Quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận thức và vận dụng từ rất sớm. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, củng cố một nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu nhằm phê phán, phủ nhận bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, cho rằng quan điểm này đi ngược với tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Các
thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa
ra nhiều luận điệu sai trái nhằm phê phán, bác bỏ, phủ nhận vai trò, tính chất
pháp quyền của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cho rằng Nhà nước pháp quyền
là giá trị của các nước tư bản, việc Việt Nam đặt lại vấn đề xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền thực chất là củng cố sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Chúng còn xuyên tạc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
không có tính pháp quyền, bởi Nhà nước pháp quyền có nghĩa là quyền lực cao nhất
là pháp luật, mọi tổ chức, cá nhân, từ dân thường đến tổng thống đều phải tuân
thủ và chịu trách nhiệm trước pháp luật, chúng viện dẫn một số nước, một số vụ
án, tổng thống đương nhiệm vì có hành vi tham nhũng nên bị bãi chức và luận
tội, nhưng ở Việt Nam các vị trí trong Bộ Chính trị, nhất là vị trí trong “tứ
trụ” có “kim bài miễn tử”, dù vi phạm đến đâu cùng lắm cũng nghỉ công tác. Vì
vậy, chúng đưa ra nhận xét không có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, mà chỉ là công cụ phục vụ sự lãnh đạo “độc tài” của Đảng. Nhà nước chỉ
mang lại lợi ích cho những người trong Đảng, chứ không phải Nhà nước của dân,
do dân, vì dân.
Âm mưu, thủ đoạn của chúng không có gì mới, thực chất,
nhằm tìm cách chống phá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
Nhà nước; phủ nhận, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn
xã hội. Lợi dụng việc Đảng ta đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, nhiều
cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ cấp cao bị kỷ luật, thậm chí xử lý hình sự, các
thế lực thù địc, phản động, cơ hội chính trị đẩy mạnh tuyên truyền, xuyên tạc
khi cho rằng Nhà nước Việt Nam lâu nay che đậy tham nhũng, bảo vệ vấn đề nội
bộ, thường xuyên đấu đá nội bộ hơn là bảo vệ người dân, nên Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa thực chất Nhà nước của Đảng, chứ không phải của dân, do dân ,
vì dân. Những luận điểm bác bỏ như sau:
1. Nhà nước pháp quyền không phải là sản
phẩm của riêng chủ nghĩa tư bản
Trước
hết, cần khẳng định Nhà nước pháp quyền không phải là con đẻ của chủ nghĩa tư
bản như chúng thường rêu rao, mà là sản phẩm chung của nhân loại. Tư tưởng về
Nhà nước pháp quyền xuất hiện sớm từ thời cổ đại ở cả phương Tây lẫn phương
Đông. Đó là tư tưởng đề cao vai trò của pháp luật, đồng nhất pháp luật với nhà
nước; coi pháp luật là tượng trưng và là phương tiện hữu hiệu bảo vệ tự do,
bình đẳng của con người. Vậy nên, chúng có tính phổ quát của nhân loại với
những điểm chung: Đề cao vai trò của pháp luật trong tương quan của nó với
quyền lực của Nhà nước, Nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, chịu sự ràng
buộc của pháp luật; chủ quyền nhân dân với tính cách là nguồn gốc tính chính
đáng, tính hợp pháp của Nhà nước; đề cao những giá trị công bằng, công lý,
quyền con người…
Trong các kiểu nhà nước khác nhau, với bản chất
giai cấp khác nhau thì pháp quyền trong các kiểu nhà nước khác nhau và mang bản
chất giai cấp của nhà nước. Cũng là đề cao pháp quyền (đề cao sự thượng tôn
hiến pháp, pháp luật), nhưng trong nhà nước pháp quyền tư sản thì đó là đề cao
hiến pháp và pháp luật tư bản, trước hết thể hiện ý chí của giai cấp tư sản bảo
vệ quyền và lợi ích của riêng giai cấp tư sản. Ngược lại, Nhà nước pháp quyền
XHCN đề cao pháp quyền là đề cao Hiến pháp và pháp luật, thể hiện ý chí của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của đại đa số nhân dân lao động. Chính vì thế, pháp quyền XHCN khác
về bản chất so với pháp quyền tư sản, là pháp quyền phải trở thành “công cụ thể
hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại
đa số nhân dân”.
Ngoài tính giai cấp, còn bao hàm các giá trị đặc
thù của mỗi một quốc gia, dân tộc. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được
xác định bởi hàng loạt yếu tố. Các yếu tố này về thực chất là rất đa dạng,
phong phú và phức tạp, được xác định bởi các điều kiện về lịch sử, truyền thống
- văn hoá, tâm lý xã hội của mỗi một dân tộc, các chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, văn hoá và môi trường địa lý. Các yếu tố này không chỉ tạo ra các đặc sắc,
tính riêng biệt của mỗi một dân tộc trong quá trình dựng nước, giữ nước và phát
triển của mình mà còn quyết định mức độ tiếp thu và dung nạp các giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền. Không thể có một nhà nước pháp quyền chung chung
như một mô hình chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi một quốc gia,
dân tộc, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và
trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích
hợp.
Trong
xây dựng nhà nước pháp quyền phải có sự thống nhất hữu cơ giữa tính phổ biến và
tính đặc thù. Vừa chưa đựng các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, tiếp
thu các giá trị phổ biến này trong sự tương hợp với các đặc điểm lịch sử, văn
hoá, chính trị của quốc gia. Sự quán triệt các giá trị phổ biến của nhà nước
pháp quyền trong ý nghĩa là các giá trị chung của nhân loại mới có thể đảm bảo
được tính pháp quyền của nhà nước theo các chuẩn mực đã được thừa nhận, khắc
phục tính dân tộc cực đoan hay các dị biệt làm cho các giá trị dân chủ không
được phát huy, tạo nguy cơ rơi vào tình trạng biệt lập trong một thế giới hiện
đại ngày nay. Đồng thời, quá trình tiếp thu các giá trị phổ biến, phải xuất
phát từ đòi hỏi, yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế - văn hoá, chính trị và
truyền thống dân chủ của dân tộc mình mà lựa chọn cách thức xây dựng và vận hành
mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp. Nhà nước pháp quyền phải mang bản chất
của chế độ chính trị, thể hiện được các đặc sắc của quốc gia, dân tộc. Như vậy,
Nhà nước pháp quyền không phải là sản phẩm tiến bộ, riêng có của chủ nghĩa tư
bản, mà là giá trị của nhân loại. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp
đặc thù chính trị của Việt Nam, được Nhân dân ủng hộ, mang lại lợi ích cho Nhân
dân.
2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc
Xuất
phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề Nhà
nước, mặc dù, trong các tác phẩm kinh điển, chưa sử dụng thuật ngữ “nhà nước
pháp quyền”, nhưng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin trình bày rất rõ
nội hàm của tư tưởng nhà nước pháp quyền qua hệ thống quan điểm về nhà nước
chuyên chính vô sản. Theo đó, nhà nước không còn là cơ quan “đứng trên xã hội”
mà là nhà nước phục tùng xã hội; nhân dân không còn là “nhân dân của nhà nước”
mà tự quyết định, sáng tạo nên nhà nước, là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhà
nước xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ, mang bản chất giai cấp công nhân, vì
con người, giải phóng con người, bảo vệ con người; đồng thời, tổ chức, hoạt
động theo pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, đó là cơ sở lý
luận để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang đặc thù ở Việt Nam.
Trong
di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung về nhà nước pháp quyền XHCN – kiểu tổ
chức nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân vì dân là chủ”;
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là Nhân dân là chủ”.
Theo tinh thần đó, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, toàn bộ
quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ Nhân dân, do Nhân dân ủy quyền, giao phó
cho bộ máy nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực ấy, nhằm
phụng sự lợi ích của Nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa
hành ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, do đó, đội ngũ cán bộ, công chức phải
xứng đáng là công bộc của Nhân dân. Đây là Nhà nước của Nhân dân, do chính Nhân
dân thiết lập qua thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Những giá trị cốt lõi trên
trở thành tư tưởng xuyên suốt về xây dựng Nhà nước pháp quyền thể hiện trong
đường lối của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của đất nước đã khẳng định Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa các giá trị về nhà nước trong lịch sử, sau hơn 35
năm đổi mới, nhận thức của Đảng về nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ngày càng
hoàn thiện. Từ Hội nghị Trung ương 2 khóa
VII (tháng 11-1991), lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền XHCN” chính
thức được Đảng ta đề cập. Nội dung này được khẳng định rõ hơn tại Hội nghị toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994). Sau đó,
tại hội nghị Trung ương 8 (khóa VII) cũng đã nêu quan điểm rất rõ về nội dung
này. Từ đó đến nay, qua các kỳ Đại hội, Đảng
ta không ngừng xây dựng và hoàn thiện lý luận và thực tiễn Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011), thể hiện bước phát triển mới
nhận thức của Đảng về nhà nước pháp
quyền XHCN.
Cương lĩnh khẳng định, Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, là một trong 8 đặc trưng của xã hội XHCN
mà chúng ta xây dựng, đó là: ” Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”;” Nhà
nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh....Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.Thể chế hóa quan điểm xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “(1). Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; (2). Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức; (3). Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Với quy định trên, Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ một đặc trưng
rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam đó là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và thể hiện rất rõ nguyên tắc cơ bản - nguyên tắc chủ quyền nhân
dân, đây cũng là nội dung xuyên suốt được ghi nhận trong 05 bản Hiến pháp từ
Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013.
Đến
nay, nhận thức về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ngày càng được hoàn thiện
và hiện thực hóa trong thực tiễn. Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây
dựng mang bản chất của chế độ XHCN khác về bản chất so với nhà nước pháp quyền
tư sản. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, “lấy quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng
tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Pháp
quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ
cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ XHCN là
“công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ
lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm
các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên
chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”.
Thực tiễn xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân, tính nhân
dân và tính dân tộc của nhà nước. Trong tổ chức và hoạt động Nhà nước ta luôn
đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Bằng chứng là quyền lực chính
trị, lợi ích kinh tế, quan hệ xã hội, tư tưởng làm chủ của nhân dân đã được ghi
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
cũng được ghi rõ trong Hiến pháp năm 2013. Những nỗ lực và thành quả bước đầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
trong những năm qua ở Việt Nam là một hiện thực có thể định tính và định lượng.
Nhiều điều luật, điều ước quốc tế phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước
đã được nội luật hóa, nhất là vấn đề liên quan đến quyền con người. Hiệu quả
thực thi pháp luật không ngừng được nâng lên. Các chủ thể trong xã hội bình đẳng trước pháp luật, được làm những điều
pháp luật không cấm. Bộ máy nhà
nước dần được được hoàn thiện theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả
hơn.
3. Nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước” là đặc
trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Theo các nhà nghiên cứu “tam quyền phân lập” là nguyên tắc tổ
chức của Nhà nước tư bản để không tập trung quá nhiều quyền lực nhà nước vào
một cơ quan nhất định bằng sự phân chia quyền lực và kiểm soát lẫn nhau giữa
các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, do mỗi nước có truyền
thống lịch sử, văn hoá, điều kiện đặc thù khác nhau nên không thể có một khuôn
mẫu chung nào về “tam quyền phân lập” để áp dụng chung cho tất cả các nước mà
mỗi nước có một mô hình tổ chức khác nhau. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản
động, cơ hội chính trị xuyên tạc rằng sự phân công, phân nhiệm này thực chất là
phân chia quyền lực giữa các phe nhóm trong nội bộ đảng.
Khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Sự ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam so với các nước tư bản trên thế giới là pháp
luật phục vụ Nhân dân, để thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân; mục tiêu phát
triển đất nước là để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân. Như
vậy, cơ chế phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay đã thể
hiện được tính hợp lý, tính khoa học đúng đắn của nó, chứ không phải là phân
chia quyền lực như các thế lực thù địch hay rêu rao. Vấn đề cốt lõi giai đoạn
hiện nay không phải là lựa chọn làm theo mô hình nào mà là chúng ta phải thực
hiện mô hình mà chúng ta đã dày công, tâm huyết lựa chọn, xây dựng đó như thế
nào để Nhân dân thực sự làm chủ.
Đại
hội IX của Đảng đã dứt khoát khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Quyền lực Nhà nước là thống
nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Như vậy, điểm khác nhau cơ bản trong tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước tư sản, là: Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà tổ chức
quyền lực theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất”, không thể “phân
quyền” theo lối phân chia, cắt khúc, đối chọi lẫn nhau giữa các quyền, mà chỉ
có sự phân công trên cơ sở thống nhất và tập trung quyền lực cao nhất ở Quốc
hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Các quan điểm chủ đạo của Đảng
ta về xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã gắn
chặt với sắc thái truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, cùng với các giá
trị dân chủ, nhân đạo, nhân văn, nhân ái của nhân loại. Mô hình Nhà nước pháp
quyền Việt Nam được xây dựng phù hợp với các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
về việc vận dụng một cách sáng tạo và có chọn lọc những kinh nghiệm khác nhau
của các dân tộc về cách thức tổ chức Nhà nước pháp quyền, ưu tiên những giá trị
có tính phổ biến, kết hợp hài hoà với các giá trị truyền thống, những đặc điểm
phát triển và lịch sử phát triển đất nước.
Quyền lực nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng, nhưng cũng rất phức tạp.
Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả sẽ là điều kiện
để thực hiện được những mục đích đã đề ra, mang lại hạnh phúc và nhiều lợi ích
nhất cho nhân dân, đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình nắm giữ, tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước thường tiềm ẩn rất nhiều những nguy cơ khác nhau
như tham nhũng, lãng phí, lạm quyền… Vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước
là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng trong quản lý nhà nước trên thế giới nói
chung, ở nước ta nói riêng, đây cũng chính là ước vọng hàng nghìn năm của nhân
loại tiến bộ, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ
nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “Tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân”, là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Tuy
nhiên, với thái độ khách quan, cầu thị, “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật”, chúng ta cũng nhận thấy sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam đang đặt ra nhiều thách thức về lý luận và thực tiễn đòi
hỏi phải được nhận thức thấu đáo và giải quyết kịp thời, phù hợp với điều kiện
của chúng ta. Hội nghị Trung ương 6 (khóa
XIII) của Đảng đánh giá: công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đã đạt được những thành tựu rất quan trọng; tuy nhiên, vẫn còn những
hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất
nước trong tình hình mới”. Những hạn chế, bất cập
đó thể hiện trên cả về nhận thức và thực tiễn, cụ thể là: việc chọn lọc và kế
thừa lý luận và kinh nghiệm của nhân loại để xây dựng được lý luận và cách thức
thực thi của riêng mình theo yêu cầu của định hướng XHCN và phù hợp với đặc thù
của Việt Nam; đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế; hiệu
lực, hiệu quả quản lý của nhà nước; hoạt động xây dựng pháp luật và tổ chức
thực thi pháp luật; vấn đề phát huy dân chủ và đảm bảo các quyền con người,
quyền công dân vẫn còn những bất cập, nhất là trong lĩnh vực các quyền chính
trị - dân; sự xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; khắc
phục ảnh hưởng tiêu cực của truyền thống tư tưởng - văn hoá pháp lý của người
Việt tới tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền….
Đại
hội XIII, xác định: “Tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm
của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của Nhà nước” và đòi hỏi “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân
dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương
trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn
xã hội”.
Để hướng tới những mốc quan trọng của đất nước đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN ở Việt Nam là quy luật phát triển tất yếu của Nhà nước Việt Nam, là
nguyện vọng, sự lựa chọn của nhân dân, phù hợp với các xu hướng phát triển Nhà
nước, của đất nước ta với tình hình thế giới, đã được Đảng ta cân nhắc kỹ để
tiếp tục xây dựng, hoàn thiện mô hình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nước
ta. Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) đề ra mục
tiêu tổng quát: xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có “hệ
thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn
Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người,
quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch,
phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp,
pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực
sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập
cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045”.
Chúng ta có nhiều tiền đề thuận lợi để
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, bởi cơ đồ, tiềm lực, vị thế,
uy tín của đất nước ta không ngừng tăng, sự phát triển của đất nước là hình mẫu
cho nhiều quốc gia trên thế giới, được kiểm nghiệm qua những khó khăn, thử
thách, mà gần đây là Đại dịch Covid – 19. Đó là những tiền đề rất lớn để Việt
Nam tự tin, tự chủ tuyên bố về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nược
của dân, do dân, vì dân.
Mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được xây dựng trên cơ sở kiên định trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, không giáo điều, dập khuôn cũng không tùy tiện vô nguyên tắc; vận dụng một cách sáng tạo và có chọn lọc những kinh nghiệm khác nhau của các dân tộc về cách thức tổ chức nhà nước pháp quyền, ưu tiên những giá trị có tính phổ biến, kết hợp hài hòa với các giá trị truyền thống, những đặc điểm phát triển và lịch sử phát triển đất nước. Do đó, quan điểm, luận điệu hòng bác bỏ, phủ nhận bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay đều sai lầm cả về lý luận và thực tiễn. Những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đời sống Nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc đã khẳng định nhà nước ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Mọi mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều sẽ thất bại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét