Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

Những vấn đề cần chú ý trong xây dựng, hoàn thiện cơ chế để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay

 

Như vậy, để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, phải xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng trên các phương diện chính là: Trong công tác tổ chức; trong hoạt động lãnh đạo trong sinh hoạt đảng và trong các mặt khác của công tác xây dựng Đảng. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là việc phức tạp, phạm vi phải xây dựng các quy định rất rộng, cần sự kiên trì và sự chỉ đạo tập trung.

Việc hoàn thiện cơ chế để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay cần tập trung vào xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ sao cho khắc phục được những hạn chế, bất cập trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, như tình trạng dân chủ hình thức; bóp méo dân chủ để phục vụ ý đồ cá nhân; không quy được trách nhiệm cá nhân khi có sai phạm xảy ra; nhân danh nguyên tắc tập trung dân chủ nhưng hành xử gia trưởng, độc đoán... Trong xây dựng, hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay, cần lưu ý một số vấn đề sau:

1- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, bầu người đứng đầu trong các tổ chức của Đảng.

Cần hoàn thiện các quy định về chế độ bầu cử theo hướng mở rộng bầu cử trực tiếp cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy từ cơ sở đến cấp huyện, tỉnh từ nay đến năm 2030. Để khắc phục tình trạng dân chủ hình thức và bóp méo dân chủ trong bầu cử ở nơi này hay nơi khác, theo tinh thần mở rộng quyền đề cử và tự ứng cử, cần giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn, quy định bắt buộc có số dư trong giới thiệu ứng cử và bầu cử cấp ủy và cả các chức danh là người đứng đầu. Sự không hài lòng trong dư luận, tính hình thức và nguy cơ làm biến dạng dân chủ do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu ở tình trạng phổ biến là chỉ có một ứng viên cho một chức danh lãnh đạo trong bầu cử hiện nay.

Bên cạnh đó, cũng cần tập trung nghiên cứu thực hiện chế độ để những người tham gia bầu có thể bãi miễn đại biểu do mình bầu ra.

2- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong Đảng.

Cần hoàn thiện các quy chế làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng, trong đó quy định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo (cấp ủy, ban thường vụ, ban cán sự đảng...) theo hướng chỉ bàn và quyết định những vấn đề lớn, chỉ trực tiếp quản lý cán bộ là người đứng đầu; đồng thời, tăng thẩm quyền, trách nhiệm của cá nhân là thành viên tập thể lãnh đạo, người đứng đầu (nhất là bí thư, các phó bí thư cấp ủy), đi đôi với hoàn thiện các quy định, thiết chế kiểm soát quyền lực bằng chế độ kiểm tra, giám sát, bỏ phiếu bất tín nhiệm...

Hoàn thiện quy định về chế độ tổ chức, làm việc của thường trực cấp ủy, ban cán sự đảng và đảng đoàn vì đây là những cơ cấu tổ chức đặc biệt, được hình thành không do bầu cử trực tiếp, nhưng có trách nhiệm, thẩm quyền rất lớn, dễ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ nếu thiếu các quy định cụ thể và chế độ kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Trong trường hợp bí thư cấp ủy đồng thời làm chủ tịch ủy ban nhân dân, vẫn phải bố trí thường trực cấp ủy đủ ba thành viên lãnh đạo để thực hiện được nguyên tắc tập trung dân chủ.

3- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đại hội đảng.

Cần xây dựng, hoàn thiện các quy định bảo đảm Đại hội đại biểu toàn quốc thật sự là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng; đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên là cơ quan lãnh đạo có vị trí, vai trò cao nhất trong tổ chức đảng, khắc phục biểu hiện hình thức của đại hội đảng các cấp. Ngay trong chính đảng mác-xít đầu tiên do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập là Liên đoàn những người cộng sản, Điều lệ của Liên đoàn năm 1847 đã quy định Ban chấp hành trung ương tham dự Đại hội, nhưng không có quyền biểu quyết. Với quy định này, cho thấy C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã rất quan tâm đến ngăn chặn ảnh hưởng của ban chấp hành đối với đại hội đảng và là chỉ dẫn có ý nghĩa đối với vấn đề hạn chế ảnh hưởng quá mức của ban chấp hành đến đại hội đảng.

Cần xây dựng quy định về chế độ thảo luận trong đại hội đảng bảo đảm sự thảo luận, tranh luận thật sự trong đại hội đảng, khắc phục tính hình thức của tham luận tại đại hội.

4- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ ra nghị quyết và chấp hành nghị quyết.

Xây dựng, hoàn thiện quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể. Các quy định phải bảo đảm để mọi cán bộ, đảng viên thực hiện được quyền tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi Đảng đã có nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết. Quy định rõ chế độ lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân, hồi đáp các ý kiến góp ý, các kiến nghị.

 Xây dựng, hoàn thiện chế độ thảo luận, tranh luận trong xây dựng nghị quyết bảo đảm khuyến khích mọi đảng viên thảo luận dân chủ tất cả mọi vấn đề trong phạm vi chức năng tổ chức đảng của mình; đồng thời, cấp ủy, tổ chức đảng phải tạo cơ chế để khơi gợi, khuyến khích được đảng viên dân chủ thảo luận, phát huy cao nhất tính sáng tạo và giá trị đóng góp của đảng viên. Bảo đảm tất cả ý kiến của đảng viên phải được tôn trọng, ghi nhận, kể cả có đúng, có sai, dù xuôi chiều hay trái chiều. Không đưa ra các quy định hạn chế ý kiến góp ý, chất vấn, hay đồng nhất việc có ý kiến trái chiều với sự mất đoàn kết trong tổ chức đảng.

Chế độ ra quyết định phải bảo đảm việc ban hành nghị quyết của Đảng đều trên cơ sở được tổ chức thảo luận dân chủ rộng rãi, lấy ý kiến của các tổ chức đảng và đảng viên từ cơ sở trở lên, lấy ý kiến góp ý của nhân dân nếu cần, được cân nhắc nhiều mặt, phân tích thấu đáo, nhất là những vấn đề có ý kiến trái chiều trước khi quyết định. Đối với những vấn đề mới, khó, phức tạp thì cần được tổ chức hội thảo, tọa đàm để tiến hành thảo luận, trao đổi kỹ lưỡng, xin ý kiến chuyên gia trước khi quyết định.

5- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện quyền và nhiệm vụ của đảng viên.

Cần cụ thể hóa các quy định để thực sự thực hiện được các quyền của đảng viên về: Quyền được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng; quyền ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương; quyền phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời; quyền trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình. 

6- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện thẩm quyền của tổ chức đảng các cấp.

Cần xây dựng, hoàn thiện các quy định về việc tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình nhưng không trái với nguyên tắc, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên. Điều này sẽ ngăn ngừa được tình trạng vi phạm thẩm quyền khi ban hành các nghị quyết, dẫn đến việc ban hành các nghị quyết sai trái của một số tổ chức đảng như trong thời gian vừa qua. Thực hiện có nền nếp chế độ kiểm tra, giám sát các quyết định của tổ chức đảng các cấp và xử lý các quyết định trái với nguyên tắc, đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp trên và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

7- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ báo cáo và thông báo hoạt động của cấp ủy.

Quy định rõ về chế độ cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp; cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước cấp dưới, bảo đảm thật sự là một “kênh” kiểm soát quyền lực trong Đảng; chế độ định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả, thực chất tự phê bình và phê bình.

8- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có đức, có tài. Cơ chế phát hiện, tuyển chọn phải bảo đảm phát hiện từ cơ sở để lựa chọn được người có đầy đủ phẩm chất, năng lực, xứng đáng được bầu vào cấp ủy khóa mới; phát hiện người có tài, đức để tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng.

Thực hiện nghiêm và hoàn thiện chế độ ràng buộc trách nhiệm cả về chính trị, tinh thần và kinh tế với người đề cử, tiến cử trong công tác nhân sự nếu việc đề cử, tiến cử vi phạm các quy định, để chống tư tưởng cục bộ, bản vị, địa phương, thân quen, “cánh hẩu”, “lợi ích nhóm”; đồng thời, tránh cách làm giản đơn, tùy tiện, vô nguyên tắc trong công tác cán bộ. Tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát có nền nếp việc chấp hành quy định của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Cần tập trung kiểm tra, giám sát thực hiện quy định về không bố trí những người có quan hệ gia đình (vợ, chồng; bố, mẹ của vợ hoặc chồng; con, anh chị em ruột) cùng đảm nhiệm các chức danh có liên quan như: Bí thư, phó bí thư, trưởng ban tổ chức, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cùng cấp ủy; chủ tịch ủy ban nhân dân và người đứng đầu cơ quan nội vụ, thanh tra cùng cấp ở một địa phương; thành viên trong cùng ban cán sự đảng, đảng đoàn; người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu trong cùng địa phương, cơ quan, đơn vị. Tăng cường kiểm tra, giám sát để phát hiện, xử lý nghiêm những trường hợp xen ghép ý đồ cá nhân, đề ra tiêu chí, tiêu chuẩn, điều kiện, nhận xét, đánh giá mang tính áp đặt, không đúng bản chất, không đúng sự thật nhằm vụ lợi hoặc có lợi cho nhân sự trong quá trình tham mưu thực hiện quy trình công tác cán bộ; để vợ, chồng, bố, mẹ, con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình để thao túng, can thiệp công tác cán bộ. Cần thực hiện ráo riết các biện pháp trọng tâm như trên để đưa việc chấp hành các quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ đi vào nền nếp, trở thành văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị.

Thường xuyên hoàn thiện cơ chế phát hiện, thay thế kịp thời những cán bộ kém năng lực và kém phẩm chất, có khuyết điểm nghiêm trọng, không còn đủ uy tín. Tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát có nền nếp việc chấp hành Quy định số 41-QĐ/TW, ngày 3-11-2021, của Bộ Chính trị, “Về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ”.

9- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tư tưởng.

Xây dựng và hoàn thiện chế độ thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác lý luận theo hướng mở rộng dân chủ trong nghiên cứu lý luận, thu hút và phát huy trí tuệ của đông đảo các chuyên gia trên các lĩnh vực cùng tham gia; tạo môi trường cho nghiên cứu dự báo phát triển. Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới, khó phải được tổ chức nghiên cứu một cách thấu đáo, chuyên sâu, bài bản.

Cần quy chế hóa trách nhiệm và khuyến khích sự cống hiến của đảng viên làm công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, đồng thời cụ thể hóa các điều cấm đối với đảng viên theo Quy định số 37-QĐ/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về những điều đảng viên không được làm” trong nói, viết, tuyên truyền, để tạo thành chế độ vừa phát huy dân chủ, thúc đẩy sáng tạo, vừa bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật trong công tác tư tưởng.

10- Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số.

Cần xây dựng quy định về chế độ bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số, gồm: Trường hợp được bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số; quy trình và thời gian xử lý bảo lưu ý kiến thuộc về thiểu số; quyền và trách nhiệm của đảng viên có ý kiến được bảo lưu; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý nghiêm tình trạng bảo lưu mang tính hình thức; ngăn ngừa sự lợi dụng, lạm dụng quyền dân chủ của một số đảng viên.

HAIVAN

Nhận thức về cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng

 

Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã có bước tiến mới về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, trong việc chuẩn bị các quyết định của Đảng, bầu cử cấp ủy và đánh giá, đề bạt cán bộ. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng không ít cá nhân lợi dụng chính nguyên tắc tập trung dân chủ để cố tình thực hiện sai nguyên tắc, lợi dụng yếu tố tập trung để thâu tóm quyền lực; nhiều cán bộ, đảng viên đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó có cả đảng viên là cán bộ cấp cao. Nguyên nhân dẫn đến vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ có cả yếu tố chủ quan và khách quan. Một trong những nguyên nhân là do nguyên tắc tập trung dân chủ có nội dung chi phối rất rộng và khá trừu tượng, khó nắm bắt; hơn nữa, mỗi lĩnh vực, mỗi mặt công tác, hoạt động xây dựng Đảng lại có những yêu cầu cụ thể riêng. Mặc dù gần đây, Đảng ta đã có nhiều văn bản quy định, hướng dẫn, trong đó cụ thể hóa cách tiến hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ; nhưng vẫn còn không ít lĩnh vực, mặt công tác chưa có được những quy định cụ thể như vậy; hoặc, có quy định nhưng vẫn chưa đủ rõ, tức là chưa có những quy định có tính hệ thống về cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Thực tế đó cho thấy, để các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời, ngăn ngừa, hạn chế tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thì rất cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay.

Theo cách hiểu thông thường, cơ chế là “cách thức theo đó một quá trình thực hiện”. Khái niệm cơ chế được dùng từ lâu trong khoa học tự nhiên, kỹ thuật, như cơ chế quang hợp của cây xanh, cơ chế hoạt động của máy phát điện... Ngày nay, khái niệm cơ chế được sử dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể thấy, cơ chế là những quy định về cách thức tiến hành hoạt động nào đó trong xã hội, trong tổ chức. Cơ chế do tổ chức, con người đặt ra nhưng lại quy định về hoạt động của tổ chức, con người; do vậy, cơ chế có thể đúng và có thể sai, phù hợp hoặc không phù hợp, tiến bộ hay lạc hậu. Cơ chế có nhiều cấp độ, từ đơn giản đến phức tạp. Ở cấp độ cao, cơ chế còn bao gồm cả quan điểm chính trị - xã hội, các quy phạm pháp luật, các quy định, quy chế, quy tắc, quy trình cụ thể trong từng tổ chức, từng công việc.

Từ nhận thức về khái niệm cơ chế như vậy, cho thấy: Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là hệ thống những quy định về cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Vì cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng bao gồm những quy định về cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; do đó, xây dựng cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng thực chất là xây dựng hệ thống các quy định về cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Xây dựng tốt cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng tức là xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy định chỉ rõ cách thức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng, sẽ vừa hướng dẫn cho các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng thực hiện đúng nguyên tắc này, vừa ngăn ngừa tình trạng tùy tiện, lúng túng, cố tình làm sai, bóp méo trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ càng được hoàn thiện, rõ ràng, sẽ càng bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

HAIVAN

14. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng hiện nay

Cơ chế bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng là loại cơ chế chính trị cấp độ cao, bao gồm cả quan điểm chính trị, các quy định, quy chế, quy trình cụ thể trong từng tổ chức, từng công việc của Đảng, để bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong toàn Đảng.

Để xác định nội dung cơ chế thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, cần nhận thức rõ phạm vi thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Có thể chia ra các lĩnh vực chính trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, như thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức của Đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong các mặt công tác xây dựng Đảng khác.

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức của Đảng.

Công tác tổ chức là một trong các mặt công tác xây dựng Đảng, nhưng do nguyên tắc tập trung dân chủ trước hết là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng và do tính chất quan trọng của công tác tổ chức, nên cần tách ra thành một lĩnh vực chi phối chính của nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tổ chức của Đảng bao gồm: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thiết kế mô hình tổ chức của Đảng, trong mối quan hệ giữa các tổ chức trong Đảng, giữa đảng viên với tổ chức; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng và tuân thủ quy chế làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thành lập tổ chức mới, kiện toàn, đổi mới tổ chức...

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động lãnh đạo, gồm các khâu: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong quy trình ban hành nghị quyết, quyết định lãnh đạo; chế độ thảo luận, ra quyết định, bảo lưu ý kiến thiểu số; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong chấp hành nghị quyết, như chế độ chấp hành, chế độ trách nhiệm, chế độ kiểm tra, giám sát; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách...

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, gồm các nội dung: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tự phê bình và phê bình; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong đại hội đảng, trong sinh hoạt cấp ủy, chi bộ; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện quyền và trách nhiệm của đảng viên; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện bầu cử trong Đảng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong thực hiện chế độ báo cáo, thông báo trong Đảng...

Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong các mặt công tác xây dựng Đảng, gồm các phương diện: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác lý luận, như mối quan hệ giữa chấp hành nghị quyết với yêu cầu sáng tạo, đổi mới trong nghiên cứu lý luận; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác tuyên truyền, cổ động; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác văn hóa, văn nghệ, trong xử lý mối quan hệ giữa chấp hành nghị quyết, phục vụ đường lối, chủ trương của Đảng với đòi hỏi sự sáng tạo của văn hóa, văn nghệ; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong các khâu của công tác cán bộ, như đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, kỷ luật, chính sách cán bộ...; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác đảng viên, như kết nạp đảng viên, đánh giá đảng viên, kỷ luật đảng viên...; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác dân vận; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ...

Sự phân chia nêu trên là cần thiết để nhận thức rõ hơn về nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và có cơ sở để xác định nội dung cơ chế cần xây dựng, hoàn thiện nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Tuy nhiên, sự phân loại này cũng chỉ mang tính tương đối, vì trong thực hiện các hoạt động lãnh đạo, sinh hoạt nội bộ và các mặt công tác xây dựng Đảng luôn có sự đan xen nhau. 

HAIVAN

Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng với phương hướng và giải pháp trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng

 TCCS - Đại hội đảng bộ các cấp trong Bộ đội Biên phòng là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, khẳng định bản lĩnh chính trị, sự trưởng thành, phát triển của lực lượng Bộ đội Biên phòng qua hơn 65 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm thực hiện mục tiêu xây dựng Bộ đội Biên phòng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số thành phần tiến thẳng hiện đại. Thời gian tới, cùng với việc hoàn thành mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ đội Biên phòng lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra, cấp ủy, tổ chức đảng trong Bộ đội Biên phòng xác định phương hướng và giải pháp trọng tâm tổ chức Đại hội đảng bộ các cấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần vào thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm với cán bộ, sĩ quan Đồn Biên phòng Cửa khẩu Sóc Giang, huyện Quảng Hà, tỉnh Cao Bằng, ngày 9-6-2024_Ảnh: TTXVN

Phát huy kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2020 - 2025

Hệ thống tổ chức đảng trong Bộ đội Biên phòng được tổ chức và hoạt động theo hai loại hình, đó là: 1- Khối cơ quan Bộ Tư lệnh, nhà trường, đơn vị trực thuộc Bộ Tư lệnh được tổ chức thành Đảng bộ Bộ đội Biên phòng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Quân ủy Trung ương. Đảng bộ Bộ đội Biên phòng có 16 tổ chức đảng trực thuộc; 34 đảng bộ cơ sở, 81 chi bộ cơ sở, 19 đảng bộ bộ phận, 249 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở, đảng ủy bộ phận; 2- Khối Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố: Ở cơ quan, đơn vị thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập đảng bộ Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố đặt dưới sự lãnh đạo về mọi mặt của tỉnh ủy, thành ủy; đồng thời, chấp hành nghị quyết của Đảng ủy Bộ đội Biên phòng về tổ chức xây dựng lực lượng và công tác biên phòng; chấp hành nghị quyết của đảng ủy quân khu về nhiệm vụ tác chiến trong khu vực phòng thủ. Đảng ủy Bộ đội Biên phòng 44 tỉnh, thành phố là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng, bao gồm các đồn, hải đội, đại đội, tiểu đoàn huấn luyện, các phòng, ban trực thuộc bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, thành phố.

Thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30-5-2019, của Bộ Chính trị, “Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”; Chỉ thị số 747-CT/QUTW, ngày 23-9-2019, của Thường vụ Quân ủy Trung ương, “Về đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”; Hướng dẫn số 2008/HD-CT, ngày 26-10-2019, của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, “Về việc thực hiện chỉ thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội tiến tới Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng” và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan nghiệp vụ cấp trên, Đảng ủy Bộ đội Biên phòng đã xây dựng kế hoạch và tổ chức hội nghị triển khai đến 100% đảng ủy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố và trực thuộc nhằm học tập, quán triệt các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, Quân ủy Trung ương và Tổng cục Chính trị; đồng thời, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức quán triệt đến mọi cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn lực lượng để triển khai thực hiện.  

Trong đó, nổi bật là: Công tác chuẩn bị văn kiện được cấp ủy các cấp coi trọng, theo đúng hướng dẫn của cấp trên. Nội dung các văn kiện đại hội được kết cấu phù hợp, cân đối, rõ ràng, mạch lạc, có tính khái quát cao. Báo cáo kiểm điểm của các cấp ủy thể hiện tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình và phê bình, đánh giá nghiêm túc kết quả thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ, đúng mức kết quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy. Công tác chuẩn bị nhân sự đại hội được thực hiện chặt chẽ, dân chủ, công tâm, khách quan, đúng nguyên tắc, đúng quy trình, quy định của Đảng. Phối hợp chặt chẽ với các tỉnh ủy, thành ủy (nơi có Bộ đội Biên phòng) làm tốt công tác lựa chọn và giới thiệu nhân sự để tham gia ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phố và cấp ủy ở địa phương bảo đảm đúng, đủ các tiêu chí, tiêu chuẩn theo quy định. Công tác bầu cử được tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình, nguyên tắc. Sau đại hội, kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm và xây dựng đầy đủ quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu và chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội. Phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cấp ủy viên, của các cơ quan chức năng trong công tác chuẩn bị trước, trong và sau đại hội; làm tốt công tác tuyên truyền và bảo đảm phục vụ cho quá trình tổ chức đại hội.

Một số kinh nghiệm

Từ kết quả lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội đảng các cấp trong Bộ đội Biên phòng, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng ủy Bộ đội Biên phòng rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, phải quán triệt cho cán bộ, đảng viên nắm vững quan điểm, yêu cầu, nội dung chỉ đạo của Trung ương, Quân ủy Trung ương và Hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp trong Đảng bộ Quân đội.

Hai là, cấp ủy các cấp trong Bộ đội Biên phòng cần chủ động trong công tác chuẩn bị đại hội từ sớm để ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn đại hội bảo đảm tính thống nhất, phù hợp với điều kiện của từng cơ quan, đơn vị. Tập trung làm chuyển biến sâu sắc hơn về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên, trước hết là cấp ủy, chính ủy (chính trị viên), người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong tổ chức đại hội đảng. Phân công trách nhiệm cụ thể cho các đồng chí đảng ủy viên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc cấp ủy cấp dưới chuẩn bị nội dung đại hội.

Ba là, chấp hành nghiêm túc quy trình, nguyên tắc trong chuẩn bị nhân sự cấp ủy khóa mới, bảo đảm dân chủ, công tâm, khách quan, có số lượng và cơ cấu hợp lý; đề cao trách nhiệm của cấp ủy đương nhiệm, kịp thời tham mưu, đề xuất tháo gỡ vướng mắc nảy sinh trong thực tế.

Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong công tác nghiên cứu, tham mưu đề xuất, xây dựng các văn kiện đại hội và công tác chuẩn bị nhân sự; nắm vững quy định của Điều lệ Đảng và quy chế bầu cử trong Đảng để hướng dẫn chỉ đạo các đảng bộ tiến hành đại hội.

Năm là, đề cao tinh thần trách nhiệm, tính tự giác của đại biểu (đảng viên) trong nghiên cứu các dự thảo văn kiện; chuẩn bị đầy đủ, chu đáo, có chất lượng  ý kiến tham luận; nắm vững tiêu chuẩn, cơ cấu, nguyên tắc, thủ tục quy định, tránh sai sót, nhầm lẫn trong bầu cử.

Một số giải pháp trọng tâm thời gian tới

Những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn trên thế giới. Tuy nhiên, các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, xung đột vũ trang đe đọa nghiêm trọng sự ổn định, phát triển bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong nước, tình hình vi phạm chủ quyền, lãnh thổ và an ninh, trật tự trên các tuyến biên giới, vùng biển xuất hiện phương thức, thủ đoạn mới; vấn đề biên giới, lãnh thổ gắn với vấn đề dân tộc, tôn giáo trở thành trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch; các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, có vũ trang, tội phạm công nghệ cao, xuyên quốc gia, xuyên biên giới có chiều hướng gia tăng; các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị tăng cường hoạt động chống phá để xuyên tạc, hạ thấp uy tín của Đảng và nhân sự cấp ủy các cấp. Bên cạnh đó, do tính chất nhiệm vụ, hầu hết tổ chức đảng trong Bộ đội Biên phòng đóng quân ở vùng sâu, vùng xa biên giới, hải đảo trong điều kiện khó khăn, gian khổ; địa bàn rộng, phân tán trên phạm vi cả nước, xa sự chỉ huy, chỉ đạo; cùng lúc, các tổ chức đảng trong Bộ đội Biên phòng vừa phải làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội, vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Tình hình trên có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến quá trình thực hiện nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng và tổ chức đại hội đảng các cấp trong Bộ đội Biên phòng.

Đảng ủy Bộ đội Biên phòng xác định phương hướng trọng tâm để chuẩn bị và tổ chức tốt đại hội đảng bộ các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhiệm kỳ 2025 - 2030 như sau:

Công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng các cấp trong Bộ đội Biên phòng phải được các cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện theo đúng quy định, nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; giữ vững kỷ luật, kỷ cương; phát huy đầy đủ thẩm quyền, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là cán bộ chủ trì, lãnh đạo, chỉ huy các cấp; bảo đảm hiệu quả, an toàn, thiết thực, không phô trương hình thức; kiên quyết chống lãng phí, tiêu cực. Thông qua đại hội đảng bộ các cấp, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; xây dựng Đảng bộ Bộ đội Biên phòng thực sự tiêu biểu, mẫu mực, lãnh đạo toàn lực lượng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Lãnh đạo tổ chức chặt chẽ, phát huy tốt trách nhiệm, trí tuệ của cán bộ, đảng viên trong nghiên cứu, quán triệt các đánh giá và quan điểm, mục tiêu, chủ trương, định hướng lớn tại dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng và văn kiện đại hội đảng bộ cấp trên để tham gia có chất lượng vào các văn kiện trình đại hội. Các văn kiện trình đại hội phải đánh giá trung thực, khách quan, toàn diện tình hình và kết quả thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ qua, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan và rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Đồng thời, nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ tới có tính khả thi, khoa học, thực tiễn, bảo đảm bám sát các nghị quyết.

Công tác nhân sự phải bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy các cấp; đề cao vai trò, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, cán bộ chủ trì theo quy định; bảo đảm sự kế thừa, đổi mới và phát triển; đề cao, coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, tăng cường ở cơ quan, đơn vị thực hiện nhiệm vụ quan trọng, trên các địa bàn chiến lược, trọng yếu. Cấp ủy khóa mới phải tiêu biểu về bản lĩnh chính trị, trí tuệ, phẩm chất, đạo đức, lối sống, năng lực, uy tín; thật sự là trung tâm đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, có tầm nhìn và tư duy đổi mới, có sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới để thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng.

Quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội phải thường xuyên làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị gắn với đẩy mạnh phong trào thi đua Quyết thắng. Tập trung giải quyết, xử lý kịp thời, hiệu quả hạn chế, bất cập, yếu kém; vấn đề tồn đọng, kéo dài của cơ quan, đơn vị. Nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong mọi tình huống. Chủ động, tích cực, có biện pháp đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn chống phá, gây rối nội bộ của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, bất mãn để bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện thắng lợi phương hướng chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp trong Bộ đội Biên phòng, nhiệm kỳ 2025 - 2030, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Bộ đội Biên phòng tập trung thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt các văn bản chỉ đạo của Trung ương, Quân ủy Trung ương và các văn bản hướng dẫn về tổ chức đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, như: Chỉ thị số 39-CT/TW, ngày 18-8-2014, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay”; Quyết định số 244-QĐ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về việc ban hành quy chế bầu cử trong Đảng”; Quy định số 24-QĐ/TW, ngày 30-7-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về thi hành Điều lệ Đảng”; Hướng dẫn số 01-HD/TW, ngày 28-9-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Một số vấn đề cụ thể thi hành Điều lệ Đảng; Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14-6-2024, của Bộ Chính trị, “Về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng” và Chỉ thị số 2960-CT/QUTW, ngày 18-7-2024, của Ban Thường vụ Quân uỷ Trung ương, “Về đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng”... Tập trung làm chuyển biến sâu sắc về nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp; thông qua công tác tổ chức đại hội đảng bộ, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xây dựng các tổ chức đảng trong Bộ đội Biên phòng thực sự tiêu biểu, mẫu mực, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Thứ hai, chủ động triển khai, cụ thể hóa, ban hành hệ thống văn bản, phân công trách nhiệm cho từng cấp ủy, cơ quan, đơn vị trong công tác chuẩn bị và lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức đại hội đại biểu đảng bộ các cấp.

Đảng ủy Bộ đội Biên phòng tập trung quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị của Trung ương, Hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan chức năng của Đảng ủy tham mưu, xây dựng kế hoạch, hướng dẫn tổ chức đại hội Đảng các cấp trong Bộ đội Biên phòng. Chuẩn bị nhân sự và điều kiện cần thiết để thành lập các tiểu ban giúp việc và tổ chức đại hội; phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đồng chí trong cấp ủy chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, nắm tình hình, giải quyết, tháo gỡ khó khăn đối với đảng bộ cấp dưới. Xác định cơ cấu thành phần tham gia các tiểu ban, tổ giúp việc bảo đảm theo khối, ngành, lĩnh vực để phát huy tốt năng lực, trí tuệ tập thể trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chuẩn bị báo cáo chính trị, nhân sự và các điều kiện cho đại hội...

Thứ ba, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong việc nâng cao chất lượng chuẩn bị văn kiện trình đại hội.

Quán triệt yêu cầu chuẩn bị văn kiện đại hội theo Chỉ thị số 2960-CT/QUTW, xác định báo cáo chính trị là văn kiện trung tâm, có vai trò định hướng cho các văn kiện khác, vì vậy ngoài việc phải đánh giá đúng, trung thực, khách quan, toàn diện tình hình và kết quả đạt được, nâng cao chất lượng công tác dự báo; phải dự báo được thời cơ, thuận lợi và thách thức trong nhiệm kỳ tới trên cơ sở khoa học, từ đó xây dựng được mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho nhiệm kỳ tới sát tình hình thực tế và có tính khả thi cao. Do đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần đầu tư, xây dựng hết sức công phu, nghiêm túc, khoa học. Báo cáo chính trị phải thể hiện đầy đủ nội dung, đánh giá toàn diện, khách quan, trung thực, sát tình hình thực tế; làm rõ ưu điểm, khuyết điểm, chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan và bài học kinh nghiệm; đồng thời, quán triệt quan điểm, chủ trương, định hướng lớn trong dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng, của Quân ủy Trung ương, căn cứ điều kiện thực tiễn của cơ quan, đơn vị để xác định phương hướng, mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thiết thực, khả thi, hiệu quả trong nhiệm kỳ tới và những năm tiếp theo; chú trọng xác định các giải pháp đột phá vào nhiệm vụ trọng tâm, khắc phục khâu yếu, mặt yếu.

Cùng với báo cáo chính trị, báo cáo kiểm điểm của cấp ủy là nội dung quan trọng cấu thành văn kiện trình đại hội. Báo cáo kiểm điểm của cấp ủy phải có tính chiến đấu nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, không né tránh; đánh giá đúng, khách quan, trung thực công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy, điều hành và tổ chức thực hiện trong nhiệm kỳ vừa qua; kết quả thực hiện các nghị quyết, kết luận của Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp; chỉ rõ nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm và xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân; đồng thời, đề ra kế hoạch, lộ trình, biện pháp phù hợp, hiệu quả nhằm sửa chữa, khắc phục trong thời gian tới.

Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cùng Trung tướng Lê Đức Thái, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tham quan các gian trưng bày tại Đại hội thi đua quyết thắng Bộ đội Biên phòng, giai đoạn 2019 - 2024_Ảnh: TTXVN

Thứ tư, chuẩn bị chặt chẽ, kỹ lưỡng công tác nhân sự bảo đảm cho sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp.

Thực hiện nghiêm việc rà soát, bổ sung quy hoạch cấp ủy. Theo đó, công tác rà soát, bổ sung quy hoạch cấp ủy chú trọng đến cơ cấu về độ tuổi, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Việc bổ sung quy hoạch thực hiện đầy đủ các bước, đúng quy trình, chặt chẽ, dân chủ, chú ý nắm chắc tình hình dư luận về cán bộ. Quan tâm, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, bảo đảm tiêu chuẩn, trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác. Chủ động rà soát cán bộ chỉ huy, quản lý hết tuổi phục vụ tại ngũ hoặc dự kiến không đủ tuổi tái cử để có phương án giải quyết cho chuyển ra, nghỉ công tác, điều chuyển công tác khác và chuẩn bị nhân sự thay thế. 

Công tác chuẩn bị nhân sự tiến hành theo phương châm “làm từng bước chặt chẽ, từng việc cụ thể, từng nhóm chức danh từ thấp đến cao, bảo đảm thận trọng, kỹ lưỡng, làm đến đâu chắc đến đó”, nhất là khâu kết luận tiêu chuẩn chính trị. Để thuận lợi cho công tác thẩm định tiêu chuẩn chính trị của nhân sự, Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ đội Biên phòng chỉ đạo cơ quan chức năng của Đảng ủy ban hành các hướng dẫn, chỉ đạo cấp ủy các cấp tập trung làm tốt công tác rà soát tiêu chuẩn chính trị nhân sự tham gia cấp ủy các cấp trong Bộ đội Biên phòng, nhiệm kỳ 2025##- 2030 nhằm đánh giá chất lượng chính trị và vấn đề chính trị hiện nay; kịp thời phát hiện trường hợp cán bộ, đảng viên có vấn đề về lịch sử chính trị. Trên cơ sở đó, tổ chức thẩm tra, xác minh, kết luận về tiêu chuẩn chính trị, bảo đảm nhân sự tham gia cấp ủy các cấp trong Bộ đội Biên phòng nhiệm kỳ 2025 - 2030 thật sự trong sạch, đáng tin cậy. Quá trình tổ chức rà soát phải được tiến hành toàn diện, chặt chẽ, thận trọng, khách quan, chính xác có quy trình và cách làm cụ thể, đúng nguyên tắc, quy định của Đảng. Không gây ra tâm lý hoang mang trong cán bộ, đảng viên; không để kẻ địch, phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động gây chia rẽ đoàn kết nội bộ. Tăng cường kiểm tra, rà soát về công tác cán bộ, tuyệt đối không để xảy ra vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, không để xảy ra tình trạng “nâng người này, hạ người kia”, gây nghi ngờ, làm mất đoàn kết nội bộ; kiên quyết không để “lọt” vào cấp ủy người có bản lĩnh chính trị không vững vàng, không kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; phẩm chất đạo đức, năng lực, uy tín giảm sút, ý thức tổ chức kỷ luật kém, mất đoàn kết; né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm, không dám làm; có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, cục bộ, “lợi ích nhóm”, có biểu hiện về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật Quân đội... Đồng thời, rà soát, thẩm tra, thẩm định chặt chẽ, kỹ lưỡng không chỉ về tiêu chuẩn, mà còn về kê khai tài sản, thu nhập, thông tin, trách nhiệm của nhân sự; có cơ chế sàng lọc để không bỏ sót người tài, có đức và không để lọt người không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện vào cấp ủy các cấp.

Cùng với đó, phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy (nơi có Bộ đội Biên phòng) để rà soát, cơ cấu cán bộ tham gia ban chấp hành đảng bộ tỉnh, thành phố; cấp ủy cấp huyện, xã biên giới, hải đảo theo Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 28-9-2018, của Bộ Chính trị, về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia” và Kết luận số 68-KL/TW, ngày 5-2-2020, của Ban Bí thư, “Về 2 năm thực hiện chủ trương thí điểm tăng thêm cấp ủy viên là các bộ đồn biên phòng vào cấp ủy cấp huyện biên giới ở tỉnh Quảng Ninh” và Hướng dẫn số 31-HD/BTCTW, ngày 1-7-2020, của Ban Tổ chức Trung ương, “Về việc tăng thêm cấp ủy viên là cán bộ biên phòng tham gia cấp ủy cấp huyện, cấp xã biên giới”... bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả. 

Thứ năm, trong quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội, phải thường xuyên làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, chính sách, nhất là công tác thông tin, tuyên truyền đại hội đại biểu đảng bộ các cấp, tạo không khí phấn khởi, động viên tinh thần nỗ lực phấn đấu, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao của cán bộ, đảng viên và quần chúng các cơ quan, đơn vị gắn với đẩy mạnh phong trào thi đua Quyết thắng.

Đại hội đại biểu đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn xã hội, do đó Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ đội Biên phòng xác định công tác tuyên truyền là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Công tác tuyên truyền phải bảo đảm sâu rộng để cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong toàn lực lượng nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của đại hội đại biểu đảng bộ các cấp; khẳng định kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2020 - 2025... góp phần tạo sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và hành động trong toàn Đảng bộ, sự đồng thuận của cán bộ, chiến sĩ toàn lực lượng Bộ đội Biên phòng, để tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp./.

Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 TCCS - Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm làm việc với các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị_Ảnh: TTXVN

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(1)

Có thể thấy, điều đầu tiên trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những lời căn dặn về xây dựng Đảng cầm quyền: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, Người khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”(2), sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta. Người chỉ rõ Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng. Sở dĩ Đảng có vinh dự giữ trọng trách to lớn đó, là bởi mục đích của Đảng không có gì khác là “lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”(3); vì vậy, “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”(4). Để ngăn chặn những nguy cơ tha hóa, biến chất và thủ tiêu tư tưởng “làm quan phát tài” trong Đảng, trong các bản Di chúc mà Người viết từ năm 1965 đến trước khi qua đời đều nêu rõ: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”(5). Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để làm cho Đảng có đủ năng lực, trí tuệ và đạo đức cách mạng, nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, “làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(6). Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này, trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi. 

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh, đúc kết cao nhất hệ thống quan điểm, tư tưởng của Người về vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng. Người đặc biệt chú trọng và xem việc thực hành, phát huy dân chủ trong Đảng là một trong những nguyên tắc cốt lõi của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng có nội lực vững vàng, có chỗ dựa vững chắc là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chỉ khi thực hành dân chủ, Đảng mới thực sự xứng đáng là người đại diện cho giai cấp và dân tộc, nhân dân mới thành thật đoàn kết xung quanh Đảng và đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc chi phối mối quan hệ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”. Chính vì lẽ đó, Người luôn tỏ rõ sự chân thành, thẳng thắn, cương trực và giàu lòng nhân hậu, bác ái, trọng sự đồng thuận và đoàn kết. Đoàn kết - Dân chủ - Đồng thuận để phát triển, đó là cả một triết lý trong hành động cách mạng, trong thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hành dân chủ là một trong 5 thực hành lớn, tiêu biểu trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là: Thực hành lý luận trong thực tiễn; thực hành dân chủ; thực hành dân vận; thực hành đoàn kết và đại đoàn kết; thực hành đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân như chống giặc nội xâm.

Trong lôgíc của mọi thực hành, nhất là thực hành dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán một tư tưởng lớn, nằm ở một chữ “DÂN”: Dân chủ - Dân vận - Dân tộc - Đại đoàn kết toàn dân tộc, để suốt đời vì dân, gắn bó máu thịt với nhân dân(7). Tôn trọng, tin cậy và yêu thương con người là điều căn bản, sâu xa làm nên sự thành công trong thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thông qua Di chúc, tư tưởng của Người về việc thực hành và phát huy dân chủ trong Đảng được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

- Về xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, việc thực hành dân chủ “để cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người đều hoạt bát mà bệnh “thì thầm, thì thào” cũng hết... Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”(8).

- Về xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng để làm tiền đề cho việc thực hành dân chủ trong Đảng, trong di huấn để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(9).

- Về công tác vận động quần chúng nhân dân, các tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên phải làm tốt công tác vận động, giúp đỡ nhân dân, tôn trọng quyền lợi của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân phải tin dân, biết dựa vào dân, phát huy mọi năng lực tiềm tàng trong dân; “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”(10).

- Về vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng, Người đặt ra yêu cầu là phải tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Dân chủ trong quan niệm của Người không chỉ được thực hành trong lĩnh vực chính trị, mà trong tất cả các lĩnh vực khác, như: phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng pháp luật,... Ở mỗi lĩnh vực đó đều có trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc thực hành, phát huy dân chủ.

Tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng và hệ thống chính trị là một trong những tư tưởng rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho người dân thực hiện quyền làm chủ, đã được thể hiện độc đáo trong các quy định của bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp năm 1946 - trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm quan tâm đến vấn đề con người và quyền con người trong thực hành dân chủ. Theo Người, con người là động lực và mục tiêu của chế độ dân chủ. Quyền con người trong chế độ dân chủ trước hết phải mang nội dung tự do, ấm no, hạnh phúc, cơm ăn, áo mặc, học hành. Ngay từ những năm đầu đất nước giành độc lập, Người đã xác định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”(11).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, dân chỉ biết đến tự do, dân chủ là khi không chỉ được ăn no, mặc ấm mà còn được học hành. Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, hơn 90% dân số còn mù chữ, thất học(12), vì thế, Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã ban hành Sắc lệnh số 17, ngày 8-9-1945, về việc đặt ra phong trào bình dân học vụ để giúp toàn dân thanh toán nạn mù chữ. Giặc dốt cũng nguy hiểm như giặc đói và giặc ngoại xâm. Ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 3-9-1945), Người đã có thông báo về việc tiếp chuyện đại biểu các đoàn thể rằng: “Từ năm nay, tôi sẽ rất vui lòng tiếp chuyện các đại biểu của các đoàn thể”(13). Đó thực sự là Chính phủ dân chủ, trọng dân, tin dân và vì dân. Đó cũng là nội dung thiết thực của thực hành dân chủ mà Người đã rất mẫu mực thực hiện từ ngày đầu thành lập Chính phủ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa thời sự.

Nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết dân chủ với dân vận và đại đoàn kết toàn dân tộc mà mọi công việc của đất nước đều được giải quyết bằng sức dân, hướng tới phục vụ lợi ích của dân và cho dân. Và đây chính là ngọn nguồn để Người khẳng định “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(14).

Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định thực hành dân chủ trong Đảng là “cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(15)

Trong Di chúc để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến những vấn đề căn cốt, cơ bản và trọng yếu của cách mạng Việt Nam. Riêng về vấn đề thực hành dân chủ, Người nhận định, đây là “cách tốt nhất” nhằm xây dựng và gia tăng sức mạnh nội lực cũng như sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng. Người căn dặn: “Trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(16). Kết hợp điều đó với những huấn thị trong suốt cuộc đời hoạt động của Người về vấn đề dân chủ có thể thấy, thực hành dân chủ trong Đảng chính là thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Người chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”(17); “Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(18); “Từ tỉnh, huyện đến chi bộ, phải làm đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nội bộ phải thật đoàn kết. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể(19). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn”; tuy nhiên, dân chủ phải gắn liền với tập trung, và theo đó, phải thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người nhấn mạnh: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau... Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung(20). Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, thống nhất cả về tư tưởng và hành động, để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(21).

Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải sâu sắc bản chất của tập trung dân chủ và coi đó là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng; đồng thời nhấn mạnh, tập trung và dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố, luôn luôn đi đôi với nhau; dân chủ phải đi đến tập trung và tập trung phải trên cơ sở dân chủ; tập thể lãnh đạo phải đi đôi với phân công cá nhân phụ trách. Tập trung dân chủ bao hàm tập trung và dân chủ. Hai thành tố đó không mâu thuẫn với nhau mà luôn thống nhất với nhau và tác động, bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ; dân chủ có sự lãnh đạo, được sự bảo đảm của tập trung. Có giữ vững tập trung mới có thể thực hiện và mở rộng dân chủ. Phát triển và mở rộng dân chủ luôn gắn liền với giữ vững và tăng cường tập trung; trên cơ sở đó, dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc. Theo đó, mọi công việc trong Đảng đều phải được bàn bạc dân chủ. Mọi đảng viên có quyền được nêu ý kiến của mình, nhưng khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, toàn Đảng phải phục tùng Ban Chấp hành Trung ương và cao nhất là đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tình trạng tản mát, tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật. Dân chủ là cơ sở của tập trung và tập trung chỉ có thể được thực hiện một cách hiệu quả trên cơ sở phát huy thật sự dân chủ trong Đảng. Tập trung trên cơ sở dân chủ hoàn toàn khác với tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung cũng hoàn toàn khác về bản chất với dân chủ hình thức, dân chủ vô chính phủ, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Nói cách khác, tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng, không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn khổ, có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu quả cao trong lãnh đạo và quản lý. Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần thực hành tập trung dân chủ gắn liền với thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Như thế là, vừa đề cao trách nhiệm của cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của trí tuệ tập thể. Cần phải bảo đảm tối đa dân chủ trong thảo luận, tranh luận để tìm tòi chân lý. Khi chân lý đã được tìm thấy thì quyền tự do tư tưởng trở thành quyền tự do phục tùng chân lý.

Thực tiễn lịch sử về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực hiện không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng cộng sản, dẫn đến mất dân chủ trong đảng. Theo đó, một số nước xã hội chủ nghĩa nghiêng về tập trung quan liêu, thống nhất cứng nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong đảng, xuất hiện hàng loạt các sai lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vô chính phủ. Những sai lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã làm tổn hại nghiêm trọng đến vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, cản trở sự phát triển và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của các nước đó.

Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 94 năm qua, Đảng ta luôn kiên trì quan điểm phải thực hành dân chủ, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, trong mọi mặt của đời sống chính trị đất nước. Đảng coi đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đồng thời phát huy dân chủ trong Đảng. Kiên trì thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng xuất phát từ bản chất của Đảng, từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng và từ kinh nghiệm của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(23).

Các đại biểu biểu quyết tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng_Ảnh: TTXVN

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Điều lệ Đảng được Đại hội lần thứ XI thông qua (năm 2011) xác định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”(24). Điều 9 Điều lệ Đảng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”(25).

Nhờ xác định đúng đắn và thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đặc biệt là nguyên tắc thực hành dân chủ trong Đảng theo tư tưởng và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với việc thực hiện nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọngtoàn diện trên tất cả các mặt.

Yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay là rất to lớn, nặng nề, đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Muốn vậy, phải nhận diện cho đúng và kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó có việc thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, như Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm”(26).

Trong giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam, Đảng nêu cao sự thống nhất ý chí và hành động trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc thực hành dân chủ trong mọi hoạt động của Đảng. Để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ mới, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi hoạt động của Đảng trở nên hết sức quan trọng, cấp thiết, là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định đến uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng, quyết định sự thành, bại của sự nghiệp cách mạng.

Có thể nói, thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay là một giải pháp quan trọng ở tầm chiến lược để thúc đẩy công tác xây dựng Đảng gắn liền với chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho quá trình dân chủ hóa gắn liền với pháp chế hóa, siết chặt trật tự, kỷ cương xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là một quá trình lâu dài của đổi mới sáng tạo, là trường học thực tiễn để rèn luyện ý thức dân chủ, văn hóa dân chủ và tạo ra bước phát triển mới, sự trưởng thành thực sự về ý thức và năng lực dân chủ của Đảng, của toàn dân ta trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.

Là lực lượng lãnh đạo, dẫn đường cho dân tộc, Đảng phải nêu gương thực hành dân chủ và thực hiện kỷ luật, kỷ cương. Đó là tiền đề để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội và giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Theo đó, cần đẩy mạnh thực hành dân chủ, tích cực phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi phạm dân chủ, coi thường kỷ cương, phép nước.

Trong thời gian tới, để tăng cường hiệu quả thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh, toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ của mỗi cán bộ, đảng viên về thực hành dân chủ và tập trung dân chủ. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, thống nhất trong toàn Đảng và cho mỗi đảng viên nhận thức đúng đắn về nội dung thực hành dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Tăng cường làm rõ nội hàm về thực hành dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ gắn với từng lĩnh vực, công việc, hoạt động cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị và công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị ở nước ta.

Nguyên tắc tập trung dân chủ và vấn đề dân chủ là một trong những trọng tâm mà các thế lực thù địch, phản động luôn ra sức tìm cách xuyên tạc, lợi dụng để chống phá nhằm thực hiện âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Do đó, cần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phòng, chống, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ của các thế lực thù địch để chống phá cách mạng Việt Nam. Muốn vậy, phải nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm nền tảng tư tưởng của Đảng được bảo vệ vững chắc.

Thứ hai, hoàn thiện và thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, các quy định của Đảng về dân chủ và phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa việc thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng. Cần cụ thể hóa các nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được nêu trong Điều lệ Đảng bằng những văn bản hướng dẫn cụ thể để các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện.

Trong thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đảng viên phải có dũng khí và bản lĩnh để đưa ra ý kiến với tinh thần xây dựng, ý thức tự phê bình và phê bình thẳng thắn, chân thành, trao đổi dân chủ, để đi đến thống nhất trong nhận thức và hành động trên cơ sở tuân thủ quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, không nên tuyệt đối hóa hay đối lập tập trung với dân chủ. Phải mở rộng dân chủ mới tạo ra sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ chính trị; dân chủ phải có tập trung và phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương mới đem lại hiệu quả thiết thực và tạo ra động lực để thúc đẩy sự phát triển xã hội; dân chủ càng mở rộng, thì tập trung cũng càng phải cao.

Thứ ba, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng phải gắn với yêu cầu tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và các nghị quyết của Đảng đã ban hành. Chỉ có tập thể lãnh đạo mới khơi dậy được tinh thần dân chủ trong Đảng, mới huy động được toàn bộ trí tuệ đội tiên phong. Cá nhân phải gắn liền và ở trong tập thể, luôn có ý thức chịu trách nhiệm trước Đảng và trước nhân dân; tránh tình trạng “phớt lờ” tổ chức, vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng và lợi dụng nguyên tắc tập trung dân chủ để lấn át tập thể, chuyên quyền, độc đoán, đi ngược lại lợi ích chung của tập thể, của nhân dân.

Mặt khác, cần tiếp tục đề cao, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong việc tổ chức thực hiện dân chủ và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Làm rõ và tăng cường trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong thực hành dân chủ và  thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình.

Thứ tư, thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Dân chủ trong sinh hoạt của tổ chức đảng phải tránh được tính hình thức hoặc tiến hành qua loa, chiếu lệ. Thực hiện đúng đắn và đầy đủ quy định mọi đảng viên chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng, phát ngôn và hành động đúng tinh thần trách nhiệm của người đảng viên. Trong điều kiện mới, nhiều vấn đề quan trọng, mới và phức tạp, thậm chí chưa có tiền lệ đang đặt ra, đòi hỏi phải xử lý. Mọi quyết định chủ quan, độc đoán, duy ý chí đều không tránh khỏi sai lầm, đặc biệt là trong những bước ngoặt của cách mạng. Để đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương quan trọng đều phải được bàn bạc và quyết định tập thể, tuân thủ nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, nhưng cho phép bảo lưu ý kiến. Do vậy, trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, cần định kỳ xem xét lại ý kiến bảo lưu và coi đây là việc làm thường xuyên để bảo đảm tính đúng đắn của quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; từ đó, giảm thiểu những sai sót, lệch lạc, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của tổ chức đảng và đảng viên.

Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Xử lý nghiêm, kịp thời những tổ chức đảng và đảng viên không chấp hành nghiêm các quy định, quy chế về thực hành dân chủ hoặc vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, bộ, ngành, địa phương…

Thực hành dân chủ và tập trung dân chủ đã trở thành một nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng và hệ thống chính trị. Vì vậy, sự tồn tại và phát triển của Đảng và cả hệ thống chính trị gắn bó mật thiết, hữu cơ với việc tuân thủ, củng cố, phát triển nguyên tắc đó. Điều đó cũng có nghĩa, nếu xa rời hoặc buông lỏng nguyên tắc ấy sẽ làm cho Đảng mất dần sinh khí, sức mạnh, dẫn tới tha hóa, biến chất, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Do vậy, cần tuân thủ, bảo đảm thực hành dân chủ rộng rãi và nguyên tắc tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta; kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng chống mọi biểu hiện xa rời, buông lỏng, xem nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ là biểu hiện rõ ràng nhất của tính đảng, phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng là di huấn quý báu, là ngọn đèn pha soi đường, trở thành nền tảng tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cho công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh hiện nay./.

----------------------