại, do đó không thể thúc đẩy xã hội phát triển, v.v. Các thế lực thù địch, phản động không chỉ tìm cách phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin về mặt lý luận mà dựa vào sự sụp đổ của mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu (trong thập niên 80 và 90 của thế kỷ XX), họ rêu rao: đó là do sự sai lầm của chủ nghĩa Mác – Lênin, cho nên đó là sự sụp đổ đã báo trước. Đây là thể hiện của nhận thức phiến diện, thiếu khách quan và khoa học trước sự vận động và phát triển của các mô hình xã hội. Nói về sự sụp đổ, tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, chúng ta coi đó là một tổn thất to lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng không phải là tất yếu và càng không phải là sai lầm của học thuyết Mác. Nguyên nhân chính, trực tiếp, có tính quyết định dẫn đến sự tan rã đó là do những sai lầm trong đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức và cán bộ của Đảng Cộng sản cầm quyền, cùng sự phản bội của một số lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”. Do đó, đây chỉ là sự sụp đổ một mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể, không đồng nghĩa với “sự cáo chung của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội” như xuyên tạc, phủ nhận của các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao.

Về vai trò của chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam, họ dựa vào bối cảnh thời gian, không gian ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin để phủ nhận, xuyên tạc với luận điệu: chủ nghĩa Mác – Lênin không nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn đầy đủ, nó chỉ phù hợp với các nước châu Âu; trong khi đó, ở châu Á có sự phát triển kinh tế khác, có trình độ văn hóa, cùng phong tục, tập quán khác các nước châu Âu. Do vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin đối với Việt Nam chỉ là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống, văn hóa dân tộc, việc vận dụng vào Việt Nam là khiên cưỡng. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra những quy luật vận động chung của lịch sử loài người và các ông cũng đều nhấn mạnh việc vận dụng những quy luật chung ấy vào điều kiện cụ thể của mỗi nước cũng phải có những cải biến trong những vấn đề chi tiết cho phù hợp với đặc điểm của quốc gia, dân tộc. Bản thân các ông cũng không hề coi lý luận của mình là tối cao, tuyệt đỉnh, mà cần phải có sự bổ sung, phát triển, cụ thể hóa vào từng điều kiện lịch sử cụ thể: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Còn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: trong quá trình vận dụng những quy luật chung, những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác – Lênin, của chủ nghĩa cộng sản, phải chú ý đến đặc thù của dân tộc mình. Người khẳng định: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Do đó, việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn.

Về vai trò và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác – Lênin, các thế lực thù địch cho rằng: chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời vào thế kỷ XIX trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (động cơ hơi nước), nền sản xuất dựa trên máy móc cơ khí nên chỉ hợp với thời điểm đó, cùng lắm là thế kỷ XX, còn hiện nay loài người đã chuyển mình sang Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa, tin học hóa, thời đại “hậu công nghiệp”, kinh tế - xã hội có rất nhiều đổi thay, vì vậy hiện nay chủ nghĩa Mác – Lênin không còn phù hợp. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống tri thức thuộc ngành khoa học xã hội, khoa học nhân văn. Vì thế, nó mang đặc trưng tích lũy, kế thừa, chứ không mang đặc trưng thay thế như những tri thức thuộc ngành khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và khoa học, công nghệ hiện đại ngày nay vốn không thể xóa bỏ được những mâu thuẫn cố hữu của chủ nghĩa tư bản là “bóc lột”; ngược lại, nó làm cho những mâu thuẫn đó càng thêm sâu sắc. Điều này được biểu hiện cụ thể trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại, như: mâu thuẫn giữa tư bản và người lao động vẫn tồn tại và gia tăng, khoảng cách giàu - nghèo mở rộng, phân phối của cải không công bằng, nạn thất nghiệp tăng lên, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội trở nên trầm trọng, v.v. Điều đó càng chứng tỏ thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là đúng đắn và có ý nghĩa thời đại như thực tiễn đã và đang minh chứng: Cải cách chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc (từ năm 1978), đổi mới ở Việt Nam (từ năm 1986) và các quá trình tương tự ở các nước xã hội chủ nghĩa khác được triển khai với các nguyên tắc đúng đắn; vừa toàn diện, đồng bộ; vừa có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, giải pháp phù hợp; vừa kiên định và sáng tạo, kế thừa và phát triển, gắn lý luận với thực tiễn, gắn quốc gia với thế giới. Nhờ vậy, Trung Quốc đã trở thành cường quốc có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới. Việt Nam đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; Cuba hiên ngang trước bao vây cấm vận, kiên định xây dựng quốc gia xã hội chủ nghĩa độc lập, có chủ quyền, dân chủ, thịnh vượng và bền vững; các nước xã hội chủ nghĩa khác đều có nhiều thành công trong xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội. Đây thật sự là một quá trình cải cách, đổi mới thành công cả về tư duy lý luận, nhận thức, tầm nhìn và thực tiễn, chủ trương, chính sách, khẳng định xung lực của chủ nghĩa xã hội trước mọi sóng cồn, gió cả của thời cuộc.

Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động sử dụng thủ đoạn tấn công trên nhiều phương diện. Họ xuyên tạc rằng, Hồ Chí Minh không có tư tưởng riêng, mà chỉ là ảo tưởng do Đảng Cộng sản nghĩ ra. Hơn thế, họ còn đưa ra luận điệu: tư tưởng Hồ Chí Minh không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay và cho rằng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến đấu tranh dân tộc, theo chủ nghĩa dân tộc nên chỉ có giá trị trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc chứ không có giá trị đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đây là sự xuyên tạc vô căn cứ, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử của Việt Nam, đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin với giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan khoa học, cách mạng, sinh động, giàu tính thực tiễn, có giá trị dẫn đường cho thành công của cách mạng Việt Nam.

Thực hiện mưu đồ phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động tiến hành thủ đoạn vô cùng nham hiểm, đó là tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là một thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc, nhằm làm đứt gãy từng bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ biện luận rằng: chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ phù hợp với phương Tây, còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Điển hình là việc Hồ Chí Minh không bao giờ “bê nguyên xi” chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà đều có sự thay đổi. Do đó, các thế lực thù địch ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua chủ nghĩa Mác – Lênin” hay “chỉ cần chủ nghĩa Mác – Lênin là đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam”. Họ còn cho rằng: “chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, thiên về đấu tranh giai cấp, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đề cao đoàn kết và thống nhất; Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh”. Việc tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở để các thế lực thù địch, phản động tiến thêm một bước nữa đòi lấy tư tưởng Hồ Chí Minh thay thế cho chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam. Từ đó, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam và cũng gián tiếp phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định rằng: tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác – Lênin ở bản chất khoa học và cách mạng, ở lý tưởng và mục tiêu nhân văn vì con người, vì giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại. Về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác – Lênin chứ không hề có sự khác biệt, đối trọng nhau như những luận điệu của thế lực thù địch rêu rao. Có được điều đó là do chính Hồ Chí Minh đã tìm đến chủ nghĩa Mác – Lênin, nghiên cứu, kế thừa, phát triển lên tầm cao mới, vận dụng phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.

Giá trị và ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với nhân loại nói chung và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng là không thể phủ nhận. Do vậy, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu, nhiệm vụ tất yếu khách quan, đòi hỏi phải kết hợp giữa kiên định và phát triển; trung thành và vận dụng sáng tạo; giữa lý luận và thực tiễn; giữa tổng kết với bổ sung, phát triển; giữa bảo vệ và đấu tranh, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin luôn và mãi là nền tảng tư tưởng vững chắc của các đảng cộng sản cầm quyền, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga luôn soi đường cho Cách mạng Việt Nam

 Ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga luôn soi đường cho Cách mạng Việt Nam

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định giá trị lịch sử to lớn, ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga và lãnh tụ V.I. Lênin đối với thế giới nói chung, cho dân tộc Việt Nam nói riêng.

Năm 1967, nhân kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài: “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc” trên Báo Pravda (Sự thật) của Liên Xô. Người tiếp tục khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”, đồng thời nhấn mạnh: “Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”.

Sau cách mạng dân chủ Tư sản tháng Hai năm 1917, ở Nga tồn tại tình trạng hai chính quyền song song, một bên là Chính phủ lâm thời tư sản và một bên là Xô viết, các đại biểu công nhân và binh sĩ, đứng đầu là Xô viết Pê-tơ-rô-grát. Trước tình hình đó, V.I. Lênin và Đảng Bôn-sê-vích đã xác định cách mạng Nga là chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tháng 4/1917, V.I. Lênin về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Nga. Đêm 24/10/1917 theo lịch cũ nước Nga (tức đêm 6/11/1917), khởi nghĩa vũ trang nổ ra ở Thủ đô Pê-tơ-rô-grát.

Ngày 25/10/1917, các lực lượng khởi nghĩa đã làm chủ tình hình ở Thủ đô Pê-tơ-rô-grát, trừ Cung điện Mùa Ðông và một vài nơi. Tới 2 giờ 10 phút rạng sáng 26/10/1917, Cung điện Mùa Ðông được giải phóng, các bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời bị bắt giữ. Cuộc khởi nghĩa vũ trang tại Pê-tơ-rô-grát kết thúc thắng lợi. Ngày 7/11/1917 đã được ghi vào lịch sử là ngày thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại.

Cách mạng Tháng Mười Nga là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của thế kỷ XX, đánh dấu một mốc mới trong lịch sử phát triển của nhân loại. Nó đã xóa bỏ các giai cấp bóc lột, tư sản, địa chủ và chế độ người bóc lột người, đưa giai cấp vô sản bị áp bức, bóc lột nặng nề thành giai cấp đứng đầu và làm chủ xã hội; giải phóng nhân dân lao động, đưa người lao động từ thân phận nô lệ trở thành chủ nhân của đất nước.

Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đã dẫn tới sự ra đời nhà nước xã hội chủ nghĩa - Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trong lịch sử loài người và làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực trong đời sống chính trị thế giới. Đồng thời, mở ra một bước ngoặt căn bản trong lịch sử loài người, từ thế giới tư bản chủ nghĩa sang thế giới xã hội chủ nghĩa, mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga đánh đổ chủ nghĩa đế quốc ở ngay “chính quốc”, đồng thời đánh vào hậu phương của nó là các nước thuộc địa của Nga Hoàng, mở ra thời kỳ vùng dậy không gì ngăn cản được của các dân tộc bị áp bức, giành độc lập, tự do, làm lay chuyển hậu phương rộng lớn của chủ nghĩa đế quốc thế giới.

 

Với dân tộc Việt Nam, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước cách mạng đều bị thất bại vì không có đường lối cứu nước đúng đắn. Giữa lúc đó, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sau gần 10 năm bôn ba tìm con đường cứu nước đã tiếp thu được ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười. Tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc sớm nắm bắt được cốt lõi trong tư tưởng của V.I. Lênin: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.

Luận cương đã giải đáp cho Người về con đường giành độc lập dân tộc và tự do cho đồng bào Việt Nam mà Người đang kỳ công tìm kiếm. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc đi đến nhận thức rõ ràng về con đường giải phóng dân tộc của Việt Nam. Người khẳng định rằng, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đó là con đường gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa xã hội, gắn cách mạng Việt Nam với xu thế thời đại.

Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3/2/1930), Đảng đã khẳng định đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng soi đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, với đường lối đúng đắn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; từ đó xây dựng và phát triển đất nước ta ngày một đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

 Từ những giá trị Cách mạng Tháng Mười Nga, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững

Kế thừa những giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười Nga, ngay từ khi bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt tinh thần đổi mới trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội. Đó vừa là tư tưởng, vừa là sự lựa chọn cách thức, bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng để từng bước hiện thực hóa con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

 Hơn 90 năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn mang tính bước ngoặt lịch sử; kiên định sự nghiệp đổi mới, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và coi đó là một vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng tư tưởng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”. Đó cũng chính là khẳng định phương hướng, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo những giá trị thời đại khởi nguồn từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

Xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

 

Xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại, phát triển tất yếu; là truyền thống của dân tộc ta qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời là quy luật của mọi cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay. Tuân thủ quy luật và kế thừa bài học truyền thống đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng nền quốc phòng Việt Nam – xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam vững mạnh toàn diện là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ Tổ quốc “từ xa, từ sớm”.

Tư tưởng Quân sự Hồ Chí Minh là một vấn đề quan trọng trong hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là hệ thống các quan điểm về chỉ đạo hoạt động quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng Việt Nam vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Quân sự Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo, kế thừa truyền thống nghệ thuật quân sự của dân tộc và tiếp thu tinh hoa nghệ thuật quân sự của nhân loại thông qua bản lĩnh Hồ Chí Minh.

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh có cội nguồn từ tư tưởng chính trị, vì mục tiêu chính trị. Điều đó được khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập: “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh tiếp thu truyền thống hòa hiếu và nhân nghĩa của ông cha. Cho nên trong quan điểm về sử dụng bạo lực cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ tinh thần tự vệ dân tộc: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng”; “đánh giặc phải có quân đội”. Quan điểm về bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo và hòa bình, khác xa với tư tưởng hiếu chiến, tàn bạo của quân xâm lược. Người luôn nhắc nhở: Nhân dân ta buộc phải cầm súng để tự vệ, nhưng chúng ta không coi đánh tiêu diệt là con đường duy nhất để kết thúc chiến tranh, mà dùng “mưu phạt, tâm công”, coi trọng binh vận, địch vận, tranh thủ đàm phán hòa bình, đánh bại ý chí xâm lược.

Ghi nhớ công ơn của tiền nhân, trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội, ngày 19 tháng 9 năm 1954, tại Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ Đại đoàn quân Tiên phong: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam thành một đội quân cách mạng vững mạnh về mọi mặt, từng bước chính quy hiện đại. Trong đó, Người chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị - tinh thần vì đó là nền tảng để xây dựng quân đội; quan tâm xây dựng tinh thần dân chủ, kỷ luật, đoàn kết cho bộ đội; xây dựng quân đội thực sự là quân đội của dân, do dân, vì dân.

Sức mạnh “bách chiến bách thắng” của quân đội Việt Nam có cội nguồn và được tăng lên gấp nhiều lần là từ Nhân dân: “Lớp cha trước, lớp con sau, đã thành đồng chí chung câu quân hành”; thế hệ này tiếp tới thế hệ khác lần lượt lên đường tòng quân. Biết bao thế hệ những người mẹ, người vợ, người chị, người em đã tiễn những người con, người chồng, người anh, em yêu quý nhất của mình cho cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử đã khắc sâu dấu ấn về sức mạnh vĩ đại của những người dân luôn quyết tâm cao nhất để “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”…

Tất cả là nhờ có tư tưởng của Người luôn soi sáng: “dân như nước, mình như cá, lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân”; “nhân dân là nền tảng, là cha mẹ bộ đội”. Đồng thời, sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối sáng suốt của Đảng đối với quân đội là một nhân tố quan trọng để tạo nên sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng. Bác nói: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”.

Trong xây dựng lực lượng vũ trang, “Người trước, súng sau” là quan điểm đặc biệt quan trọng của ồ Chí Minh, cần luôn nhận thức sâu sắc và thực hiện.

Lẽ đương nhiên ai cũng biết rằng: con người và vũ khí tạo nên sức chiến đấu của lực lượng vũ trang. Nhưng với Hồ Chí Minh thì: “vũ khí là cần nhưng con người vác vũ khí, sử dụng vũ khí là quan trọng hơn” - con người là nhân tố quyết định.

Lấy việc bồi dưỡng xây dựng con người là chính yếu, Người luôn nhắc cán bộ, chiến sĩ ra sức phấn đấu để có phẩm chất và năng lực toàn diện: “một quân đội văn hay, võ giỏi là một quân đội vô địch”; “tư tưởng vững, chính trị vững, kỷ luật khá, thân thể khỏe mạnh thì nhất định thắng”.

 “Trí là phải có óc sáng suốt để suy xét địch cho đúng”. Trong chiến đấu, các nhà chỉ huy quân đội không chỉ đấu sức mà còn đấu trí; nếu chỉ có dũng mà không có trí thì hy sinh cũng là vô ích; người làm chỉ huy phải biết mình, biết người, biết thời, biết thế; phải biết tổ chức huấn luyện để binh sĩ có sự đúng đắn trong nhận thức và hành động; biết linh hoạt, quyền biến.

“Dũng là không nhút nhát, phải can đảm, dám làm những việc đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh”. Biết bình tĩnh trước hiểm nguy, dám chịu trách nhiệm trước những điều đã quyết định.

"Nhân là biết thương yêu nhân dân, thương yêu chiến sĩ, biết thắng địch bằng nhân nghĩa. Đối với địch hàng thì phải biết khoan dung”. Bác đã từng nhấn mạnh: quân đội cần có “Mãnh tướng”. “Hổ tướng”, nhưng quân đội Việt Nam cần có nhiều “Nhân tướng” vì mục tiêu của nền quốc phòng Việt Nam là vì con người, do con người nhằm bảo vệ nền hòa bình và độc lập, tự do.

“Tín là phải làm cho người ta tin mình”; Tín là tự tin vào sức mình nhưng không phải là tự cao. Muốn vậy phải biết giữ uy tín, phẩm hạnh.

“Liêm là giữ kỷ luật nghiêm minh, có lối sống trong sạch, giản dị, không tham của, không tham sắc, không tham danh vọng”. “Trung là trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với nhân dân, với cách mạng và với Đảng”. Người làm chỉ huy phải thực sự gương mẫu về mọi mặt. Người chỉ huy về quân sự, cũng như về chính trị phải làm kiểu mẫu; phải giữ đạo đức của quân nhân; phải hết sức gần gũi, thương yêu, chăm sóc chiến sĩ.

Trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần chú trọng vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, với những nội dung, gồm:

 

- Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng đối với quân đội. Chú trọng công tác xây dựng Đảng trong quân đội. Đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm nền tảng để nâng cao sức mạnh toàn quân. Bác nói: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”. Đấu tranh kiên quyết để làm thất bại âm mưu, hoạt động diễn biến hòa bình, “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch.

- Phải gìn giữ phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” theo tinh thần Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương ban hành về phát huy phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ", kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới.

- Củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân; đảm bảo giữ vững mối quan hệ hai chiều để xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận Quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; luôn ghi nhớ và thực hành lời của Bác thường nhắc nhở: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Quân dân đoàn kết, là đường thành công”.

- Quân đội phải phối hợp với Công an chặt chẽ, nhịp nhàng trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và giữ gìn trật tự an ninh của Tổ quốc: “Công an và quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng, của Chính phủ, của vô sản chuyên chính. Vì vậy, càng phải đoàn kết chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, ra sức phát triển ưu điểm, khắc phục những tư tưởng không đúng”.

Kiên quyết bảo vệ, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng

 Bảo vệ, giữ vững nguyên tắc TTDC là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta và sự tồn vong của chế độ XHCN ở Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực hiện nay, trước sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, để bảo vệ, giữ vững nguyên tắc TTDC trong tổ chức và hoạt động của Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên những vấn đề cốt lõi về nguyên tắc TTDC, làm cơ sở để đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch về nguyên tắc TTDC của Đảng 

Nguyên tắc TTDC chỉ có thể được bảo vệ và giữ vững khi nhận thức của cán bộ, đảng viên về nguyên tắc TTDC được nhận thức đúng đắn, quán triệt sâu sắc. Thực tiễn các vụ việc vi phạm bị xử lý vừa qua đã cho thấy, bất kỳ tập thể, cá nhân nào, dù là ai, ở cương vị nào, nếu cố tình nhận thức không đúng, hành động không chuẩn mực, chấp hành không nghiêm, vi phạm nguyên tắc TTDC thì đều phải “trả giá” đắt cho những sai phạm của tập thể hoặc của cá nhân đó. Hơn nữa, nguyên tắc TTDC có nội dung và phạm vi rất rộng. Áp dụng nguyên tắc này trong thực tế nếu không nắm chắc, hiểu sâu sẽ rất dễ dẫn đến vi phạm, tạo cơ sở để các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị xuyên tạc, kích động mâu thuẫn, làm biến dạng nguyên tắc. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc TTDC: TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, nguyên tắc này chỉ đạo mọi hoạt động xây dựng tổ chức, sinh hoạt và lãnh đạo của Đảng, đồng thời cũng chi phối các nguyên tắc tổ chức và hoạt động khác của Đảng.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị “về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới.

Tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập nắm vững các quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương về thực hiện nguyên tắc TTDC; nghiên cứu làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc TTDC trong tình hình mới, làm cho mọi cán bộ, đảng viên hiểu đúng, nắm chắc bản chất TTDC.

Đồng thời, cũng cần tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên hiểu thấu rằng, tùy tình hình, nhiệm vụ của Đảng trong từng thời kỳ, cách thực hiện và phạm vi áp dụng nguyên tắc TTDC có sự khác nhau, nội dung chi tiết của nguyên tắc TTDC có sự điều chỉnh nhất định, nhưng bản chất và nội dung cơ bản của nguyên tắc không bao giờ thay đổi.

Hai là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc TTDC trong Đảng

Các thế lực thù địch, phản động và đối tượng cơ hội chính trị không có cớ để lợi dụng xuyên tạc, trong Đảng cần thực hiện nghiêm túc nguyên tắc TTDC.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa mở rộng dân chủ và tăng cường kỷ cương trong Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần nhận thức đầy đủ về mở rộng, phát huy dân chủ và tăng cường kỷ cương xã hội là vấn đề có tính nguyên tắc; dân chủ và kỷ cương trong Đảng là hạt nhân, có ý nghĩa quyết định thực hiện dân chủ và kỷ cương trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy dân chủ, gương mẫu, tự giác chấp hành nghiêm minh kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật và các quy định của cơ quan, đơn vị.

Thực hiện nghiêm tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong cơ quan lãnh đạo của Đảng. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là một nội dung của nguyên tắc TTDC. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung”(6); “lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”(7). Vì vậy, thực hiện tốt chế độ này có ý nghĩa rất quan trọng, là điều kiện để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của các cơ quan lãnh đạo đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần quán triệt và thực hiện tốt các quy chế, quy định, nhất là quy chế làm việc của cấp ủy, cơ chế kiểm soát quyền lực, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với người đứng đầu; chế độ bảo lưu ý kiến của thiểu số, từng bước xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân, bảo đảm sự lãnh đạo của tập thể và đề cao trách nhiệm cá nhân, hạn chế các sai phạm. Các cán bộ lãnh đạo đảng cần tự giác thực hiện tốt các các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp; nghiêm túc tự phê bình và phê bình, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật và quy định của cơ quan, đơn vị.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; xử lý nghiêm minh, kịp thời những tổ chức đảng, đảng viên vi phạm nguyên tắc TTDC; kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch. Đại hội XIII của Đảng đã xác định: nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Do đó, cấp ủy và ủy ban kiểm tra của cấp ủy các cấp và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng phải nắm vững quan điểm, quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Xây dựng và tổ chức thực hiện có chất lượng, hiệu quả chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát trong nhiệm kỳ và hằng năm; coi trọng khâu nắm tình hình, giám sát hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu; chủ động ngăn ngừa, phát hiện, kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm. Xử lý nghiêm minh tổ chức đảng và đảng viên vi phạm nguyên tắc TTDC và những hành vi dung túng, bao che khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên.

Nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc TTDC với nhiều hình thức, phương pháp sáng tạo, thiết thực, hiệu quả, nhất là trên không gian mạng và internet. (trích TCCS)

Không thể phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng; là tiêu chí để phân biệt chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các đảng khác. Đảng ta đã khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(1). Thực hiện tốt nguyên tắc TTDC là vấn đề thuộc về bản chất của Đảng Cộng sản. Vì thế, không thể phủ nhận nguyên tắc TTDC.

Dù nghiên cứu ở góc độ nào, nhìn nhận ở bình diện nào, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy, TTDC là một nguyên tắc thống nhất, không thể tách rời, càng không thể đối lập giữa tập trung và dân chủ. Tập trung trên cơ sở dân chủ, nhưng dân chủ phải hướng tới tập trung, thống nhất, có sự lãnh đạo để bảo đảm tập trung. Dân chủ là điều kiện, tiền đề của tập trung, tập trung là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được thực hiện và phát huy.

V.I.Lênin viết: “chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(2). Vì vậy, nếu tuyệt đối hóa tập trung sẽ dẫn đến quan liêu, chuyên quyền, độc đoán; ngược lại, tuyệt đối hóa dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng, vô tổ chức, vô kỷ luật. Cả hai biểu hiện trên đều không đúng bản chất của nguyên tắc TTDC và làm giảm sức mạnh của Đảng.

Nguyên tắc TTDC thuộc bản chất xuyên suốt của Đảng. Vì vậy, không thể phân biệt nguyên tắc này phù hợp hay không phù hợp trong giai đoạn chiến tranh hay hòa bình. Bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào, TTDC luôn là nguyên tắc rường cột của Đảng. Nguyên tắc này không ngừng được bổ sung, phát triển phù hợp với sự vận động, phát triển của tình hình cách mạng. Trong điều kiện hòa bình hiện nay cũng không thể lấy sai phạm cá biệt của một số tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là trong thực hiện nguyên tắc TTDC để phủ nhận bản chất của Đảng, giá trị của nguyên tắc TTDC. Ai đó, kẻ nào đó còn cho rằng tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên đều bắt nguồn từ việc TTDC không còn phù hợp với thời bình thì người đó, kẻ đó đang cố tình xuyên tạc, bôi đen, suy diễn sai trái nguyên tắc TTDC. (trích TCCAS)

Nhận diện các quan điểm sai trái phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng

 Trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị luôn dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hòng phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ (TTDC) của Đảng, phá vỡ sự đoàn kết, thống nhất, chặt chẽ về mặt tổ chức và hoạt động của Đảng, làm cho Đảng tan rã cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ hòng thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng.

Để thực hiện âm mưu này, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, núp bóng dân chủ, đội lốt nhân quyền rêu rao cho rằng: tập trung và dân chủ là hai mặt không thể thống nhất, đã tập trung thì không thể có dân chủ, đã dân chủ thì không thể tập trung, tập trung với dân chủ như lửa với nước, nên hoặc chỉ có tập trung, hoặc chỉ có dân chủ (!).

Thực chất các luận điệu này là muốn tách rời, đối lập tập trung và dân chủ nhằm phủ nhận một mặt nào đó để Đảng dẫn tới dân chủ vô chính phủ, khi đó sự chặt chẽ, thống nhất trong tổ chức và hoạt động của Đảng bị phá vỡ, Đảng mất sức chiến đấu, uy tín của Đảng bị giảm sút, không còn đủ sức lãnh đạo cách mạng, Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo.

Trong bối cảnh đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị cho rằng: nguyên tắc TTDC chỉ phù hợp khi Đảng còn hoạt động bí mật hoặc trong điều kiện chiến tranh, nay thời bình, nguyên tắc đó là lỗi thời, không còn phù hợp, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn tới trì trệ, tiêu cực (!). Điều nguy hiểm hơn, họ lợi dụng những khuyết điểm, sai phạm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những vụ việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực để đổ lỗi cho những khuyết điểm, hạn chế đó đều do nguyên tắc TTDC không còn phù hợp.

Lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm, nhất là khi Đảng ta đẩy mạnh thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với quan điểm “không có vùng cấm”, “không có trường hợp ngoại lệ” đã xử lý nghiêm nhiều cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng sai phạm, làm trong sạch Đảng, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã xuyên tạc, bóp méo sự thật, quy chụp, đánh đồng hiện tượng thành bản chất. Họ cho rằng, tham nhũng là bản chất của Đảng, là hệ quả của thực hiện nguyên tắc TTDC, là lợi ích nhóm, lợi ích của cán bộ, đảng viên. Họ cho rằng: chống tham nhũng là để thanh trừng phe cánh chứ không phải là để làm cho Đảng sạch hơn, mạnh hơn.

Sự thật hoàn toàn trái ngược: trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhiệm vụ chống tham nhũng được coi là phương thuốc chữa bệnh đặc hiệu, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Với quan điểm “xử một người, cứu muôn người”, “chặt cành để cứu cây”, Đảng sẽ thật sự trong sạch, thật sự xứng đáng với sứ mệnh lịch sử và trọng trách mà nhân dân giao phó. “Cuộc đại phẫu” này tuy đau đớn, nhưng cần thiết và được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Chưa khi nào uy tín của Đảng được nâng cao như ngày nay. Vì vậy, những luận điểm đánh lận bản chất, bôi đen mục tiêu của Đảng cần phải được nhận diện và đấu tranh. (trích TCCS) 

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

 

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

Sinh ra trong một gia đình nhà nho trọng việc học, bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng là một nhà giáo. Người luôn quan tâm tới công tác giáo dục và đào tạo, coi "giáo dục là cốt sách hàng đầu", đồng thời, có những tư duy mới mẻ, đi trước thời đại về giáo dục.

Đánh giá cao vai trò của giáo dục đối với sự hưng thịnh của đất nước, với nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, coi đây là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, ngay những ngày đầu thành lập nước, ngày 15/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bức thư tới các cháu học sinh nhân ngày khai trường, gửi gắm tình cảm, sự tin yêu và hy vọng vào thế hệ tương lai của đất nước “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.

Cũng trong suốt những năm tháng lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định “không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa”, do đó giáo dục đào tạo là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Người chủ trương xây dựng một chương trình giáo dục toàn diện bao gồm đức, trí, thể, mỹ, đồng thời nhấn mạnh “cần chú trọng hơn nữa về mặt đức dục”, giáo dục trước hết là giáo dục đạo đức, bởi theo Người, “người tài mà không có đức là người bỏ đi”.

Để đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò của các thầy giáo, cô giáo, đánh giá cao sứ mệnh của người thầy: “Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh...”. Ðể làm tròn sứ mệnh vẻ vang ấy, người thầy giáo phải có phẩm chất tốt. Bác nhắc nhở: “Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức… Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ con”. Bản thân Người đã từng là một nhà giáo. Năm 1910, sau khi thôi học tại trường Quốc học Huế, người thanh niên Nguyễn Tất Thành không cùng cha trở về Huế mà quyết thực hiện ý định "Đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Người đã dạy học ở Trường Dục Thanh – Phan Thiết khoảng 4-5 tháng, sau đó mới vào Sài Gòn để thực hiện cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Tại trường Dục Thanh, thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy học một số môn, nhưng theo các nhà nghiên cứu, việc dạy học của Người ở đây không đơn thuần là dạy chữ mà lồng vào đó tinh thần yêu nước cho các học trò của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh giáo dục phải dạy cho người học cách tự học, học tập suốt đời, “lấy tự học làm cốt”, “Nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được. Không tiến bộ là thoái bộ. Xã hội càng đi tới, công việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà không chịu khó học thì lạc hậu, mà lạc hậu thì bị đào thải, tự mình đào thải mình”. Không chỉ bằng lời nói, chính bản thân Người thông thạo 7 ngoại ngữ (Pháp, Anh, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) và nhiều ngoại ngữ, tiếng dân tộc khác bằng cách tự học. Sau này, khi trên cương vị cao nhất của Nhà nước, dù bận trăm công nghìn việc, tuổi cao, sức khỏe giảm sút, Bác vẫn luôn không ngừng tự học tập, tìm hiểu tri thức, không ngừng truyền đạt, truyền bá tri thức tới cán bộ, nhân dân và những người xung quanh. Người chính là tấm gương sáng về tinh thần tự học và học tập suốt đời.

Trong khi đất nước vẫn còn trong thời kỳ non trẻ, một phần đất nước còn trong vòng nô lệ, người dân “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”, nhưng tư tưởng về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mang tính đi trước, mở đường, mang tính thời đại. Việc đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau khi đánh “giặc đói” là đánh “giặc dốt”, tức là nâng cao dân trí. Ngày nay, nhân loại đang bước vào một nền văn minh trí tuệ, một nền kinh tế tri thức thông qua việc đẩy mạnh xã hội học tập. Thực tế cũng chỉ ra rằng, xã hội càng phát triển, thì tri thức càng trở nên quan trọng và là thế mạnh của các quốc gia, nhiệm vụ của giáo dục là tạo nên những thế hệ công dân có tri thức, có đạo đức, biết tự học, tự trang bị kiến thức, kỹ năng. Và trong nền kinh tế tri thức, ưu thế không hoàn toàn lệ thuộc vào các nhân tố truyền thống như tài nguyên, đất đai, nhân công,… mà nhân tố có ý nghĩa quyết định là chất xám, là trí tuệ con người. Những nước giàu mạnh đều là những nước có nền giáo dục hiện đại, được đầu tư bài bản và có chiều sâu, là những nước có nền kinh tế tri thức phát triển. Việc cạnh tranh sự giàu mạnh của các nước cũng thể hiện ở nền kinh tế tri thức.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn tạo nên một xã hội văn minh, ở đó con người phải có tri thức, có đạo đức, văn minh, sống và làm việc theo pháp luật. Người đã thấy được bản chất của việc dạy và học là muốn hiệu quả, thực chất, phải tập trung phát triển năng lực sẵn có của người học đó là huấn luyện khả năng tư duy của con người, phát huy năng lực riêng có của mỗi người. Với tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “một nền giáo dục đào tạo ra những công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có” của người học. Người phát hiện, khơi gợi và phát huy năng lực đó, không ai khác đó chính là ngành giáo dục. Ngày nay, ngành giáo dục Việt Nam cũng đang phải chuyển đổi các mô hình giáo dục linh hoạt, đáp ứng nhu cầu của người học, có những mô hình học chuyên biệt để người học lựa chọn cho phù hợp năng lực, sở thích, sở trường của mình; mô hình giáo dục chuyên sâu.

Sự phát triển của tư duy và đòi hỏi gắt gao từ thực tiễn

Việc học tập, làm theo Bác không phải đến bây giờ Đảng ta mới đặt ra, mà đó là một hành trình mang tính hệ thống, thể hiện sự phát triển tư duy lý luận của Đảng và những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam qua từng thời kỳ. Ngay sau khi Bác mất, trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9-9-1969 đã thể hiện sắt son lời thề: “Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người...”.

Từ đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và kiều bào yêu nước khắp nơi trên thế giới đã ghi nhớ khát vọng “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trải qua mỗi giai đoạn lịch sử, cách mạng dân tộc đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới, việc học tập, làm theo Bác cũng đòi hỏi có sự phát triển, bổ sung những nội dung, yêu cầu mới. Đó là sự phát triển tất yếu của tư duy biện chứng.

Trong 17 năm qua, kể từ khi Bộ Chính trị khóa X ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đến nay, việc học tập và làm theo Bác không ngừng được điều chỉnh, bổ sung nội dung, hình thức, giải pháp thực hiện. Đảng ta đã cụ thể hóa sự phát triển tư duy lý luận và đáp ứng yêu cầu gắt gao từ thực tiễn của đất nước bằng các nghị quyết, chỉ thị, kết luận... Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc ban hành, triển khai thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận 01 đã thể hiện yêu cầu ngày càng cao đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Kết luận 01 chỉ rõ: Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Bác, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật. Việc thực hiện Chỉ thị 05 gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nhiệm vụ chính trị và giải quyết các khâu đột phá, các vấn đề cấp bách, bức xúc còn lúng túng, hiệu quả chưa cao...

Công tác đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ; tự phê bình và phê bình có nơi, có lúc còn hình thức; tình trạng thiếu tự giác nhận khuyết điểm, đổ lỗi, nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi...

Với phương châm kết hợp chặt chẽ “xây” và “chống”, sắp tới chắc chắn sẽ còn nhiều cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong hệ thống chính trị bị xử lý kỷ luật, lôi ra trước ánh sáng công lý. Đặc biệt là hiện nay, khi hoạt động của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh tiếp tục được củng cố, đẩy mạnh, số lượng cán bộ, đảng viên suy thoái, tham nhũng bị kiểm tra, điều tra, xử lý ở các cấp chắc chắn sẽ còn nhiều thêm.

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ tiếp tục diễn ra cam go, phức tạp, nhưng với tinh thần kiên trì, quyết liệt, không có vùng cấm, “lấy xây để chống”, chúng ta có niềm tin son sắt vào thắng lợi của Đảng.

Vấn đề cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị các cấp cần có là sự nhận thức thấu đáo, đầy đủ, sâu sắc bản chất của vấn đề bằng phép tư duy biện chứng. Tuyệt đối không tư duy kiểu “hớt váng” dẫn đến nghe theo, hùa theo, làm theo những luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch và phần tử cơ hội. Cán bộ, đảng viên có nhận thức thấu đáo, đầy đủ thì mới có cơ sở vững chắc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện ngày càng sâu rộng, hiệu quả việc học tập và làm theo Bác. Tinh thần “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” cần được củng cố, tiếp lửa thường xuyên, liên tục bằng “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”... không để đứt gãy vì bất cứ lý do gì, bất cứ hoàn cảnh nào. (trích báo QĐND)

Không để đứt gãy tinh thần “xây” và “chống”

Để hiểu rõ những chuyển biến tích cực và kết quả đạt được sau 2 năm thực hiện Kết luận 01 cũng như thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện. Trước hết, đó là tinh thần, phương châm chỉ đạo kết hợp “xây” và “chống”.

Kết luận 01 nêu rõ nhiệm vụ: “Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn”.

Quá trình quán triệt, tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận 01 cần thấy rõ: Đảng ta đã đặt ra yêu cầu vừa khái quát, vừa cụ thể về việc phải gắn chặt, kết hợp việc học tập, làm theo Bác với thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp; trong đó có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái trong nội bộ. Như vậy, kết quả học tập, làm theo Bác cần phải được thể hiện cụ thể thông qua hành động, việc làm, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Nói cách khác, nó phải được lượng hóa cụ thể trên thực tế.

Trong các hội nghị chuyên đề và quá trình tiếp xúc cử tri, rất nhiều lần các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta đã lưu ý, việc có nhiều cán bộ suy thoái, tham nhũng bị điều tra, xử lý không phải là “càng chống càng sai”, “càng học càng kém”... mà bản chất của vấn đề là do càng ngày chúng ta càng làm mạnh, làm quyết liệt việc đấu tranh, chỉnh đốn đội ngũ theo tinh thần không có vùng cấm. Trước đây, ít có vụ việc bị xử lý không phải là không có tham nhũng, tiêu cực, mà bởi lúc đó công tác đấu tranh chưa quyết liệt như hiện nay nên việc phát hiện, xử lý tiêu cực chưa hiệu quả.

Với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “trị một người để cứu muôn người” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh, chúng ta cần thấy rõ, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái là những biểu hiện vô cùng tinh vi, vô cùng khó khăn để có thể lôi ra ánh sáng công lý. Chủ nghĩa cá nhân như sâu mọt đục khoét bên trong thân cây.

Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tiêu cực gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo Bác với tinh thần “lấy xây để chống” thời gian qua đã lôi ra được hàng loạt cán bộ suy thoái trong nội bộ Đảng. Đó là thành tựu của cuộc đấu tranh đầy cam go, phức tạp và không ít “hy sinh”. Thành tựu đó đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, ngày càng đạo đức, văn minh để xứng đáng với niềm tin và sự gửi gắm của nhân dân.

Cần phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

 Cần phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, để lãnh đạo “phong trào cách mạng lôi cuốn hàng ức hàng triệu người”, để vượt qua “muôn loại phức tạp, khó khăn” và “để cân nhắc mọi hoàn cảnh phức tạp, nhìn rõ các mâu thuẫn, để giải quyết đúng các vấn đề, thì chúng ta càng phải cố gắng học tập lý luận Mác - Lênin”. Với ý nghĩa đó, Người không chỉ đặc biệt quan tâm đào tạo lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và đào tạo cán bộ lý luận chính trị, mà còn đồng thời khẳng định đó là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của Đảng Mácxít - Lêninnít.

1. "Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong"

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã từ một người yêu nước trở thành một người cộng sản, và không dừng ở đó, Người còn là một lãnh tụ mácxít. Thấm nhuần quan điểm của V.I. Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” và “chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”, Người không chỉ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, mà còn làm phong phú, đóng góp vào kho tàng lý luận Mác - Lênin. Một trong những thành công của Người là đưa chủ nghĩa Mác - Lênin/một học thuyết cách mạng, khoa học, hiện đại đến với những người Việt Nam yêu nước, để soi đường, dẫn lối nhằm “hành động đúng” thông qua những bài giảng tại lớp Huấn luyện chính trị cho những thanh niên Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, Trung Quốc (sau được Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông xuất bản thành Đường Kách mệnh năm 1927); thông qua những bài viết của Người đăng trên tờ báo Thanh Niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên về những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, về Đảng Cộng sản, Quốc tế Cộng sản, các tổ chức Thanh niên, Phụ nữ; về phương pháp vận động quần chúng,v.v...

Ánh sáng lý luận của học thuyết cách mạng “chân chính nhất, chắc chắn nhất và khoa học nhất”/chủ nghĩa Mác - Lênin cùng phong trào “vô sản hóa” đã góp phần làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới; đưa phong trào công nhân phát triển từ tự phát lên tự giác, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Thành công của quá trình truyền bá, sự thâm nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; thành công của Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam mùa Xuân năm 1930 đã khẳng định sự cần thiết phải trang bị lý luận Mác - Lênin cho những người Việt Nam yêu nước. Và như thế, với việc giảng dạy, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ trang bị cho những “hạt giống đỏ” của cách mạng Việt Nam lý luận cách mạng tiên tiến của thời đại, để họ có lý luận dẫn đường, mà còn đồng thời đào tạo lớp “cán bộ lý luận chính trị” đầu tiên, cốt cán của Đảng.

Trong những năm sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trên cơ sở thấu hiểu sâu sắc vai trò của lý luận, sự cần thiết phải có lý luận soi đường và từ thực tế phong trào cách mạng trong nước “vì thiếu kiến thức lý luận, buộc các đồng chí ấy phải mò mẫm từng bước, luôn luôn vấp váp vì thiếu thốn”, Người đã đề nghị việc khắc phục những khó khăn đó bằng cách “tạo điều kiện cho các đồng chí tiếp thụ được những kiến thức sơ đẳng nhất mà mỗi chiến sĩ đều phải có”[2]. Đồng thời, Người cũng đề nghị xuất bản những cuốn sách nhỏ, đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu viết về Tuyên ngôn cộng sản, Đảng Cộng sản và các tổ chức của Đảng, Lịch sử Quốc tế Cộng sản, các tổ chức Thanh niên, Công hội, về Mác, Ăngghen, Lênin,v.v.. để làm tài liệu huấn luyện lý luận chính trị, giúp những người cộng sản Việt Nam nâng cao trình độ lý luận, để “có sức mạnh định hướng, sự sáng suốt dự kiến tương lai, kiên định trong công tác và lòng tin ở thắng lợi của sự nghiệp của chúng ta” như Xtalin từng nói.

Có thể khẳng định rằng, với một Đảng Mácxít - Lêninnít thì việc học tập lý luận chính trị nói chung, lý luận Mác - Lênin nói riêng là công việc “cần kíp của Đảng”. Bởi đó không chỉ là vũ khí tinh thần quan trọng, rất cần thiết của những người cách mạng, mà còn giúp những họ có thế giới quan khoa học, phương pháp làm việc biện chứng, có đạo đức cách mạng sáng ngời để quy tụ, lãnh đạo quần chúng, xứng đáng với vai trò tiền phong. Và cũng vì thế, việc đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, lý luận Mác - Lênin cho đội ngũ cán bộ, đảng viên cấc cấp chính là nhằm nâng cao sự giác ngộ lý tưởng cách mạng, củng cố niềm tin chân lý để mỗi người và đặc biệt là đội ngũ những người làm công tác lý luận của Đảng bản lĩnh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cơ sở khoa học của học thuyết Mác - Lênin.

2. Đảng phải “không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên”

Là Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, để kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, thường xuyên học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để không chỉ “hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp” mà còn phải vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của đất nước để hoàn thành được trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó. Đặc biệt, trong học tập lý luận chính trị nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng, mỗi cán bộ, đảng viên phải chú trọng học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình “để làm việc, làm người, làm cán bộ” đúng, nghiêm, tốt như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, chứ không phải là học “thuộc làu làu” , để “khoe mẽ”...

Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên, nhất là những người làm công tác lý luận/cán bộ lý luận không chỉ lấy lý luận Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình, không chỉ phải kiên định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn phải nhận thức sâu sắc vai trò, nhiệm vụ của mình. Đó là, luôn “phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình… Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất” để không ngừng tích lũy, làm giàu tri thức, trình độ lý luận của mình bằng “những điều hiểu biết quý báu các đời trước để lại”; đồng thời học tập một cách sáng tạo, linh hoạt kinh nghiệm của các nước anh em để làm tốt công tác Đảng giao phó cho mình và nhất là phải tu dưỡng đạo đức cách mạng để vừa hồng, vừa chuyên.

Cùng với đó, quán triệt sâu sắc nguyên tắc không thể để những người làm công tác lý luận, cán bộ lý luận không theo kịp sự phát triển của tình hình và nhiệm vụ, nhất là “thiếu hụt về lý luận”, “chậm về lý luận”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu Đảng phải có kế hoạch huấn luyện chặt chẽ, chu đáo, tổ chức và lãnh đạo sâu sát, tỉ mỉ công tác huấn luyện chính trị và “không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện”. Đồng thời, thấm nhuần những chỉ dẫn của V.I.Lênin: "Không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không làm công tác lý luận..., cũng như không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không hướng công tác đó theo những nhu cầu của sự nghiệp" và nhất là “vì trình độ lý luận thấp kém cho nên đứng trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm”, nhà trường được giao thực hiện nhiệm vụ quan trọng này chính là Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).

Cũng theo lời Người, “Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”, cho nên việc cán bộ, đảng viên sao nhãng/lười/học chiếu lệ/học hình thức/học đối phó về lý luận chính trị cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin chính là một trong những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Thực trạng những biểu hiện này sau đó đã được Đảng ta nêu rõ trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ”…

Để có một đội ngũ cán bộ lý luận đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, ngoài việc đào tạo theo quy chuẩn ở hệ thống các trường chính trị, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài theo trường lớp; hoặc vừa đào tạo, bồi dưỡng theo trường lớp vừa được rèn luyện trong thực tế, thì quá trình tự đào tạo của mỗi cán bộ, đảng viên cũng rất quan trọng. Nâng cao trình độ lý luận chính trị không chỉ là quá trình học tập ở mọi lúc, mọi nơi, theo kế hoạch, theo trường, lớp, theo bài bản, có hệ thống từ thấp đến cao mà còn là học từ những thành công và qua những lần thất bại trong công tác hằng ngày, gắn lý luận với thực tiễn, để rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân mình, để qua đó tự bồi dưỡng và cập nhật tri thức lý luận cho bản thân mỗi người.

Với ý nghĩa đó, việc mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc rằng lý luận cách mạng không giáo điều, chủ nghĩa Mác - Lênin một học thuyết mở và thực tiễn cách mạng thì phong phú, sinh động, nên trong hoạt động thực tiễn vừa phải vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, vừa phải tự làm giàu tri thức, nâng cao trình độ lý luận của mình bằng việc thường xuyên bổ sung những lý luận mới rút ra từ thực tiễn là rất quan trọng. Chỉ có như vậy, mỗi người cán bộ, đảng viên mới vừa có đủ bản lĩnh, trí tuệ để xứng đáng với vai trò lãnh đạo/cầm quyền của mình, vừa là những người “phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc” để quy tụ, hấp dẫn quần chúng; đồng thời, tìm ra những vấn đề có tính quy luật của cách mạng, khắc phục được những sai lầm trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn.

3. “Kiên định vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người luôn gắn lý luận với thực tiễn, dùng kinh nghiệm trong thực tiễn để bổ sung cho lý luận. Cuộc đời Người là một mẫu mực của nhà lý luận - thực hành, sâu sát thực tiễn. Người biểu đạt lý luận thông qua những bài nói, bài phát biểu, bài viết ngắn gọn của mình (với hơn 1.500 bài, với hơn 170 bút danh khác nhau) và Người đi thăm các địa phương, cơ sở khoảng 700 lần (trong vòng 10 năm, từ 1955-1965), để từ thực tiễn bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời qua đó kiểm nghiệm lý luận. Và thực tế là, thế giới có thể luôn biến động, song “trong mọi biến đổi cũng có một số điều quan trọng không hề thay đổi. Đó là lý tưởng xã hội chủ nghĩa, các tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa, tự do, dân chủ và công bằng xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà yêu nước vĩ đại, người theo chủ nghĩa quốc tế đã cống hiến trọn đời mình cho những lý tưởng đó”.

Từ di sản Người để lại, yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc cán bộ, đảng viên phải gắn lý luận với thực tiễn, phải thấm nhuần và quán triệt sâu sắc rằng ‘thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”;  “việc học tập lý luận của các đồng chí không phải nhằm biến các đồng chí thành những người lý luận suông, mà nhằm làm thế nào cho công tác của các đồng chí tốt hơn”; “nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận” và “dùng lý luận đã học được để phân tích những thắng lợi và thất bại trong công tác”,v.v.. càng khẳng định tầm quan trọng của việc phải “học tập lý luận là một sự bức thiết đối với Đảng ta như thế nào”.

Đặc biệt, kể từ khi “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động” được khẳng định trong văn kiện từ Đại hội VII của Đảng đến nay; được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), thì yêu cầu đào tạo lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; việc vận dụng sáng tạo, có hiệu quả lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cuộc sống cùng những thành tựu lý luận mới cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo những chỉ dẫn của Người càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Càng nhiều khó khăn, thử thách, những người cộng sản Việt Nam càng nhận thức rõ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là thế giới quan, phương pháp luận khoa học nền tảng để không chỉ nhận thức thức đúng mà còn hành động đúng nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn đương đại đặt ra, góp phần vào những thành tựu đạt được của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới và hội nhập. Tri thức khoa học về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ cần phải được giảng dạy và học tập một cách khoa học, nghiêm túc trong hệ thống các học viện, trường chính trị các cấp; hệ thống các trường đại học, cao đẳng… để trở thành tri thức nền tảng vững chắc với mỗi cán bộ, đảng viên, sinh viên…, mà đó còn là đòi hỏi vừa khách quan, vừa chủ quan để kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Không thể tư duy kiểu “hớt váng”

Sau 2 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW (gọi tắt là Kết luận 01), trong quá trình tổ chức hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm, thực tiễn ở nhiều cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị các cấp ghi nhận không ít ý kiến băn khoăn. Một trong những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm đặt ra là: Tại sao Đảng ta càng đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì số lượng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật càng nhiều? Tại sao ở một số bộ, ngành, địa phương, mặc dù người đứng đầu mỗi lần đăng đàn phát biểu trong các hội nghị liên quan đều hô hào phải đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực, suy thoái, nhưng chỉ mới “dăm bữa nửa tháng” đã vướng vòng lao lý?

Một số cán bộ vừa mới hôm qua lên diễn đàn thuyết giảng đạo lý, hôm sau đã phải tra tay vào còng? Phải chăng, thực trạng đó chứng minh, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chỉ là hình thức, kém hiệu quả, trước hết là ở ngay trong hệ thống chính trị, ngay trong hàng ngũ cán bộ cấp cao? Phải chăng cán bộ càng được học cao, vi phạm càng nhiều...

Những vấn đề được một bộ phận dư luận xã hội đặt ra như trên một phần xuất phát từ những thông tin do các thế lực thù địch xuyên tạc, lèo lái. Thành tựu của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp luôn là đề tài được các đối tượng cực đoan, bất mãn có tư tưởng thù địch khai thác, thực hiện các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước trên không gian mạng.

Họ bám vào các vụ việc tiêu cực, các cán bộ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống bị xử lý kỷ luật đảng, truy tố trước pháp luật để suy diễn, xuyên tạc, phủ nhận thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; bóp méo, bôi đen tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thông tin sai trái, xấu độc trên không gian mạng đã tác động đến tâm lý, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng, dẫn đến kiểu tư duy “hớt váng”, thấy hiện tượng mà không hiểu bản chất; thấy cây mà không thấy rừng... (trích báo qdnd )

Từ cách mạng Tháng mười Nga đến cách mạng tháng Tám ở Việt Nam – Những sáng tạo vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

 Từ cách mạng Tháng mười Nga đến cách mạng tháng Tám ở Việt Nam – Những sáng tạo vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

1. Ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga

Cách mạng tháng Mười Nga mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển nhân loại, đánh dấu một xu thế phát triển tất yếu, một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Nói về ý nghĩa của cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc viết: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Cách mạng tháng Mười thực hiện sứ mệnh giải phóng quần chúng lao động khỏi mọi chế độ áp bức bóc lột, đưa họ từ thân phận người nô lệ làm thuê lên địa vị người chủ chân chính của xã hội. Với cách mạng tháng Mười Nga, lần đầu tiên trong lịch sử quyền tự quyết của các dân tộc đã được thực hiện trên một phần hành tinh; đem lại nhà máy cho công nhân, ruộng đất cho nông dân, hòa bình và hữu nghị cho các dân tộc, tự do, hạnh phúc cho mọi người. Dưới ảnh hưởng to lớn của Cách mạng Tháng Mười và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống trên thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh cho tiến bộ hoà bình, được Cách mạng Tháng Mười thức tỉnh, cổ vũ, đã trở thành những làn sóng to lớn trong thế kỷ XX. Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga tác động to lớn đối với sự phát triển của cách mạng thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đầu năm 1919, Quốc tế thứ Ba được thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với khuynh hướng cơ hội hữu khuynh và chủ nghĩa sô-vanh của Quốc tế thứ hai.

2. Nguyễn Ái Quốc vận dụng sáng tạo những giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga

Khi nhân dân Nga tiến hành cách mạng vô sản thành công thì nhân dân Việt Nam vẫn đang chìm đắm trong đêm dài nô lệ. Với truyền thống yêu nước bất khuất, nhân dân Việt Nam không ngừng vươn lên đấu tranh chống đế quốc và tay sai, song, các phong trào yêu nước theo đường lối phong kiến hoặc theo khuynh hướng tư sản đều thất bại vì không đáp ứng được nguyện vọng của đa số quần chúng nhân dân lao động.

Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc, sau hơn 10 năm bôn ba tìm con đường cứu nước đã đến với ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, ánh sáng của cách mạng tháng Mười. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Người viết: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng ( công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Tháng 7-1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc sớm nắm bắt được cái cốt lõi trong tư tưởng của Lênin là: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Luận cương đã vạch ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, giải đáp cho Người về con đường giành độc lập dân tộc và tự do cho đồng bào Việt Nam mà Người đang kỳ công tìm kiếm. Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!" . Người đã có những nhận xét rất sâu sắc, toàn diện về cách mạng Tháng Mười Nga: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới” .

Từ những thành công của cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới - cáchmạng tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc đã phát triển những nguyên lý cách mạng tiến bộ đó vào cách mạng tháng Tám của Việt Nam. Người tìm ra chân lý về con đường giải phóng của dân tộc, khẳng định muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin , những bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng vượt qua nhiều khó khăn, liên tục giành được những thắng lợi to lớn.

Những định hướng cơ bản từ cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng mạng Tháng Tám - cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là:

Trước hết, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo

Nguyễn Ái Quốc khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành công: “Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công” . Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được Mác, Ăng ghen, Lê-nin khẳng định và trong Cách mạng Tháng Mười Nga, Lênin đã vận dụng rất thành công. Nhận thức về sứ mệnh của Đảng, ngay từ tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), Người đã chỉ rõ: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” .

Nguyễn Ái Quốc cho rằng để xây dựng Đảng Cộng sản, trước hết phải giải quyết tốt vấn đề nhận thức tư tưởng chính trị và phương pháp tổ chức cho những người yêu nước; phải giác ngộ chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam theo lập trường cách mạng vô sản… Trong quá trình huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ truyền bá lý luận Mác-Lênin vào công nhân mà còn truyền bá vào các tầng lớp trí thức yêu nước. Cuối những năm 20 của thế kỷ XX, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập: Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia là nguy cơ dẫn đến chia rẽ trong phong trào công nhân, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Yêu cầu bức thiết lúc đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.

Mùa Xuân năm 1930, bằng uy tín và kinh nghiệm của mình, Nguyễn Ái Quốc thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam và là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử nước ta.

Thứ hai là tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia vào Tổng Khởi nghĩa tháng Tám, giành chính quyền cách mạng

Tiếp thu tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và bài học kinh nghiệm từ Cách mạng tháng Mười Nga: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang bị mất nước. Người luôn khẳng định đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam mà nhờ đó mới tạo nên nhiều chiến công lẫy lừng của dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng, Người nêu cao chân lý: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công. Do đó, Người chủ trương và dành nhiều tâm lực để xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, để huy động sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận dân tộc thống nhất tập hợp rất rộng rãi các tầng lớp xã hội, các giới đồng bào, các dân tộc và tôn giáo…dựa trên sự đánh giá đúng đắn truyền thống lịch sử và thực trạng phân hóa kinh tế, xã hội và thái độ chính trị của các thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thực hiện đường lối đoàn kết dân tộc với việc thành lập Mặt trận dân tộc mà thời kì trước đó đã tiến hành với nội dung, hình thức thích hợp, Nguyễn Ái Quốc có đóng góp quan trọng vào việc quyết định và thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho “Mặt trận dân tộc thống nhất Phản đế Đông Dương”, nhằm đoàn kết, phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, đánh đuổi Pháp, Nhật.

Trải qua các bước tìm tòi, thử nghiệm, tháng 11-1939 và đến tháng 5-1941, Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mới lần lượt đưa ra các quyết định: Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại…chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng” và nhiệm vụ đánh Pháp, đuổi Nhật không phải riêng của công, nông mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân. Lực lượng giai cấp, dân tộc được tập hợp và phát huy sức mạnh trong các đoàn thể cứu quốc, trong Mặt trận Việt Minh, tạo dựng An toàn khu, chiến khu để vừa bảo vệ Đảng, vừa tổ chức, phát triển các đơn vị vũ trang và đội quân chính trị. Tất cả những yếu tố đó tạo nên nguồn lực mạnh mẽ tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa do Trung ương phát động.

 

Thứ ba là tự chủ và sáng tạo, tranh thủ những điều kiện, thời cơ thuận lợi do tình hình quốc tế đem lại, chớp thời cơ khởi nghĩa tháng Tám

Từ sự chuẩn bị mọi mặt cho cách mạng về Đảng, về lực lượng, về cách thức, phương pháp tiến hành cách mạng, đến trình độ nhận thức nhạy bén, đánh giá xu thế chuyển biến của cục diện chính trị quốc tế, khu vực trong thời đại mới; sự phát triển của các phong trào cách mạng, phong trào hòa bình, dân chủ trên thế giới; thế và lực của cách mạng nước ta và đối phương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Ban Chấp hành Trung ương Đảng có những nhận định ngay từ tháng 5-1941: “ Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”.

Sau khi biết tin thắng trận của Hồng quân Liên Xô và quân Đồng Minh trên chiến trường Châu Âu đánh bại phát xít Đức, tiếp đó quân Đồng minh tiến hành phản công trên Mặt trận Châu Á - Thái Bình Dương và trong nước, phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra dồn dập, lực lượng chính trị, vũ trang phát triển nhanh chóng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ |Chí Minh cho rằng cần chuẩn bị hết sức gấp rút để phát động toàn dân nổi dậy giành chính quyền đúng thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa. Trong những ngày đầu tháng 8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị cho nhiều cán bộ cấp cao ở Tân Trào: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”.

Trước tình hình cấp bách đó, Hồ Chí Minh quyết định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” . Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, trên cơ sở chọn lọc những yếu tố tích cực của mô hình tổ chức nhà nước Xôviết và các nhà nước dân chủ khác, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Một quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận mang tính chỉ đạo lâu dài đối với Đảng và nhân dân ta được Hồ Chí Minh chỉ ra là: “Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lê-nin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc”.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng sáng tạo mang tầm vóc thời đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, tiếp thụ và truyền bá những mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của cách mạng tháng Mười Nga vào thực tiễn Việt Nam. Từ cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc Việt Nam được giải phóng, thoát khỏi ách nô lệ, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được mở ra. Những nguyên lý sâu sắc về cách mạng giải phóng dân tộc của cách mạng tháng Mười Nga được lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển trong các cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, nhất là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất non sông. Ngày nay, sau hơn 35 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục phát triển khoa học, sáng tạo những bài học lịch sử, những kinh nghiệm cách mạng mang tính phổ biến, sâu sắc của cách mạng tháng Mười Nga; kiên định lấy chủ nghĩa Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động; kiên định vai trò lãnh đạo xuyên suốt của Đảng và Đảng luôn coi trọng, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, coi sức mạnh của quần chúng nhân dân là những giá trị vĩ đại làm nên lịch sử; độc lập, tự chủ luôn là nguyên tắc bất biến trong lãnh đạo đất nước hơn 90 năm qua của Đảng, đã giành được nhiều thắng lợi vĩ đại, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hướng tới những lý tưởng cao đẹp của cách mạng tháng Mười Nga.

Nghiên cứu những mặt trái của mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Nghiên cứu những mặt trái của mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Không ai có thể phủ nhận sự ra đời của MXH đã đem lại nhiều tiện ích trong đời sống vật chất và tinh thần cho mọi giai tầng trong xã hội. Bởi MXH là một ứng dụng giúp kết nối, liên kết người dùng ở bất cứ đâu, là bất kỳ ai thông qua dịch vụ Internet, giúp họ có thể chia sẻ những sở thích và trao đổi những thông tin cần thiết với nhau, không phân biệt giới tính, độ tuổi, vùng miền, quốc gia dân tộc… Các dịch vụ, ứng dụng của MXH còn cho phép người dùng chia sẻ thông tin qua tin nhắn, gọi điện trực tuyến (miễn phí). Có thể nói, MXH là một trong những sản phẩm khoa học trí tuệ của con người trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin.

Hiện nay, có rất nhiều loại hình MXH khác nhau. Tại Việt Nam, các MXH bắt đầu du nhập từ những năm 2000 dưới hình thức các trang nhật ký điện tử (blog). Đến nay, có khoảng 270 MXH được cấp giấy phép hoạt động với khoảng 35 triệu người dùng, chiếm 37% dân số. Trung bình mỗi ngày người Việt Nam vào MXH hơn 2 giờ. Đối tượng sử dụng mạng Internet thường xuyên nhất là nhóm lứa tuổi từ 15 - 40 tuổi. Nhóm đối tượng này chủ yếu là học sinh, sinh viên và người lao động. Ở Việt Nam, có thể kể đến một số MXH được người dùng sử dụng nhiều nhất như Facebook, Youtube, Zalo, Twitter, Instagram… Kết quả của một cuộc khảo sát gần đây của công ty Asia Plus với hơn 600 người trong độ tuổi 18-39 đã cho thấy Facebook và Zalo là hai mạng xã hội đứng đầu về tỷ lệ người dùng ở nước ta hiện nay. Kế tiếp là các MXH khác như Instagram, Twitter và LINE.

Dù có những tiện ích, tuy nhiên, mặt trái của MXH trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng hiện nay là những điều đáng báo động. MXH là nơi để mọi người có thể “sống ảo” nhưng dần dần “tưởng thật”, là mảnh đất màu mỡ để các tội phạm công nghệ cao có thể sống “cộng sinh”,  đây là nơi để những kẻ bất chính có thể trục lợi về kinh tế và đây cũng là nơi để các thế lực thù địch thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình... Hậu quả mặt trái của MXH để lại nhiều hệ lụy phức tạp cả về vật chất và tinh thần, thậm chí phải trả giá bằng cả tính mạng con người, tương lai của cả thế hệ và sự ổn định chính trị - xã hội của cả một quốc gia, dân tộc. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hậu quả trên trong đó phải kể đến việc mất an ninh mạng, mất kiểm soát trong sử dụng của cộng đồng mạng, thiếu bản lĩnh, thiếu lập trường chính trị khi bị dẫn dụ bởi các trang “mạng đen”… Có thể đơn cử một vài vụ việc điển hình đã diễn ra trong thời gian gần đây: “website cảng hàng không bị tin tặc tấn công ảnh hưởng tới hoạt động điều hành bay và đe dọa an toàn bay; tài khoản ngân hàng của khách hàng bị đột nhập và rút hết tiền; sử dụng MXH để đăng, phát thông tin sai trái, bịa đặt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức...”. Trước thực trạng đó, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên Internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”.