Thứ Ba, 30 tháng 7, 2024

Siết quy trình, vạch chân tướng sai phạm

Tiến cử, giới thiệu, quy hoạch, đề bạt cán bộ các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược quyết định sự thành bại đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Do đó, cần phải quy được trách nhiệm cụ thể đối với từng tập thể, cá nhân trong việc tiến cử, thẩm định, quy hoạch, đề bạt bổ nhiệm cán bộ khi để xảy ra sai phạm.

Cần nhận diện được dấu hiệu sai phạm của cán bộ quy hoạch

Trong tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa” của tác giả La Quán Trung, quân sư Gia Cát Lượng là bậc kỳ tài trong nhìn người. Có nhiều cách nhìn người được ông sử dụng từ cách đây hàng nghìn năm nhưng vẫn còn giá trị, đó là: Dùng đúng sai để xét lập trường, chí hướng; dùng lợi để xét lòng liêm chính; dùng rượu để xét tính cách; dùng nguy khốn để xét dũng khí; dùng thời hạn để xét chữ tín...

 Với bản ngã con người, khi dễ bị cám dỗ và bộc lộ nhất là trước của cải, tiền bạc, lợi ích, chức tước và sắc đẹp. Bề ngoài có những dấu hiệu để nhận diện được các biểu hiện tiêu cực của cán bộ, được thể hiện ngay trong công việc, trong ứng xử, sinh hoạt hằng ngày. Qua nhiều vụ việc, những cán bộ có sai phạm thì trước đó dư luận đều xì xào về họ. Không nghi ngờ về sự bổ nhiệm “thần tốc”, “con ông cháu cha”, “phe cánh”, “nâng đỡ không trong sáng” thì cũng là những xì xào về phẩm chất, lối sống, về tài sản bất minh... Ở nhiều địa phương, có những nơi đã hình thành khu nhà ở của một số quan chức hoặc vợ con họ với lối sống xa xỉ, xa cách với nhân dân lao động. Những điều này cho phép chúng ta có cơ sở để nhận biết các dấu hiệu không minh bạch của người cán bộ.

Tổ chức chịu trách nhiệm giới thiệu không thể vô can

Các quy định, quy trình về công tác cán bộ của Đảng ngày càng chặt chẽ, rõ ràng và đầy đủ. Đảng đã có nhiều văn bản quy định việc phân cấp, phân quyền, hay cụ thể hơn là trao quyền chủ động cho từng cấp. Cùng với đó cũng đòi hỏi các cấp phải gắn trách nhiệm, chịu trách nhiệm khi được phân cấp, phân quyền. Ngày 18-8-2022, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 80-QĐ/TW về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; theo đó: Cá nhân, tập thể đề xuất phải chịu trách nhiệm chính trước cấp có thẩm quyền về đánh giá, nhận xét, kết luận tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; năng lực công tác, ưu, khuyết điểm; kê khai tài sản, thu nhập... và ý kiến đề xuất của mình trong bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.

Để bổ nhiệm được một cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì đều phải qua các bước chặt chẽ. Quy trình nhân sự phải trải qua 5 bước đối với nguồn nhân sự tại chỗ và 3 bước đối với nguồn nhân sự điều động, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử từ nguồn cán bộ nơi khác đến. Quá trình thực hiện thì cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và người đứng đầu chịu trách nhiệm về đánh giá, nhận xét, đề xuất, lựa chọn, giới thiệu nhân sự bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử. Tuy nhiên, qua những trường hợp cán bộ có sai phạm thời gian qua cho thấy, việc thực hiện quy trách nhiệm đối với tập thể có liên quan đến công tác cán bộ chưa được thực hiện tốt.

Đối với tập thể cấp ủy đảng, vì sao không phát hiện ra cán bộ có sai phạm hay yếu kém để rồi vẫn biểu quyết thông qua? Rõ ràng là tổ chức chưa làm hết trách nhiệm, thậm chí mất sức chiến đấu, hoặc có tiêu cực. Dư luận rất bức xúc với tình trạng lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ ở một số địa phương, một số đảng bộ. Theo quy định, một cán bộ được quy hoạch thì phải đáp ứng các tiêu chí, tiêu chuẩn. Tổ chức đảng nơi đó phản xác minh, tiến hành thảo luận, phân tích kỹ lưỡng từ lý lịch, quá trình học tập, công tác; đánh giá, nhận xét ưu, khuyết điểm, triển vọng phát triển, kết quả xác minh, kết luận những vấn đề mới nảy sinh (nếu có) đối với nhân sự... Nếu làm kỹ, chặt chẽ từng khâu, từng bước này thì cán bộ không đủ phẩm chất chắc chắn sẽ bị loại bỏ. Đơn cử như khâu xác minh kê khai tài sản cán bộ. Theo Quy định số 114-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ thì bản thân người đưa vào quy hoạch phải kê khai tài sản và phải xác minh kê khai tài sản của cả những người thân của người đó nhằm tránh tình trạng che giấu tài sản. Tuy vậy, trên thực tế, việc này nhiều tổ chức, cơ quan, đơn vị làm chưa tốt. Bởi thế mới xảy ra tình trạng cán bộ quy hoạch thì kê khai không nhiều tài sản, nhưng vợ con, người thân của họ lại có nhiều tài sản một cách thiếu minh bạch. 6 tháng đầu năm 2024, qua kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản, thu nhập, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã đề nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 4 cán bộ có vi phạm.

Để bịt được lỗ hổng này, cần thực hiện xử lý nghiêm đối với tổ chức đảng giới thiệu, quy hoạch, đề bạt cán bộ có sai phạm, yếu kém trước quy hoạch. Việc này nếu không làm nghiêm thì không rõ được trách nhiệm của tổ chức, không ngăn chặn được tình trạng giới thiệu cán bộ một cách thiếu trách nhiệm, lợi ích nhóm. Đồng thời, coi trọng nhận diện, đẩy lùi các biểu hiện lựa chọn cán bộ quy hoạch, sử dụng cán bộ thuần nhất chỉ dựa vào tiêu chí bằng cấp mà chưa chú trọng đến chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ trên thực tế. Một số cán bộ có hồ sơ, lý lịch “rất đẹp” nhưng trình độ, kiến thức chưa đáp ứng được nhiệm vụ khi được xem xét bổ nhiệm, trọng dụng. Thực trạng đó dẫn đến tình trạng chạy bằng cấp, học hàm, học vị...

Cần xem xét trách nhiệm người tiến cử, giới thiệu

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” nêu rõ: “Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ theo một quy trình nhất định, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình”.

Trên thực tế, mỗi khi kiểm điểm cán bộ lãnh đạo, chủ trì của tổ chức có sai phạm trong công tác cán bộ, có một số người lại đổ lỗi cho tập thể. Họ ngụy biện rằng, mọi quyết định là của tập thể, do tập thể, thế nên không thể quy trách nhiệm vào cá nhân họ. Trên thực tế, nhiều tập thể bị biến thành bình phong cho những sai phạm của người lãnh đạo, chủ trì. Sự tha hóa quyền lực trong một bộ phận cán bộ, trong đó có người đứng đầu, thường diễn ra bằng nhiều phương thức, thủ đoạn rất tinh vi. Sự lũng đoạn này thường diễn ra trong một thời gian dài, vì thế, khi người đứng đầu đưa ra những quyết định, nhất là quyết định về mặt nhân sự thì hầu hết cá nhân trong tập thể đó buộc phải nghe theo, tuân theo.

Trong thực hiện nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” thì cá nhân phụ trách (hay người đứng đầu) phải chịu trách nhiệm rất cao. Đối chiếu các sai phạm đã xảy ra trên thực tế trong công tác cán bộ, vẫn không nhiều cá nhân bị xử lý trách nhiệm đúng mức khi đã tiến cử, giới thiệu để quy hoạch cán bộ không đúng. Những quy định về trách nhiệm của người tiến cử, giới thiệu, quy hoạch cán bộ dường như chủ yếu nằm trong văn bản mà chưa thực sự đi vào cuộc sống.

Siết chặt quy trình bằng các quy định

Công tác cán bộ là “có vào có ra, có lên có xuống”, đưa vào quy hoạch nhưng cũng phải quyết liệt đưa ra khỏi quy hoạch chứ không thể theo lệ cứ vào quy hoạch là phát triển. Trên thực tế, nhiều người khi vào quy hoạch là “nín thở qua sông” trong khi không có sản phẩm, không đột phá gì trong công việc. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “... Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi chưa bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, cá biệt có nơi bố trí người nhà, người thân chưa đủ uy tín”. Trước đó, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, đánh giá: “Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm "động" và "mở". 

Vấn đề đặt ra là lấy tiêu chí gì để đánh giá, xem xét đưa vào hay đưa ra khỏi quy hoạch trong công tác cán bộ?

Trước hết phải thống nhất quan điểm, quy hoạch cán bộ là bước chuẩn bị quan trọng nên phải được làm đúng nguyên tắc, bảo đảm công tâm, khách quan. Cán bộ được quy hoạch thì phải sàng lọc qua thực tiễn; lấy hiệu quả công việc là thước đo. Theo đó, ở mỗi vị trí lãnh đạo đều phải thể hiện bằng sản phẩm cụ thể khi xem xét bổ nhiệm vào vị trí chức vụ cao hơn. Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cũng xác định rất rõ: Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược theo hướng “phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người đã được thử thách qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có "sản phẩm" cụ thể, có triển vọng phát triển”. Mới đây nhất, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 114-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Quy định số 114-QĐ/TW đã lượng hóa cụ thể các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ đối với từng nhóm hành vi, như: Nhóm “Hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn”; nhóm hành vi “chạy chức, chạy quyền”; nhóm các hành vi sai phạm khác. Quy định này đã soi chiếu được các hành vi sai phạm của cán bộ ngay từ sớm, giúp cho quá trình quy hoạch cán bộ có chất lượng hơn.

Sưu tầm

“Bất kỳ việc to việc nhỏ, phải chịu khó giải thích cho mọi người dân hiểu rõ...”

Bài viết được đăng tải vào giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bấy giờ, Đảng và Nhà nước ta phát hành công trái để phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đi đến thành công. Mặc dù cuộc phát hành công trái nhìn chung đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, nhưng có địa phương, đơn vị chưa đạt chỉ tiêu. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra lý do những địa phương, đơn vị chưa đạt chỉ tiêu là do cán bộ những nơi đó tuyên truyền, giải thích chưa rõ, thậm chí quan liêu, mệnh lệnh.

Hồ Chí Minh khẳng định, trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bất kỳ từ “việc to” đến “việc nhỏ”, nếu biết cách và kiên trì tuyên truyền, giải thích, động viên quần chúng nhân dân để họ hiểu rõ thì sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và việc gì cũng sẽ đem lại thành công. Lời dạy đó không chỉ dành cho một người, một việc mà còn dành cho mọi cán bộ, đảng viên trong tất cả mọi việc. Qua đây, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh những tác động tiêu cực của bệnh quan liêu, mệnh lệnh đối với kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng; đồng thời, cũng nói lên tầm quan trọng đặc biệt của công tác tuyên truyền quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giác ngộ, đoàn kết, tập hợp và phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng khó khăn, phức tạp hơn, trong khi đó các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, kích động, chia rẽ nhân dân với Đảng. Thực tế đó càng đòi hỏi phải quán triệt và thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác huấn luyện, SSCĐ và giáo dục chính trị theo đúng 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp; tập trung xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; làm chủ vũ khí trang bị; thành thục về kỹ thuật, chiến thuật; luôn phân biệt rõ đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đồng thời phải kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu trong quản lý, chỉ huy đơn vị.

“Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được”

Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được trích trong bài:“Vệ sinh yêu nước” (Phong trào diệt ruồi, muỗi), đăng trên Báo Nhân Dân, số ra ngày 2-7-1958. Đây là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu nước không thể tách rời thương yêu nhân dân, yêu nước không phải là điều gì chung chung, trừu tượng, mà được bắt đầu từ những việc nhỏ nhất và thể hiện ở việc làm cụ thể của mỗi người trong cuộc sống hằng ngày. Người có tinh thần yêu nước sẽ luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân và dù khó khăn, gian khổ thế nào cũng ra sức làm cho kỳ được, còn việc gì có hại cho nhân dân phải ra sức trừ cho kỳ hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực của người chiến sĩ cách mạng, đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang và cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Quán triệt và thực hiện lời dạy trên của Người, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh để bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, chấp hành nghiêm 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, được nhân dân tin yêu, ghi nhận và trao tặng danh xưng cao quý: Bộ đội Cụ Hồ. Toàn quân tích cực làm công tác dân vận, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, củng cố quốc phòng-an ninh, phát triển kinh tế-xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa; tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… Các binh đoàn, đoàn kinh tế-quốc phòng gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng-an ninh, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, bao tiêu sản phẩm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa mới… ở địa bàn đóng quân. Cán bộ, chiến sĩ chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh; củng cố, phát huy tinh thần đoàn kết các dân tộc, xây dựng quê hương giàu mạnh, văn minh.

“Mỗi đồng chí phải là người kiểu mẫu...”

Lời dạy của Bác có ý nghĩa thiết thực, không chỉ là yêu cầu đối với các đồng chí trong Đảng Dân chủ, mà còn suy rộng ra tất cả các đồng chí cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, mỗi người phải là người kiểu mẫu trong sự hy sinh phấn đấu cho Tổ quốc, cho đồng bào. Mỗi người phải luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đặt lợi ích của tập thể, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; phải gương mẫu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng vượt qua khó khăn, gian khổ, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp cách mạng, tiếp tục đưa đất nước phát triển tiến lên. Thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, đảng viên luôn nêu cao tính tiền phong gương mẫu, tích cực, tự giác trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, góp phần cùng toàn Đảng thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày nay, trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, lời dạy của Bác vẫn vẹn nguyên giá trị, không những là tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động mà còn là yêu cầu đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên đề cao trách nhiệm, phát huy tốt tính tiền phong gương mẫu, gương mẫu đi đầu trong thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, gắn với thực hiện hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thật sự là những cán bộ có tâm, có tầm, vì nước, vì dân, là tấm gương sáng để quần chúng nhân dân học tập và làm theo.

Là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, mỗi cán bộ, chiến sĩ càng phải ra sức học tập và thực hiện tốt lời căn dặn của Bác. Trên từng cương vị, chức trách được giao, mỗi quân nhân phải nâng cao nhận thức, kiên định lập trường cách mạng; không ngừng phấn đấu vươn lên vượt qua khó khăn, gian khổ; ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Càng trong khó khăn, gian khổ, bản lĩnh chính trị, niềm tin và ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân của cán bộ, chiến sĩ quân đội càng phải được khẳng định, phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ ngày càng tỏa sáng, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: VIỆT NAM TIẾP TỤC THỰC HIỆN TÂM NGUYỆN CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG!

         Đảng và Nhà nước Việt Nam mong muốn cùng các nước thực hiện tâm nguyện của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đưa quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam và các nước ngày càng phát triển!
Bộ Ngoại giao tối nay cho biết, trong những ngày qua, trước sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, lãnh đạo cấp cao các nước, tổ chức quốc tế, chính đảng và bạn bè quốc tế từ 103 nước, vùng lãnh thổ và 32 tổ chức quốc tế đã gửi gần 500 thư, điện, thông điệp chia buồn.

100 đoàn quốc tế đã đến viếng và gửi hoa chia buồn tại Việt Nam; hơn 3.500 đoàn đã đến viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại các cơ quan đại diện Việt Nam trên khắp thế giới.

Trong các thư, điện, thông điệp chia buồn, lãnh đạo các nước, tổ chức quốc tế, chính đảng và bạn bè quốc tế đã dành những tình cảm sâu đậm, niềm tiếc thương vô hạn và sự kính trọng lớn lao đối với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Ngoài ra, lãnh đạo các nước, tổ chức quốc tế cũng tôn vinh những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển của Việt Nam và quan hệ giữa Việt Nam và các đối tác, bày tỏ mong muốn tiếp tục thúc đẩy hơn nữa hợp tác với Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực.

Trân trọng sự đoàn kết, sẻ chia, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Tô Lâm, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường, các lãnh đạo Đảng, Nhà nước khác đã có thư, điện gửi lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế, các chính đảng và bạn bè quốc tế.

Lãnh đạo Việt Nam cảm ơn tình cảm đặc biệt và những lời thăm hỏi, động viên trước mất mát to lớn của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam và gia đình Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Các lãnh đạo Đảng và Nhà nước mong muốn cùng các nước, đối tác tiếp tục thực hiện tâm nguyện của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đưa quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và các nước, các đối tác ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, đáp ứng lợi ích của người dân mỗi nước và đóng góp vào hòa bình, hợp tác, thịnh vượng ở khu vực và trên thế giới./.
Yêu nước ST.

Ra mắt phần mềm phòng, chống lừa đảo nTrust

 Ngày 30-7, Hiệp hội An ninh mạng quốc gia ra mắt phần mềm phòng chống lừa đảo nTrust.

nTrust là ứng dụng hoàn toàn miễn phí, sử dụng cho điện thoại thông minh (smartphone), giúp phát hiện các dấu hiệu lừa đảo thông qua kiểm tra số điện thoại, số tài khoản, đường dẫn trang web (link) và mã QR.

Phần mềm cũng hỗ trợ chức năng rà soát, quét các ứng dụng trên điện thoại, phát hiện mã độc hoặc phần mềm giả mạo. Người dùng có thể tải phần mềm từ 2 chợ ứng dụng phổ biến là Google Play với hệ điều hành Android và App Store với hệ điều hành iOS (điện thoại iPhone).

Ông Vũ Ngọc Sơn - Trưởng ban Nghiên cứu, tư vấn, phát triển công nghệ và Hợp tác quốc tế, Hiệp hội An ninh mạng quốc gia cho biết: “Hiện tại cơ sở dữ liệu phòng chống lừa đảo nTrust đã có hơn 1 triệu bản ghi, được xác minh, tổng hợp từ nguồn dữ liệu của Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức an ninh mạng thành viên của Hiệp hội. Chúng tôi hy vọng sau khi ra mắt, với sự tham gia của cộng đồng người dùng, bộ dữ liệu này sẽ tăng nhanh trong thời gian tới”.

Người dùng có thể tải nTrust bắt đầu từ hôm nay để bảo vệ điện thoại và tham gia ngay cộng đồng phòng chống lừa đảo nTrust. Theo đó, nếu phát hiện bất cứ dấu hiệu nào về lừa đảo, người dùng có thể gửi báo cáo số điện thoại, số tài khoản, đường link, app nghi ngờ về trung tâm thông qua tính năng tích hợp sẵn trên phần mềm. Các dữ liệu báo cáo này sẽ được tập hợp, xác minh và cập nhật cho toàn bộ cộng đồng người sử dụng nTrust.

Phần mềm phòng chống lừa đảo nTrust đề cao việc đảm bảo tính riêng tư, cho phép người dùng chủ động hoàn toàn trong việc kiểm soát, lựa chọn các thông tin cần kiểm tra, báo cáo.

Đặc biệt, khác với các phần mềm nước ngoài có tính năng tương tự trên thị trường, toàn bộ quá trình xử lý liên quan đến kiểm tra cuộc gọi lừa đảo, làm phiền sẽ chỉ được thực hiện trên điện thoại, không gửi bất cứ thông tin gì về máy chủ.






















































Hội nghị quân sự Trung Giã sau 70 năm vẫn còn nguyên giá trị trong thực tiễn

 Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Phong nhấn mạnh, sau 70 năm, Hội nghị quân sự Trung Giã không chỉ có giá trị lịch sử mà còn để lại những kinh nghiệm quý báu cho công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Sáng 30-7, Bộ Quốc phòng phối hợp Thành ủy Hà Nội, huyện Sóc Sơn, Viện Lịch sử quân sự tổ chức Hội thảo khoa học “70 năm Hội nghị quân sự Trung Giã - Giá trị lịch sử và bài học”.

Năm 1954, cùng với Hội nghị Giơnevơ bàn về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, tại Trung Giã (Sóc Sơn, Hà Nội) diễn ra Hội nghị bàn về các vấn đề do tình hình quân sự cụ thể tại chỗ đặt ra giữa Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng chỉ huy các lực lượng liên hiệp Pháp ở Đông Dương.

Sau 23 ngày đàm phán (từ ngày 4 đến 27-7-1954), Hội nghị đã đạt được nhiều kết quả, giải quyết một cách thỏa đáng vấn đề tù binh, đồng thời định ra thể thức cần thiết để thực hiện ngừng bắn trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

Hội nghị quân sự Trung Giã cũng là cuộc tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng chỉ huy các lực lượng liên hiệp Pháp ở Đông Dương, góp phần để Hội nghị Giơnevơ đi đến ký kết các văn bản về chấm dứt chiến tranh, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia.

Phát biểu tại hội thảo, Tiến sĩ Nguyễn Văn Phong, Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội nhấn mạnh, hội thảo là một trong những hoạt động lớn, trọng tâm, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, có ý nghĩa thiết thực hướng tới kỷ niệm 70 năm Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024).

Đồng thời, giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; khích lệ, cổ vũ động viên các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ noi gương thế hệ ông cha ra sức học tập, lao động và cống hiến sức lực, trí tuệ để xây dựng Thủ đô giàu đẹp, văn minh, hiện đại.

Cùng với đó là rút ra những kinh nghiệm quý báu cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bà Văn Minh Tâm - con gái Đại tướng Văn Tiến Dũng phát biểu tại hội thảo
Bà Văn Minh Tâm - con gái Đại tướng Văn Tiến Dũng phát biểu tại hội thảo

Tham luận tại hội thảo, PGS.TS Nguyễn Văn Nhật, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam nhấn mạnh, thành công của Hội nghị quân sự Trung Giã có ý nghĩa lịch sử to lớn.

Hội nghị Giơnevơ đưa ra giải pháp toàn bộ nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ðông Dương, còn Hội nghị quân sự Trung Giã bàn cách thực hiện ngừng bắn và chính sách đối với tù binh, kiến nghị những vấn đề liên quan gửi đến quân sự.

Đặc biệt, hội nghị này đã chuẩn bị tốt những điều kiện cần thiết để thực hiện ngừng bắn đúng ngày giờ như Hiệp định Giơnevơ đã quy định và tạo cơ sở thuận lợi cho hoạt động của Ủy ban Liên hợp Trung ương.

Các tham luận khác tại Hội thảo cũng đã tập trung khẳng định và làm sáng rõ một số vấn đề quan trọng của sự kiện lịch sử này.

Thay mặt ban tổ chức, Đại tá, Tiến sĩ Lê Thanh Bài - Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự đề nghị các cơ quan, đơn vị trong và ngoài quân đội cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng để củng cố, phát huy giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm của Hội nghị Trung Giã trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Thủ tướng Phạm Minh Chính tới New Delhi bắt đầu thăm cấp Nhà nước Ấn Độ

 Chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính tới Ấn Độ nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam coi trọng quan hệ hữu nghị truyền thống và Đối tác Chiến lược Toàn diện với Ấn Độ.

Theo Đặc phái viên TTXVN, vào lúc 22 giờ 40 phút, ngày 30/7, giờ địa phương (tức 0 giờ 10 phút, ngày 31/7, giờ Hà Nội), chuyên cơ chở Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam đã tới sân bay quân sự Palam ở thủ đô New Delhi bắt đầu thăm cấp Nhà nước Ấn Độ theo lời mời của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi.

Đón Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam tại sân bay Palam về phía Ấn Độ có Quốc vụ khanh Ngoại giao Ấn Độ Pabitra Margerita, Đại sứ Ấn Độ tại Việt Nam Sandeep Arya, Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao Ấn Độ; về phía Việt Nam có Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Nguyễn Thanh Hải, Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Mumbai Lê Quang Biên và cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ.

Mặc dù trời đã khuya, song với những cái bắt tay nồng ấm, vẫy chào nồng nhiệt và điệu múa truyền thống của những vũ công Ấn Độ dưới ánh đèn điện chào đón Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam, không khí chân tình, trọng thị thêm phần lung linh, huyền ảo.

Đường từ sân bay về khách sạn Thủ tướng và đoàn Việt Nam ở có treo cờ Việt Nam-Ấn Độ và ảnh chân dung Thủ tướng Phạm Minh Chính với khẩu hiệu song ngữ Việt Nam-Ấn Độ là "Chào mừng Thủ tướng Phạm Minh Chính."

Chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính tới Ấn Độ nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam là coi trọng quan hệ hữu nghị truyền thống và Đối tác Chiến lược Toàn diện với Ấn Độ.

Dự kiến trong chuyến thăm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ có các cuộc hội đàm, hội kiến với lãnh đạo cấp cao Ấn Độ như Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, Tổng thống Ấn Độ Droupadi Murmu, Chủ tịch Thượng viện Ấn Độ Jagdeep Dhankhar, Chủ tịch Hạ viện Ấn Độ Om Birla.

Thủ tướng cũng sẽ gặp gỡ lãnh đạo một số chính Đảng của Ấn Độ; dự các diễn đàn, tọa đàm với doanh nghiệp hai nước; tiếp các tập đoàn kinh tế hàng đầu Ấn Độ; phát biểu tại Hội đồng các vấn đề thế giới Ấn Độ; thăm Đại sứ quán và gặp gỡ đại diện cộng đồng người Việt Nam tại Ấn Độ...

Trong chuyến thăm, một mặt hai bên củng cố các lĩnh vực hợp tác truyền thống, mặt khác mở rộng ra những lĩnh vực mà hai bên có tiềm năng, thế mạnh như điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học, dược phẩm, năng lượng tái tạo, kinh tế xanh, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, vật liệu mới, khoáng sản thiết yếu...

Chuyến thăm góp phần củng cố sự tin cậy chính trị, làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác nhiều mặt, đưa quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam-Ấn Độ đi vào thực chất, hiệu quả hơn cả về chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, đầu tư. Đây cũng là cơ hội để hai nước tăng cường chia sẻ về các vấn đề an ninh, chiến lược trong khu vực, trên thế giới và khẳng định sự ủng hộ lẫn nhau trong các diễn đàn đa phương cùng quan tâm./.

Mấy giải pháp đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn chống phá trên lĩnh vực kinh tế hiện nay

 

Đẩy mạnh chống phá Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế là một nội dung trọng tâm trong chiến lược Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng đưa nền kinh tế nước ta phát triển chệch hướng xã hội chủ nghĩa, đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của chúng là nhiệm vụ rất quan trọng hiện nay.

Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch đã và đang triển khai đồng thời trên tất cả các lĩnh vực, với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trong đó, chúng coi chống phá trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng là hàng đầu; kinh tế là mũi nhọn; ngoại giao là quan trọng; dân tộc, tôn giáo là ngòi nổ...; kết hợp với uy hiếp, răn đe về quân sự để xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trên lĩnh vực kinh tế, các thế lực thù địch tập trung xuyên tạc, phủ nhận những nguyên lý kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước; đưa ra các khoản viện trợ kinh tế, cho vay, đầu tư, ký kết các hiệp định thương mại,... để gây sức ép về chính trị, đòi Đảng, Nhà nước nhượng bộ các vấn đề về “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”,... từ đó can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Đặc biệt, chúng triệt để lợi dụng chủ trương Việt Nam mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế để thâm nhập, tìm cách hướng lái nền kinh tế nước ta theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa; làm suy giảm khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế, dần phụ thuộc vào các nước tư bản phát triển. Cùng với đó, chúng sử dụng biện pháp kinh tế, coi đó là “viên đạn bọc đường” để dụ dỗ, mua chuộc, làm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên. Thậm chí, chúng cố tình phớt lờ những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước nhưng lại khuếch trương những hạn chế trong chỉ đạo, điều tiết vĩ mô nền kinh tế; khoét sâu vào việc một số tổ chức, cá nhân thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý gây thất thoát lớn về tiền, tài sản,... nhằm phục vụ mưu đồ phủ định vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, v.v. Như vậy, âm mưu, thủ đoạn chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế thực sự là nguy cơ lớn đe dọa tới vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, trực tiếp tác động tiêu cực đến chủ trương, đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta, cần nhận diện và kiên quyết đấu tranh phản bác những âm mưu, thủ đoạn trên, bằng nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp; trong đó, tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau.

Một là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế. Thực tế những năm qua cho thấy, mặc dù các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam và gây không ít khó khăn, thách thức, nguy cơ cho nước ta. Tuy nhiên, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa nhận thức rõ điều này, thậm chí cho rằng, chúng ta đang thổi phồng, nói quá. Vì vậy, các cấp, ngành, địa phương cần tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Nội dung tập trung làm rõ bản chất cách mạng, khoa học những quan điểm kinh tế cơ bản của các nhà kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ quá độ, nhất là về kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; vấn đề cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, v.v. Đồng thời, vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Từ đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng và toàn dân trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực kinh tế.

Để đạt hiệu quả cao, cần tiến hành đồng bộ nhiều hình thức, biện pháp sát với thực tiễn; trong đó, chú trọng kết hợp giáo dục chính trị với đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trong những năm đổi mới đất nước; đi sâu quán triệt nội dung cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cùng với đó, tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”,… gắn với bảo vệ tính đúng đắn, sáng tạo trong chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước ta.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trong phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế. Đây vừa là đòi hỏi của thực tiễn, vừa là biện pháp chủ động tiến công làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế hiện nay. Theo đó, cần dựa trên cơ sở khoa học của những quy luật kinh tế khách quan và tình hình thực tiễn đất nước để Đảng đề ra chủ trương, đường lối, nghị quyết lãnh đạo phát triển kinh tế đất nước đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trước hết là đối với Nhà nước, bảo đảm Đảng lãnh đạo xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế thông qua sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Đảng không buông lỏng sự lãnh đạo, song cũng không bao biện làm thay. Đồng thời, thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, các quy định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế; giám sát, phê bình cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên đang công tác, làm việc trong lĩnh vực kinh tế; phát hiện, đấu tranh với những hành vi tham nhũng, tiêu cực; giới thiệu những người xứng đáng để bầu vào các vị trí lãnh đạo, quản lý kinh tế. Cùng với đó, quan tâm xây dựng bộ máy quản lý phù hợp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Đẩy mạnh đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế phù hợp với sự phát triển của thực tiễn; phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong quản lý nhà nước và thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những sai phạm trong quản lý kinh tế, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Ba là, đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”1. Đến Đại hội XIII, Đảng ta nhận định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới”2; “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập”3. Trên thực tế, Đảng ta luôn kiên định chủ trương, đường lối, chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đề ra đường lối đổi mới, phát triển kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng vượt bậc, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử và đang trên đà phát triển, phấn đấu trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045; chủ động hội nhập sâu rộng, toàn diện vào kinh tế khu vực, thế giới, tạo thế và lực mới để phát triển đất nước nhanh, bền vững. Đi liền với quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế, cần chú trọng thực hiện đồng bộ các mục tiêu an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ gắn với công bằng xã hội, ngăn chặn sự phân hóa giàu nghèo. Tiếp tục giữ vững, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong điều tiết, dẫn dắt nền kinh tế; phát hiện, khắc phục kịp thời khuynh hướng tiêu cực, tự phát, “tự diễn biến” của nền kinh tế, bảo đảm phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng ta xác định, tham nhũng, tiêu cực là “giặc nội xâm” nguy hiểm, tàn phá đất nước từ bên trong, trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có vị trí, ý nghĩa rất quan trọng, góp phần đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực kinh tế. Để thực hiện có hiệu quả, trước hết, tập trung hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực; làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền; xác định rõ trách nhiệm của cá nhân trong giải quyết công việc theo đúng chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Tăng cường quán triệt, giáo dục để cán bộ, đảng viên nhận thức rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra; từ đó, từng cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng tự soi, tự sửa, khắc phục dứt diểm những khuyết điểm, hạn chế. Tiếp tục xử lý nghiêm minh những vụ việc tham nhũng, tiêu cực,... gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước và công khai kết quả xử lý để nhân dân biết. Phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; dựa vào dân để đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, nâng cao chất lượng các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp, nâng cao khả năng tự bảo vệ, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch”, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa./.

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: QUAN ĐIỂM CỦA TỔNG BÍ THƯ VỀ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HÙNG CƯỜNG!

         Với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần "Tiền hô hậu ủng; Nhất hô bá ứng; Trên dưới đồng lòng; Dọc ngang thông suốt", Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ và có hiệu quả, đất nước ta đã vững vàng vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, tiếp tục đạt được những kết quả to lớn, khá toàn diện và rất đáng mừng trên nhiều lĩnh vực!
Đó cũng là tiền để để thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, tập trung trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để xây dựng, phát triển nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường.

Tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan
Tổng kết nhiệm kỳ khóa XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định toàn Đảng, toàn dân đã đạt được những thành tựu quan trọng. Theo Tổng Bí thư, 5 năm qua, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là tác động của dịch bệnh và thiên tai liên tiếp xẩy ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch COVID-19 trong cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của năm 2020 và cả giai đoạn 2016 - 2020. Việt Nam được thế giới ghi nhận, coi là điểm sáng trong việc thực hiện thắng lợi "mục tiêu kép" vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch COVID-19 thành công; vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân.

Bên cạnh đó, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định, những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo được dấu ấn nổi bật, mà còn góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới.

Theo đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đạt được những kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thống nhất cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng trong việc cụ thể hoá, triển khai thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội XII, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, nhất là trong những lĩnh vực quan trọng, then chốt; sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ và các cấp chính quyền; sự đổi mới phù hợp, đúng đắn về nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị; sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, cần cù, sáng tạo, trách nhiệm của nhân dân; sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới. 

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta xây dựng, phát triển nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường
Nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2024), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”. Thông điệp bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng định hướng, thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, tập trung trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để xây dựng, phát triển nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường.

Dịp này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng yêu cầu cần khẩn trương, nghiêm túc tiến hành tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới, từ đó, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho cả nhiệm kỳ khóa XIII, xây dựng đất nước ta ngày càng phát triển, cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, như Bác Hồ và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hằng mong đợi.

Từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; thách thức mới xuất hiện nhiều hơn so với dự báo nhưng với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần "Tiền hô hậu ủng; Nhất hô bá ứng; Trên dưới đồng lòng; Dọc ngang thông suốt", Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ và có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đất nước ta đã vững vàng vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, tiếp tục đạt được những kết quả to lớn, khá toàn diện và rất đáng mừng trên nhiều lĩnh vực.

Thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, tập trung trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để xây dựng, phát triển nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường. Theo đó, kinh tế nước ta tiếp tục là điểm sáng, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát, nợ công, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng kinh tế năm 2021 đạt 2,56%, trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng âm; tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt 8,02%, cao hơn nhiều so với mục tiêu 6 - 6,5%. Năm 2023 đạt 5,05%, là mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới; lần đầu tiên GDP của nước ta đạt mức 430 tỉ USD, đứng thứ 3 trong ASEAN và thuộc nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng các lĩnh vực văn hóa - xã hội vẫn tiếp tục được quan tâm chăm lo, đầu tư phát triển, đạt được nhiều kết quả quan trọng, rõ rệt.

Đặc biệt, trong công tác phòng, chống đại dịch COVID-19, truyền thống anh hùng, yêu nước, "thương người như thể thương thân" của dân tộc ta và tính ưu việt của chế độ ta lại được phát huy lên một tầm cao mới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, điểm mới trong nhiệm kỳ này là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã rất tích cực chuẩn bị và sớm tổ chức các hội nghị cán bộ toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tại các cơ quan Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các khối: Nội chính, quốc phòng, an ninh, văn hóa, đối ngoại. Bộ Chính trị cũng đã ban hành và quán triệt, thực hiện 6 nghị quyết mới về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở toàn bộ 6 vùng kinh tế - xã hội của đất nước. Việc tổ chức rất đồng bộ, bài bản ngay từ đầu nhiệm kỳ, sớm định hướng rõ ràng, đúng đắn cho việc tiếp tục đổi mới, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây có thể khẳng định là kết quả nổi bật, góp phần tạo nên những thành tựu đạt được từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay.

Tổng Bí thư nêu rõ, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được đẩy mạnh để từng bước tiến tới: "không dám", "không thể", "không muốn", "không cần" tham nhũng. Việc kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ, cải cách hành chính bảo đảm tính công khai, minh bạch. Chất lượng, hiệu quả hoạt động và sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được nâng cao. Thông tin tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có nhiều tiến bộ. Đặc biệt, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng tiếp tục được đổi mới, tăng cường trên cơ sở ban hành có chất lượng và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ nhiều quy định mới, góp phần kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; tình trạng tham nhũng, "lợi ích nhóm", "tư duy nhiệm kỳ", "chủ nghĩa cá nhân", "tha hóa quyền lực" trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, kỷ cương, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Đánh giá về công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, quan điểm tiếp tục kế tục và phát huy sức mạnh của trường phái đối ngoại và ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam", "gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển", thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường. Nổi bật là từ sau Đại hội XIII của Đảng, các hoạt động đối ngoại của nước ta diễn ra rất sôi động, liên tục và là điểm sáng ấn tượng, nổi bật. Thành công của các chuyến thăm cấp Nhà nước, thăm chính thức, các cuộc điện đàm, hội đàm trực tuyến của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, nhất là hơn 40 chuyến thăm của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt tới các nước láng giềng, nước lớn, các nước ASEAN, nhiều nước đối tác chiến lược quan trọng và bạn bè truyền thống.

Đặc biệt, năm 2023, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Phu nhân thăm cấp Nhà nước Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng ta thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam. Cuộc gặp cấp cao của người đứng đầu 3 Đảng Việt Nam - Lào - Campuchia do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Thongloun Sisoulith và Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia Hun Sen tại Hà Nội đã thành công tốt đẹp;… và nhiều nguyên thủ các nước quan trọng khác đến thăm Việt Nam. Đây là những sự kiện chính trị đối ngoại, ngoại giao đặc biệt quan trọng, không chỉ trong hợp tác song phương mà cả trong các vấn đề khu vực và quốc tế, có ý nghĩa lịch sử, được dư luận trong và ngoài nước rất hoan nghênh, đánh giá cao, đúng như Tổng Bí thư vẫn thường nói: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay".

Kết quả đến nay, Đảng ta đã có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính... Về quan hệ ngoại giao nhà nước, Việt Nam đã mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với 193 quốc gia, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện; trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm của hầu hết các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, các đoàn thể, tổ chức nhân dân của Việt Nam đã có quan hệ hợp tác, hữu nghị với hơn 1.200 tổ chức, đối tác nước ngoài.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định, tình hình từ nay đến hết nhiệm kỳ khóa XIII, bên cạnh những thuận lợi cũng sẽ còn nhiều khó khăn. Do đó toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần tiếp tục quán triệt thật sâu sắc, tổ chức thực hiện thật nghiêm, thật tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nhanh, bền vững. Chú trọng củng cố, tăng cường nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế. Tập trung ưu tiên cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... gắn với tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường./.

Yêu nước ST.

Nghệ thuật quân sự Việt Nam và yêu cầu phát triển trong tình hình mới

 Trải qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước đầy hào hùng, oanh liệt, dân tộc ta đã xây đắp nên nền nghệ thuật quân sự vô cùng độc đáo, đặc sắc, rất đáng tự hào. Để giúp bạn đọc tìm hiểu, tham khảo, nghiên cứu, trao đổi về nghệ thuật quân sự Việt Nam, từ số 07/2024, Tạp chí Quốc phòng toàn dân trân trọng giới thiệu chùm bài viết: “Nghệ thuật quân sự Việt Nam và yêu cầu phát triển trong tình hình mới”.

I. Sự hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc

Để nghiên cứu có hệ thống, trước hết cần hiểu nghệ thuật quân sự là gì? Có nhiều khái niệm khác nhau về nghệ thuật quân sự, cách hiểu về nó cũng vậy, tùy thuộc vào quan điểm, trường phái quân sự của mỗi quốc gia. Theo Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, “Nghệ thuật quân sự, lý luận và thực tiễn chuẩn bị và thực hành chiến tranh, chủ yếu là đấu tranh vũ trang. Gồm chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Lý luận nghệ thuật quân sự là bộ phận chủ yếu của khoa học quân sự, nghiên cứu các quy luật và tính chất, đặc điểm chiến tranh, xác định những nguyên tắc và phương thức đấu tranh vũ trang. Thực tiễn nghệ thuật quân sự chỉ đạo và thực hành đấu tranh vũ trang ở mọi quy mô”

Như vậy, chúng ta có thể thấy nội hàm của nghệ thuật quân sự rất rộng, gồm nhiều vấn đề, được biểu hiện ở nhiều cấp độ khác nhau,... nên khó có thể giải quyết một cách đầy đủ, thấu đáo trong một vài bài viết. Vì thế, ở đây chỉ đề cập giới hạn về nó trong thực hành chiến tranh, còn trong chuẩn bị chiến tranh thì xin không nêu vì không có điều kiện, mặc dù nó cũng rất quan trọng. Trong đó, cũng chỉ tập trung vào những nội dung lớn, khái quát về nghệ thuật quân sự Việt Nam từ lịch sử đến hiện tại, nhất là nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Cần khẳng định, nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam, được kết hợp bởi yếu tố truyền thống và hiện đại. Nghệ thuật quân sự Việt Nam ra đời và từng bước phát triển trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc. Đặc biệt, trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc (1945 - 1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nghệ thuật quân sự Việt Nam có bước phát triển mới, đa dạng và đạt đến đỉnh cao vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc tiếp đó, nghệ thuật quân sự Việt Nam tiếp tục được vận dụng thực hiện và có những phát triển ở mức độ khác nhau.

Nhìn lại lịch sử có thể thấy, nghệ thuật quân sự của dân tộc ta ra đời từ rất sớm trong quá trình đấu tranh chống kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn gấp nhiều lần. Khởi đầu là nghệ thuật toàn dân đánh giặc bằng cách đánh du kích vừa và nhỏ, trang bị vũ khí thô sơ trong cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Tần ở thế kỷ III trước công nguyên hay cách đánh phòng ngự bằng thành lũy của An Dương Vương ở thế kỷ II trước công nguyên. Tiếp đó, vẫn là cách đánh du kích kết hợp với khởi nghĩa vũ trang qua các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, v.v. Nhìn chung trong thời Bắc thuộc, nghệ thuật quân sự dân tộc còn sơ khai, phát triển chậm, chủ yếu là nghệ thuật quân sự của khởi nghĩa vũ trang chứ chưa phải là nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân. Từ thế kỷ thứ X, sau khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự chủ, có quân đội được tổ chức và trang bị vũ khí tới hàng vạn người, khi đó nghệ thuật quân sự của dân tộc dần phát triển cả về lý luận, thực tiễn và thực sự trở thành nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân.

Cùng với sự hưng thịnh của các triều đại nhà nước phong kiến Đại Việt, quân đội theo đó cũng có sự phát triển không ngừng về tổ chức biên chế, quân số, vũ khí, trang bị, phương tiện chiến đấu, sức cơ động, v.v. Đáng chú ý, đây cũng là thời kỳ dân tộc ta phải liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh vệ quốc và chiến tranh giải phóng để chống lại sự xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc hùng mạnh, do đó nghệ thuật quân sự dân tộc có sự phát triển nhanh về nhiều phương diện. Đó là nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc; trong đó, quân đội (quân triều đình) làm nòng cốt. Đặc biệt, từ thời Lý - Trần, triều đình thực thi kế sách “Ngụ binh ư nông” - gửi quân trong dân - khi đó quân đội không chỉ có lực lượng thường trực mà còn có lực lượng dự bị hùng hậu, “tĩnh vi nông, động vi binh” - thời bình là dân, khi đất nước có chiến tranh sẽ được huy động trở thành quân. Ngoài quân đội chính quy của triều đình, gồm lực lượng thường trực và dự bị, còn tổ chức đội quân của các hương, lộ, thổ binh, v.v. Theo đó, hình thành nên lực lượng vũ trang ba thứ quân với cách đánh rất linh hoạt ở mọi quy mô, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi thứ quân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Nội dung nghệ thuật quân sự của dân tộc cũng vì thế có sự phát triển rất phong phú, đa dạng và được vận dụng, kế thừa liên tục, hiệu quả qua các cuộc chiến tranh. Trong thực hành chiến tranh, tuân thủ nghiêm ngặt quy luật của chiến tranh, coi trọng nguyên tắc: giành và giữ quyền chủ động, “tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu”, nguyên tắc tập trung lực lượng, lựa chọn thời cơ, mục tiêu tiến công, địa bàn tác chiến,… nhất là trong tổ chức các trận quyết chiến chiến lược. Đây cũng là nội dung chủ yếu thể hiện rõ nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam; đồng thời, cũng thể hiện tài thao lược kiệt xuất về quân sự của các bậc tiền nhân trong lịch sử dân tộc. Cùng với sự phát triển không ngừng của nghệ thuật quân sự, tư tưởng quân sự, mà tư tưởng chủ đạo là tiến công dần được khẳng định và cụ thể hóa trong tác chiến, như: “tiên phát chế nhân”, “binh quý thần tốc”, “lấy đoản binh chế trường trận”, “lấy yếu chống mạnh, ít địch nhiều”, v.v. Đặc biệt là sự chỉ đạo của tư tưởng quân sự đối với nghệ thuật quân sự, tạo nên bản sắc, sự độc đáo của nó trong thực chiến mà chủ yếu trong tác chiến tiến công. Cha ông ta đã rất minh triết khi lựa chọn tư tưởng tiến công làm chủ đạo, bởi nó không những phù hợp với đặc thù đất nước, đặc điểm chiến tranh - chỉ có tiến công mới giành thắng lợi triệt để, quét sạch quân thù khỏi bờ cõi Tổ quốc - mà còn phát huy cao nhất sức mạnh của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược của ngoại bang.

Thực tiễn lịch sử khẳng định ít có quốc gia nào trên thế giới phải đối đầu với nhiều kẻ thù xâm lược, với thời gian dài và chịu nhiều đau thương, mất mát như dân tộc Việt Nam. Để giành và giữ nền độc lập, tự chủ, nhân dân ta đã phải liên tục tiến hành chiến tranh chống xâm lược trong suốt chiều dài lịch sử. Đó là điều chúng ta không hề muốn mà buộc phải làm, vì không có lựa chọn khác. Nhưng, cũng từ thực tiễn khắc nghiệt đó, dân tộc ta đã viết nên trang sử hào hùng, những chiến công bất hủ khiến các quốc gia khâm phục, kẻ thù khiếp sợ và đã tạo nên nền nghệ thuật quân sự đặc sắc, giàu tính truyền thống cũng là điều dễ hiểu. Khó có thể đề cập đầy đủ, cặn kẽ về nghệ thuật quân sự dân tộc, mà chỉ có thể nêu những trận đánh tiêu biểu với hình thức tác chiến khác nhau để minh chứng cho nền quân sự độc đáo, đáng tự hào đó. Đầu tiên phải kể đến là trận đánh Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu, phá căn cứ chuẩn bị chiến tranh của địch ngay trên đất địch của Lý Thường Kiệt ở thế kỷ XI. Đây là một điển hình về nghệ thuật giành quyền chủ động trong chiến tranh, tạo tiền đề thắng lợi tiếp theo cho trận quyết chiến chiến lược trên phòng tuyến sông Như Nguyệt đánh bại quân xâm lược nhà Tống và đây cũng là một tiêu biểu của nghệ thuật phòng thủ - phản công chủ động. Hoặc trận Xương Giang - Chi Lăng thời Lê ở thế kỷ XV trong cuộc chiến chống quân xâm lược Minh cũng là một điển hình khác về nghệ thuật “vây điểm, diệt viện” ở quy mô lớn, với nhiều nét độc đáo, sáng tạo. Trong cuộc chiến này còn có trận Tốt Động - Chúc Động cũng rất đáng đề cập, thể hiện rõ nét đặc sắc của tư tưởng, nghệ thuật “yếu chống mạnh, ít địch nhiều”, trận đánh sử dụng lực lượng không lớn, nhưng đạt hiệu suất chiến đấu rất cao bằng cách đánh phục kích, mai phục sở trường. Đặc biệt là trận Ngọc Hồi - Đống Đa, đại phá 28 vạn quân Thanh của Quang Trung năm 1789, tiêu biểu cho cái hay của nghệ thuật quân sự dân tộc về nhiều phương diện, nhất là việc vận dụng yếu tố thần tốc (hành quân thần tốc, tác chiến thần tốc), cũng như nghệ thuật huy động, tổ chức và sử dụng lực lượng tiến công, chọn thời cơ tiến công hợp lý, đánh đòn quyết định kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn. Nghệ thuật quân sự dân tộc với những yếu tố cốt lõi “thế, lực, thời, mưu” được vận dụng thực hiện với sự biến hóa khôn lường trong thực hành tác chiến. Và đáng chú ý là, không chỉ tác chiến trên bộ với những địa hình khác nhau, mà còn cả trên sông, trên biển. Trong đó phải kể đến ba trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng Giang rất đặc sắc, diễn ra ở cùng một địa điểm (sông Bạch Đằng), một cách đánh (trận địa cọc, lợi dụng thủy triều), tất nhiên ở những giai đoạn khác nhau (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII) vẫn tạo được bất ngờ và đều giành thắng lợi vang dội. Khởi đầu là trận Bạch Đằng của Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán năm 938, kết thúc hơn nghìn năm Bắc thuộc, giành độc lập tự chủ cho dân tộc. Tiếp đó là trận Bạch Đằng năm 981 do Lê Đại Hành lãnh đạo, đánh bại quân xâm lược nhà Tống; sau cùng là trận Bạch Đằng ở thời nhà Trần năm 1288 do Trần Quốc Tuấn chỉ huy trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 3. Ngoài ra còn có trận Rạch Ngầm - Xoài Mút của Nguyễn Huệ năm 1785 phá tan 05 vạn quân Xiêm bằng cách đánh kết hợp thủy bộ tài tình.

Những chiến công chói lọi đó mãi mãi là bản hùng ca lịch sử của dân tộc, là biểu tượng của tinh thần yêu nước, khát vọng hòa bình, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn dân. Đồng thời, cũng là sự kết tinh của nền nghệ thuật quân sự đặc sắc, đậm chất truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó tiếp tục được kế thừa, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này.

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Hình mẫu của người cộng sản

  Sự nghiệp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là hình mẫu của một người cộng sản, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự đất nước, cho nhân dân

Trong hai ngày 25 và 26/7 (giờ địa phương), Đại sứ quán Việt Nam tại Cộng hòa Chile đã trang trọng tổ chức Lễ viếng và mở sổ tang tưởng niệm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.

Trong bầu không khí trang nghiêm, Đại sứ Phạm Trường Giang và toàn thể cán bộ Đại sứ quán và Thương vụ Việt Nam tại Chile, cùng gia đình, đại diện cộng đồng người Việt tại Chile đã dành phút mặc niệm tưởng nhớ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 

Ngay sau Lễ mở sổ tang, Chủ tịch Đảng Cộng sản Chile Lautaro Carmona, đại diện Lãnh đạo Bộ Ngoại giao Chile, Quận trưởng quận Cerro Navia, cùng nhiều Đại sứ, trưởng cơ quan đại diện ngoại giao tại Chile đã tới viếng và ghi sổ tang tưởng nhớ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong đó có Đại sứ các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Philppines, Brasil, Croatia, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, Algeria, Ai Cập cũng như đại diện sứ quán các nước Nga, Ấn Độ, Malaysia, Ecuador, Venezuela, Kuwait…

Chủ tịch Đảng Cộng sản Chile Lautaro Carmona một lần nữa bày tỏ: “Sự nghiệp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là hình mẫu của một người cộng sản xuất sắc, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho đất nước”.

Trong sổ tang, Đại sứ Trung Quốc tại Chile Ngưu Thanh Bảo (Niu Qingbao) nhấn mạnh: “Dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc đã được củng cố vững chắc. Chúng tôi đánh giá cao những nỗ lực của Tổng Bí thư trong việc thúc đẩy hợp tác song phương và tin tưởng rằng quan hệ Việt Nam – Trung Quốc sẽ tiếp tục lớn mạnh và đạt nhiều thành tựu, mang lại thịnh vượng cho cả hai nước”.

Đại sứ Nhật Bản Takako Ito tại Chile chia sẻ: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người bạn đích thực của Nhật Bản. Cá nhân tôi vô cùng biết ơn tình cảm và lòng hiếu khách nồng ấm của Ngài Tổng Bí thư trong chuyến thăm của Nhật hoàng và Hoàng hậu tới Việt Nam vào năm 2017. Vai trò lãnh đạo của Ngài trong nỗ lực vun đắp quan hệ giữa hai nước sẽ còn tiếp tục để lại dấu ấn sâu sắc trong thời gian tới”.

Đại biện lâm thời Đại sứ quán Liên bang Nga tại Chile Vladimir Finyutin ghi trong sổ tang: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã dành trọn cuộc đời phụng sự Tổ quốc, luôn được người dân Việt Nam yêu mến, kính trọng, đồng thời có uy tín quốc tế nổi bật. Liên bang Nga sẽ luôn nhớ đến Ngài như một người bạn chân thành, đã có những đóng góp cá nhân lớn lao trong nỗ lực xây dựng và củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Liên bang Nga và Việt Nam”.

Đại sứ Cộng hòa Philppines tại Chile Celeste Vinzon-Balatbat viết: “Tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc tới chính phủ và nhân dân Việt Nam về sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tôi mong tang quyến và bạn bè của Ngài sẽ phần nào được an ủi khi nhớ tới di sản mà Ngài để lại trong nỗ lực phục vụ đất nước”.

Đại sứ Cộng hòa Nam Phi George Monyemangene bày tỏ tình đoàn kết với Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong thời khắc đau buồn này và tin tưởng những đóng góp lớn lao, phi thường của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ tiếp thêm sức mạnh cho Việt Nam trong công cuộc phát triển bền vững đất nước.