Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

 

Tuyên bố chung giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga

Nhân chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Vladimirovich Putin (Vladimir Putin), hai bên đã ra Tuyên bố chung giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga về làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện trên cơ sở thành tựu 30 năm thực hiện Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam-Nga. 

Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Vladimirovich Putin đã thực hiện chuyến thăm cấp Nhà nước đến nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 19 đến ngày 20-6-2024. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh hai nước kỷ niệm 30 năm ký kết Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga (16-6-1994).

Tại Hà Nội, Tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin đã có các cuộc hội đàm với Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Tô Lâm, hội kiến với Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn. Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin cũng đã đặt hoa tại Đài tưởng niệm các Anh hùng, liệt sĩ và Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch nước Tô Lâm và Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin đã gặp gỡ với cựu sinh viên Việt Nam từng tốt nghiệp tại các trường đại học của Liên Xô và Nga.

Trong bầu không khí thân tình và hữu nghị, hai bên đã trao đổi sâu rộng về nhiều nội dung và phương hướng thúc đẩy quan hệ Việt Nam-Nga trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ và nhân văn. Hai bên cũng đã thảo luận về nhiều vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm trên tinh thần tin cậy.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin đã tổng kết hợp tác nhiều mặt giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga từ sau khi ký kết Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam-Nga ngày 16-6-1994 và thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước năm 2012.

Phía Việt Nam hoan nghênh kết quả bầu cử Tổng thống Liên bang Nga vào tháng 3-2024, ghi nhận tính minh bạch và khách quan của cuộc bầu cử, cho rằng việc Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin tái đắc cử thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân Nga đối với đường lối của Liên bang Nga, với một trong những ưu tiên đối ngoại là phát triển hợp tác với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phía Việt Nam kịch liệt lên án vụ khủng bố dã man ngày 22-3-2024 tại tỉnh Moscow, tuyên bố không chấp nhận các hành động tấn công dân thường và ủng hộ Nga đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố và cực đoan, cũng như trong bảo đảm hòa bình và ổn định trong nước.

Phía Nga đánh giá cao những thành tựu to lớn mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đạt được dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, góp phần ngày càng nâng cao uy tín và vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế, cũng như tin tưởng rằng Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược phát triển đất nước. Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin cũng đã chúc mừng Chủ tịch nước Tô Lâm nhân dịp được bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và mời lãnh đạo cấp cao Việt Nam dự Lễ kỷ niệm 80 năm Chiến thắng trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (ngày 9-5-2025).

Trên cơ sở kết quả chuyến thăm, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga đã tuyên bố như sau:

1. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga không ngừng củng cố quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện trên tinh thần hữu nghị và ủng hộ lẫn nhau trong bối cảnh quốc tế phức tạp. Năm 2025, hai nước sẽ kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, đánh dấu chặng đường dài cùng nhau vượt qua thử thách và khó khăn, trong đó có những năm tháng nhân dân Việt Nam đấu tranh vì độc lập, tự do.

Quan hệ song phương đã đứng vững trước các biến động, góp phần củng cố hòa bình, ổn định và an ninh tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới. Với nỗ lực chung của hai bên, quan hệ hợp tác nhiều mặt Việt Nam-Nga tiếp tục phát triển tích cực phù hợp với lợi ích hai quốc gia, là tài sản vô giá của nhân dân hai nước và là hình mẫu của quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác cùng có lợi.

Sau 30 năm thực hiện Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị và sau khi thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện năm 2012, hai bên đã đạt được những thành tựu quan trọng sau:

 - Đối thoại chính trị giữa Việt Nam và Nga có độ tin cậy và hiểu biết cao. Trao đổi, tiếp xúc các cấp được duy trì thường xuyên, tạo nền tảng vững chắc cho việc củng cố và mở rộng hơn nữa quan hệ song phương. Hai bên duy trì quan điểm gần gũi hoặc tương đồng về nhiều vấn đề quốc tế và khu vực, phối hợp hiệu quả trong khuôn khổ các tổ chức đa phương.

- Việt Nam và Nga không ngừng thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế - thương mại, bao gồm trên cơ sở Hiệp định thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia thành viên Liên minh kinh tế Á-Âu ký ngày 29-5-2015.

- Hai bên tiếp tục củng cố hợp tác trên các lĩnh vực dầu khí, năng lượng, công nghiệp, công nghệ số, giao thông - vận tải và nông nghiệp, phát huy tiềm năng to lớn về hợp tác trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, công nghệ, giáo dục và nhân văn. Hai bên ngày càng chú trọng tăng cường hợp tác địa phương, tiếp xúc theo kênh Đảng và tổ chức xã hội, nâng cao hiệu quả các cơ chế hợp tác hiện có, thành lập các cơ chế và khuôn khổ hợp tác mới khi cần thiết.

Tuyên bố chung giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga
Quang cảnh hội đàm giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin.

2. Nhằm phát huy thành tựu đạt được sau 30 năm thực hiện Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị, gìn giữ truyền thống hữu nghị tốt đẹp, cũng như tranh thủ tiềm năng hợp tác, hai bên khẳng định mong muốn làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện trên cơ sở các nguyên tắc và định hướng sau:

- Việc củng cố và nâng cao hiệu quả quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện là một trong những ưu tiên đối ngoại của Việt Nam và Nga, đáp ứng lợi ích lâu dài, góp phần vào sự phát triển của mỗi nước, cũng như nâng cao vai trò của hai quốc gia tại mỗi khu vực và trên thế giới.

- Việt Nam và Nga xây dựng quan hệ trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, các nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình các tranh chấp, cũng như trên cơ sở phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, quyết tâm tiếp tục hợp tác chặt chẽ trên tất cả các lĩnh vực trong cả khuôn khổ song phương và đa phương.

- Việt Nam và Nga không liên minh hoặc thỏa thuận với bên thứ ba nhằm có các hành động phương hại đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như lợi ích cơ bản của nhau. Việc phát triển quan hệ Việt Nam-Nga không nhằm chống lại bất kỳ bên thứ ba khác.

3. Việt Nam và Nga nhất trí tiếp tục triển khai các nội dung hợp tác sau:
- Tiếp tục tăng cường đối thoại chính trị thường xuyên và thực chất ở cấp cao và cấp cao nhất, nỗ lực thực hiện hiệu quả các thỏa thuận đạt được giữa lãnh đạo hai nước. Nâng cao hiệu quả của các cơ chế hợp tác hiện có và thành lập các cơ chế hợp tác mới, kịp thời phối hợp tháo gỡ các vấn đề trong hợp tác song phương.
- Đẩy mạnh tiếp xúc theo kênh Đảng và giữa lãnh đạo các cơ quan lập pháp, Ủy ban hợp tác liên nghị viện giữa Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Duma Quốc gia Quốc hội Liên bang Nga, giữa các ủy ban và nhóm nghị sĩ hữu nghị của Quốc hội hai nước; tiếp tục phối hợp hành động tại các diễn đàn liên nghị viện quốc tế và khu vực.

- Nhấn mạnh quan hệ hợp tác quốc phòng-an ninh giữ vai trò đặc biệt trong tổng thể quan hệ Việt Nam-Nga, không nhằm chống lại bất kỳ bên thứ ba, có độ tin cậy cao và hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc và quy định của luật pháp quốc tế, góp phần bảo đảm hòa bình, ổn định và phát triển tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới nói chung.

- Nhất trí củng cố hợp tác toàn diện trong lĩnh vực an ninh thông tin quốc tế phù hợp với luật pháp quốc tế và các hiệp định, thỏa thuận song phương nhằm ngăn chặn việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào mục đích xâm hại chủ quyền, vi phạm toàn vẹn lãnh thổ, cũng như các hành vi khác trên không gian mạng toàn cầu có mục đích cản trở hòa bình, an ninh và ổn định quốc tế. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý song phương đối với hợp tác hỗ trợ tư pháp liên quan đến tội phạm hình sự sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông.

- Tiếp tục tăng cường hợp tác ứng phó với tình huống khẩn cấp nhằm ngăn chặn và giảm thiểu thiệt hại, hỗ trợ người bị nạn, tiến hành diễn tập và huấn luyện chung giữa các cơ quan cứu hộ hai nước.

- Chú trọng phát triển hơn nữa hợp tác kinh tế. Tạo thuận lợi cho mở rộng quan hệ thương mại, đầu tư và tài chính - tín dụng phù hợp với luật pháp quốc tế và quy định pháp luật hai nước nhằm thúc đẩy trao đổi hàng hóa cân bằng, khai thác hiệu quả lợi thế của Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á-Âu.

- Khẳng định vai trò điều phối quan trọng của cơ chế Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Nga về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật, cùng các tiểu ban và tổ công tác trong việc xây dựng và triển khai các dự án và chương trình hợp tác chung. Ủng hộ sớm thống nhất và triển khai Kế hoạch tổng thể phát triển hợp tác Việt Nam-Nga đến năm 2030, bao gồm thông qua các lộ trình hợp tác trên các lĩnh vực.

- Khẳng định cần tăng cường đầu tư của Việt Nam vào Nga và đầu tư của Nga vào Việt Nam, bao gồm trên các lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản, công nghiệp, nông nghiệp, chế tạo máy và năng lượng. Trên cơ sở đó, nhất trí thúc đẩy hoạt động của Nhóm công tác cấp cao Việt-Nga về các dự án đầu tư ưu tiên.

- Khẳng định tiếp tục hợp tác trong khuôn khổ các dự án dầu khí hiện có và mới phù hợp với pháp luật mỗi nước, bao gồm việc cung cấp, chế biến dầu thô và khí hóa lỏng cho Việt Nam, đáp ứng lợi ích chiến lược của hai bên. Đánh giá hợp tác xây mới và hiện đại hóa các cơ sở điện năng hiện có là hướng hợp tác triển vọng.

- Ủng hộ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động của doanh nghiệp dầu khí Việt Nam tại Liên bang Nga và doanh nghiệp dầu khí Nga tại thềm lục địa Việt Nam, phù hợp với luật pháp Việt Nam và Nga, cũng như luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.

- Tính đến tiềm năng hợp tác trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, quyết tâm đẩy nhanh triển khai dự án xây dựng Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân tại Việt Nam.

- Cho rằng cần tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực như công nghiệp khai khoáng, giao thông - vận tải, đóng tàu và chế tạo máy, hiện đại hóa đường sắt.

- Khẳng định tầm quan trọng của việc mở rộng hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp, bao gồm tăng cường xuất nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp, cũng như khuyến khích doanh nghiệp tham gia thành lập các cơ sở sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam và Nga.

- Ủng hộ tính chất chiến lược trong hợp tác giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trên tinh thần đó, hoan nghênh việc ký kết Hiệp định về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học trong khuôn khổ chuyến thăm lần này.

- Ủng hộ đẩy mạnh nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt tại Nga và tiếng Nga tại Việt Nam, bao gồm sử dụng tối đa tiềm năng của các cơ sở giáo dục hai nước, trong đó có Phân viện tiếng Nga mang tên Puskin tại Hà Nội và Trung tâm Khoa học và Văn hóa Nga tại Hà Nội.

- Giao các bộ, ngành liên quan nghiên cứu sáng kiến của Nga về lập trường phổ thông giảng dạy bằng tiếng Nga tại Hà Nội.

- Hỗ trợ mở rộng hoạt động của Mạng lưới các trường đại học kỹ thuật Việt-Nga để đào tạo bậc đại học, tổ chức các hoạt động hướng nghiệp tại Việt Nam nhằm tăng cường quảng bá cho Mạng lưới trên. 

- Hỗ trợ hoạt động, phát huy hiệu quả tiềm lực của Trung tâm nghiên cứu khoa học công nghệ nhiệt đới Việt-Nga nhằm đưa Trung tâm thành hình mẫu, biểu tượng cho hợp tác song phương. Bảo đảm hoạt động nghiên cứu của các chuyên gia Việt Nam và Nga tại Trung tâm ngang tầm khu vực và quốc tế. Nga sẽ chuyển giao tàu nghiên cứu khoa học “Giáo sư Gagarinsky” cho Việt Nam. Tiếp tục xem xét chuyển giao công nghệ trong khuôn khổ hoạt động của Trung tâm.

- Hoan nghênh thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực nhân văn, bao gồm mở rộng giao lưu giữa các bộ, ngành, địa phương, tiến hành thường xuyên các Ngày văn hóa hai nước trên cơ sở có đi có lại, duy trì tiếp xúc giữa các cơ quan thông tin đại chúng, lưu trữ, hội hữu nghị và các tổ chức xã hội khác.

- Hỗ trợ mở rộng hợp tác nhằm thúc đẩy chương trình nghị sự tích cực của quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Nga trên không gian mạng toàn cầu, tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác trong lĩnh vực báo chí, tăng cường phối hợp ngăn chặn thông tin sai lệch và chiến dịch thông tin không thân thiện của các bên thứ ba.

- Tiếp tục thúc đẩy hợp tác nhiều mặt trong lĩnh vực y tế, bao gồm chuyển giao công nghệ và đào tạo cán bộ y tế chất lượng cao.

- Khẳng định mong muốn tăng cường hơn nữa giao lưu trong lĩnh vực thể dục và thể thao. Việt Nam đánh giá cao việc Nga lần đầu tiên tổ chức Giải thể thao quốc tế “Thế vận hội tương lai” tại Kazan và ủng hộ việc Liên bang Nga tổ chức Đại hội thể thao của các nước BRICS trên tinh thần không phân biệt đối xử, phù hợp với nguyên tắc chung của phong trào Olympic.

- Hài lòng ghi nhận tăng trưởng ổn định lượng khách du lịch Nga đến Việt Nam và ủng hộ mở rộng hơn nữa hợp tác du lịch, bao gồm tăng số lượng các chuyến bay thẳng thường lệ và chuyến bay thuê chuyến giữa hai nước, cũng như đơn giản hóa thủ tục đi lại cho công dân hai nước.

- Tiếp tục trao đổi về vấn đề di trú, tạo thuận lợi cho việc sinh sống, làm việc và học tập của công dân Việt Nam tại Nga và công dân Nga tại Việt Nam.

- Khẳng định tầm quan trọng của việc tổ chức kỷ niệm trang trọng các sự kiện trọng đại trong lịch sử hai nước và quan hệ Việt Nam-Nga trong năm 2025, bao gồm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Nga (30-1-1950), 50 năm Giải phóng miền Nam, Thống nhất đất nước (30-4-1975), 80 năm Chiến thắng trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (9-5-1945), 80 năm Quốc khánh Việt Nam (2-9-1945).

4. Thúc đẩy tiến trình khách quan hình thành trật tự thế giới đa cực công bằng và bền vững, dựa trên các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bao gồm tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền dân tộc tự quyết, không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình tranh chấp.

- Ghi nhận thay đổi nhanh chóng trong bức tranh chính trị - kinh tế toàn cầu, củng cố vị thế và tiềm lực của các nước phương Nam. Hoan nghênh vai trò ngày càng tăng của các nước này trong quản trị quốc tế.

- Cho rằng mọi quốc gia có quyền tự quyết định mô hình phát triển, thể chế chính trị, kinh tế và xã hội phù hợp với điều kiện đất nước và nguyện vọng của nhân dân. Hai bên không ủng hộ can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, việc áp đặt các biện pháp cấm vận đơn phương, áp dụng trị ngoại pháp quyền, chia rẽ về ý thức hệ mà không có cơ sở pháp lý quốc tế và không thông qua Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

- Khẳng định nhất quán kết quả của Chiến tranh Thế giới thứ hai, được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc, cũng như phản đối mọi mưu toan bác bỏ, làm sai lệch và xuyên tạc lịch sử Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hai bên khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục đúng đắn lịch sử, gìn giữ ký ức về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, kiên quyết lên án các hành động tôn vinh, nỗ lực hồi sinh chủ nghĩa phát xít và quân phiệt.

- Tiếp tục củng cố hợp tác trong khuôn khổ Liên hợp quốc, bao gồm tại Đại hội đồng Liên hợp quốc, không ủng hộ việc chính trị hóa hoạt động của các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác. Ủng hộ vai trò điều phối trung tâm của Liên hợp quốc trong việc bảo đảm hòa bình, an ninh và phát triển bền vững, ủng hộ nâng cao hiệu quả hoạt động, cũng như dân chủ hóa và cải tổ Liên hợp quốc. Hai bên có quan điểm gần gũi hoặc tương đồng về nhiều vấn đề khu vực và toàn cầu, tiếp tục hợp tác chặt chẽ tại Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế đa phương khác, ủng hộ lẫn nhau ứng cử vào các tổ chức quốc tế và các cơ quan chấp hành liên quan.

- Cam kết thúc đẩy hệ thống thương mại đa phương mở, bao trùm, minh bạch và không phân biệt đối xử, dựa trên các quy tắc của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Bày tỏ quan ngại về việc chính trị hóa quan hệ kinh tế quốc tế và phân mảnh thương mại toàn cầu, gia tăng chủ nghĩa bảo hộ và cạnh tranh không lành mạnh.

- Khẳng định sẵn sàng thúc đẩy nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhằm ứng phó với các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống, trong đó có khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, xung đột vũ trang, sản xuất và buôn bán trái phép chất ma túy, tranh chấp lãnh thổ, can thiệp lật đổ, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh. Nỗ lực nhằm bảo đảm an ninh thông tin, an ninh lương thực, cũng như triển khai hiệu quả Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững.

- Tiếp tục phát triển hợp tác trong lĩnh vực đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế và tài trợ khủng bố quốc tế tính đến vai trò điều phối trung tâm của Liên hợp quốc trên cơ sở tuân thủ nghiêm các quy định và nguyên tắc của luật pháp quốc tế, cũng như thúc đẩy tăng cường vai trò chủ đạo của các quốc gia và các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực này.

- Ủng hộ các nỗ lực quốc tế về kiểm soát vũ khí, giải trừ quân bị và không phổ biến vũ khí, bao gồm thúc đẩy tiến trình kiểm điểm Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân ngày 1-7-1968, cũng như trong khuôn khổ Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện. Ủng hộ tham vấn giữa năm cường quốc hạt nhân với các nước thành viên Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không vũ khí hạt nhân nhằm giải quyết những vướng mắc và tiến tới ký kết Nghị định thư kèm theo Hiệp ước.

- Ủng hộ việc tuân thủ và củng cố Công ước về cấm phát triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí vi khuẩn (sinh học) và độc tố cũng như về việc tiêu hủy chúng ngày 16-12-1971, bao gồm thể chế hóa thực thi Công ước và không để trùng lặp chức năng giữa các cơ quan quốc tế liên quan.

- Khẳng định cần khởi động đàm phán đa phương về Công ước quốc tế về đấu tranh chống tấn công khủng bố sinh học và hóa học tại Hội nghị về giải trừ quân bị nhằm ứng phó với nguy cơ khủng bố sinh học và hóa học.

- Kiên trì mục tiêu xây dựng thế giới không có vũ khí hóa học, quan ngại về việc chính trị hóa hoạt động của Tổ chức cấm vũ khí hóa học. Khẳng định tầm quan trọng của việc thực thi đầy đủ Công ước về cấm phát triển, sản xuất, tàng trữ, sử dụng và phá hủy vũ khí hóa học ngày 13-1-1993, là công cụ quan trọng trong lĩnh vực giải trừ quân bị và không phổ biến vũ khí.

- Bày tỏ quan ngại về nguy cơ chạy đua vũ trang trong không gian vũ trụ, nhấn mạnh cần tuân thủ sử dụng khoảng không vũ trụ chỉ cho mục đích hòa bình, ủng hộ đẩy nhanh đàm phán Hiệp ước về ngăn ngừa triển khai vũ khí trong khoảng không vũ trụ, dùng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong vũ trụ, cũng như ủng hộ thúc đẩy các sáng kiến và cam kết về không triển khai trước vũ khí trong vũ trụ.

- Thúc đẩy hợp tác bảo đảm an ninh công nghệ thông tin và truyền thông, sẵn sàng hợp tác ứng phó các nguy cơ trên không gian mạng, bao gồm liên quan đến trí tuệ nhân tạo trong công nghệ thông tin và truyền thông, ủng hộ thành lập khuôn khổ quản trị không gian mạng toàn cầu mang tính đa phương, dân chủ và minh bạch trên cơ sở bảo đảm an ninh thông tin và an toàn cho các mạng Internet quốc gia.

- Thừa nhận vai trò chủ chốt của Liên hợp quốc trong thảo luận các vấn đề an ninh thông tin quốc tế. Cho rằng cần thiết xây dựng quy chế pháp lý quốc tế về quản lý không gian mạng. Các bên ủng hộ Liên hợp quốc sớm xây dựng Công ước toàn diện về ngăn chặn sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào mục đích tội phạm và củng cố hơn nữa hợp tác trên lĩnh vực này.

- Tiếp tục triển khai ứng phó với biến đổi khí hậu, khẳng định cam kết với các mục tiêu, nguyên tắc và nội dung chính của Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu ngày 9-5-1992 và Thỏa thuận Paris ngày 12-12-2015. Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường chuyển giao công nghệ và hỗ trợ tài chính nhằm triển khai các nỗ lực trên.

- Tin tưởng rằng, theo nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế về bình đẳng giữa các quốc gia, cần tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế liên quan đến quyền miễn trừ quốc gia và miễn trừ tài sản quốc gia.

- Tiếp tục hợp tác trong bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, các quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp quốc gia của Việt Nam và Nga. Phối hợp chặt chẽ nhằm đấu tranh với xu hướng chính trị hóa quyền con người, sử dụng các vấn đề quyền con người để can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.

 - Cho rằng cần củng cố hơn nữa tiềm năng của UNESCO như diễn đàn nhân văn liên chính phủ toàn cầu, thúc đẩy duy trì đối thoại chuyên môn tại diễn đàn này nhằm đạt được đồng thuận của các quốc gia thành viên và thúc đẩy chương trình nghị sự thống nhất.

 - Nga đánh giá cao lập trường cân bằng, khách quan của Việt Nam về vấn đề Ukraine, theo đó cần giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc, có tính đến lợi ích chính đáng của các bên liên quan, vì hòa bình, ổn định và phát triển tại khu vực và trên thế giới; hoan nghênh Việt Nam sẵn sàng tham gia các nỗ lực quốc tế có sự tham gia của các bên liên quan nhằm tìm kiếm giải pháp hòa bình, bền vững cho vấn đề Ukraine.

- Phía Nga hoan nghênh Việt Nam tham gia vào Phiên họp Bộ trưởng Ngoại giao các nước BRICS và các nước phương Nam và phương Đông từ ngày 10 đến ngày 11-6-2024 tại Nizhny Novgorod. Tiếp tục tăng cường hợp tác giữa các nước BRICS và các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

- Cho rằng cần tăng cường các nỗ lực chung của khu vực nhằm xây dựng tại châu Á-Thái Bình Dương cấu trúc an ninh và hợp tác bình đẳng, không chia tách, mang tính toàn diện, mở và minh bạch, bao trùm dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, bao gồm các nguyên tắc không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết hòa bình xung đột, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai Bên phản đối việc chia rẽ cấu trúc khu vực châu Á-Thái Bình Dương với vai trò trung tâm của ASEAN, tác động tiêu cực đến việc mở rộng và tăng cường đối thoại chung của khu vực.

- Khẳng định tính phổ quát và toàn vẹn của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, là nền tảng pháp lý cho tất cả hoạt động trên biển và đại dương và có vai trò chủ đạo trong phát triển hợp tác ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế, nhấn mạnh cần duy trì tính toàn vẹn của Công ước.

- Phối hợp bảo đảm an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không và các hoạt động thương mại không bị cản trở, ủng hộ kiềm chế, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực và giải quyết các tranh chấp giữa các bên liên quan bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, cũng như theo các tiêu chuẩn và thực tiễn được khuyến nghị của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế và Tổ chức Hàng hải Quốc tế.

- Ủng hộ việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC) năm 2002 và hoan nghênh tiến trình đàm phán nhằm sớm đạt Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu lực, thực chất.

- Ủng hộ việc củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực tại châu Á - Thái Bình Dương thông qua đề cao giá trị và nguyên tắc của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á, tham gia các cơ chế hợp tác do ASEAN dẫn dắt như Hội nghị cấp cao Đông Á, Diễn đàn Khu vực ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng.

- Thúc đẩy hợp tác trong khuôn khổ Tham vấn các Đại diện cao cấp phụ trách vấn đề an ninh ASEAN - Nga, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh thông tin trong quan hệ ASEAN - Nga, cũng như trong khuôn khổ Đối thoại ASEAN - Nga liên quan đến an ninh công nghệ thông tin và truyền thông.

- Tiếp tục tăng cường và làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược ASEAN - Nga, đẩy mạnh triển khai hợp tác hiệu quả trên cơ sở Kế hoạch hành động toàn diện ASEAN - Nga giai đoạn 2021 – 2025 và quyết tâm soạn thảo văn kiện tương tự cho giai đoạn 5 năm tiếp theo.

- Tăng cường liên kết kinh tế khu vực và triển khai các sáng kiến kết nối liên khu vực, bao gồm dự án Đối tác Đại Á - Âu, cũng như tìm hiểu tiềm năng hợp tác kinh tế giữa ASEAN, Liên minh Kinh tế Á - Âu. Tiếp tục thúc đẩy hợp tác giữa ASEAN với Liên minh Kinh tế Á-Âu và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải.

- Tiếp tục hợp tác trong khuôn khổ Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, các cơ chế liên nghị viện khu vực (Diễn đàn liên nghị viện ASEAN, Diễn đàn nghị viện châu Á - Thái Bình Dương, Đại hội đồng nghị viện châu Á) nhằm mục đích nâng cao vai trò của các cơ chế này vì hòa bình, ổn định, phát triển và thịnh vượng tại ở châu Á. Tăng cường hợp tác với các nước tiểu vùng Mê Kông trên các lĩnh vực.

- Nga ủng hộ và cam kết phối hợp chặt chẽ với Việt Nam hướng tới tổ chức thành công Năm APEC Việt Nam 2027.

- Chia sẻ mong muốn củng cố hòa bình và ổn định tại Trung Đông, phản đối can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khu vực, bày tỏ cam kết đối với một giải pháp toàn diện, công bằng và lâu dài cho vấn đề Palestine trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế liên quan, với thành tố chính là giải pháp hai nhà nước, theo đó thành lập Nhà nước Palestine độc lập với thủ đô là Đông Jerusalem dựa trên đường biên giới trước năm 1967, cùng tồn tại hòa bình bên cạnh Nhà nước Israel.

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga tin tưởng rằng, việc triển khai hiệu quả các phương hướng hợp tác trên và phối hợp hành động tại các diễn đàn và tổ chức quốc tế và khu vực sẽ góp phần củng cố và tăng cường thực chất quan hệ song phương, thắt chặt quan hệ hữu nghị truyền thống và Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, đáp ứng lợi ích lâu dài của nhân dân hai nước, vì hòa bình, an ninh và phát triển bền vững tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và trên thế giới nói chung.

Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin cảm ơn Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã đón tiếp chu đáo và trọng thị, thể hiện tin cậy cao, hữu nghị truyền thống và tình cảm đặc biệt giữa lãnh đạo và nhân dân hai nước. Tổng thống Vladimir Vladimirovich Putin mời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và lãnh đạo cấp cao Việt Nam sang thăm Nga vào thời điểm thích hợp. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã vui vẻ nhận lời.


 

80 năm vững bước dưới Quân kỳ Quyết thắng - Đường lối “người trước súng sau” - nguồn sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam

 Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục, rèn luyện; được nhân dân tin yêu, đùm bọc, giúp đỡ, Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đã lớn mạnh không ngừng, lập nên nhiều chiến công hiển hách, hoàn thành trọng trách của đội quân cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

Lịch sử 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, những chiến công vĩ đại của QĐND Việt Nam không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối với nước nhà mà còn được nhân loại tiến bộ trên thế giới ngợi ca. Một trong những nguồn gốc tạo nên sức mạnh vô địch của Quân đội chính là tư tưởng Hồ Chí Minh “người trước súng sau”, đặt chính trị lên trước quân sự, trọng con người hơn vũ khí.

80 năm vững bước dưới Quân kỳ Quyết thắng - Đường lối “người trước súng sau” - nguồn sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam

Năm 1941, tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa I), Đảng ta quyết định sẽ giành chính quyền bằng con đường khởi nghĩa vũ trang. Khi ấy, một số cán bộ băn khoăn, lo lắng không biết sẽ lấy ở đâu vũ khí để khởi nghĩa, lãnh tụ Hồ Chí Minh cho rằng: “Không sợ thiếu vũ khí. Chỉ sợ khi thời cơ đến lại thiếu người cầm vũ khí. Việc khẩn cấp bây giờ là phải xây dựng lực lượng vũ trang, đào luyện con người, mở rộng căn cứ địa”. Trong Chỉ thị thành lập “Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân”-tiền thân của QĐND Việt Nam (ngày 22-12-1944), lãnh tụ Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, nghĩa là chính trị quan trọng hơn quân sự”.

Về sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn, trong xây dựng Quân đội phải “người trước súng sau”. Người phân tích: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”. Đồng thời, trên cơ sở tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phủ nhận vai trò của vũ khí, trang bị hiện đại đối với sức mạnh của Quân đội bởi lịch sử các cuộc chiến tranh chứng tỏ chỉ khi ý chí chiến đấu kết hợp với sức mạnh của vũ khí mới giành được thắng lợi. Mặt khác, nếu không có vũ khí, trang bị thì ý chí chiến đấu dù mạnh mẽ đến đâu cũng sẽ suy giảm và tiêu tan. Với quan điểm “người trước súng sau”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị phải đào tạo, huấn luyện thế hệ cầm súng có lý tưởng cách mạng, dám “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Người yêu cầu người chiến sĩ phải luôn chấp hành kỷ luật nghiêm minh; tinh thần vững chắc; ý chí quyết chiến quyết thắng; trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung; dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, biết sử dụng thành thạo, linh hoạt các loại vũ khí có trong tay; chăm chỉ học tập và rèn luyện kỹ năng tác chiến.

Những chỉ thị có ý nghĩa vô cùng quan trọng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ngay từ đầu bản chất chính trị và bản chất cách mạng của Quân đội ta. Bản chất đó được thể chế hóa bằng nguyên tắc lãnh đạo và tổ chức của QĐND Việt Nam, thể hiện trong lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. 

Thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là minh chứng hùng hồn về sức mạnh vô địch của tư tưởng Hồ Chí Minh “người trước súng sau”. Sau khi Việt Nam giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám và tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945, thực dân Pháp được Mỹ hậu thuẫn và chi viện, đã quay trở lại xâm chiếm nước ta một lần nữa. Với niềm tin vô bờ bến vào sức mạnh vô song của chiến tranh nhân dân, trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiệu triệu: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước". "Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước”.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp đã dẫn đến cuộc đối đầu lịch sử tại Điện Biên Phủ được coi là “điểm hẹn lịch sử” với nhiều hàm ý, trong đó có hàm ý cuộc đối đầu giữa tư duy vũ khí luận của chủ nghĩa thực dân và đế quốc, cậy thế vào sức mạnh vũ khí với tư duy dựa vào sức mạnh và ý chí của con người, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong chuyến thăm các vùng đất của ta tạm thời bị thực dân Pháp chiếm đóng, một nghị sĩ Pháp đưa ra nhận định rằng cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam giống như “cuộc chiến giữa muỗi với voi”. Bình luận về nhận định này của nghị sĩ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm của mình bằng câu ca “Nay tuy châu chấu đấu voi/ Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”. Rút cuộc, thực dân Pháp và ở mức độ nào đó là cả lực lượng can thiệp Mỹ, đã đại bại ở Điện Biên Phủ vào ngày 7-5-1954.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Ðiện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Sau chiến thắng của ta ở Điện Biên Phủ, cụm từ “Việt Nam-Hồ Chí Minh-Điện Biên Phủ” trở thành biểu tượng của ý chí đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự do.

Với nhãn quan chiến lược “xuyên thế kỷ”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định, chiến thắng lịch sử của ta ở Điện Biên Phủ tuy “chấn động địa cầu” nhưng chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Tiếp theo, Việt Nam còn phải đương đầu với kẻ thù xâm lược hung bạo gấp nhiều lần là đế quốc Mỹ. Sau khi phá hoại Hiệp định Geneva năm 1954 chấm dứt sự hiện diện của quân đội Pháp, chế độ thực dân Pháp trên bán đảo Đông Dương, đế quốc Mỹ phát động "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam Việt Nam. Bị thất bại trong "chiến tranh đặc biệt", Mỹ quyết định phát động "chiến tranh cục bộ" trên cả hai miền Nam-Bắc Việt Nam và trên toàn cõi Đông Dương. Khi phát động "chiến tranh cục bộ", các tướng tá Mỹ tuyên bố thách thức đầy ngạo mạn rằng liệu những người lính chân đất của Hồ Chí Minh có thể đối chọi được tên lửa hạt nhân xuyên lục địa của Mỹ? Thậm chí, chúng còn đe đọa, bằng các đòn tấn công hủy diệt của vũ khí siêu hiện đại, Mỹ sẽ đưa Việt Nam về “thời kỳ đồ đá”!

Dưới sự lãnh đạo, tài thao lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, ý chí chiến đấu ngoan cường của lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là QĐND Việt Nam, chúng ta đã khai thác, sử dụng hiệu quả tất cả vũ khí trang bị để đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới. Có thể thấy, trong cuộc chiến tranh này, đế quốc Mỹ đã sử dụng tất cả vũ khí hiện đại nhất và các loại hình chiến tranh khốc liệt nhất. Tuy nhiên, rốt cuộc Mỹ đã thất bại thảm hại mà đỉnh cao là trong chiến dịch ném bom chiến lược “Linebacker” tháng 12-2972, được ví như “Điện Biên Phủ trên không”. Trong chiến dịch này, hàng chục “pháo đài bay” B-52 của Mỹ đã bị “những người lính chân đất” bắn hạ. Thất bại của "chiến tranh cục bộ" buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973.

Có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để khẳng định rằng thất bại của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam là thất bại của tư duy vũ khí luận của đội quân xâm lược mạnh nhất thế giới tư bản trước tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh dựa vào sức mạnh và ý chí của con người sẵn sàng chiến đấu vì độc lâp, tự do của Tổ quốc, không bao giờ chịu khuất phục trước bất kỳ sức mạnh xâm lược tàn bạo nào, của đường lối chiến tranh nhân dân, của nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc.

Chính vì thế, âm mưu và thủ đoạn của các thế lực phản động và thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm mục tiêu “phi chính trị hóa Quân đội”, nghĩa là xóa bỏ sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội; làm thay đổi bản chất cách mạng của Quân đội; làm cho Quân đội từng bước xa rời phương hướng chính trị của Đảng, xa rời mục tiêu chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, không còn là lực lượng chính trị tin cậy và là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước. Do đó, hơn lúc nào hết, chúng ta cần đề cao cảnh giác, chủ động nhận diện và đấu tranh với các thủ đoạn mới của các thế lực thù địch bằng hệ thống giải pháp đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự hiệu quả.

Đúng ý Đảng, hợp lòng dân

 


Năm 2012, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) được thành lập đã tạo cơ sở pháp lý và hiệu lực cao hơn trong việc PCTNTC. Với bước ngoặt này, công tác PCTNTC đã đạt được nhiều kết quả toàn diện, mang lại niềm tin rất lớn của nhân dân.

Nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp đã được khởi tố, điều tra như vụ đại án xảy ra tại Công ty Việt Á; vụ “Đưa, nhận hối lộ” xảy ra tại Cục lãnh sự, Bộ Ngoại giao và một số đơn vị liên quan; vụ án xảy ra tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam; vụ “thao túng thị trường chứng khoán” tại Công ty cổ phần tập đoàn FLC... Qua đó, khởi tố nhiều cán bộ diện Trung ương quản lý như cựu Chủ tịch Hà Nội Chu Ngọc Anh, cựu Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long cùng nhiều sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang...

Không thể xuyên tạc công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước ta

 


Trong thời gian gần đây, khi những vụ án tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng với tính chất phức tạp được đưa ra xét xử và được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Điều đó thể hiện quyết tâm phòng, chống tham nhũng tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta với quan điểm quyết liệt, không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.

“Có vùng cấm” - Sự xảo ngôn, nguỵ tạo

 


Thời gian qua, Đài BBC News Tiếng Việt và nhiều trang phản động đã đăng tải bài viết “Có vùng cấm?” với một dấu hỏi chấm, rồi nhắc lại câu nói của ông Mai Tiến Dũng - Nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ sau sự kiện Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng xin thôi giữ các chức vụ được giao do vi phạm quy định những điều đảng viên không được làm. Bài viết có đề cập đến câu hỏi: “Phải chăng chiến dịch “đốt lò” có vùng cấm? Phải chăng khi làm đến một vị trí nào đó thì người ta cùng lắm chỉ bị kỷ luật, cách chức chứ không bị xử lý trước pháp luật?”

Không thể xuyên tạc chính sách quốc phòng “bốn không” của Đảng, Nhà nước ta

 


          Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng từng cho biết, từ chính sách "ba không" trước đây, nay có thể được hiểu một cách đầy đủ và chính xác hơn thành "bốn không" là: Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh cũng cho biết, Việt Nam sẽ tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung.

Xuyên tạc mối đoàn kết thống nhất trong Đảng - “Bình cũ, rượu cũ”

 


Một trong những chiêu trò vô cùng nham hiểm, tinh vi, được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường xuyên sử dụng, nhằm chia rẽ phá hoại nội bộ Đảng ta từ bên trong; phủ nhận vị trí, vai trò, bản chất của các nguyên tắc trong tổ chức, xây dựng Đảng. Cụ thể là, chúng không ngừng xuyên tạc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình; bịa đặt, phát tán thông tin sai sự thật về tình hình nội bộ và khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CÓ MÂU THUẪN VỚI NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN ?

                     

Quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận thức và vận dụng từ rất sớm. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, củng cố một nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu nhằm phê phán, phủ nhận bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, cho rằng quan điểm này đi ngược với tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI THỰC TIỄN CỦA VIỆT NAM

 

                                                                       

Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh là nền tảng tư tưởng, cơ sở lý luận của cách mạng Việt Nam. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta đã luôn kiên trì, kiên định và nêu cao chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay cần thiết phải bổ sung, phát triển và đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề trên.

XÂY DỰNG THẾ TRẬN LÒNG DÂN

 


Trải qua 94 năm, phấn đấu, xây dựng phát triển; Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tưởng, “kim chỉ nam” cho mọi hành động. Do đó, cùng với quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng phát triển đất nước; Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định bảo vệ nền tảng tưởng của Đảng là yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã chứng minh, “thế trận lòng dân” là một yếu tố quan trọng, quyết định đến việc hình thành sức mạnh chính trị, quân sự, quốc phòng to lớn chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay

 


Hiện nay, các thế lực phản động, thù địch chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng một có hệ thống, tổ chức vô cùng tinh vi, xảo quyệt hơn và vô cùng nguy hiểm. Chúng chống phá liên tục trên mọi mặt, lĩnh vực, không chỉ thuần túy là vấn đề lý luận mà bao gồm tất cả những vấn đề thực tế mới phát sinh. Chúng xuyên tạc, phủ định chủ trương, chính sách về vai trò lãnh đạo về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là thủ đoạn không còn mới nhưng chúng luôn coi đây là trọng điểm chống phá với các chiêu trò rất mới và tinh vi. Chúng xuyên tạc, phủ định đường lối chính trị, tư tưởng, văn hóa, giáo dục, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam. Chúng cố tình quên đi vấn đề thể hiện tính biện chứng trong quy luật của cuộc sống là giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng dân tộc. Điều này gắn liền với mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa xã hội.

Thực tiễn, kinh nghiệm tổ chức bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

 


Trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, nhanh chóng, tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đi vào chiều sâu đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn rất mới trước đây chưa từng có. Tăng cường công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động là nhiệm vụ quan trọng hơn bao giờ hết.

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN CHỦ ĐỘNG ỨNG PHÓ VỚI NHỮNG THÁCH THỨC AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG

 


Ứng phó thắng lợi mọi tình huống an ninh phi truyền thống là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó, Quân đội là lực lượng nòng cốt, góp phần bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM XUYÊN TẠC, THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG

 


          Mạng xã hội, hay còn gọi là không gian mạng (Facebook, Zalo, Youtube, Instagram, Google…) đang phát triển một cách chóng mặt, đem lại rất nhiều tiềm năng, thời cơ thuận lợi cho các quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, do tính chất mở, phủ sóng rộng khắp, bình đảng, ai cũng có thể khai thác và sử dụng dù bạn đang ở tầng lớp, xã hội nào, vì vậy không gian mạng mang đến không ít thách thức đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch đang lợi dụng không gian mạng trở thành một trong những công cụ hàng đầu chống phá Đảng và Nhà nước ta. Đấu tranh tư tưởng, đặc biệt là đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội là một nhiệm vụ cấp bách, cần sự vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành, các lực lượng và các tầng lớp xã hội.

HIẾN GIÁC MẠC CỦA BÉ, TÔI ĐƯỢC GẶP LẠI CON THEO CÁCH ĐẶC BIỆT NHẤT

 Chị Nguyễn Trần Thùy Dương là mẹ bé Hải An, cô bé 7 tuổi đã truyền cảm hứng mạnh mẽ khắp cả nước về nghĩa cử cao đẹp hiến mô, tạng cứu người vào 6 năm trước. Người mẹ này cho biết trong những ngày đang nằm điều trị ung thư ở Bệnh viện K, bé Hải An có nguyện ước hiến tặng một phần cơ thể cho những bệnh nhân đang chờ ghép tạng.

"Nhờ nguyện ước của con, hiến tặng một phần cơ thể của mình cho bệnh nhân, 2 người mù đã tìm thấy ánh sáng. Bản thân tôi cũng tìm thấy món quà con để lại là được gặp lại con theo cách đặc biệt nhất", chị chia sẻ. Điều đó đã thay đổi cuộc sống của chị, từ trong nỗi đau đến niềm hạnh phúc. Chị tin rằng "con luôn ở bên mình" và cảm nhận sự hồi sinh nếu có thể vượt qua nỗi đau để chấp nhận cho đi.
"Một tay tôi trao lại ánh sáng từ đôi mắt của con để giúp người. Một tay tôi nhận lại tình yêu con gửi lại cho đời, giúp đỡ tôi vượt qua những ngày tháng khó khăn", chị Dương chia sẻ tại lễ công bố thành lập Ngân hàng Mô và ra mắt Chi hội vận động hiến mô, bộ phận cơ thể người của một bệnh viện chuyên ngành mắt tại Hà Nội, ngày 13/6.
Chị Nguyễn Trần Thùy Dương hiện là người tư vấn, vận động, tuyên truyền hiến tặng mô, tạng, bộ phận cơ thể người. Chị cảm nhận thấy vẫn còn những rào cản về vấn đề này, thậm chí có những người không thoải mái sau khi suy nghĩ về hiến tặng mô tạng, trong khi đây có thể là món quà vô giá cho một người tuyệt vọng đang chờ ghép.
"Tôi tin rằng chúng ta chỉ có một cuộc đời và chúng ta có thể khiến nó trở nên ý nghĩa bằng cách mang lại hạnh phúc cho mình và người khác, xoa dịu nỗi đau người ở lại, để cái chết không còn vô nghĩa", chị nói. Người phụ nữ này mong mọi người vượt qua định kiến, tham gia hiến mô tạng với tinh thần "cho đi là còn mãi". /.
St

LIÊM CHÍNH TRONG SUY NGHĨ VÀ HÀNH ĐỘNG!

 Xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính trong suy nghĩ và hành động là tất yếu khách quan, là yêu cầu và nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền, đồng thời còn là trách nhiệm của những người cộng sản Việt Nam trước lịch sử, nhân dân và dân tộc, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng, trách nhiệm và uy tín của đội ngũ cán bộ trước Tổ quốc và nhân dân.

LIÊM CHÍNH TẠO NÊN SỨC HẤP DẪN CỦA NGƯỜI CÁN BỘ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ” và “trong xã hội, không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”, nên đội ngũ cán bộ/những người được nhân dân ủy thác phải luôn thấu triệt rằng: Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ, chức vụ/quyền hạn của người cán bộ là do nhân dân ủy nhiệm. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, mỗi người phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, nhất là phải thường xuyên rèn luyện, thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính” vì “thiếu một đức, thì không thành người”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: LIÊM “là trong sạch, không tham lam”, là “không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình”. Trái ngược với LIÊM, thì người “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM”, cho nên cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân. Người có đức Liêm là người liêm sỉ, biết phải trái, đúng sai và hổ thẹn khi làm điều xấu; đồng thời, biết tự răn mình để tránh điều xấu, để tâm trí luôn trong và sáng. Sự thanh liêm của họ sẽ tự tỏa sáng và hấp dẫn những người xung quanh.
Vì, đức Liêm của người cán bộ sẽ tạo lòng tin của nhân dân, cho nên, nếu không có hoặc thiếu Liêm “mà muốn được lòng dân, thì cũng như bắc dây leo trời”, cho nên, cán bộ phải nhất thiết phải Liêm, phải thực hành chữ Liêm, “tuyệt đối không đem của công dùng vào việc tư, không động đến cái kim sợi chỉ của dân;... mua bán phải công bình, mượn cái gì phải trả tử tế, hỏng cái gì phải bồi thường”, nhất là “mỗi người phải nhận rằng tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước với dân” … Không chỉ có vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu cán bộ phải có trách nhiệm giáo dục đức liêm cho người khác, nếu không, dù họ trong sạch đến mấy vẫn chỉ là “Liêm một nửa”. Đồng thời, với nâng cao trình độ dân trí của nhân dân, để “dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì “quan” dù không liêm, cũng phải hóa ra Liêm” là việc pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề gì.
Sự hòa quyện chặt chẽ giữa đức trị và pháp trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là Người không chỉ đề cao chữ Liêm; kiên trì giáo dục cán bộ thực hành đức Liêm: “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là Liêm, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp... Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người đều phải Liêm”, mà còn ban hành nhiều sắc lệnh và đạo luật để răn đe, ngăn chặn, trừng trị những kẻ bất liêm, như Quốc lệnh (ký ngày 26/1/1946) quy định hai vấn đề trọng yếu là thưởng và phạt, trong đó quy định tội trộm cắp của công phải bị tử hình.
CHÍNH theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc của CHÍNH. Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”. Đức Chính đòi hỏi con người phải có sự chính trực, dũng cảm đấu tranh với cái xấu để bảo vệ lẽ phải; chi phối mọi công việc, mọi con người trong xã hội, do đó, Chính là đức khó thực hiện nhất trong "tứ đức", là sự biểu hiện đầy đủ nhất của nhân cách con người.
Với ý nghĩa đó, muốn là một cán bộ liêm chính (trong sạch, ngay thẳng: người liêm chính không có lòng tư túi) trong công tác và cuộc sống đời thường để xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, thì mỗi người:
1) Đối với mình, phải “chớ tự kiêu, tự đại; luôn luôn cầu tiến bộ; luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”, vì “tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”.
2) Đối với người, “phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người tiến tới. Phải thực hành chữ Bác - Ái”.
3) Đối với việc, “phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà”, “đã phụ trách việc gì, thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm”; “việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm”.
Uy tín của Đảng cầm quyền nói chung, của người cán bộ nói riêng gắn liền với sự tu dưỡng và gương mẫu về đạo đức cách mạng, thực hành liêm chính cả trong suy nghĩ và hành động. Nếu người cán bộ không tu dưỡng đạo đức cách mạng, không gương mẫu thực hành liêm chính thì không thể hấp dẫn, quy tụ, lãnh đạo được quần chúng nhân dân. Vì thế, thực hiện liêm chính, thường xuyên rèn luyện đức liêm chính không chỉ là yêu cầu cần thiết trong tu dưỡng đạo đức, rèn luyện “tứ đức” của người cán bộ mà còn là biện pháp quan trọng để xây dựng Đảng về đạo đức; không chỉ giúp người cán bộ tự soi, tự sửa, tự rèn mình mà còn tạo ra sức mạnh mềm và sức hấp dẫn của một tổ chức, của cả một dân tộc: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh và tiến bộ”.
Sự tu dưỡng, rèn luyện đức liêm chính sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, gương mẫu về đạo đức cách mạng, giàu đức hy sinh, phụng sự Tổ quốc và nhân dân với tinh thần vfa quyết tâm: giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục.
CÁN BỘ PHẢI VỪA XÂY VỪA RÈN ĐỨC LIÊM CHÍNH
Đức liêm chính của một người đối lập với một số biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân như: 1) “Địa phương cục bộ”, chỉ chăm chút và vun vén cho địa phương hoặc bộ phận mình phụ trách mà không nghĩ tới toàn cục, đến lợi ích chung, gây tổn hại đến lợi ích chung của đất nước. 2) Óc hẹp hòi, cánh hẩu, lợi ích nhóm, chỉ luôn “dễ” mình và những người cùng phe nhóm mình và “khó” với những người không “cùng hội cùng thuyền với mình” dù đó là người tài, người tốt, dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, Đảng mất cán bộ và hỏng công việc chung. 3) Quan liêu và tham ô, tham nhũng, làm trái phép nước, coi thường pháp luật, gây bức xúc trong nhân dân...
Hai là, xuất phát từ thực tiễn cơ sở để nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo và chỉ đạo (từ quán triệt đến đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống) gắn với nhiệm vụ chính trị trên tinh thần: Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, phải hết sức tránh. Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phát huy vai trò nêu gương, thống nhất xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện, giữa nói và làm; bám sát cơ sở, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa vào dân và thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ để củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Ba là, cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đồng thời, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác giám sát, kiểm soát cán bộ, để “giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”. Theo đó, mỗi người cán bộ phải nghiêm túc tiếp thu, sửa chữa kịp thời những phê bình, góp ý đúng đắn của nhân dân và khuyến khích nhân dân thực hiện vai trò giám sát của mình một cách tự nguyện, tự giác. Coi sự đánh giá của nhân dân là thước đo chính xác, là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của cấp ủy các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong mọi mặt công tác, nhất là trong quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ, để hạn chế được tiêu cực, phát huy đoàn kết thống nhất và lựa chọn được những người thật xứng đáng, chuẩn bị nhân sự không chỉ cho Trung ương mà còn ở tất cả các ngành, các cấp.
Bốn là, mở rộng và đổi mới công tác truyền thông, tăng cường các chuyên trang, chuyên mục về xây dựng Đảng, về học và làm theo Bác, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông để đảm bảo sức mạnh của công luận và nhân dân, nhất là trong tuyên truyền các tấm gương người tốt, việc tốt, lấy cái tích cực chống cái tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu để nhân rộng những gương điển hình trong cộng đồng. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của cả hệ thống chính trị đối với đội ngũ cán bộ trên tinh thần thấu triệt nguyên tắc kỷ luật là tối thượng, pháp luật là thượng tôn; kịp thời phát hiện và đưa ra khỏi Đảng một cách công minh, kịp thời, bình đẳng những kẻ sâu mọt không còn liêm chính để làm trong sạch Đảng, để Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, góp phần củng cố niềm tin, sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng./.
St

XÂY DỰNG “THẾ TRẬN LÒNG DÂN” TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

 Xây dựng “thế trận lòng dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm khơi dậy, quy tụ lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận và ý chí quyết tâm cao của toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp, vững chắc để cùng với các nhân tố khác thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trọng yếu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

“THẾ TRẬN LÒNG DÂN" LÀ MỘT TRONG NHỮNG MẠCH NGUỒN SỨC MẠNH NỘI SINH CỦA QUỐC GIA - DÂN TỘC
Yếu tố “lòng dân” và “thế trận lòng dân” là hai mặt của một vấn đề có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau; trong đó, “lòng dân” bao giờ cũng tồn tại một cách khách quan và là cơ sở, nền tảng chủ yếu để tạo nên “thế trận lòng dân”. “Thế trận lòng dân” được xây dựng vững chắc sẽ có tác động tích cực, làm cho yếu tố “lòng dân” phát triển hài hòa, lành mạnh và hướng tới thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Song, trên thực tế, yếu tố “lòng dân” không tự nhiên trở thành “thế trận lòng dân” và “thế trận lòng dân” có thể vững ở thời điểm này, giai đoạn này nhưng cũng có thể không vững ở thời điểm khác, giai đoạn khác và không phải cứ xây dựng vững mạnh rồi là xong, mà phải thường xuyên được củng cố trong hoạt động thực tiễn thông qua đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Đồng thời, thế trận này phải được đặt vào trạng thái được triển khai thống nhất trong các tầng lớp dân cư, trong mọi lứa tuổi, mọi giai tầng xã hội. Ngoài ra, môi trường chính trị - xã hội cũng là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho sự hình thành và phát triển của “thế trận lòng dân”.
Xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước, không khó để nhận thấy việc “quy tụ lòng người” là bài học kinh nghiệm quý báu đóng vai trò quyết định đến thắng lợi trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Ngay từ buổi đầu của lịch sử, lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc luôn là chất kết dính muôn người và trở thành nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Đây chính là cơ sở, nền tảng và cội nguồn sâu xa để dân tộc ta huy động sức mạnh tiềm tàng, giành độc lập tự chủ sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Dưới thời nhà Trần, tư tưởng “chúng chí thành thành” và chủ trương “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước” là nhân tố quyết định trong 3 lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông, là nét nổi bật về nghệ thuật đánh giặc giữ nước mang đậm tính minh triết của dân tộc ta.
Trái lại, dưới thời nhà Hồ, lòng dân ly tán, trước họa xâm lăng mà trăm vạn người trăm vạn lòng thì dù có quân đông tướng giỏi, thành cao hào sâu, nhưng Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng vẫn phải thốt lên “thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”. Và đúng là “dân không theo” nên công cuộc giữ nước của nhà Hồ khi đó thất bại.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm “lấy dân làm gốc”, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người khẳng định: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí”. Nhân hòa ở đây thực chất là tinh thần hòa hợp, đồng lòng của toàn dân, biểu hiện tập trung ở lòng yêu nước, sự đoàn kết toàn dân “muôn người như một”, được ví như “bức thành đồng” vững chắc, vô địch mà không có đội quân xâm lăng nào có thể công phá được. Đó cũng chính là sức mạnh của cả nước đồng lòng, toàn dân một ý chí, quyết tâm đánh giặc giữ nước. Không chỉ vậy, Đảng ta còn chú trọng giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng và trong nhân dân, sáng tạo nhiều hình thức tổ chức, tập hợp, thu hút đông đảo quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng, làm cho sự đoàn kết, đồng lòng ấy không ngừng được tăng cường vững chắc, được bổ sung những yếu tố mới, độc đáo, hiệu quả, góp phần quan trọng, quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đến Đại hội lần thứ X, Đảng lần đầu tiên sử dụng cụm từ “thế trận lòng dân” và xác định: Xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Bổ sung và phát triển quan điểm này, Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”. Để củng cố và tăng cường hơn nữa “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong tình hình mới, Đại hội XII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành đồng bộ các chủ trương, giải pháp xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”; đã ban hành nhiều chính sách sát thực tiễn, hợp lòng dân, đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước. Đồng thời, bảo đảm kinh tế phát triển nhanh và bền vững gắn với bảo đảm tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội; thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước cải thiện đời sống nhân dân; đẩy mạnh thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo, ưu đãi đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng; tạo việc làm cho người lao động, miễn giảm thuế nông nghiệp nhằm “an dân”, “dưỡng dân”. Nhờ đó, diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân “thay da đổi thịt”, mọi người dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” như ước nguyện của Bác Hồ.
Cùng với đó, Nhà nước đã ban hành, sửa đổi, đồng bộ hệ thống pháp luật, Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; thực thi quyền con người, quyền công dân. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, cải cách hành chính… được tăng cường và có bước chuyển biến tích cực. Việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thường xuyên được chú trọng, góp phần quan trọng vào việc quy tụ, tập hợp các tầng lớp nhân dân; trong đó, người Việt Nam ở nước ngoài cũng cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, cả khách quan, chủ quan, việc xây dựng “thế trận lòng dân” còn có mặt hạn chế. Lợi dụng những yếu kém trong quản lý, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống phá, làm xuất hiện những sai lệch về chuẩn mực giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống, trái với truyền thống của dân tộc và giá trị con người Việt Nam, ảnh hưởng đến sự đồng thuận, gắn kết trong xã hội, làm cho một bộ phận nhân dân thiếu niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ, ảnh hưởng không nhỏ đến xây dựng “thế trận lòng dân”. Từ thực trạng và những vấn đề đặt ra cho thấy, xây dựng “thế trận lòng dân” để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách cần phải tăng cường đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi địa phương.
TIẾP TỤC XÂY DỰNG "THẾ TRẬN LÒNG DÂN" VỮNG MẠNH
Trong tình hình hiện nay, để xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần phải thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp sau:
Một là, thường xuyên quan tâm, chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân bằng hệ thống các chính sách cụ thể, để nhân dân được ấm no, yên tâm và tin tưởng vào con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Các bộ, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương cần tham gia, phối hợp chặt chẽ để tập trung phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống để nhân dân ổn định cuộc sống, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và vùng đặc biệt khó khăn. Quá trình thực hiện, cần có các cơ chế, chính sách phù hợp, ưu tiên những vùng đặc biệt khó khăn bằng những chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh cụ thể, với khai thác tiềm năng, thế mạnh tại chỗ; đồng thời, tạo điều kiện cho các địa phương và nhân dân tiếp cận nguồn vốn và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thực hiện tiến bộ, công bằng và an sinh xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài; chăm lo sức khỏe cho nhân dân; chú trọng giải quyết các vấn đề bất bình đẳng về lợi ích, phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền; thường xuyên quan tâm giải quyết tốt những bức xúc, những vấn đề nổi cộm trong đời sống của nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chăm lo bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; có cơ chế phù hợp để nhân dân được tham gia bàn bạc, giám sát, phản biện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo sự đồng thuận trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức về tư tưởng và hành động của toàn dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân”; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có cả những thuận lợi và khó khăn, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, càng phải tăng cường giáo dục, tuyên truyền để nhân dân thấy rõ thời cơ và thách thức đang đặt ra đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, trong củng cố “thế trận lòng dân” nói riêng. Phải làm cho “ý Đảng, lòng dân” về “thế trận lòng dân” thấm sâu vào mỗi người dân, trở thành tư tưởng chủ đạo trong xây dựng “thế trận lòng dân” thời kỳ mới.
Cấp ủy, chính quyền và cơ quan chức năng các cấp cần thường xuyên nắm chắc tình hình, đặc điểm dân cư và yêu cầu xây dựng “thế trận lòng dân” trên từng địa bàn để có biện pháp tiến hành phù hợp, hiệu quả. Quá trình thực hiện, cần chú trọng đổi mới nội dung, đa dạng hóa các hình thức, phương pháp giáo dục, tuyên truyền; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục thường xuyên với giáo dục theo chuyên đề gắn với các sự kiện chính trị của đất nước; phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện thông tin, truyền thông và thiết chế văn hóa ở cơ sở. Đồng thời, cần đẩy mạnh phong trào thi đua nhằm tạo ra các điển hình tiên tiến về xây dựng “thế trận lòng dân”; từ đó, tổ chức học tập, rút kinh nghiệm và nhân rộng trên phạm vi cả nước.
Ba là, chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị các cấp theo hướng gần dân, chăm lo cho dân, tạo sức mạnh và uy tín để củng cố niềm tin trong nhân dân. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, gắn học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII; làm cho từng tổ chức đảng và đảng viên thực sự trong sạch, vững mạnh, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức lãnh đạo xây dựng “thế trận lòng dân” đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Cùng với mở rộng dân chủ, cần tập trung xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng; đồng thời, coi trọng nâng cao chất lượng công tác giáo dục, rèn luyện, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, đảm bảo mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, luôn đi đầu, đi trước, làm trước, làm có hiệu quả để nhân dân tin theo trong quá trình xây dựng “thế trận lòng dân” từ cơ sở. Chú trọng việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng và nhân dân trong tổ chức triển khai, thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, tạo sự tin tưởng, đồng thuận và ủng hộ của nhân dân đối với chủ trương, quyết sách của Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền các cấp.
Bốn là, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, thiết thực xây dựng “thế trận lòng dân” làm nền tảng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham ô, tham nhũng theo hướng tích cực phòng ngừa là chủ yếu, kết hợp với xử lý nghiêm các hành vi vi phạm cũng như các biểu hiện dung túng, bao che hoặc ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí dưới mọi hình thức. Làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với tự tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên; với coi trọng công tác quản lý, giám sát cán bộ, đảng viên theo đúng quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước. Đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình thực chất kết hợp với mở rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương, công khai minh bạch mọi vấn đề đối với từng cá nhân, tổ chức, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là trong các lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao như quản lý và sử dụng đất đai, khai thác tài nguyên, ngân hàng, tài chính, xây dựng cơ bản, mua sắm công,… đảm bảo đủ sức phòng ngừa, răn đe, trừng trị để các đối tượng không thể và không dám tham nhũng.
Đề cao trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, địa phương và phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong quá trình thực hiện, cần kiên quyết xử lý, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng; đồng thời, có chính sách khuyến khích, bảo vệ các tổ chức, cá nhân phát hiện, tố cáo tham nhũng, lãng phí. Chủ động và tích cực đấu tranh làm thất bại mọi mưu đồ lợi dụng vấn nạn tham nhũng để kích động, xúi giục, chia rẽ đoàn kết nội bộ, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Năm là, tăng cường hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, phòng, chống và làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, các cấp, các ngành, các địa phương, là giải pháp góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh. Theo đó, cần chủ động nghiên cứu, dự báo, đánh giá và nhận diện đúng về “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; đồng thời, luôn kiên quyết đấu tranh, kiên trì quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm, giải pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của Đảng và Nhà nước.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động và đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là vấn đề mang tính nguyên tắc, giữ vai trò quyết định trong xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”. Gắn nhiệm vụ này với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo điều kiện để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
St