Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nêu gương của cán bộ, đảng viên

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về việc nêu gương, gương mẫu, nói đi đôi với làm... Điều đó được minh chứng trong cả cuộc đời của Người.

Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn gương mẫu đi đầu. Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh” (năm 1927), Người nêu ra 23 điều về “Tư cách một người cách mệnh”, trong đó có điều: “Nói thì phải làm”. Người còn nhấn mạnh: “Cán bộ xung trước,/Làng nước theo sau,/Việc khó đến đâu,/Cũng làm được hết”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương trước hết là phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt, nhất là nêu gương về đạo đức, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đó là phẩm chất đạo đức cách mạng chủ yếu, là nhân cách của con người. Theo Người, kẻ thù của lòng chí công vô tư chính là chủ nghĩa cá nhân, chỉ muốn tự tư tự lợi, chỉ thấy lợi ích riêng của mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, của đất nước. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, hình thành phẩm chất đạo đức đúng đắn, để “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”.

Thứ hai, cần nêu gương trên ba mối quan hệ: với mình, với người, với việc. Đối với mình, người cán bộ, đảng viên không được tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, mà phải luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân, phải tự phê bình như rửa mặt hằng ngày. Đối với người, cán bộ, đảng viên luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào, cán bộ, đảng viên cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng” (đặt việc công lên trên, lên trước việc tư).

Thứ ba, muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đầy gian khổ hy sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là một tấm gương đạo đức mẫu mực cho mọi người học tập và noi theo. Ở Người đã đạt tới sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo đức và nêu gương, đạt tới sự nhất quán giữa công việc và đời tư, giữa đạo đức vĩ nhân và đạo đức đời thường, địa vị càng cao, uy tín càng lớn, ra sức hoàn thiện, trở thành tấm gương đạo đức trọn vẹn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “... một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, theo yêu cầu của Người, là những người ưu tú nhất trong nhân dân, lời nói phải đi đôi với việc làm để nêu gương cho quần chúng nhân dân noi theo. Nói đi đôi với làm là sự nêu gương tốt của thế hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với cấp dưới, của cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân... 

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành... Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được, ta phải: Quyết tâm, tín tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất là các đồng chí phải thành công”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Tự mình phải “chính” trước mới giúp người khác chính. Mình không “chính”, mà muốn người khác “chính” là vô lý.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đối với cán bộ, đảng viên, thì sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo đức và nêu gương cần đạt tới sự nhất quán trong công việc và trong đời sống riêng, giữa đạo đức của người lãnh đạo và đạo đức đời thường. Địa vị càng cao càng phải ra sức hoàn thiện về đạo đức, thống nhất giữa nói và làm. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống; trong mọi lúc, mọi nơi, nói đi đôi với làm để quần chúng nhân dân noi theo. Việc nói đi đôi với làm mang lại cho quần chúng nhân dân lòng tin và sự tôn trọng đối với người cán bộ; do đó, người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của mình. Người phê phán những cán bộ “chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”. Nhân dân không bao giờ tin cậy cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đằng làm một nẻo. Muốn rèn luyện được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải thường xuyên tự kiểm điểm, soi xét chính mình; đồng thời, phải khuyến khích cấp dưới và quần chúng nhân dân nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về những điều đã hứa. Người cán bộ cũng phải biết tránh căn bệnh hình thức, bệnh “hữu danh, vô thực”, chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài.

Cán bộ, đảng viên tự tu dưỡng hằng ngày để trở thành con người có đời tư trong sáng, là tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó mà noi theo; qua đó, mà làm tăng những điều đúng, điều thiện, chống thói hư, tật xấu.

Thứ tư, để giáo dục bằng nêu gương đạt hiệu quả cao, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”.

Trong các nội dung nêu gương, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nêu gương về tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa rằng, “dân là chủ”, “dân làm chủ” và “cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân”. Do đó, cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước nhân dân cả về lời nói và việc làm; phải luôn quyết tâm, bền bỉ, chịu đựng gian khổ, quan tâm và tìm mọi cách giải quyết kịp thời, hiệu quả những nhu cầu mà nhân dân đặt ra, kể cả chấp nhận sự hy sinh để bảo vệ nhân dân, phấn đấu vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng đạo đức ấy đã tạo nên một phong cách nêu gương, tự giác gương mẫu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người lãnh tụ kính yêu của cách mạng Việt Nam, người suốt đời phấn đấu, hy sinh vì đất nước, vì dân tộc, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị; vì vậy, cả cuộc đời Người là một tấm gương lớn cho các thế hệ người Việt Nam mãi mãi noi theo.

Phần tử phản động, cơ hội chính trị, xét lại

 


          Trước hết về quan điểm cơ hội chính trị, xét lại: Là quan điểm của phần tử phản động – những người không có quan điểm rõ ràng, luôn ngả nghiêng, giao động, không kiên định theo nguyên tắc, quy luật khoa học. Khi cách mạng thuận lợi thì họ tỏ ra cấp tiến, hăng hái. Khi cách mạng gặp khó khăn thì họ quay lại chê bai, thoái lui, thỏa hiệp với các thế lực thù địch để chống phá; đòi xét lại những vấn đề cơ bản của nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng.

          Về phần tử phản động, cơ hội chính trị, xét lại: Đó chính là những đối tượng đội lốt “yêu nước”, đội lốt các nhà đấu tranh vì “dân chủ”, “nhân quyền”, “xã hội dân sự”…Thành phần của bọn cơ hội chính trị rất đa dạng, phức tạp, thường là: Đối tượng đã bị xử lý trong các vụ án chính trị trước đây, nay tiếp tục hoạt động chống đối trở lại, như số đối tượng trong các vụ án chống Đảng, Nhà nước XHCN, chính quyền nhân dân. Một số đối tượng là đảng viên trong bộ máy Nhà nước có quá trình tham gia cách mạng, có người từng giữ cương vị chủ chốt trong Đảng, sĩ quan cao cấp trong LLVT. Nhận thức quan điểm chính trị của họ đối lập với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, phản bội lại mục tiêu, lý tưởng Cộng sản, phản bội Tổ quốc. Một bộ phận là trí thức, văn nghệ sỹ, cán bộ trẻ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bị mua chuộc, lôi kéo, bất mãn, trở cờ quy lưng lại với lợi ích quốc gia, dân tộc.

          Tóm lại, đó là những cá nhân, tổ chức, chính thể có quan điểm, hành động, việc làm khác, đối lập với nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật Nhà nước, có hoạt động đi ngược lại với lợi ích dân tộc, đất nước và nhân dân Việt Nam.

                 T1

Nhận diện về đối tượng, lực lượng chống phá: (Thực chất là trả lời câu hỏi Ai chống phá? Thế lực thù địch họ là ai?

 


“Thế lực thù địch”, một cách dễ hiểu nhất là cá nhân, tổ chức có âm mưu, hành vi gây tổn hại đến chủ quyền, lãnh thổ và các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại vv… của Việt Nam, trái với những quy định của pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế.

“Quan điểm thù địch”, là quan điểm của các thế lực luôn đối lập về lợi ích và lập trường với giai cấp công nhân (đối lập về lập trường tư tưởng, lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia, dân tộc). Chúng có động cơ chính trị rõ ràng, muốn xây dựng “ngọn cờ”, hình thành các tổ chức chính trị đối lập. Với đặc trưng: Về động cơ chính trị là chống Đảng, chống chế độ. Về nội dung quan điểm: Bác bỏ thẳng thừng những nội dung cốt lõi, then chốt trong đường lối, quan điểm cơ bản của Đảng như lý luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, con đường đi lên CNXH; phủ nhận đường lối kinh tế thị trường định hướng XHCN, phủ nhận thành quả cách mạng; đáng chú ý là chúng ra sức cổ súy xã hội dân sự, phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng.

Thành phần những phần tử thù địch là: Những tổ chức, cá nhân có hoạt động chống lại Nhà nước CHXHCN Việt Nam, xâm phạm đến độc lập, tự chủ, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc…như các tổ chức Việt Tân, Triều đại Việt, Việt Nam quốc dân đảng, Thanh niên dân chủ, Văn bút Việt Hải ngoại…Các đối tượng trong chế độ cũ hoạt động đối lập với sự lãnh đạo của Đảng ta và chế độ XHCN; những đối tượng tiêu cực, bất mãn, bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, lôi kéo vào hoạt động chống Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam; một số chức sắc núp bóng dưới những hình thức tôn giáo khác nhau lợi dụng vào tôn giáo để kích động, lôi kéo quần chúng nhân dân xuyên tạc nền tảng tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có những hoạt động chống Đảng, chống chế độ.

T1

 

Kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch.

 


Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cánh mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại phải đi đôi với chống mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Thực tiễn cho thấy, các thế lực thù địch ráo riết  đẩy mạnh chống phá cách mạng Việt Nam bằng “diễn biến hòa bình”, một trong những mũi nhọn chúng tập trung chống phá là Quân đội nhân dân Việt Nam. Chúng sử dụng mọi thủ đoạn,tinh vi, xảo quyệt, ra sức tuyên truyền, lừa mị kích động đòi “phi chính trị hóa” Quân đội ta. Ý đồ thâm hiểm của chúng  là làm cho quân đội ta thoái hóa biến chất về chính trị, chuyển sang quỹ đạo chính trị của các thế lực thù địch, phản động chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .

Do đó, đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội ta của các thế lực thù địch thực sự là một đòi hỏi khách quan, bức thiết của sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đặc biệt, trong điều kiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế, khu vực ngày càng sâu rộng, bên cạnh những thời cơ, vận hội cho phát triển toàn diện đất nước do đổi mới, hội nhập đem lại, thì mặt trái của nó cũng đang đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho sự nghiệp cách mạng nói chung, cho sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Nhất là âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đang diễn ra hết sức quyết liệt với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, đan cài vào nhiều lĩnh vực cả chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…. đã làm cho việc nhận diện, phân biệt giữa kẻ thù, đối tượng, đối tác trong các quan hệ cụ thể là hết sức khó khăn.

Thực tế cho thấy, sự chống phá tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, phản động đã và đang tác động ảnh hưởng rất lớn đến đời sống chính trị - tinh thần, ý chí quyết tâm, niềm tin và tinh thần cảnh giác cách mạng của cán bộ, chiến sĩ. Một số cán bộ, chiến sĩ có biểu hiện lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận thức và xử lý các tình huống cụ thể; không thể phân biệt, nhận diện đúng đắn về đối tượng, đối tác trong từng mặt quan hệ cụ thể; không nhận rõ đâu là thiếu sót khuyết điểm của ta, đâu là âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.v.v. . Vì vậy, tích cực, chủ động và kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch, bảo vệ chính trị của Đảng trong Quân đội một nhiệm vụ, nội dung trọng yếu, yêu cầu cấp thiết của công tác đảng, công tác chính trị trong sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Mọi sự lơ là, hoặc xem nhẹ cuộc đấu tranh này đều có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối với bản chất chính trị, sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta.

Để chủ động và kiên quyết đấu tranh chống âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, trước hết đòi hỏi các cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chức năng và các tổ chức, lực lượng trong toàn quân phải quán triệt và thực hiện triệt để quan điểm, tư tưởng chỉ đạo: tích cực, chủ động, liên tiếp tiến công, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chính trị của quân đội. Thường xuyên củng cố, tăng cường bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng lý luận, trận địa chính trị, tư tưởng của Đảng trong Quân đội, tạo dựng màng ngăn vững chắc để ngăn ngừa mọi sự thẩm thấu bởi các thủ đoạn tấn công của kẻ thù trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng vào trong Quân đội. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền nâng cao giác ngộ về lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về chính trị của Quân đội và xây dựng Quân đội về chính trị, làm cơ sở tiền đề khoa học cho đấu tranh bác bỏ các quan điểm thù địch, phản động, phản khoa học. Tích cực, chủ động đấu tranh vạch trần mọi thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch; bóc trần tính chất phản động, phản khoa học của các luận thuyết “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ quân đội nhận rõ bản chất phản động, phản khoa học trong các luận thuyết của kẻ thù, đồng thời trang bị cho mọi quân nhân có đủ kiến thức toàn diện cần thiết, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiệm, kỹ năng, phương pháp đấu tranh chống lại các luận thuyết của kẻ thù, bảo vệ chính trị của quân đội. Đặc biệt, cần tiếp tục coi trọng bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ chính ủy, chính trị viên, đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu lý luận khoa học xã hội và nhân văn quân sự, bảo đảm cho đội ngũ này thực sự là lực lượng cốt cán, đi đầu trong đấu tranh chống âm mưu, hành động chống phá của kẻ thù hòng “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam.

Đổi mới, tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong quân đội. Tổ chức tốt các diễn đàn đấu tranh tư tưởng, lý luận, thường xuyên tổ chức các hội thảo, mạn đàm, tọa đàm trao đổi, sinh hoạt khoa học, giao ban tình hình an ninh chính trị.v.v., thông qua đó để phát huy vai trò của nhà lãnh đạo, các chuyên gia nghiên cứu lý luận, các nhà khoa học, các chính trị gia cả trong và ngoài quân đội, cả ở trong nước và quốc tế để phân tích, nhận diện đầy đủ về chiến lược “diễn biến hòa bình”; về âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam, đồng thời tìm tòi biện pháp tiến công, chủ động dập tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Xây dựng và bỗi dưỡng lực lượng đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận vững mạnh đủ sức làm nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết chiến đấu làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa quân đội” của các thế lực thù địch. Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây làm chính; tích cực xây dựng môi trường văn hóa, lối sống lành mạnh; lấy cái tích cực, tiến bộ đẩy lùi cái tiêu cực, lạc hậu; lấy tư tưởng cách mạng khoa học để loại bỏ tư tưởng phản động, phản khoa học.

Những nêu trên chưa phải là đầy đủ, nhưng đó là định hướng cơ bản, quan trọng của hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải được thực hiện tốt. Quân đội càng tiến lên chính quy, hiện đại, trang bị, vũ khí, phương tiện càng hiện đại, thử thách của chiến tranh càng khốc liệt, đòi hỏi quân nhân phải có bản lĩnh chính trị, phẩm chất tinh thần chiến đấu và ý thức tổ chức kỷ luật cao. Vì thế, càng phảikiên định quan điểm của Đảng, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở, tiền đề phát huy trí tuệ, tài năng của bộ đội, sức mạnh của vũ khí trang bị kỹ thuật thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Do đó càng phải tăng cường hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị trong công cuộcxây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Mọi biểu hiện coi nhẹ, hạ thấp hoặc buông lỏng công tác đảng, công tác chính trị sẽ dẫn đến hậu quả nguy hại cho sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

 

     T1

Kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại

 


Đây là nguyên tắc bất di bất dịch, đồng thời là bài học kinh nghiệm vô cùng quí báu của Đảng ta trong tổ chức, lãnh đạo và xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Lịch sự xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta đã khẳng định rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bản chất chính trị, sự trưởng thành, chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Các thế lực thù địch biết rõ điều đó, chúng tìm mọi thủ đoạn, cả hợp pháp và không hợp pháp để xuyên tạc, tiến tới loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Chính vì vậy, công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại phải kiên định nguyên tắc này. Bởi lẽ, chỉ giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng thì Quân đội nhân dân Việt Nam giữ vững bản chất cách mạng, tính nhân dân, tính dân tộc, thực sự là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sẵn sáng chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho.

Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội là nguyên tắc bất di, bất dịch, được thể hiện trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, trong mọi hoạt động của Quân đội. Là Đảng cầm quyền, Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng, phát triển khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam, đầu tư trang bị hiện đại hóa quân đội, các chính sách đối với quân đội, hậu phương quân đội. các chủ trương, giải pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng tiềm lực mọi mặt cho nền quốc phòng toàn dân; tăng cường sự sự quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đội nhân dân. Đảng xác định rõ đối tượng, đối tác trong điều kiện thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực mở rộng, giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Đảng trực tiếp lãnh đạo Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính phát huy vai trò, tiềm năng, sức mạnh của toàn dân vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm cho Quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, nắm chắc Quân đội trong mọi tình huống phải chấp hành nghiêm túc, chặt chẽ Nghị quyết số 51- NQ/TW ngày 20/7/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”.

Vấn đề có ý nghĩa trực tiếp đối với việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, là Đảng phải chăm lo xây dựng Đảng bộ quân đội, xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo toàn quân; tăng cường rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội thực sự là “hạt nhân”, là “nòng cốt” trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Namnhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Thực hiện có hiệu quả chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì về quân sự, chính có đủ số lượng cần thiết, có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống thực sự tiền phong, gương mẫu, có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Đội ngũ cán bộphải nắm chắc và hiểu sâu sắcchủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang,nắm vững đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá; có khả năng vận dụng sáng tạo các quan điểm, chủ trương đó trong thực tiễn xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.

Đó là những nội dung quan trọng mà công tác đảng, công tác chính trị cần nắm vững và thực hiện tốt nhằm trực tiếp giữ vững, tăng cường sự lãnhđạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đảng bộ Quân đội luôn trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao; tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên không suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của Quân đội được giữ vững và phát huy; phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” tiếp tục tỏa sáng, là nền tảng chính trị - tinh thần củacông cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo đảm cho toàn quân luôn đoàn kết, thống nhất cao, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

                          T1

 

Về chủ nghĩa dân túy

 


Chủ nghĩa dân túy là hiện tượng phức tạp, được chú ý nhiều trong đời sống chính trị trên thế giới hiện nay. Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù nó chưa trở thành trào lưu điển hình và chưa chi phối đời sống chính trị - xã hội nhưng đã xuất hiện và có nguy cơ tạo ra những hậu quả tiêu cực nếu chúng ta không nhận diện và đấu tranh, ngăn ngừa kịp thời.

Tư tưởng dân túy có từ xa xưa trong lịch sử, nhưng đến các thế kỷ XVII, XVIII và XIX mới phát triển mạnh mẽ trong các phong trào nông dân, thể hiện sự ủng hộ hoặc nhân danh nông dân, tìm mọi cách chống lại sự phát triển của sở hữu lớn tư bản chủ nghĩa, chống lại giai cấp tư sản trong quá trình cách mạng tư sản, hướng đến những phong trào đấu tranh mang tính không tưởng (không lấy chính sự phát triển hiện tại của những quan hệ kinh tế và xã hội, như cách nói của V.I. Lê-nin, làm tiêu chuẩn cho lý luận của mình, như ở các nước phương Tây, nhất là ở Anh, Mỹ, Pháp và sau đó ở Nga,...).

Chủ nghĩa dân túy, theo F. Phu-ku-y-a-ma, là thuật ngữ được sử dụng rất lỏng lẻo, nhằm mô tả một loạt các hiện tượng không nhất thiết dung hợp với nhau. Chủ nghĩa dân túy có các đặc điểm chính là: (1)- Là chế độ chính trị theo đuổi những chính sách được dân chúng ủng hộ trong một giai đoạn ngắn; (2)- Là việc lấy một số nhóm sắc tộc hoặc chủng tộc được coi là “nhân dân” làm nền tảng cho tính chính danh của chế độ; (3)- Là phong cách của các nhà lãnh đạo, cầm quyền tự xưng là người đại diện trực tiếp của nhân dân, hướng niềm hy vọng (và cả sự phản kháng) của người dân vào những hành động tức thời.
Còn theo Rô-nan F. Inh-gơ-hát (Ronald F. Inglehart) và N. Pi-pa No-rít (N. Pippa Norris), chủ nghĩa dân túy hiện nay có ba yếu tố chủ yếu: (1)- Sự minh triết của nhân dân với tư cách số đông người; (2)- Sự ưa thích các nhà lãnh đạo độc đoán; (3)- Đề cao tinh thần bài ngoại, ưu tiên người bản địa.

Ngày nay, thậm chí đã xuất hiện những hình thức biểu hiện của chủ nghĩa dân túy mới, như chủ nghĩa dân tộc dân túy (populist nationalism), chủ nghĩa dân túy mới (neo-populism), với những thủ đoạn chính trị mang tính chất mị dân của một số giới chính trị tác động vào quan điểm, tâm lý của đám đông người dân (cử tri) để kêu gọi, tổ chức phong trào nhằm lôi kéo, tranh thủ quần chúng, giúp nhiều nhà dân túy giành được quyền lực, tạo ra những thay đổi lớn về tương quan lực lượng có lợi cho mình trên chính trường và làm thay đổi chính sách. 
Với tính cách là phong trào chính trị, phong trào dân túy thường nhấn mạnh đến đặc điểm văn hóa, tình cảm tự phát và nhất là lợi ích thường nhật, trước mắt của người dân./.

T1

Nâng cao chất lượng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 


Trên tinh thần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đại hội XIII: "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ"" là yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ hết sức quan trọng của toàn Đảng, của toàn hệ thống chính trị và toàn dân, công tác xây dựng, phát triển, phối hợp lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch ở Việt Nam hiện nay cần tập trung vào những giải pháp căn cốt sau:

Một là, bảo đảm vai trò lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị tham gia thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch một cách chủ động, thiết thực, hiệu quả. Trên cơ sở "nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bỏa đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội…" và “kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”, cấp ủy đảng các cấp phải thống nhất nhận thức và hành động, quan tâm chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt các lực lượng, các ngành, các cấp vào cuộc, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với công tác bảo vệ chính trị nội bộ, với phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Hai là, tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sắp xếp kiện toàn bộ máy chỉ đạo, nhóm chuyên gia, lực lượng nòng cốt (từ Trung ương đến địa phương), mô hình và cơ chế phương thức lãnh đạo, chỉ đạo trong bảo vệ và đấu tranh phù hợp và hiệu quả, sắc bén và thiết thực. Chú trọng xây dựng bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm, nhóm chuyên gia theo từng lĩnh vực; mô hình, phương thức, biện pháp và cơ chế đấu tranh phù hợp với từng loại đối tượng, trên từng vấn đề, ở từng thời điểm, tùy từng địa bàn… để không chỉ tăng tính chủ động, sắc bén trong đấu tranh phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” và bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch mà còn phát huy được ưu thế, thế mạnh của từng lực lượng.

Ba là, mỗi cấp ủy, nhất là người đứng đầu phải quán triệt sâu sắc phương hướng, nhiệm vụ, quan điểm, giải pháp trong công tác bảo vệ và đấu tranh, đảm bảo xây dựng, phát triển lực lượng luôn chủ động và kịp thời tham gia, thích ứng với công tác. Trong xây dựng và phát triển lực lượng, cần quan tâm, lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận chuyên nghiệp hoặc kiêm nhiệm tâm huyết, có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực, trình độ chuyên môn cao để nghiên cứu lý luận và tổng kết, bổ sung lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, những vấn đề về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và để giảng dạy tại các học viện, nhà trường, v.v. tham gia cuộc đấu tranh này. Đây là nguồn lực quan trọng, bảo đảm tính Đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thuyết phục trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và đấu tranh trên cả bình diện vĩ mô và vi mô. Khi tác chiến, mỗi lực lượng phải quán triệt nguyên tắc dân chủ, khoa học gắn với nguyên tắc khách quan, linh hoạt, sáng tạo để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái, thù địch một cách toàn diện, triệt để, thuyết phục.

Theo đó, các lực lượng tham gia cuộc đấu tranh này phải được đào tạo chuyên sâu, thường xuyên được bồi dưỡng, được cung cấp thông tin (bao gồm cả thông tin mật) để không chỉ có đủ tri thức khoa học và luôn đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn tự tin, bản lĩnh và đủ luận cứ khoa học bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, trong bảo vệ và đấu tranh, phải phân biệt rõ quan điểm sai trái, quan điểm thù địch để không chỉ có phương pháp đấu tranh, phê phán cụ thể, hiệu quả trên tinh thần kiên quyết, kiên trì đấu tranh trên nhiều phương diện lý luận, pháp lý, lịch sử, khoa học, thực tiễn một cách phù hợp mà còn phải dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử, cụ thể để đấu tranh phê phán toàn diện, triệt để các quan điểm sai trái, thù địch liên quan đến những lĩnh vực này.

Bốn là, huy động nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lực lượng, phương tiện tham gia thông qua cơ chế tổ chức, chỉ đạo, điều hành, phối hợp, hiệp đồng, phát huy sức mạnh của các lực lượng; theo hướng tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, kịp thời từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương tới các cấp bộ đảng của ban, bộ, ngành, địa phương và tạo sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các cấp, các ngành. Trong đó, cần phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò của Hội đồng Lý luận Trung ương, các viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường, các nhà khoa học trong tổng kết thực tiễn, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam... Đồng thời, thực hiện tốt sự phối hợp giữa Bộ Quốc phòng và Bộ Công an trong nghiên cứu nắm vững âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo xử lý tốt các tình huống khẩn cấp về quốc phòng, an ninh. Chủ động phối hợp giữa các cơ quan tuyên giáo, báo chí, truyền hình, phát thanh của Đảng, Nhà nước ở cả Trung ương và địa phương để tập trung và đẩy mạnh cuộc đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Năm là, đẩy mạnh sử dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ để tiếp tục phát huy vai trò, thế mạnh của các phương tiện truyền thông, các cơ quan thông tấn, báo chí và mạng xã hội không chỉ trong việc tuyên truyền và quán triệt chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước… mà cả trong tác chiến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Đồng thời, bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện, thông tin, tài liệu... và xây dựng, thực hiện chính sách động viên, khen thưởng kịp thời đối với những tập thể, cá nhân tích cực tham gia trực tiếp đấu tranh và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên tinh thần: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là việc riêng của Đảng mà còn là việc chung, là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”./.

          T1

 

Tăng cường công tác phối hợp nâng cao chất lượng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

 


 

Nền tảng tư tưởng của Đảng là một bộ phận quan trọng, đồng thời cũng là nhân tố căn bản, cốt lõi, tạo cơ sở, tiền đề quyết định mọi hoạt động xây dựng, sinh hoạt và lãnh đạo của một Đảng. Với Đảng Cộng sản Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng là hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa/chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu nền tảng tư tưởng thay đổi, tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi về mục tiêu, lý tưởng, nguyên tắc tổ chức, phương hướng hoạt động chính trị của Đảng. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch là yêu cầu tất yếu để xây dựng và phát triển Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh.

Mục đích cao nhất, có tính chiến lược của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhằm làm cho Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Việt Nam xa rời, từ bỏ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội…

Thực tế, càng ngày quy mô và tính chất của những hành động chống phá hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng càng diễn ra gay go, ác liệt và nguy hiểm; càng được che phủ một cách tinh vi dưới nhiều hình thức, bằng nhiều thủ đoạn, dù âm thầm hay sôi động. Các hoạt động "chống phá" này khi lẩn khuất, lúc công khai, trắng trợn, song chủ yếu tập trung vào thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị trong nước; thời điểm xảy ra các vụ, việc phức tạp, nhạy cảm và các sự kiện đối ngoại quan trọng của Đảng, Nhà nước…

Thực tế cho thấy, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, việc lợi dụng ưu thế của internet, mạng xã hội, các hình thức truyền thông mới, hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài, v.v. để tuyên truyền chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam trong một thế trận nhiều tầng, nhiều lớp, có kịch bản rõ ràng theo kiểu mưa dầm thấm lâu, góp gió thành bão đã được các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị sử dụng triệt để.

Thông qua việc giật tít, đưa tin thật giả lẫn lộn để “câu view”; tạo lập các website, blog, facebook, fanpage giả mạo của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có uy tín; sử dụng dịch vụ thư điện tử (email), dịch vụ chat (nhắn tin, hội thoại), diễn đàn… các thế lực thù địch đã để tung tin, bài xấu độc, âm mưu tạo dựng những nhận thức sai lệch, hoài nghi, hoang mang, dao động, thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Từ đó, làm lung lay, xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; gây kích động nhân tâm, tạo tâm lý bức xúc, chống đối trong xã hội; làm cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân xa rời/từ bỏ nền tảng tư tưởng - vũ khí tinh thần, thế giới quan, phương pháp luận khoa học, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng…

Vì thế, để kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và mục tiêu mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thì bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch (bảo vệ và đấu tranhcuộc đấu tranh này) là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng, tồn tại và phát triển của Đảng.

Hiểu một cách cụ thể nhất thì, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch với tư tưởng của Đảng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Muốn bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, thì phải đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch; ngược lại, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch để luôn giữ vững, kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm lịch sử, nhất là ở những thời khắc có tính bước ngoặt thì bảo vệ và đấu tranh cũng luôn phải là/chắc chắn là một quá trình cần phải được tiến hành song song; phải thể hiện được sự thống nhất biện chứng giữa “xây” và “chống” mà "xây" là cơ bản, nhưng "chống" phải quyết liệt, hiệu quả, thể hiện rõ quy luật tồn tại và phát triển của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa; phải kết hợp giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài; đồng thời phải nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị.

Ở Việt Nam, trong hơn 91 năm xây dựng và phát triển, xuất phát từ yêu cầu khách quan và thực tiễn, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của Đảng…; đồng thời, kiên quyết đấu tranh phản bác, ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt, 3 thập niên gần đây, trong bối cảnh các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng những diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó dự báo của tình hình quốc tế; nhất là, tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thử thách để cổ xúy, kích động các phần tử cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất, suy thoái đạo đức, lối sống thành lập các hội, nhóm “xã hội công dân”, các "diễn đàn dân chủ” và sử dụng các website, facebook, các trang mạng xã hội dưới danh nghĩa yêu nước và phản biện để tăng cường các hoạt động chống phá Đảng và nền tảng tư tưởng của Đảng, thì cuộc đấu tranh này càng được chú trọng và đẩy mạnh.

Căn cứ vào yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ cụ thể mỗi giai đoạn cách mạng, vào Cương lĩnh của Đảng, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được tiếp tục chỉ đạo cụ thể, thông qua các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề như: Nghị quyết số 01-NQ/TW về "Công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”(3/1992); Nghị quyết số 09-NQ/TW về "Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay” (2/1995); Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"(1/2012) và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" (10/2016); Chỉ thị số Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" (5/2011) và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (5/2016); Kết luận số 53-KL/TW của Ban Bí thư về "Việc chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ, triệt phá tin giả, thông tin sai sự thật, xấu độc trên Internet, mạng xã hội"(6/2019)…

Đặc biệt, tiếp tục "tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động "diễn biến hào bình" của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch"(1) và "tập trung thực hiện mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức"(2) theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”(10/2018) đã nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó "là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng Tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu”.

Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một bộ phận của công tác đấu tranh phòng, chống âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, những năm qua, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành, đoàn thể; giữa Trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp các lực lượng trên mọi mặt trận nói chung đã góp phần quan trọng, làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam

Trên cơ sở xác định rõ tính chất, thực chất và bản chất đối kháng của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng là không khoan nhượng, cuộc đấu tranh của Đảng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng để bảo vệ nền tảng tư tưởng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã được toàn Đảng và cả hệ thống chính trị thống nhất trong nhận thức và hành động. Cuộc đấu tranh này đã được tổ chức trên phạm vi, quy mô rộng lớn; với sự vào cuộc tích cực, chủ động của các lực lượng, ở cả Trung ương và địa phương; trong đó, xung kích và nòng cốt là ngành Tuyên giáo các cấp; các cơ quan nghiên cứu khoa học, lý luận, các ban đảng, cơ quan truyền thông, thông tin các cấp; lực lượng Công an, Quân đội và các nhà khoa học, các học giả thuộc chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn; đặc biệt là vai trò chỉ đạo của Ban Chỉ đạo 35 Trung ương và sự phối hợp đồng bộ, hệ thống, trách nhiệm của các cơ quan, bộ, ngành, địa phương cùng với sự vào cuộc linh hoạt, chủ động, quyết liệt, bền bỉ của các lực lượng, đơn vị chức năng, các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương.

Sự phối hợp, vào cuộc của các lực lượng tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và đấu tranh trải theo hệ thống từ Trung ương đến địa phương, nhất là "mạng lưới đấu tranh" cả trên các loại hình báo chí cũng như trên mạng xã hội đã không chỉ giúp cho các cơ quan, ban, ngành chức năng kịp thời và chủ động nắm chắc âm mưu chiến lược, chiến thuật, thủ đoạn, chiêu trò, biện pháp, hình thức, phương tiện chống phá của thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị mà còn khẳng định tính thiết thực, hiệu quả của việc xây dựng và phát triển các lực lượng, sự phối hợp giữa các lực lượng trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch.

Thực tế cho thấy là, sự xây dựng và phát triển các lực lượng, sự phối hợp giữa các lực lượng trong cuộc đấu tranh và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ góp phần phát hiện, vạch trần sự giả dối, xảo biện của những thông tin xấu, độc mà còn ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn phá hoại tư tưởng, tình cảm con người, phá hoại tổ chức, chế độ từ bên trong. Thực tế cũng cho thấy tính hiệu quả của "mạng lưới đấu tranh" này không chỉ góp phần xây dựng luận cứ để cuộc đấu tranh này được nâng cao về tính chủ động, sự hấp dẫn, thuyết phục và hiệu quả, với những bài viết ngắn gọn, rõ ràng, nhanh nhạy… mà còn phát huy được ưu thế của các cơ quan truyền thông và mạng xã hội trong việc kịp thời, linh hoạt tác chiến để đấu tranh trực diện với những luận điểm sai trái, thù địch như:

Một là, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tách rời và đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận và đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng. Xuyên tạc bản chất và kích động, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng đối lập; xuyên tạc vể chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; thổi phồng học thuyết tam quyền phân lập và xã hội dân sự…

Hai là, bịa đặt, bôi đen, vu khống về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; về bí mật đời tư, bí mật cá nhân của các đồng chí lãnh đạo cấp cao… Từ đó, cắt xén và bình luận ác ý để tác động đến suy nghĩ, niềm tin của người đọc, gieo rắc hoài nghi về phẩm chất đạo đức, nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

Ba là, bôi nhọ và phủ nhận những vấn đề thuộc về chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Xuyên tạc, đả kích và phủ nhận sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước, đòi tư hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu của nền kinh tế xã hội…

Bốn là, lợi dụng, khoét sâu những thiếu sót trong công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước để xuyên tạc, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại nhằm phá hoại tư tưởng và chia rẽ khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, lợi dụng sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, để bôi den, bẻ cong sự thật về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, về cuộc đấu tranh phòng và chống tham nhũng, về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, v.v. nhằm gây dao động về tư tưởng, gây mất lòng tin trong nhân dân, kích động và chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa đang xây dựng ở Việt Nam…

Tuy nhiên, thực tế cuộc đấu tranh này cũng cho thấy những hạn chế, bất cập trong việc chủ động phòng và chống thông tin xấu, độc theo nhiều cấp độ, nhiều tầng nấc; trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và việc phát huy thế mạnh của từng lực lượng và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng ở tất cả các cấp để đảm bảo tác chiến nhanh, gọn, hiệu quả, nhất là trong việc đào tạo, phát triển đội ngũ chuyên gia/chuyên sâu tham gia tác chiến nhanh, chất lượng…

Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường và đi liền cùng đó là cả những thuận lợi và thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại. Ở trong nước, bên cạnh những thời cơ, vận hội không thể phủ nhận là những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ vẫn hiện hữu. Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước đang hội nhập quốc tế sâu, rộng, toàn diện, các thế lực thù địch sẽ không ngừng gia tăng hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đảng và nền tảng tư tưởng của Đảng trong tổng thể chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đặt ra những vấn đề cần phải giải quyết liên quan đến các lực lượng và sự phối hợp giữa các lực lượng để nâng cao chất lượng, hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

          T1

 

Một số giải pháp sau bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch trên không gian mạng

 


Một là, chú trọng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để nhìn nhận và có trách nhiệm, ý thức trước mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, các dấu hiệu “tự diễn biến, tự chuyển hóa. Đây là một giải pháp rất quan trọng, thường xuyên, cơ bản, lâu dài để mỗi cán bộ, đảng viên dù công tác ở cương vị nào cũng nêu cao trách nhiệm và nâng cao cảnh giác, bảo đảm “giữ vững bên trong là chính”.

Hai là, tổ chức tuyên truyền bằng nhiều nội dung, hình thức, trong đó tập trung tuyên truyền về âm mưu, phương thức, thủ đoạn đưa thông tin xấu độc, giả mạo trên không gian mạng của các loại đối tượng làm chuyển biến nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân để mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân khi tham gia, tương tác, chia sẻ bình luận, hưởng ứng, bài viết trên các trang mạng xã hội có trách nhiệm trước bản thân, trước pháp luật. 

Ba là, tiếp tục triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 16/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng, Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 17/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đảm bảo an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới và Thông báo số 17/TB-VPTW ngày 23/8/2016 của Thường trực Ban Bí thư về biện pháp cấp bách bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng; nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai thật tốt Nghị quyết này, xem đây là sự định hướng chiến lược quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. 

Bốn là, thường xuyên cập nhật thông tin, phát huy tích cực vai trò của các cơ quan báo chí, xuất bản. Chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet trong nước xây dựng phương án phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các trang mạng phản động./. 

T1

 

Phòng ngừa, ngăn chặn từ sớm, từ xa

 


Báo cáo chính trị Đại hội XII, trong phần phương hướng nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, Đảng ta xác định: “Chủ động phòng ngừa phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta bổ sung, nhấn mạnh: “Phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”.

Như vậy, những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đối với cán bộ giữ trọng trách trong Đảng và hệ thống chính trị của đất nước, chính là một trong những yếu tố bất lợi, yếu tố gây nguy cơ đột biến ngay từ bên trong. Đây cũng chính là cái cớ để các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc, kích động, chống phá, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong các bài viết, bài phát biểu liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần đề cập, nhấn mạnh việc chấn hưng đạo đức, văn hóa trong Đảng. Tổng Bí thư cho rằng, bên cạnh “pháp trị” phải coi trọng “đức trị”; bên cạnh “pháp lý” phải đề cao “đạo lý”... “Đức trị”, “đạo lý” là cái gốc, là nền tảng để thực hiện hiệu quả “pháp lý”, “pháp trị”... Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay, công tác kiểm tra phải chủ động đi trước một bước. Phải kiểm tra thường xuyên kết hợp với kiểm tra khi đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm.

Để “vũ trang” cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận... trên cơ sở Điều lệ Đảng, gắn với đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động. Đó là cơ sở, nền tảng để chấn hưng đạo đức, văn hóa trong Đảng. Muốn phòng ngừa, ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị từ sớm, từ xa, cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức đảng phải lấy yếu tố văn hóa Đảng làm trọng, đặt đạo đức của Đảng lên hàng đầu.

Sinh thời, Bác Hồ dạy: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” là vì thế. Khi cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ trì các cấp có đầy đủ văn hóa, đạo đức của Đảng, sẽ có nguồn lực nội sinh đẩy lùi, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn suy thoái từ sớm, từ xa.../.

          T1

Giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới

 


Một là, tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.

Hai là, tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta trong tình hình mới. Hệ thống hóa, phổ biến những thành tựu lý luận mà Đảng ta đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới. Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013. Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao, hấp dẫn. Khẩn trương thực hiện nghiêm quy hoạch báo chí đã được phê duyệt. Chủ động tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội.

Ba là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng. Siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng internet, mạng xã hội. Trong đó, chú trọng xây dựng, hoàn thiện pháp luật và có các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của internet, mạng xã hội. Phát huy trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch...

Bốn là, tập trung đổi mới nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; hệ thống hoá, phổ biến các thành tựu lý luận trong thời gian qua; nâng cao chất lượng nghiên cứu, học tập nghị quyết để vận dụng vào thực tiễn; đổi mới nội dung, phương thức nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; xử lý nghiêm khắc, đúng pháp luật đối với đảng viên, cán bộ vi phạm các quy định, Điều lệ Đảng... Bên cạnh “chống”, cần tăng cường biện pháp “xây”,  thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng ở cơ sở; giải quyết có hiệu quả khiếu nại, tố cáo; tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng. Các địa phương sớm kiện toàn tổ chức tuyên giáo, xây dựng đội ngũ cán bộ sẵn sàng “phản ứng nhanh” với những thông tin sai trái, thù địch trên không gian mạng. Tích cực, chủ động cung cấp những thông tin chính thống để định hướng dư luận về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước...

Năm là, Ban Tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cần đẩy mạnh tuyên truyền Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng. Tuyên truyền sâu rộng chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, cần đánh giá lại “tâm lý” xã hội hiện nay, trong đó phải phân tích sâu đến từng giai tầng xã hội để đánh giá đúng thực trạng nhận thức, nhu cầu, nguyện vọng của các đối tượng, từ đó có cách thức tổ chức đấu tranh cho phù hợp, đạt hiệu quả cao./.

          T1