Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CÓ MÂU THUẪN VỚI NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN ?

                     

Quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận thức và vận dụng từ rất sớm. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, củng cố một nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu nhằm phê phán, phủ nhận bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, cho rằng quan điểm này đi ngược với tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra nhiều luận điệu sai trái nhằm phê phán, bác bỏ, phủ nhận vai trò, tính chất pháp quyền của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cho rằng Nhà nước pháp quyền là giá trị của các nước tư bản, việc Việt Nam đặt lại vấn đề xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền thực chất là củng cố sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng còn xuyên tạc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không có tính pháp quyền, bởi Nhà nước pháp quyền có nghĩa là quyền lực cao nhất là pháp luật, mọi tổ chức, cá nhân, từ dân thường đến tổng thống đều phải tuân thủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật, chúng viện dẫn một số nước, một số vụ án, tổng thống đương nhiệm vì có hành vi tham nhũng nên bị bãi chức và luận tội, nhưng ở Việt Nam các vị trí trong Bộ Chính trị, nhất là vị trí trong “tứ trụ” có “kim bài miễn tử”, dù vi phạm đến đâu cùng lắm cũng nghỉ công tác. Vì vậy, chúng đưa ra nhận xét không có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, mà chỉ là công cụ phục vụ sự lãnh đạo “độc tài” của Đảng. Nhà nước chỉ mang lại lợi ích cho những người trong Đảng, chứ không phải Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Âm mưu, thủ đoạn của chúng không có gì mới, thực chất, nhằm tìm cách chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Nhà nước; phủ nhận, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội. Lợi dụng việc Đảng ta đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, nhiều cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ cấp cao bị kỷ luật, thậm chí xử lý hình sự, các thế lực thù địc, phản động, cơ hội chính trị đẩy mạnh tuyên truyền, xuyên tạc khi cho rằng Nhà nước Việt Nam lâu nay che đậy tham nhũng, bảo vệ vấn đề nội bộ, thường xuyên đấu đá nội bộ hơn là bảo vệ người dân, nên Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực chất Nhà nước của Đảng, chứ không phải của dân, do dân , vì dân. Những luận điểm bác bỏ như sau:

1. Nhà nước pháp quyền không phải là sản phẩm của riêng chủ nghĩa tư bản

Trước hết, cần khẳng định Nhà nước pháp quyền không phải là con đẻ của chủ nghĩa tư bản như chúng thường rêu rao, mà là sản phẩm chung của nhân loại. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xuất hiện sớm từ thời cổ đại ở cả phương Tây lẫn phương Đông. Đó là tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật, đồng nhất pháp luật với nhà nước; coi pháp luật là tượng trưng và là phương tiện hữu hiệu bảo vệ tự do, bình đẳng của con người. Vậy nên, chúng có tính phổ quát của nhân loại với những điểm chung: Đề cao vai trò của pháp luật trong tương quan của nó với quyền lực của Nhà nước, Nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, chịu sự ràng buộc của pháp luật; chủ quyền nhân dân với tính cách là nguồn gốc tính chính đáng, tính hợp pháp của Nhà nước; đề cao những giá trị công bằng, công lý, quyền con người…

Trong các kiểu nhà nước khác nhau, với bản chất giai cấp khác nhau thì pháp quyền trong các kiểu nhà nước khác nhau và mang bản chất giai cấp của nhà nước. Cũng là đề cao pháp quyền (đề cao sự thượng tôn hiến pháp, pháp luật), nhưng trong nhà nước pháp quyền tư sản thì đó là đề cao hiến pháp và pháp luật tư bản, trước hết thể hiện ý chí của giai cấp tư sản bảo vệ quyền và lợi ích của riêng giai cấp tư sản. Ngược lại, Nhà nước pháp quyền XHCN đề cao pháp quyền là đề cao Hiến pháp và pháp luật, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đại đa số nhân dân lao động. Chính vì thế, pháp quyền XHCN khác về bản chất so với pháp quyền tư sản, là pháp quyền phải trở thành “công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân”.

Ngoài tính giai cấp, còn bao hàm các giá trị đặc thù của mỗi một quốc gia, dân tộc. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi hàng loạt yếu tố. Các yếu tố này về thực chất là rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều kiện về lịch sử, truyền thống - văn hoá, tâm lý xã hội của mỗi một dân tộc, các chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá và môi trường địa lý. Các yếu tố này không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi một dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát triển của mình mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi một quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.

Trong xây dựng nhà nước pháp quyền phải có sự thống nhất hữu cơ giữa tính phổ biến và tính đặc thù. Vừa chưa đựng các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, tiếp thu các giá trị phổ biến này trong sự tương hợp với các đặc điểm lịch sử, văn hoá, chính trị của quốc gia. Sự quán triệt các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền trong ý nghĩa là các giá trị chung của nhân loại mới có thể đảm bảo được tính pháp quyền của nhà nước theo các chuẩn mực đã được thừa nhận, khắc phục tính dân tộc cực đoan hay các dị biệt làm cho các giá trị dân chủ không được phát huy, tạo nguy cơ rơi vào tình trạng biệt lập trong một thế giới hiện đại ngày nay. Đồng thời, quá trình tiếp thu các giá trị phổ biến, phải xuất phát từ đòi hỏi, yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế - văn hoá, chính trị và truyền thống dân chủ của dân tộc mình mà lựa chọn cách thức xây dựng và vận hành mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp. Nhà nước pháp quyền phải mang bản chất của chế độ chính trị, thể hiện được các đặc sắc của quốc gia, dân tộc. Như vậy, Nhà nước pháp quyền không phải là sản phẩm tiến bộ, riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà là giá trị của nhân loại. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp đặc thù chính trị của Việt Nam, được Nhân dân ủng hộ, mang lại lợi ích cho Nhân dân.

2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Nhà nước, mặc dù, trong các tác phẩm kinh điển, chưa sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”, nhưng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin trình bày rất rõ nội hàm của tư tưởng nhà nước pháp quyền qua hệ thống quan điểm về nhà nước chuyên chính vô sản. Theo đó, nhà nước không còn là cơ quan “đứng trên xã hội” mà là nhà nước phục tùng xã hội; nhân dân không còn là “nhân dân của nhà nước” mà tự quyết định, sáng tạo nên nhà nước, là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, mang bản chất giai cấp công nhân, vì con người, giải phóng con người, bảo vệ con người; đồng thời, tổ chức, hoạt động theo pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, đó là cơ sở lý luận để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang đặc thù ở Việt Nam.

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung về nhà nước pháp quyền XHCN – kiểu tổ chức nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là Nhân dân là chủ”. Theo tinh thần đó, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ Nhân dân, do Nhân dân ủy quyền, giao phó cho bộ máy nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực ấy, nhằm phụng sự lợi ích của Nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, do đó, đội ngũ cán bộ, công chức phải xứng đáng là công bộc của Nhân dân. Đây là Nhà nước của Nhân dân, do chính Nhân dân thiết lập qua thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Những giá trị cốt lõi trên trở thành tư tưởng xuyên suốt về xây dựng Nhà nước pháp quyền thể hiện trong đường lối của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của đất nước đã khẳng định Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa các giá trị về nhà nước trong lịch sử, sau hơn 35 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ngày càng hoàn thiện. Từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (tháng 11-1991), lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền XHCN” chính thức được Đảng ta đề cập. Nội dung này được khẳng định rõ hơn tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994). Sau đó, tại hội nghị Trung ương 8 (khóa VII) cũng đã nêu quan điểm rất rõ về nội dung này. Từ đó đến nay, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta không ngừng xây dựng và hoàn thiện lý luận và thực tiễn Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011), thể hiện bước phát triển mới nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền XHCN. Cương lĩnh khẳng định, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, là một trong 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà chúng ta xây dựng, đó là: ” Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”;” Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh....Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.Thể chế hóa quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “(1). Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (2). Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; (3). Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Với quy định trên, Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ một đặc trưng rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thể hiện rất rõ nguyên tắc cơ bản - nguyên tắc chủ quyền nhân dân, đây cũng là nội dung xuyên suốt được ghi nhận trong 05 bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013.

Đến nay, nhận thức về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ngày càng được hoàn thiện và hiện thực hóa trong thực tiễn. Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng mang bản chất của chế độ XHCN khác về bản chất so với nhà nước pháp quyền tư sản. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, “lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ XHCN là “công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”. 

Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước. Trong tổ chức và hoạt động Nhà nước ta luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Bằng chứng là quyền lực chính trị, lợi ích kinh tế, quan hệ xã hội, tư tưởng làm chủ của nhân dân đã được ghi trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cũng được ghi rõ trong Hiến pháp năm 2013. Những nỗ lực và thành quả bước đầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong những năm qua ở Việt Nam là một hiện thực có thể định tính và định lượng. Nhiều điều luật, điều ước quốc tế phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước đã được nội luật hóa, nhất là vấn đề liên quan đến quyền con người. Hiệu quả thực thi pháp luật không ngừng được nâng lên. Các chủ thể trong xã hội bình đẳng trước pháp luật, được làm những điều pháp luật không cấm. Bộ máy nhà nước dần được được hoàn thiện theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn.

3. Nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước” là đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Theo các nhà nghiên cứu “tam quyền phân lập” là nguyên tắc tổ chức của Nhà nước tư bản để không tập trung quá nhiều quyền lực nhà nước vào một cơ quan nhất định bằng sự phân chia quyền lực và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, do mỗi nước có truyền thống lịch sử, văn hoá, điều kiện đặc thù khác nhau nên không thể có một khuôn mẫu chung nào về “tam quyền phân lập” để áp dụng chung cho tất cả các nước mà mỗi nước có một mô hình tổ chức khác nhau. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị xuyên tạc rằng sự phân công, phân nhiệm này thực chất là phân chia quyền lực giữa các phe nhóm trong nội bộ đảng.

Khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Sự ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam so với các nước tư bản trên thế giới là pháp luật phục vụ Nhân dân, để thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân; mục tiêu phát triển đất nước là để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Như vậy, cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay đã thể hiện được tính hợp lý, tính khoa học đúng đắn của nó, chứ không phải là phân chia quyền lực như các thế lực thù địch hay rêu rao. Vấn đề cốt lõi giai đoạn hiện nay không phải là lựa chọn làm theo mô hình nào mà là chúng ta phải thực hiện mô hình mà chúng ta đã dày công, tâm huyết lựa chọn, xây dựng đó như thế nào để Nhân dân thực sự làm chủ.

Đại hội IX của Đảng đã dứt khoát khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản trong tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước tư sản, là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà tổ chức quyền lực theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất”, không thể “phân quyền” theo lối phân chia, cắt khúc, đối chọi lẫn nhau giữa các quyền, mà chỉ có sự phân công trên cơ sở thống nhất và tập trung quyền lực cao nhất ở Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Các quan điểm chủ đạo của Đảng ta về xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã gắn chặt với sắc thái truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, cùng với các giá trị dân chủ, nhân đạo, nhân văn, nhân ái của nhân loại. Mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng phù hợp với các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc vận dụng một cách sáng tạo và có chọn lọc những kinh nghiệm khác nhau của các dân tộc về cách thức tổ chức Nhà nước pháp quyền, ưu tiên những giá trị có tính phổ biến, kết hợp hài hoà với các giá trị truyền thống, những đặc điểm phát triển và lịch sử phát triển đất nước.

Quyền lực nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng, nhưng cũng rất phức tạp. Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả sẽ là điều kiện để thực hiện được những mục đích đã đề ra, mang lại hạnh phúc và nhiều lợi ích nhất cho nhân dân, đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình nắm giữ, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thường tiềm ẩn rất nhiều những nguy cơ khác nhau như tham nhũng, lãng phí, lạm quyền… Vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng trong quản lý nhà nước trên thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng, đây cũng chính là ước vọng hàng nghìn năm của nhân loại tiến bộ, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Tuy nhiên, với thái độ khách quan, cầu thị, “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật”, chúng ta cũng nhận thấy sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đang đặt ra nhiều thách thức về lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải được nhận thức thấu đáo và giải quyết kịp thời, phù hợp với điều kiện của chúng ta. Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) của Đảng đánh giá: công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt được những thành tựu rất quan trọng; tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới”. Những hạn chế, bất cập đó thể hiện trên cả về nhận thức và thực tiễn, cụ thể là: việc chọn lọc và kế thừa lý luận và kinh nghiệm của nhân loại để xây dựng được lý luận và cách thức thực thi của riêng mình theo yêu cầu của định hướng XHCN và phù hợp với đặc thù của Việt Nam; đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế; hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước; hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật; vấn đề phát huy dân chủ và đảm bảo các quyền con người, quyền công dân vẫn còn những bất cập, nhất là trong lĩnh vực các quyền chính trị - dân; sự xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của truyền thống tư tưởng - văn hoá pháp lý của người Việt tới tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền….

Đại hội XIII, xác định: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước” và đòi hỏi “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”. 

Để hướng tới những mốc quan trọng của đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là quy luật phát triển tất yếu của Nhà nước Việt Nam, là nguyện vọng, sự lựa chọn của nhân dân, phù hợp với các xu hướng phát triển Nhà nước, của đất nước ta với tình hình thế giới, đã được Đảng ta cân nhắc kỹ để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nước ta. Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) đề ra mục tiêu tổng quát: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có “hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045”. Chúng ta có nhiều tiền đề thuận lợi để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, bởi cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín của đất nước ta không ngừng tăng, sự phát triển của đất nước là hình mẫu cho nhiều quốc gia trên thế giới, được kiểm nghiệm qua những khó khăn, thử thách, mà gần đây là Đại dịch Covid – 19. Đó là những tiền đề rất lớn để Việt Nam tự tin, tự chủ tuyên bố về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nược của dân, do dân, vì dân.

Mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xây dựng trên cơ sở kiên định trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, không giáo điều, dập khuôn cũng không tùy tiện vô nguyên tắc; vận dụng một cách sáng tạo và có chọn lọc những kinh nghiệm khác nhau của các dân tộc về cách thức tổ chức nhà nước pháp quyền, ưu tiên những giá trị có tính phổ biến, kết hợp hài hòa với các giá trị truyền thống, những đặc điểm phát triển và lịch sử phát triển đất nước. Do đó, quan điểm, luận điệu hòng bác bỏ, phủ nhận bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay đều sai lầm cả về lý luận và thực tiễn. Những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đời sống Nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc đã khẳng định nhà nước ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Mọi mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều sẽ thất bại.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét