Thứ Tư, 26 tháng 6, 2024

TRỊ BỆNH “NGÁO CHỮ” TRONG HỘI THẢO!

     Hội thảo là một dịp quan trọng để các đại biểu phát huy trí tuệ, tâm huyết, luận bàn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn. Thế nhưng đáng buồn thay, không ít đại biểu lại xem hội thảo như sân khấu để phô trương, chứng tỏ bản thân với những mỹ từ sáo rỗng. Hành vi ấy là biểu hiện của căn bệnh “ngáo chữ”, khiến không ít hội thảo trở nên thiếu dân chủ, thiếu khoa học, gây lãng phí, nguy cơ dẫn tới nhiều mối nguy, hệ lụy!

Mối nguy từ bệnh “ngáo chữ”
Tại một cuộc hội thảo của ngành, chủ đề được xác định khá thiết thực, có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Một nữ đại biểu trước hội thảo báo với ban tổ chức: “Bài tham luận của tôi dài 3 trang đã được in trong kỷ yếu nên tôi xin phép không đọc lại để khỏi làm mất thời giờ”. Một vị chủ tọa liền nói: “Không, cô cứ đọc bài tham luận của mình để bảo đảm đúng thời gian”. Những tưởng đã xong, nữ đại biểu nọ sau khi đọc xong tham luận của mình, liền xin phép chia sẻ một số “điều tâm huyết bấy lâu”. Chẳng quan tâm phía dưới nghĩ gì, nữ đại biểu cứ phát biểu tràng giang đại hải, khoe mẽ, tung hô, kể lể quá trình mình làm việc khó khăn thế nào, thành tích ra sao, rồi lên án, phê phán cá nhân này, tổ chức khác, khiến nhiều người nghe tỏ vẻ bức bối, khó chịu; ban tổ chức phải nhiều lần ngắt lời mới dừng được nữ đại biểu. Một số người chứng kiến tỏ ra ái ngại: Hội thảo chứ có phải buổi liveshow cá nhân đâu mà “ngáo chữ” đến vậy?

Thực tế, tại nhiều hội thảo hiện nay, bên cạnh những ý kiến tâm huyết, đi sâu vào vấn đề trọng tâm, cống hiến nhiều luận cứ khoa học, có tính lý luận và thực tiễn thì chúng ta vẫn gặp khá nhiều trường hợp bị “ngáo chữ” như vậy. Biểu hiện thường thấy của căn bệnh này là người phát biểu thao thao bất tuyệt, kiểu “nói như rồng leo”, không bám sát nội dung đề dẫn hội thảo, các vấn đề cốt lõi, những khó khăn, hạn chế, đề xuất giải pháp mà lại lạc đề, sa vào kể lể, tung hô thành tích bằng những mỹ từ sáo rỗng, sáo ngữ, lập ngôn, vừa máy móc, vừa thiếu khoa học, thiếu dân chủ. Thậm chí có đại biểu bước lên diễn đàn thì quên mất mình là ai, bỗng hóa thành “anh hùng”, có quyền phê phán, lời lẽ cay độc với người này, người nọ, tự huyễn hoặc bản thân... Lại có đại biểu “ngáo chữ”, không biết mình đang nói cái gì, nói đến đâu. Ngôn ngữ thì “đao to búa lớn”, sặc mùi sính ngoại, câu nào cũng phải thêm vào vài từ tiếng Anh như: “4.0”; thời đại “@”, “business”... mà quên mất rằng ngồi phía dưới toàn là các bậc tiền bối khoa học nước nhà.

Xét về mặt ngữ nghĩa, “ngáo chữ” và “sáo ngữ” hay “ngộ chữ” đều có nét tương đồng với nhau, ấy là hành vi đều dùng lời nói theo dạng rập khuôn máy móc, không truyền tải thông tin cần thiết, thiếu lý luận, thiếu thực tiễn. Nếu như “sáo ngữ” là hành vi người nói có dụng ý dùng lời lẽ mỹ miều, bùi tai, thuận chiều để “che lấp” những vấn đề không muốn nói, thì “ngáo chữ” là hành vi người nói không kiềm chế được lời nói của mình, ảo tưởng về bản thân, thậm chí là hành động phụ họa không bình thường trên hội thảo. Hành vi này vừa gây mất thời gian hội thảo, vừa vô bổ, lạc lõng, phiến diện. Người nghe vì thế cảm thấy mình như là “nạn nhân”, bị tra tấn tinh thần. Thậm chí, có chuyên gia còn đem so sánh hành vi “ngáo đá” và “ngáo chữ” trong các hội thảo trá hình xuất hiện lâu nay; tuy khác nhau về hành vi nhưng đều có điểm chung đó là nói về những đối tượng không còn ý thức được hành vi của mình, thường có hành động gây nguy hiểm cho bản thân, gia đình và cộng đồng.

Bệnh “ngáo chữ” có nhiều nguyên nhân, song cơ bản bắt nguồn sâu xa từ thói phô trương, ưa hình thức, sính dùng từ ngữ to tát, mỹ miều để chứng tỏ bản thân là người học cao, hiểu rộng, am tường thời cuộc, trí tuệ hơn người... Hành vi này thật sự nguy hiểm khi nó lan truyền từ người này sang người khác, bởi hiệu ứng “con gà tức nhau tiếng gáy”. Những người “ngáo chữ” chẳng những gây bực tức cho người nghe mà còn làm ảnh hưởng đến nội dung chương trình, kịch bản, chất lượng của cuộc hội thảo. Các vấn đề mang tính khoa học, lý luận và thực tiễn không được tập trung bàn luận, tháo gỡ, thậm chí đi lệch hướng, không bảo đảm tính khoa học, thiếu dân chủ, thiếu khách quan.

Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng chỉ rõ những biểu hiện: “Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu...”, được xác định là một trong số những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo, sáo rỗng, phát biểu xa rời thực tiễn chính là nguyên nhân làm mất niềm tin của nhân dân, cấp dưới, về lâu dài là mối nguy xói mòn niềm tin trong Đảng, kìm hãm sự phát triển của xã hội.

Mạnh mẽ thay đổi tư duy, thực hành nói đi đôi với làm
Hội thảo là cuộc gặp gỡ của những đại biểu có cùng mối quan tâm về một vấn đề khoa học hoặc thực tiễn cấp thiết. Cái đích cao nhất của hội thảo là đi đến tận cùng các vấn đề tri thức khoa học, tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề mà thực tiễn đang cần, lòng dân đang mong. Sẽ rất đáng quý nếu các đại biểu mang đến hội thảo những ý kiến hay, phát kiến mới, đóng góp cho nội dung trọng tâm hội thảo, giải quyết những khâu khó, việc yếu, cấp thiết.

Để hội thảo đạt hiệu quả thực chất, việc trước hết và quan trọng hàng đầu hiện nay là đòi hỏi những người đứng đầu, những người làm công tác tổ chức cần thay đổi tư duy, đặt ra yêu cầu cao trong công tác chuẩn bị và vận hành hội thảo. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6-2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo cần tiếp tục đổi mới cách thức tổ chức các phiên họp, từ khâu tổ chức, báo cáo tới khâu thảo luận, phát biểu. Trong đó, việc xây dựng các báo cáo phải theo hướng ngắn gọn, súc tích, dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm, dễ kiểm tra, dễ đánh giá, tập trung vào những công việc trọng tâm...

Với tinh thần ấy, đã đến lúc cần kiên quyết nói không với bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo. Cần phải xem đây là hành vi lệch chuẩn và vi phạm kịch bản, quy định của hội thảo để kịp thời xử lý. Theo đó, trước mỗi cuộc hội thảo, ban tổ chức cần phải xem xét, xây dựng kỹ lưỡng kịch bản, các đại biểu tham luận; trong đó làm rõ yêu cầu về thời gian, chủ đề, ý kiến phản biện... Việc mời các đại biểu tham luận, đóng góp ý kiến phải được xem xét phù hợp; đó phải là những người có học vấn, am hiểu, chuyên sâu về lĩnh vực hội thảo; có lý lịch khoa học tốt. Tránh việc mời đại biểu tham luận như một dịp để tri ân và giải quyết những mối quan hệ trong công tác. Quá trình điều hành hội thảo, người chủ trì cần linh hoạt, có phương pháp xử lý kịp thời, dứt khoát với các đại biểu mắc bệnh “ngáo chữ”.

Bản thân các đại biểu tham luận tại hội thảo cần phải xem đây là cơ hội quan trọng để đóng góp tâm huyết, trí tuệ, sáng kiến cho hội thảo. Từng người cần tích cực, chủ động nghiên cứu kỹ lưỡng chủ đề hội thảo và chắt lọc, cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề mà mình được tham luận, bảo đảm tính lý luận, thực tiễn, thiết thực. Tránh trường hợp nói trong hội thảo khác, ra ngoài hội thảo nói khác, hay nói trong kỷ yếu khác nhưng tham luận trực tiếp lại khác. Hội thảo là cuộc hội ngộ của các chuyên gia, nhà khoa học, các đại biểu, thành công của cuộc hội thảo đó là công sức, trí tuệ, tâm huyết của tập thể được kết tinh, đúc rút, cung cấp nhiều luận cứ về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần giải quyết thấu đáo vấn đề mà quần chúng nhân dân mong chờ. Bởi vậy, đứng trước hội thảo, mỗi đại biểu cần phải khiêm tốn, đúng mực, tránh hành vi lộng ngôn, cao ngạo, tự cho mình cái quyền được phê phán người này, người nọ. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng trau dồi kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức khoa học cả về lý luận và thực tiễn.

Một tham luận hay trong hội thảo cũng không phải là đọc nguyên văn như một bản báo cáo thành tích đã soạn sẵn, mà cần phải có những yếu tố phản biện, tranh luận, đóng góp, phát kiến. Bởi vậy cần phân biệt rõ việc phản biện và bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo. Phản biện được hội thảo ghi nhận, đánh giá cao nếu đại biểu tham luận nêu lên được cái mới, tính đột phá, sáng tạo, thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám đột phá sáng tạo. Còn “ngáo chữ” lại là hành vi đáng phê bình bởi lối hoang tưởng, ảo tưởng sức mạnh cá nhân, khoe mẽ, sáo rỗng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên phải nói những điều thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, tránh lời nói đao to búa lớn, sáo rỗng, nói không đi đôi với làm. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Người viết năm 1947 với bút danh X.Y.Z, Bác chỉ rõ “ba chứng bệnh phải tẩy sạch” đó là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và bệnh ba hoa. Người yêu cầu: Phải tự phê bình và phê bình nghiêm khắc khi mắc vào những bệnh rất có hại ấy và phải quyết tâm sửa chữa trong tư tưởng và trong hành động, trong các mối quan hệ.

Trong bối cảnh toàn Đảng đang tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc trong các cơ quan của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, bảo đảm tính khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể, thì việc nói không với bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo như nêu ở trên cần được nhận diện và sớm khắc phục. Muốn làm được điều này cần sự thay đổi trong tư duy của cả hệ thống chính trị, nhất là những người đứng đầu. Song hành với đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, thực hành nói đi đôi với làm, gắn lý luận với thực tiễn, có như vậy mới tạo động lực cho sự phát triển nói chung./.
Yêu nước ST.

PHÒNG, CHÚNG NHỮNG BIỂU HIỆN DÂN TÚY TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY: LÀM TỐT CẢ “XÂY” VÀ “CHỐNG”!

(Tiếp theo và hết)
         Chúng ta cần kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện dân túy nhằm góp phần xây dựng các cấp ủy đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh, trình độ, năng lực và uy tín lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Giáo dục chính trị, tư tưởng phải sâu và ngấm
Công tác giáo dục chính trị, định hướng về tư tưởng có ý nghĩa rất quan trọng để phòng, chống những biểu hiện dân túy trong cán bộ, đảng viên. Đề cập đến vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá: “Công tác tư tưởng có nơi, có lúc chưa thực sự được cấp ủy coi trọng, chưa kịp thời, tính thuyết phục chưa cao”. Do vậy, cần phải đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; kịp thời cập nhật và lý giải thuyết phục những vấn đề mới về lý luận, thực tiễn nảy sinh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế.

Các cấp ủy đảng, chính quyền phải xây dựng quy chế, quy định chặt chẽ để tăng cường công tác quản lý cán bộ, đảng viên, chủ động phòng ngừa những biểu hiện dân túy nảy sinh. Thường xuyên theo dõi, nắm bắt, đánh giá đúng tình hình tư tưởng và dư luận xã hội; coi trọng xây dựng sự đồng thuận, thống nhất cao trong các tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống chính trị và nhân dân về đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước và các vấn đề có liên quan đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, cuộc sống của nhân dân. Đặc biệt, cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương phải thường xuyên tìm hiểu, nắm bắt đúng tâm tư, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân; từ đó định hướng đúng dư luận, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia phát triển kinh tế-xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần tăng cường, củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh đó, các cấp ủy đảng, chính quyền phải làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về những biểu hiện dân túy trong cán bộ, đảng viên và trong xã hội hiện nay; có sự phân biệt sự khác nhau giữa “dân túy” với “dân chủ”. Đây là vấn đề không đơn giản. Bởi, những biểu hiện dân túy thường được ngụy trang rất khéo léo, trong khi điều kiện tiếp xúc của người dân với cán bộ không thường xuyên, thông tin nhiều chiều chi phối. Tập trung tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ các phát ngôn, lời nói, hành động có tính mị dân, cùng với những nguyên nhân nảy sinh và tác hại của những biểu hiện dân túy trong đời sống chính trị-xã hội ở nước ta; từ đó có biện pháp phòng, chống các biểu hiện dân túy và âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ để chống phá cách mạng Việt Nam.

Giải quyết thấu đáo những bức xúc xã hội
Thực tiễn cho thấy, người dân vẫn còn tin và ủng hộ các biểu hiện dân túy có nguyên nhân từ những hạn chế của một số cấp ủy đảng, chính quyền trong thực hiện đường lối phát triển kinh tế-xã hội và giải quyết những khó khăn, bức xúc của người dân, từ đó, họ mong muốn có những đại diện mới để thực hiện các vấn đề có hiệu quả hơn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định: “Phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân”. 

Cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương phải luôn coi trọng việc quán triệt, cụ thể hóa và triển khai thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối phát triển kinh tế-xã hội của Đảng, Nhà nước. Trong xây dựng chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, ngành mình phải trên cơ sở nghiên cứu, nắm vững đặc điểm, nhiệm vụ và tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; đồng thời phải tập trung giải quyết dứt điểm những khó khăn, bức xúc có liên quan mật thiết đến cuộc sống của nhân dân. Khi triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách phải thật sự quyết liệt vì lợi ích chung, thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Đồng thời phải kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”; “một người làm quan, cả họ được nhờ”; “nói mà không làm”, chạy theo lợi ích trước mắt mà đi ngược lại lợi ích chung của xã hội và của nhân dân.

Đảng vì dân, dân tin Đảng
Hiện nay, đất nước đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa, hội nhập quốc tế, nhiều vấn đề mới nảy sinh đã có tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Đảng ta đã chỉ rõ: “Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là thách thức đối với mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng”. Trong sự nghiệp đổi mới, nhân dân không những là chủ thể tham gia xây dựng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà còn kiểm tra, giám sát, tạo dư luận mạnh mẽ để đấu tranh với các biểu hiện dân túy trong cán bộ, đảng viên; trực tiếp phát hiện, tố giác nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực và cung cấp thông tin cho các cơ quan chức năng, truyền thông, báo chí để phanh phui, điều tra, xử lý các hành vi sai trái, góp phần làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Đảng ta đã khẳng định: “Thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa” (*).

Các cấp ủy đảng, chính quyền phải luôn coi trọng việc thực hành dân chủ rộng rãi để nhân dân thực sự là người chủ và làm chủ xã hội. Phải luôn quan tâm xây dựng các thiết chế, thể chế để nhân dân được thực hiện quyền dân chủ trực tiếp và gián tiếp trên tất cả các lĩnh vực, nhất là trong triển khai các kế hoạch, quy hoạch, chương trình, dự án có liên quan trực tiếp đến đời sống của họ. Các cơ quan công quyền thường xuyên tiếp xúc với nhân dân phải công khai những quy định về trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức để nhân dân biết và giám sát. Phải xây dựng, thực hiện có hiệu quả các quy định về lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh trong bộ máy Nhà nước để nhân dân góp ý, thậm chí có thể bãi miễn bất cứ lúc nào những cán bộ, đảng viên có biểu hiện dân túy và các hành vi cửa quyền, tham nhũng, tiêu cực.

Mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn tự giác chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng; thực hiện nói và làm theo đúng nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong các hoạt động, phải luôn đề cao thái độ, trách nhiệm phục vụ nhân dân, rèn luyện phong cách làm việc khoa học, sâu sát cơ sở, gần gũi với quần chúng. Đặc biệt, đối với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu các cấp khi đưa ra chủ trương, biện pháp hay quyết định phải dựa trên các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước, yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, không áp đặt chủ nghĩa cá nhân; coi trọng phát huy trí tuệ tập thể, tinh thần đoàn kết, vai trò, trách nhiệm nêu gương về lời nói và hành động. Đồng thời phải kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, “nói nhiều, làm ít”; “nói mà không làm”; “nói một đằng làm một nẻo” hoặc né tránh, đùn đẩy trách nhiệm trong giải quyết công việc ở một số cán bộ, đảng viên hiện nay.

Xử lý nghiêm hành vi tham nhũng, tiêu cực
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó có những biểu hiện dân túy. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Nguyên nhân sâu xa của tham nhũng là do chủ nghĩa cá nhân, do sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cấp cao”. Đó cũng là nguyên nhân nảy sinh các biểu hiện dân túy trong cán bộ, đảng viên hiện nay. Do vậy, phòng, chống các biểu hiện dân túy trong cán bộ, đảng viên phải gắn kết chặt chẽ với thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Trong đó, các cấp ủy đảng phải đặc biệt coi trọng việc xây dựng, hoàn thiện đồng bộ, chặt chẽ hệ thống cơ chế, chính sách nhằm lựa chọn đúng cán bộ có đủ đức, tài, uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm thực hiện tốt phương châm “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”; đồng thời chủ động phòng ngừa có hiệu quả những biểu hiện dân túy nảy sinh trong cán bộ, đảng viên.

Trong giai đoạn hiện nay, các cấp ủy đảng, chính quyền phải nghiên cứu, quán triệt sâu sắc nội dung cơ bản trong cuốn sách "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, từ đó có quyết tâm chính trị cao, xác định đúng nội dung tập trung, khâu đột phá và cách làm phù hợp trong đấu tranh với các biểu hiện dân túy, kiên quyết xử lý những biểu hiện suy thoái và hành vi tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người đứng đầu trong quán triệt, triển khai thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và trong kiểm tra, phát hiện, đấu tranh với các biểu hiện dân túy. Đặc biệt, phải xử lý thật nghiêm những cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền, có hành vi tham nhũng, tiêu cực, xâm phạm quyền dân chủ và lợi ích chính đáng của nhân dân, tạo bước chuyển biến vững chắc trong xây dựng nền tảng chính trị-tinh thần của xã hội, nhất là niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay./.
-----------------------
(*) Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr 97.
Ảnh: Hội thảo “Công tác tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam - thực trạng và giải pháp” diễn ra ngày 9-11 tại Quảng Nam.
Yêu nước ST.

PHÒNG, CHÚNG NHỮNG BIỂU HIỆN DÂN TÚY TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY: NHẬN DIỆN CHỦ NGHĨA DÂN TÚY VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN HIỆN NAY!

     Chủ nghĩa dân túy là những trào lưu tư tưởng, khuynh hướng, thủ đoạn chính trị mang tính mị dân, phát triển mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới và có tác động, ảnh hưởng đến đời sống chính trị-xã hội nước ta!
Trên thực tế, “đã xuất hiện những việc làm và phát ngôn vô nguyên tắc, trái với Cương lĩnh, đường lối, Điều lệ Đảng ở một số cán bộ, đảng viên”(1). Do vậy, phòng, chống những biểu hiện dân túy trong cán bộ, đảng viên là một yêu cầu cấp thiết, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, tăng cường, củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân hiện nay.

Từ khi ra đời đến nay, để khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã phải luôn đấu tranh quyết liệt với những trào lưu tư tưởng đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tác động, ảnh hưởng của chủ nghĩa dân túy.

Nguyên nhân nảy sinh chủ nghĩa dân túy
Chủ nghĩa dân túy là trào lưu tư tưởng, đường lối chính trị bắt đầu xuất hiện trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vào giữa thế kỷ 19 ở Pháp, đến cuối thế kỷ trỗi dậy mạnh mẽ ở nước Nga, do một bộ phận trí thức có sự đồng cảm với giai cấp nông dân, chủ trương xây dựng các “công xã nông thôn” trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng. Lúc đầu, chủ nghĩa dân túy cũng có vai trò nhất định trong đấu tranh chống lại áp bức, bóc lột, bất công; tuy nhiên, quá trình phát triển đã ra sức cản trở Chủ nghĩa Mác, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng vô sản. V.I.Lenin đã gọi phái dân túy là kẻ thù công khai của phong trào cách mạng Nga. Năm 1894, ông đã viết tác phẩm “Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ-xã hội ra sao” để vạch trần bọn dân túy là những “bạn dân” giả dối, giả hiệu; đồng thời khẳng định những vấn đề có tính nguyên tắc trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân là phải luôn giữ vững vai trò lãnh đạo cách mạng và nông dân là người bạn đồng minh chiến lược của công nhân. Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 không những đã chứng minh cho những quan điểm khoa học, cách mạng của V.I.Lenin mà còn để lại bài học kinh nghiệm quý giá về vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản và sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân cùng tầng lớp trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Khác với trước đây, chủ nghĩa dân túy hiện nay là khái niệm được sử dụng để chỉ các trào lưu tư tưởng, khuynh hướng, thủ đoạn chính trị có tính mị dân của cá nhân, tổ chức, chủ trương đánh vào tâm lý đám đông để kêu gọi, tổ chức phong trào nhằm tranh thủ sự ủng hộ và lôi kéo quần chúng phục vụ cho mưu đồ, lợi ích chính trị, kinh tế của họ. Ở Việt Nam, chủ nghĩa dân túy không có cơ sở kinh tế, chính trị-xã hội để tồn tại dưới dạng “chủ nghĩa” mà chỉ xuất hiện với tính cách là quan điểm, tư tưởng nhỏ lẻ, không thành hệ thống và biểu hiện ở những phát ngôn, hành động của một số cá nhân, trong đó có cả cán bộ, đảng viên. Về nguyên nhân xuất hiện các phát ngôn và hành động có tính dân túy, bên cạnh những tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài còn có các nguyên nhân chủ quan như: 4 nguy cơ đã được Đảng ta chỉ ra từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), đến nay vẫn còn tồn tại và có mặt gay gắt hơn. Đáng chú ý, tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực cùng với sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và những bức xúc xã hội còn diễn biến phức tạp. Trong khi đó, vai trò nêu gương về lời nói và hành động của một số cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên; nhận thức về dân chủ, về pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế đã dẫn đến việc thực hiện trên thực tế có lúc, có nơi chưa hiệu quả, hoặc lẫn lộn giữa dân chủ và dân túy. Những bất cập trong giải quyết một số vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, sự chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội có xu hướng gia tăng... cũng là những điều kiện để các phát ngôn, hành động dân túy bột phát, nảy nở. Bên cạnh đó, các thế lực phản động, cơ hội về chính trị luôn lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền... để xuyên tạc, chống phá đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hào hứng đón nhận các phát ngôn, hành động có tính dân túy. Do vậy, chúng ta phải chủ động nhận diện và phòng, chống có hiệu quả những biểu hiện dân túy trong cán bộ, đảng viên.

Biểu hiện của chủ nghĩa dân túy hiện nay
Trên các diễn đàn, hội nghị có những phát ngôn, hành vi “gây sốc” để tạo dựng hình ảnh và lấy lòng quần chúng. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, cán bộ, đảng viên đều phải chấp hành nghiêm nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gương mẫu trước nhân dân từ lời nói đến việc làm. Tuy nhiên, một số ít cán bộ, đảng viên khi dự các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có đông người tham gia thường có những phát ngôn gây sốc nhằm tạo dựng hình ảnh và tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng. Trên một số diễn đàn, hội nghị, không giống với những hình ảnh mô phạm và phát biểu có phần thận trọng ở các đại biểu, số cán bộ, đảng viên này thường sử dụng những lời nói, hành vi mạnh mẽ, biết chọn đúng vấn đề nóng, bức xúc đang thu hút sự quan tâm của dư luận xã hội; từ đó đưa ra những kiến nghị, điều kiện giải quyết “hợp lòng dân”, nhưng lại vượt quá quyền hạn của bản thân, hoặc không có đủ cơ sở để thực hiện trên thực tế. Khi có điều kiện tiếp xúc với nhân dân, số cán bộ này tỏ ra rất nhiệt tình, trách nhiệm trong tiếp nhận, hứa hẹn sẽ chỉ đạo hoặc trực tiếp xử lý những kiến nghị, khó khăn, vướng mắc, bức xúc... của nhân dân, nhưng lại mắc phải “bệnh hứa”, làm cho người dân cứ chờ đợi, không biết khi nào mới được giải quyết.

Mượn danh nghĩa “đại biểu nhân dân” để sửa chữa, vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước có lợi cho cá nhân và nhóm lợi ích. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã khẳng định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”. Tuy nhiên, một số ít cán bộ, đảng viên, nhất là khi đã đạt được một vị trí cao trong xã hội lại lợi dụng danh nghĩa nhân dân để biến thật thành giả, giả thành thật, nhằm trục lợi cho cá nhân, gia đình và nhóm lợi ích. Điều dễ nhận thấy, số cán bộ, đảng viên này thường rất “nhạy bén” trong phát hiện và đề xuất các vấn đề có liên quan đến lợi ích và cuộc sống của nhân dân như địa phương này, vùng kia, do tác động của suy thoái kinh tế, hoặc ảnh hưởng của dịch bệnh, sự cố môi trường, thiên tai, hỏa hoạn... đang phải đối mặt với những khó khăn, từ đó đề xuất với các cấp ủy đảng, chính quyền những chủ trương, biện pháp tháo gỡ, nhưng lại tìm cách “sửa chữa” hoặc vận dụng không đúng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm có lợi cho cá nhân, gia đình và nhóm lợi ích của họ. Trong xây dựng, thẩm định, phê duyệt một số đề án, công trình hoặc chỉ đạo, giải quyết những khó khăn, bức xúc trong xã hội, số cán bộ này thường “biết cách” xử lý nhanh chóng nhằm đem lại những lợi ích cục bộ, trước mắt cho một bộ phận nhân dân, nhưng sau đó lại ngấm ngầm “điều chỉnh” chính sách để trục lợi cá nhân. Nếu được một số phương tiện truyền thông tung hô, số cán bộ này sẽ được dư luận xã hội đánh giá là người quyết đoán và “vì nhân dân”. Chỉ đến khi các cơ quan kiểm tra vào cuộc, công bố rõ những sai phạm, lúc đó người dân mới nhận rõ bản chất của vấn đề.

Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, có hành vi gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân, trục lợi cho cá nhân, gia đình và nhóm lợi ích. Hiện nay, bên cạnh đa số cán bộ lãnh đạo thật sự gần dân, chăm lo cho dân, vẫn còn một số ít cán bộ, đảng viên có hành động quan liêu, hách dịch, xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Trong các diễn đàn, hội nghị, những cán bộ này thường phát biểu rất đúng với đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhưng thực tế lại thờ ơ, vô cảm với những khó khăn, thậm chí tính mạng của nhân dân, có hành vi tham nhũng, tiêu cực. Đánh giá trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”. Số cán bộ, đảng viên này thường lợi dụng sự thiếu hiểu biết về dân chủ của một bộ phận nhân dân và chọn thời điểm người dân có những việc cần giải quyết ngay, hoặc đang gặp khó khăn trong cuộc sống để ngầm đưa ra những “yêu sách” có lợi cho họ, nhóm lợi ích của họ.

Để che mắt nhân dân và những người khác, số cán bộ này thường tỏ ra gần gũi với quần chúng, hoặc luôn lấy những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước làm bình phong, thậm chí chủ định làm một vài “việc tốt” để lấy lòng đồng nghiệp và nhân dân. Điều đó cho thấy, những động thái “vì dân” đó luôn được che đậy dưới một vỏ bọc rất tinh vi, không phải lúc nào cũng có thể nhận diện ngay được.

Lấy danh nghĩa “bảo vệ quyền và lợi ích nhân dân” để tập hợp, tuyên truyền, kích động quần chúng, gây mất ổn định an ninh, chính trị-xã hội. Ở nước ta, những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị luôn câu kết với các thế lực thù địch bên ngoài “mượn gió bẻ măng”, tung hô ngọn cờ bảo vệ “nhân quyền”, “dân chủ”, “lợi ích của nhân dân”, nhưng thực chất là xúi giục, kích động người dân chống lại Đảng, chính quyền, gây mất trật tự xã hội. Một số ít cán bộ, đảng viên do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cũng đã phụ họa theo, đòi các cấp ủy đảng, chính quyền phải “mở rộng dân chủ”, xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ họa theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái. Ở một số ít địa phương, số cán bộ, đảng viên này (thường đã nghỉ hưu và không tham gia sinh hoạt Đảng) còn mượn danh nghĩa “bảo vệ lợi ích của nhân dân” để tổ chức tụ tập đông người, khiếu kiện, khiếu nại, thậm chí có những hành động quá khích, kích động các hành vi vi phạm pháp luật, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ: “Một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà nước”(2).

Có thể thấy, sự xuất hiện của những biểu hiện dân túy trong cán bộ, đảng viên là rất nguy hiểm và khó lường. Bởi các biểu hiện đó thường được che đậy dưới “vỏ bọc cứng” (quyền lực chính trị) và “vỏ bọc mềm” (uy tín giả) nên không phải lúc nào cũng có thể nhận biết ngay. Những biểu hiện dân túy lây lan dần sẽ trở thành một xu hướng mới trong đời sống chính trị-xã hội ở nước ta, làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý xã hội của Nhà nước và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; đồng thời tạo kẽ hở cho các phần tử phản động, cơ hội, bất mãn cổ xúy, câu kết, tạo thành lực lượng để chống phá. Nếu không chủ động phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả, nó sẽ giống như một thứ virus độc hại, đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ./.
(còn nữa)
---------------------------
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.195
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.185.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHỮ “CHÍNH” TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH!

         “Cần, kiệm, liêm, là gốc của chính. Nhưng một cây cần phải có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa quả mới là hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm, liêm nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn”...

“Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” là luận điểm quan trọng lần đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, tháng 11-1946. Người xác định, cần phải tập trung vào hai vấn đề thiết yếu là xây dựng văn hóa và xây dựng con người trong quá trình thực hiện 5 quan điểm lớn, trong đó quan điểm thứ hai là “xây dựng luân lý”: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.

Quan điểm xây dựng luân lý thực chất là các chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản. Và trong các chuẩn mực ấy thì vấn đề cốt lõi là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.

Bác đã giảng giải cặn kẽ về “vấn đề cốt lõi”: Chính. Người giải thích: Chính “nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà. Bác dặn dò kỹ hơn: Để là chính, thì phải có thái độ đúng đắn đối với mình, đối với người và đối với việc.

Tháng 5 về! Vào dịp kỷ niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, chúng ta thấy những điều Người nói như đang là câu chuyện hôm nay. Trong bài viết đăng trên Báo Quân đội nhân dân hằng ngày: “Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự của Ðảng”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ cấp chiến lược: “Có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm. Có tinh thần trách nhiệm cao, tâm huyết, tận tụy với công việc; bản thân không tham nhũng, quan liêu, cơ hội, vụ lợi, tham vọng quyền lực và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng; không để vợ, chồng, con, người thân lợi dụng chức quyền để trục lợi”. Đồng chí lưu ý, khi lựa chọn nhân sự phải có “con mắt tinh đời”, phải “tỉnh táo, tinh tường” để không bị nhầm lẫn “thấy đỏ tưởng chín”. Chúng tôi nghĩ, những chỉ dẫn của Tổng Bí thư, cũng xoay quanh chữ chính mà Bác Hồ hằng mong đợi.

Đạo đức muốn vào cuộc sống không phải bằng con đường học thuộc các khái niệm, mà là thực hành đạo đức. Nói hay mới chỉ là hoa, làm hay mới là trái chín. Cái chính của chúng ta đường hoàng, quyết liệt trong tâm thế cả dân tộc “chống dịch như chống giặc”. Toàn dân vào cuộc, cả hệ thống chính trị vào cuộc. Chính thể hiện ở ý chí quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Nhiều đơn vị bộ đội nhường doanh trại cho dân, hành quân trong đêm hàng trăm cây số, tổ chức cách ly, khoanh vùng, dập dịch. Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ biên phòng có mặt ở các điểm chốt, các khu vực đường mòn, lối mở dọc tuyến biên giới, ngủ trong những chiếc lán tạm bợ để ngăn chặn xuất nhập cảnh trái phép, kịp thời tuyên truyền, hướng dẫn, tổ chức cách ly cho bà con.

Cái chính thể hiện ở những chuyến bay đặc biệt của hàng không Việt Nam. Những chuyến bay của lòng nhân ái, bất chấp nguy hiểm, đón người Việt từ các vùng dịch trở về Tổ quốc. Tôi nhớ tới câu chuyện của anh Tô Ngọc Giang, Đoàn trưởng Đoàn bay 919 của Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines). Anh xúc động kể: “Khi cần phi công và lễ tân, nhân viên phục vụ bay sang vùng tâm dịch Vũ Hán (Hồ Bắc, Trung Quốc) để đón bà con mình, chúng tôi rất băn khoăn, không biết cử ai đi. Nhưng sau khi nghe chúng tôi nói rõ mục đích, yêu cầu thì hàng trăm cánh tay giơ cao xung phong tham gia chuyến đi. Thế là từ việc lo không biết sẽ cử ai bay sang Vũ Hán thì lúc ấy chúng tôi lại phân vân không biết sẽ chọn ai!”.

Cái chính thể hiện trong đội ngũ thầy thuốc. Hàng trăm bác sĩ đã xa nhà mấy tháng trời để làm nhiệm vụ cứu chữa, chăm sóc bệnh nhân. Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp, Trưởng khoa Cấp cứu, Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương, ba tháng ròng “tự cách ly”. Anh phải cạo trọc đầu cho “tiện” công việc, nhận điều trị những ca khó nhất, những việc khó nhất, cùng với bác sĩ phó trưởng khoa ở lại bệnh viện để bảo đảm hạn chế tối đa người tham gia những kỹ thuật nguy hiểm.

Cái chính thể hiện ở chỗ người Việt đã mở lòng với đồng bào mình bởi “lòng không rộng cả đất trời cũng hẹp”. Thấy rõ hơn bất cứ ở đâu, lúc nào câu chuyện “lá lành đùm lá rách”. Đó là những “cây ATM gạo” dành tặng những người khó khăn, thiếu đói. Đó là Bà mẹ Việt Nam anh hùng gom góp tiền tặng Quỹ Phòng, chống dịch Covid-19. Đó là những sinh viên quyên góp tiền, mua hàng nghìn khẩu trang tặng bà con. Và còn rất nhiều tấm gương khác, bình dị mà rất cao cả.

Tiếc rằng, ngay trong cuộc chiến chống đại dịch, ngược lại với chính là tà. Thật buồn khi nhắc tới những câu chuyện phản văn hóa và dưới văn hóa. Chuyện ông Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” là điều đáng xấu hổ, ảnh hưởng không nhỏ đến danh dự, uy tín của ngành y. Những việc làm khuất tất này là mầm cây độc hại mọc trên mảnh đất của thói bất lương, vừa không liêm, vừa không chính.

Các đảng bộ trong cả nước đang chuẩn bị và bước vào đại hội các cấp. Làm thế nào để lựa chọn được những đồng chí xứng đáng bầu vào cấp ủy? Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị đã quy định rất rõ. “Nói tóm lại là phải vừa có đức, vừa có tài, trong đó đức là gốc”. Nhưng dù đề cập ở góc độ nào, ta vẫn thấy lấp lánh điều cần nhất ở người cán bộ trong mọi thời: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đại tướng Võ Nguyên Giáp thường nhấn mạnh: Bác Hồ dặn chúng ta phải “dĩ công vi thượng”, tức là luôn đặt lợi ích chung lên trên hết, hết lòng vì nước, vì dân. Nói về điều bình thường vĩ đại của Hồ Chí Minh, nhà thơ Indonesia R.Dagio đã viết trong bài thơ “Vẻ đẹp bên trong của viên ngọc”: Người không mang danh dự ghế suy tôn/ Ngồi vào đấy với Người không có nghĩa/ Khi đức độ đã ngời như ngọc quý/ Thì có nghĩa gì chiếc ghế phủ nhung êm.

Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tiến hành thường xuyên, liên tục trong những năm qua cũng nhằm mục đích cao nhất làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên thật sự xứng đáng là “mực thước để người dân bắt chước”. Thế nhưng những kết quả mới chỉ là bước đầu. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống từ “một bộ phận” đến “bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước, vẫn chưa được khắc phục. Nhiều người trong số họ nói rất trơn tru về văn hóa và đạo đức, về đạo đức cách mạng nhưng hễ đụng việc khó là né tránh, đùn đẩy, thấy sai không đấu tranh, thấy đúng không bảo vệ. Sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ nghiêm trọng ở một số nơi chỉ được làm rõ khi người đứng đầu mắc sai phạm, bị xử lý kỷ luật, thậm chí phải vào vòng lao lý. Hóa ra không ít người đã nhân danh tập thể, mang tập thể ra che chắn, làm cái “hầm trú ẩn” cho trách nhiệm, giấu giếm khuyết điểm của mình. Kết quả đấu tranh tự phê bình, phê bình; tính phát hiện, tính chiến đấu còn rất hạn chế. Điều này Bác Hồ từng cảnh báo từ rất sớm: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”. Cho đến trước lúc đi xa, trong Di chúc, một tác phẩm vô giá trong di sản tinh thần Hồ Chí Minh, Bác vẫn không quên dặn lại: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.

Hôm nay suy ngẫm về những điều Bác Hồ căn dặn, mặc dù đã qua bao thăng trầm lịch sử nhưng vẫn thấy nóng hổi tính thời sự. Sức sống của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là ở sự giản dị, chân thật như chính con người Bác. Tôi chợt nhớ câu nói của Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Thường thường, khi con người biết mình là một nhân vật quan trọng thì không phải lúc nào cũng hồn nhiên và chân thật. Hồ Chí Minh không như vậy. Suốt đời mình, trong việc lớn cũng như việc nhỏ, Hồ Chí Minh bao giờ cũng chân thật”.

Vâng, dù là cá nhân hay tổ chức, khi luôn coi trọng tính chân thật, không tô vẽ, đánh bóng, ngụy tạo, chính là biểu hiện của đạo đức, văn minh; chính là lòng tốt của con người. Mà lòng tốt thường tự nhiên, tự quên mình, như khí trời trong lành, như ao thu tĩnh lặng, như tán cây quên bóng mát. Đó cũng là chính vậy./.
Yêu nước ST.

CẢNH GIÁC TRÒ “NÚP BÓNG BÁO CHÍ”!

     Sau cuộc họp chi bộ, thấy ông Hùng, ông Nam chưa về, Bí thư Chi bộ Việt liền hỏi!
- Hai đồng chí còn có việc gì phải không?

Ông Nam giọng trầm tư: Chẳng là, tôi có đứa cháu nội, sinh viên năm thứ nhất chuyên ngành báo chí, hỏi về tổ chức “phóng viên không biên giới”. Chưa hiểu rõ tổ chức này như thế nào nên tôi nói với cháu để tìm hiểu rõ sẽ nói với cháu.

Nghe xong, ông Việt từ tốn:
- Tôi thấy việc trao đổi, chia sẻ thông tin rất tốt. Nếu chúng ta chưa hiểu, chưa rõ mà phát ngôn, tuyên truyền hay chia sẻ, bình luận trên mạng sẽ vô tình tiếp tay cho kẻ xấu đấy.

Nói xong ông Việt lấy điện thoại mở Báo Nhân Dân và Báo Quân đội nhân dân điện tử đưa ông Hùng, ông Nam đọc rồi nói: Đây là hai tờ báo chính thống, có những bài đấu tranh phản bác kịp thời cái gọi là “tổ chức phóng viên không biên giới” (RSF), cố tình xếp Việt Nam đứng thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí, cho Việt Nam thuộc “vùng trũng của tự do báo chí”. Đây không phải là lần đầu tiên tổ chức này đưa ra bảng xếp hạng và những nhận định phiến diện, thiếu khách quan, phản ánh không đúng về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Thực tiễn những năm qua cho thấy, việc bảo đảm tự do báo chí, tự do ngôn luận là mục tiêu nhất quán của Đảng, Nhà nước ta, được khẳng định và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và các quy định của pháp luật, phù hợp với các quy định của quốc tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ.

- Vậy thông tin tổ chức này lên tiếng bênh vực đối với những nhà báo bị bắt giam là sao vậy ông? Ông Hùng hỏi thêm.

- Không chỉ Việt Nam mà tất cả quốc gia trên thế giới đều khẳng định rõ: Tự do ngôn luận, tự do báo chí không thể nằm ngoài lợi ích của quốc gia, dân tộc; tự do phải trong khuôn khổ luật pháp quốc gia; không chỉ riêng báo chí mà bất kỳ lĩnh vực nào khác của đời sống xã hội cũng phải hoạt động theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Một thực tế không thể phủ nhận là ở Việt Nam, không người nào bị kết án vì thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Những trường hợp bị xử lý hình sự đều do thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của Nhà nước và các tổ chức, cá nhân, gây bất bình trong dư luận. Tuy nhiên “tổ chức phóng viên không biên giới” và các thế lực thù địch đã lợi dụng những vụ việc này để rêu rao Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí đấy các ông ạ.

Nghe ông Việt phân tích, ông Nam, ông Hùng hiểu ra vấn đề. Ông Nam bắt tay ông Việt nói: Cảm ơn ông đã giúp chúng tôi hiểu rõ bản chất vấn đề. Tôi sẽ nói cho cháu tôi hiểu được cái “tổ chức phóng viên không biên giới” và mưu đồ nham hiểm của bọn phản động nhằm chống phá cách mạng Việt Nam./.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TRUNG TƯỚNG NGUYỄN VĂN GẤU GIỮ CHỨC BÍ THƯ TỈNH ỦY BẮC GIANG!

         Bộ Chính trị điều động, chỉ định Trung tướng Nguyễn Văn Gấu - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang!

Ngày 26/6, tại Tỉnh ủy Bắc Giang diễn ra Hội nghị công bố quyết định của Bộ Chính trị về công tác cán bộ và buổi làm việc của Thường trực Ban Bí thư với Ban Chấp hành Đảng bộ Bắc Giang. Dự hội nghị có Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường; Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng.

Tại hội nghị, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương Nguyễn Quang Dương công bố quyết định của Bộ Chính trị về việc điều động, chỉ định Trung tướng Nguyễn Văn Gấu – Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường trao quyết định và tặng hoa chúc mừng tân Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang.

Phát biểu tại hội nghị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường cho biết, Trung tướng Nguyễn Văn Gấu được đào tạo cơ bản, có năng lực toàn diện, chuyên môn sâu, có tư duy chiến lược, nhạy bén, phương pháp làm việc khoa học, dân chủ, lối sống giản dị, chân thành, lành mạnh. Trung tướng Nguyễn Văn Gấu được rèn luyện từ cơ sở, kinh qua nhiều vị trí công tác trong quân đội.

Thường trực Ban Bí thư Lương Cường cho biết thêm, trải qua nhiều vị trí công tác, Trung tướng Nguyễn Văn Gấu luôn nỗ lực phấn đấu, học tập, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; tin tưởng tân Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang tiếp tục phát huy tốt kinh nghiệm, bằng năng lực của mình cùng Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đoàn kết, thống nhất cao để hoàn thành nhiệm vụ.

Thường trực Ban Bí thư Lương Cường đề nghị Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và toàn tỉnh Bắc Giang tăng cường đoàn kết, thống nhất, ủng hộ và cùng tân Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang Nguyễn Văn Gấu hoàn thành nhiệm vụ chung. Trước mắt, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang tập trung hoàn thành nhiệm vụ năm 2024 và chuẩn bị tốt mọi mặt để tổ chức thành công đại hội Đảng bộ các cấp ở tỉnh Bắc Giang.
Phát biểu nhận nhiệm vụ, Trung tướng Nguyễn Văn Gấu cảm ơn Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng quan tâm, tin tưởng giới thiệu về làm Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang. Tân Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang cam kết gương mẫu, nỗ lực vượt bậc, phát huy sức mạnh đoàn kết, gắn bó máu thịt với Đảng bộ và nhân dân Bắc Giang để hoàn thành nhiệm vụ được giao và những mục tiêu đề ra./.

Yêu nước ST.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH: BÁO CHÍ PHẢI THIẾT THỰC PHỤC VỤ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN!

         Với hàng nghìn bài báo, hàng chục bút danh đề cập đến toàn bộ các vấn đề rộng lớn của cách mạng, của đời sống xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại nhiều quan điểm cơ bản và sâu sắc về hoạt động báo chí. Một trong những nội dung quan trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập nhiều nhất là đạo đức cách mạng của người làm báo, việc xây dựng các thế hệ nhà báo cách mạng đủ đức, đủ tài, trở thành lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của Đảng. Cho đến nay, những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là “kim chỉ nam” cho các thế hệ nhà báo, cơ quan báo chí trong quá trình tu dưỡng, phấn đấu, trưởng thành và lớn mạnh./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: DÂN VÀ ĐẢNG TRONG DI CHÚC CỦA BÁC HỒ!

     Di chúc của Bác cùng với toàn bộ Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta. Di chúc còn là sự thể hiện trách nhiệm, tình yêu thương bao la của Bác dành cho những người ở lại. Nhưng trước tiên là dành cho Dân, cho Đảng. Bác viết: “… tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Bác chuẩn bị cho chuyến đi xa bằng những đúc kết ở tầm cao của bậc vĩ nhân, nhưng lời lẽ lại hết sức giản dị cùng những chỉ dẫn chiến lược là những dặn dò cụ thể nhưng vô cùng sâu sắc… Ai đọc cũng thấy mình được quan tâm, ân cần bằng trái tim mênh mông “Ôm cả non sông, mọi kiếp người”...

Trước hết phải có Đảng vững mạnh. Đây là vấn đề Người luôn đặt lên hàng đầu, luôn được quan tâm trước hết. Bởi, để làm cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người “trước hết phải có Đảng cách mệnh”; “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Bác tổng kết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ Nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Cần hiểu đúng: Thắng lợi rất to lớn, thắng lợi trước hết là do Đảng gắn bó với Nhân dân; là do đoàn kết chặt chẽ, phát huy được “truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của Dân ta”. Đoàn kết có vai trò cực kỳ to lớn, vì thế Người dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để xứng đáng với vai trò lãnh đạo, Người khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.

Với tầm nhìn xa, trông rộng, Bác đã dự báo: “Ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi,… Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ Nhân dân”. Tuân theo chỉ dẫn của Người, suốt 55 năm qua, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, luôn xác định đó là nhiệm vụ then chốt. Nhờ đó, chúng ta đã giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã thực hiện một cách xuất sắc Di chúc thiêng liêng của Người. Điều mong ước và lời căn dặn thiết tha nhất của Bác đã thành sự thật. Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập, thống nhất. Đồng bào Nam - Bắc đã sum họp một nhà!

Sau khi cố gắng hàn gắn vết thương do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược, ngay khi bắt tay vào thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng đã đề ra một trong những nguyên tắc chỉ đạo đổi mới là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời lắng nghe, tiếp nhận những ý kiến trung thực, phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng đảng.

Liên tục qua các nhiệm kỳ, Đảng đều có nghị quyết chuyên đề để thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng. Gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Các nghị quyết đã đề ra những chủ trương và biện pháp quan trọng nhằm xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, khắc phục những yếu kém trong hệ thống chính trị. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội từ đó được mở rộng, góp phần thúc đẩy kinh tế, văn hóa và xã hội phát triển. Qua các đợt vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phê bình và tự phê bình đã có những chuyển biến nhất định, sức mạnh và tính chiến đấu của nhiều tổ chức đảng và đảng viên được nâng lên. 

Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, BCH Trung ương đã ban hành 3 quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí lãnh đạo cấp cao nhất. Nêu gương thể hiện rõ ràng nhất việc học tập và làm theo Bác. Đúng như Người răn dạy: Mình phải chính tâm tu thân nghĩa là việc gì cũng phải làm kiểu mẫu; có thế mới trị quốc bình thiên hạ được… Muốn cải tạo xã hội thì lòng mình phải cải tạo. Nếu lòng mình không cải tạo thì đừng nói đến cải tạo xã hội. Lòng mình còn tham ô, lãng phí, muốn cải tạo xã hội làm sao được.

Đầu tiên là chăm lo đời sống của Nhân dân
Kế thừa truyền thống nhân - nghĩa của dân tộc, nắm vững quan điểm quần chúng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Bác chỉ rõ: “… Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”. “Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, Nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta”. Vì vậy: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân”.

Thực hiện Di chúc của Người, từ một nước nghèo, nhiều năm chiến tranh, hậu quả nặng nề, sau 10 năm đổi mới (1986-1996), Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; sau 25 năm (năm 2010) đã ra khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển. Năm 2015, GDP bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD. Nhiều học giả nước ngoài coi đó là “những thành tích ngoạn mục”. Năm 2018, kinh tế tiếp tục có những chuyển biến tích cực, toàn diện, hoàn thành toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch. Tốc độ tăng trưởng GDP tăng gấp đôi mức lạm phát, đạt 7,08% trong khi Ngân hàng Thế giới dự báo tốc độ tăng trưởng năm 2018 của các nền kinh tế thị trường mới nổi ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương chỉ ở mức 6,3%. Chất lượng tăng trưởng kinh tế ngày càng được cải thiện, mô hình tăng trưởng dịch chuyển dần sang chiều sâu…

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm, đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào việc duy trì ổn định, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Triển khai có hiệu quả các mục tiêu giảm nghèo bền vững, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều ước còn khoảng 5,2-5,7%, giảm khoảng 1-1,5% so với cuối năm 2017. Bà Caitlin Wiesen, quyền đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam nói, tiến bộ Việt Nam đạt được trong giảm nghèo là "thành công ở tầm thế giới". Năm 2017, dự Hội nghị Thượng đỉnh APEC, Cựu Tổng thống Mỹ D. Trump đã thốt lên: “Việt Nam là điều kỳ diệu của thế giới”. Nguyên Tổng Thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki Moon cũng phát biểu: “Nếu tất cả các nước đều nỗ lực như Việt Nam, chắc chắn thế giới sẽ thực hiện thành công các mục tiêu phát triển trong giai đoạn mới”…

Học và làm theo Di chúc của Bác, chúng ta hiểu: Dân và Đảng là một câu chuyện chủ yếu mà Người để lại.
“Nhớ lời Di chúc, theo chân Bác
Lên những tầng cao, thẳng cánh bay!” (Tố Hữu)./.
Yêu nước ST.

Phát triển truyền thông đối ngoại

 Phát triển truyền thông đối ngoại, phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc


Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, truyền thông đối ngoại đang được các quốc gia trên thế giới đẩy mạnh, tạo sự lan toả và tầm ảnh hưởng toàn cầu. Việc đẩy mạnh truyền thông đối ngoại còn góp phần phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động lưu vong từ ngoài biên giới.


Truyền thông đối ngoại, xu thế toàn cầu về thông tin, báo chí


Thông tin đối ngoại là nội dung rất quan trọng trong công tác đối ngoại và công tác tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta, là cầu nối và phương tiện để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa Việt Nam và các nước. Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại sẽ giúp bạn bè quốc tế tiếp cận tình hình về Việt Nam một cách chính xác, qua đó hiểu đúng về đất nước, con người Việt Nam. Điều này giúp thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, thu hút sự quan tâm của các nước trên thế giới, các nhà đầu tư kinh doanh, tổ chức tài chính, tiền tệ... Bên cạnh đó, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại còn góp phần hạn chế những thông tin sai lệch, bịa đặt về Việt Nam và ngăn chặn âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa cũng như các hoạt động phá hoại an ninh quốc gia của các phần tử chống đối.


Truyền thông đối ngoại hiện nay có thể được hiểu là đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông tin về tình hình Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực ra thế giới. Thông tin quảng bá hình ảnh Việt Nam là thông tin về đất nước, con người, lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời đưa thông tin tình hình thế giới vào Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế.


Trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, bên cạnh thời cơ, thuận lợi, đất nước ta cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Xu thế chung của thế giới vẫn là hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh giữa các nước lớn, trong đó chủ yếu xuất phát từ thiếu lòng tin chiến lược và nhu cầu đối với vấn đề an ninh quốc gia khiến cho quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế gặp nhiều khó khăn, trở ngại, đồng thời tác động mạnh mẽ đến chính sách đối ngoại của các nước. Trong bối cảnh các lực lượng thù địch đang ra sức tuyên truyền cho các giá trị phương Tây, bôi xấu, xuyên tạc các chính sách của Đảng và Nhà nước trong các vấn đề đối nội và đối ngoại, công tác thông tin đối ngoại càng đóng vai trò quan trọng nhằm đem lại cho nhân dân nhận thức đúng đắn nhất về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản bác lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhất là các vấn đề về dân tộc, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tín ngưỡng, tự do ngôn luận…


Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với công tác truyền thông đối ngoại


Xét về lợi ích quốc gia, thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại sẽ giúp thế giới hiểu hơn về đất nước, con người, về những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần của dân tộc Việt Nam; nâng cao hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế của đất nước ta, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài... Thực hiện tốt công tác truyền thông đối ngoại còn góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội.


Ngay từ những ngày đầu đấu tranh giành độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng công tác truyền thông đối ngoại. Điều đó đã được thể hiện qua Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 10/5/1962 của Bộ Chính trị, về công tác tuyên truyền đối ngoại đã xác định công tác tuyên truyền đối ngoại là một bộ phận của cuộc đấu tranh chính trị và tư tưởng của nước ta trên phạm vi toàn thế giới. Tiếp đó, nhiều văn bản quan trọng khác của Đảng và Nhà nước đã được ban hành, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động thông tin truyền thông đối ngoại qua các thời kỳ như: Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại; Chỉ thị số 10/2000/-CT/TTg, ngày 26/4/2000 của Thủ tướng Chính phủ, về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Ngày 10/9/2008, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị 26-CT/TW về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới”, xác định thông tin đối ngoại là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị với phương châm “chính xác, kịp thời, sinh động, phù hợp với từng đối tượng”.


Ngày 14/2/2012, Bộ Chính trị khóa XI ra Kết luận số 16-KL/TW về chiến lược thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020, trong đó nêu rõ: “Thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng ta; là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài”. Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 368/QĐ-TTg, ngày 28/2/2013, phê duyệt Chương trình hành động của Chính phủ, về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013 - 2020. Các văn bản trên là minh chứng cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong việc khẳng định tầm quan trọng của truyền thông đối ngoại trong giai đoạn mới. Trên cơ sở những chủ trương, chính sách đó, các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã triển khai thực hiện công tác thông tin đối ngoại với nội dung, hình thức phong phú và đạt được nhiều kết quả quan trọng.


Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn mới, đề ra định hướng bao trùm của công tác đối ngoại trong giai đoạn phát triển của đất nước là triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Đại hội đã khẳng định “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”.


Thành tựu trong hoạt động truyền thông đối ngoại của Việt Nam


Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện cả nước có 6 cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện (Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam - VTV, Đài Tiếng nói Việt Nam - VOV, Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân, Báo Công an nhân dân). Có 15 cơ quan báo chí (11 báo, 3 tạp chí và Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC) nằm trong các cơ quan truyền thông chủ lực đa phương tiện nói trên. Ngoài ra có 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí (319 tạp chí khoa học, 72 tạp chí văn học nghệ thuật). Trong 72 đài phát thanh - truyền hình, có 3 đơn vị là VTV, Vnews và HTV được cấp giấy phép biên tập kênh truyền hình nước ngoài.


Đến nay, hầu hết các cơ quan báo chí Việt Nam đã có trên nền tảng mạng internet. Một số cơ quan báo chí đã tiên phong và khá thành công trong việc ứng dụng các công nghệ số tiêu biểu như: Trí tuệ nhân tạo (AI), IoT, Cloud, Big Data... Trước làn sóng “di dân” từ báo in sang báo điện tử, hàng trăm cơ quan báo chí cũng xây dựng các kênh truyền thông của mình trên các trang mạng xã hội như Facebook, Youtube, Tiktok… Nhân sự làm việc trong lĩnh vực báo chí khoảng 41.000 người (khối phát thanh, truyền hình khoảng 16.500 người). Trong đó, hơn 19.300 trường hợp được cấp thẻ nhà báo.


Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí được tăng cường. Hiện nay, nhiều hãng truyền thông quốc tế lớn trên thế giới đều đã có mặt tại Việt Nam như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc), Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)... Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều đến được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp. Nhiều nhà báo Việt Nam được Nhà nước tạo điều kiện đi học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, tác nghiệp báo chí tại nhiều quốc gia trên thế giới.


Việc trao đổi thông tin với các nước trong khu vực và trên thế giới thông qua chương trình truyền hình ASEAN, hệ thống các cơ quan đại diện của Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân... ở nước ngoài cũng như phiên bản tiếng nước ngoài của các báo điện tử đã góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ truyền thông đối ngoại; thông tin kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hợp tác, phát triển kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hội nhập quốc tế, thúc đẩy quan hệ thương mại và hợp tác đầu tư giữa nước ta với các nước trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thông tin kịp thời về các công việc chung của cộng đồng quốc tế, các diễn đàn, tổ chức khu vực và quốc tế, nhất là tình hình ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, và những vấn đề quốc tế khác mới nổi lên như: vấn đề lao động, việc làm, di cư, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố, an ninh tiền tệ, ngân hàng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0…


Trong một thế giới bất ổn, bất an, Việt Nam được bạn bè quốc tế tin cậy khi là điểm đến an ninh, an toàn, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được bảo đảm. Cùng với đó, Việt Nam cũng là một hình mẫu đang trên đà vươn lên mạnh mẽ, là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm, đóng vai trò chủ động và tích cực trong các công việc chung của khu vực và thế giới. Hoạt động đối ngoại của đất nước, trong đó có các hoạt động cấp cao diễn ra sôi động, liên tục đã khẳng định chính sách đối ngoại nhất quán, quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, đóng góp vào việc duy trì môi trường hoà bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Như vậy, công tác truyền thông đối ngoại được triển khai đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước, với đa dạng hình thức để kịp thời thông tin cho nhân dân trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam; lan tỏa mạnh mẽ lịch sử, truyền thống, hình ảnh đất nước, văn hóa, con người, thành tựu công cuộc đổi mới của đất nước. Những minh chứng trên một lần nữa khẳng định quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Thực tế đó bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch về bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam.

“7 Dám” phẩm chất bộ đội Cụ Hồ

 CÁN BỘ QUÂN ĐỘI “7 DÁM” LÀ PHẨM CHẤT BỘ ĐỘI CỤ HỒ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


   Phương châm xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội “7 dám” theo tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương (QUTƯ) là sự tiếp nối và cụ thể hóa những phẩm chất tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong giai đoạn hiện nay. Đây là sự phát triển tư duy lý luận với nội hàm mới, yêu cầu mới, đòi hỏi ngày càng cao đối với phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ Quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Vì thế, mọi sự rêu rao, xuyên tạc về vấn đề này cần kiên quyết vạch trần, bác bỏ.

  Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, tại Hội nghị QUTƯ lần thứ 6, nhiệm kỳ 2020-2025, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ có bài phát biểu quan trọng, mang tầm chiến lược, định hướng căn bản. Trong bài phát biểu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ đã nhấn mạnh về công tác cán bộ và chú trọng xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần “7 dám”: “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung”.

  Đây là sự đúc kết sâu sắc lý luận và thực tiễn, thể hiện nét đặc sắc trong tư duy lý luận của người đứng đầu Đảng ta và QUTƯ về công tác cán bộ Quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Khi cán bộ các cấp trong Quân đội hội tụ đầy đủ tâm-tầm-tài, uy tín và luôn thấm nhuần, thể hiện tinh thần “7 dám”, Quân đội ta sẽ có nền tảng vững chắc, tạo động lực mạnh mẽ để xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, có sức mạnh tổng hợp và sức chiến đấu cao, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống.

  Nhờ chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và sự chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng đội ngũ cán bộ nên công tác cán bộ ở nước ta ngày càng đạt nhiều kết quả quan trọng. Quy trình thực hiện công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch. Điều đó minh chứng việc xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ Quân đội “7 dám” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ là một chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược; tình cảm, niềm tin và yêu cầu cao của Đảng, Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó cũng là kim chỉ nam, phương châm hành động trong xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ củng cố quốc phòng, xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐẠI TƯỚNG PHAN VĂN GIANG CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ THƯỜNG VỤ QUÂN ỦY TRUNG ƯƠNG!

     Đại tướng Phan Văn Giang yêu cầu tập trung huấn luyện các lực lượng, bổ sung phương án sử dụng các vũ khí, trang bị, phương tiện, khí tài quân sự hiện đại... nhằm khẳng định sức mạnh của Quân đội!

Ngày 26/6, tại Hà Nội, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chủ trì Hội nghị Thường vụ Quân ủy Trung ương.

Dự Hội nghị có các Ủy viên Trung ương Đảng: Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam; các Thứ trưởng Bộ Quốc phòng: Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam; Thượng tướng Võ Minh Lương, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương; Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến; Thượng tướng Lê Huy Vịnh; Thượng tướng Phạm Hoài Nam.

Cùng dự có Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam; đại biểu các cơ quan, đơn vị thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tại Hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, cho ý kiến về một số nội dung quan trọng. Thường vụ Quân ủy Trung ương xem xét, cho ý kiến về Đề án tổ chức diễu binh, diễu hành trong Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân; Đề án tổ chức diễu binh, diễu hành trong Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

Ghi nhận, đánh giá cao công tác chuẩn bị, xây dựng hai đề án của các cơ quan, đơn vị chức năng, Đại tướng Phan Văn Giang yêu cầu các cơ quan, đơn vị khẩn trương rà soát, hiệp đồng hoàn chỉnh các đề án, kế hoạch, tập trung huấn luyện các lực lượng, bổ sung phương án sử dụng các vũ khí, trang bị, phương tiện, khí tài quân sự hiện đại... nhằm khẳng định sức mạnh của Quân đội, củng cố niềm tin của nhân dân.

Nhấn mạnh ý nghĩa của các sự kiện, Đại tướng Phan Văn Giang lưu ý việc tổ chức các hoạt động kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân phải toàn diện, sâu rộng, sát với chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, bảo đảm trang trọng, chu đáo, thiết thực, hiệu quả, đúng với tầm vóc của sự kiện.

Các cơ quan, đơn vị chức năng cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần quyết chiến quyết thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong quá trình tổ chức các sự kiện quan trọng này./.

Yêu nước ST.

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2024

BỒI DƯỠNG THẾ HỆ CÁCH MẠNG CHO ĐỜI SAU THEO PHƯƠNG CHÂM GIÁO DỤC HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH, GIÁO DỤC GẮN LIỀN VỚI XÃ HỘI

 Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ đối với sự nghiệp của Đảng, của dân tộc. Người cho rằng, họ là mùa xuân của đất nước. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn dành tình cảm đặc biệt cho thế hệ trẻ cũng như việc bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ, nói cách khác là thế hệ cách mạng cho đời sau với phương châm “Học đi đôi với hành, giáo dục gắn liền với xã hội”.

Học đi đôi với hành là học tập phải gắn liền với thực hành. Theo Người, học phải suy nghĩ học phải liên hệ với thực tế phải có thí nghiệm và thực hành học với hành phải kết hợp với nhau.

Giáo dục gắn liền với xã hội, nghĩa là nền giáo dục đó phải gắn với nhiệm vụ đất nước trong từng giai đoạn lịch sử; sự nghiệp giáo dục ấy phải nhằm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Ngày 31/8/1960, trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa, Người nhắc nhở: Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân.

Giáo dục gắn liền với xã hội là giáo dục phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội. Qua rèn luyện thực tiễn trải qua khó khăn gian khổ thử thách sẽ rèn luyện cho thế hệ trẻ bản lĩnh kiên cường.

Tháng 9/1945, trong Thư gửi các học sinh, Hồ Chí Minh chỉ ra: Đối riêng với các em lớn,…Phải sẵn sàng mà chống quân giặc cướp nước, đấy là bổn phận của mỗi công dân. Các em lớn chưa hẳn đã đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sỹ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước.

Với các em nhỏ, Người khuyên: Từ 5 đến 10 cháu tổ chức thành một đội, giúp nhau học hành. Khi học rảnh, mỗi tuần mấy lần cả đội đem nhau đi giúp đồng bào.

Chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở, là những định hướng quan trọng đối với công tác giáo dục rèn luyện, bồi dưỡng thanh thiếu niên của Đảng ta. Đặc biệt, trong giai đoạn cách mạng hiện nay, chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với công cuộc đổi mới đất nước, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 

KHÔNG DAO ĐỘNG, HOÀI NGHI TRƯỚC NHỮNG THÔNG TIN MẠNG XÃ HỘI

    Vừa qua, trên các trang mạng xã hội facebook, như: Việt Tân, Chân Trời Mới Media, Tiếng Dân New,... đã đăng tải, chia sẻ nhiều thông tin, bài viết liên quan đến công tác nhân sự cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội. Trong đó, họ đưa ra những dự đoán, bình luận, suy diễn, xuyên tạc,... về công tác này, nhằm kích động, chia rẽ nội bộ, gây hoang mang, tạo sự hoài nghi, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

    Trước hết, chúng ta cần thống nhất nhận thức rằng: việc thời gian qua, một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, Quốc hội đã có đơn xin thôi giữ các chức vụ được phân công, nghỉ công tác là do bản thân những cán bộ đó đã vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và chịu trách nhiệm người đứng đầu theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước và đã được các cơ quan cao nhất của Đảng, Nhà nước là Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội đồng thuận, nhất trí cho nghỉ công tác. Điều này, thể hiện những cán bộ có vi phạm đã nhận thức rõ trách nhiệm của bản thân đối với Đảng, Nhà nước, Nhân dân. Đồng thời, khẳng định công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta đang được triển khai quyết liệt, hiệu quả ở tất cả các cấp, từ Trung ương đến địa phương, không có ngoại lệ, không có vùng cấm, nói đi đôi với làm,... để thực sự làm trong sạch bộ máy, nâng cao sức mạnh, khả năng lãnh đạo, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.

    Thứ hai, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra những nguy cơ tha hóa, vi phạm của cán bộ, đảng viên khi Đảng cầm quyền nên Người đã viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” để chỉ ra và phê phán những sai lầm, khuyết điểm dẫn đến có hại cho sự nghiệp cách mạng, nhất là tinh thần tự phê bình và phê bình trong Đảng. Người chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. Đến nay, những lời chỉ dạy của Người vẫn còn vẹn nguyên giá trị và được Đảng ta quán triệt, vận dụng vào công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là hoàn toàn đúng đắn, cần tiếp tục làm tốt hơn nữa, để không ngừng củng cố vị thế, uy tín của Đảng.

    Thứ ba, thực chất những thông tin các trang mạng xã hội đưa ra về công tác nhân sự đều là do họ tự suy đoán, phán đoán nên đúng thì ít mà sai thì nhiều song đã gây nhiễu loạn trong xã hội. Nguy hiểm hơn, họ còn bình luận, suy diễn, xuyên tạc cho rằng đây là hậu quả của sự đấu đá nội bộ, tranh giành quyền lực giữa các phe phái, kích động chia rẽ nội bộ, tạo sự hoài nghi, gây hoang mang dư luận xã hội và nhân dân. Vậy nên chúng ta cần luôn tỉnh táo, là những người thông thái để nhận diện, không bị mắc mưu của chúng. Chỉ tiếp nhận thông tin từ những nguồn chính thống, tuy có chậm hơn so với mạng xã hội nhưng đây là những thông tin chính thức đã được kiểm chứng, tin cậy. Đồng thời, tin tưởng vào kết quả, thành tựu của công cuộc phòng, chống tham những, tiêu cực, vào sự lãnh đạo của Đảng, không dao động, hoài nghi trước những thông tin trái chiều từ mạng xã hội./.

  

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN THÀNH TỰU NHÂN QUYỀN CỦA VIỆT NAM

 Ngày 22/4/2024, như thường lệ, Mỹ tiếp tục lặp lại “điệp khúc nhân quyền” về Việt Nam trong một báo cáo dài 59 trang, được chia thành 7 phần, đánh giá tình hình nhân quyền năm 2023. Nhân sự kiện này, đài VOA đã tán phát bài viết “Ngoại giao Mỹ: Việt Nam đàn áp nhân quyền xuyên quốc gia” trên trang mạng “Voatiengviet”. Núp bóng đằng sau bản báo cáo với những lập luận theo kiểu “bình mới, rượu cũ”, VOA đã đưa ra những nhận xét, đánh giá sai lệch, bịa đặt, xuyên tạc về việc thực hiện quyền con người tại Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế chúng ta thấy:

1. Đó vẫn là điệp khúc đánh giá sai lệch về nhân quyền ở Việt Nam

Mở đầu bài viết, đài VOA đã viện dẫn bản báo cáo nhân quyền 2023 do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố ngày 22 tháng 4 năm 2024. Trong bản báo cáo mới được đưa ra, một lần nữa Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại thể hiện cái nhìn phiến diện, sai lệch khi cho rằng: “Không có thay đổi đáng kể nào về tình hình nhân quyền ở Việt Nam trong năm qua”. Khi so sánh với báo cáo năm 2022, có thể thấy điểm khác đáng kể nhất với báo cáo năm 2023 là những cái tên, những con số, những vụ việc được lấy ra làm “minh chứng” cho luận điểm cũ rích, rằng Việt Nam vi phạm nhân quyền cho phù hợp với thời cuộc. Họ nhắc đến những cái tên như Đường Anh Thái, Lê Anh Hùng và khoác lên mình những người này danh nghĩa “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” để từ đó quy kết việc bắt, xử lý là tuỳ tiện, xét xử không công bằng, là “đàn áp xuyên quốc gia”. Đây rõ ràng là một sự đánh giá sai lệch về bản chất, thể hiện rõ sự định kiến, thiên lệch khi vẽ lên một bức tranh xám xịt, tràn ngập những gam màu tiêu cực. Thực tế, đây đều là những đối tượng chống đối, lợi dụng vỏ bọc “dân chủ”, “nhân quyền” để chống phá đất nước, xâm phạm đến an ninh quốc gia và trật tự xã hội của Việt Nam. Những đối tượng nêu trên được các cơ quan chức năng xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Đây chỉ là một trong vô số các điệp khúc mà các báo cáo về tình hình nhân quyền ở Việt Nam “xào xáo” lại sau mỗi năm.

Để đánh giá tình hình nhân quyền tại Việt Nam một cách khách quan, trung thực, đúng đắn cần phải dựa trên các thông tin và dữ liệu có nguồn gốc đáng tin cậy. Ngoài ra, để đánh giá khách quan, cần phải đưa ra những tiêu chí rõ ràng, minh bạch và được công nhận chính thức, những thông tin trong báo cáo cần được thẩm định và đưa ra đánh giá trước khi công bố. Do đó, nghiên cứu Báo cáo nhân quyền thường niên 2023 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho thấy, những thông tin trong Báo cáo đã bị ảnh hưởng bởi quan điểm, định kiến cá nhân, từ đó đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam. Thiết nghĩ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cần có cách nhìn đầy đủ, khách quan hơn về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, tránh những định kiến, nhất là trong xu thế Việt Nam – Hoa Kỳ đang tăng cường hợp tác toàn diện, vì lợi ích nhân dân hai nước.

2. Không thể phủ nhận những bước tiến về quyền con người của Việt Nam

Báo cáo nhân quyền mới nhất của Mỹ đang trở nên lạc lõng, xa rời thực tế. Bởi những nỗ lực không thể phủ nhận trong bước tiến về quyền con người của Việt Nam đã được cả cộng đồng quốc tế ghi nhận. Trong Báo cáo Quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, do Bộ Ngoại giao công bố mới đây, nhiều con số “biết nói” đầy sức thuyết phục đã phản ánh đầy đủ bức tranh tươi sắc trong công tác bảo đảm quyền con người của Việt Nam. Từ năm 2019 đến hết tháng 11/2023, Quốc hội Việt Nam đã thông qua 44 luật, trong đó có nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Cũng từ năm 2009 đến nay, GDP tính trên đầu người ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5% mỗi năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn với y tế cơ sở; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 92,81 % vào năm 2023. Tính đến tháng 9/2023, Việt Nam có 78 triệu người sử dụng Internet, tăng 21% so với số thuê bao năm 2019. Hiện, có khoảng 72.000 hội hoạt động ở Việt Nam thường xuyên, tích cực tham gia đóng góp vào xử lý các vấn đề kinh tế, xã hội quan trọng của đất nước. Đây là minh chứng cho thấy, các phương tiện truyền thông, báo chí và Internet đã phát triển mạnh mẽ và trở thành diễn đàn ngôn luận của người dân, các tổ chức xã hội và là công cụ giám sát thực thi chính sách, pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Nhiều con số đầy thuyết phục khác về sức khỏe người dân được cải thiện, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập; tuổi thọ trung bình tăng và cao hơn trung bình thế giới. Báo cáo Hạnh phúc Thế giới của Liên Hợp Quốc công bố ngày 20/3/2024, Việt Nam đứng thứ 54 trên thế giới, tăng 11 bậc so với năm 2023. Đây chính là cơ sở vững chắc giúp Việt Nam trúng cử vào các cơ quan, định chế về đảm bảo quyền con người của Liên hợp quốc, trong đó có vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Nhìn vào đây, chúng ta có thể thấy được tình hình nhân quyền tại Việt Nam không hề xấu như những gì Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đánh giá và lẽ ra, những thông số tích cực đó cần được đưa vào báo cáo nhân quyền.

Có thể khẳng định rằng, những nhận định về tình hình nhân quyền ở Việt Nam trong báo cáo này là không khách quan, không đúng thực tế, chỉ là “điệp khúc” xuyên tạc, không đáng tin cậy, cần kịch liệt lên án và đấu tranh bác bỏ./.