Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

CHUYỆN KỂ VỀ NGƯỜI LÍNH THÀNH CỔ

Có những cậu trẻ không biết bơi, nhưng dám khai rằng biết bơi rất tốt để đi chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị. Thôi thì cứ bám vào phao bơi, vì đằng nào biết bơi hay không biết bơi thì ở đoạn sông Thạch Hãn này, anh em cũng như nhau cả… Không thằng nào dám khẳng định biết bơi sẽ sống còn không biết thì chết.

Rất nhiều anh em chưa qua được sông thì đã hy sinh. Có anh lính trẻ tâm sự chuyện gia đình, về người mẹ đã may cho cậu ấy một chiếc khăn để đi chiến trường. Vừa bơi đến giữa dòng sông thì trúng đạn, chỉ kịp kêu lên: “Mẹ ơi! Mẹ cứu con”... Một số cậu khác thì đạn bắn, chỉ kịp thốt rằng “Mẹ ơi!” rồi nằm xuống, hoặc vỏn vẹn một chữ "Mẹ".

Lắm cậu mới mười tám, hai mươi, vẫn còn trẻ con lắm, vẫn còn nũng với mẹ lắm… Mẹ thì còn đấy, nhưng con đã hy sinh… 

Có cậu lính chiến làm đơn tình nguyện chiến đấu, mồ côi mẹ từ khi còn nhỏ, sống rất bất cần, hơi gàn. Nhưng mỗi khi nghe mấy cậu tân binh nói chuyện về gia đình, về mẹ, thì cậu lính chiến này ngồi nghe rất chăm chú. Khi trận Thành cổ Quảng Trị kết thúc, cả tiểu đội còn mỗi cậu lính chiến còn sống, thế là cậu lính chiến làm nhiệm vụ mang kỉ vật của đồng đội về cho các gia đình… Và cậu lính chiến được người một người mẹ nhận nuôi. Bấy nhiêu năm, cậu lính chiến ấy gọi “Mẹ ơi” và gọi thay cho những đồng đội đã ngã xuống.


BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI

Lịch sử gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định, trong bất luận hoàn cảnh nào, Đảng cũng luôn lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch, có cơ sở lý luận, thực tiễn vững chắc, không thể xuyên tạc.

Lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy.

Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch luôn đánh giá rằng, muốn “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ” hoặc chiến tranh xâm lược, nhất thiết phải “phi chính trị hóa”, “vô hiệu hóa” lực lượng quân đội. Để thực hiện tham vọng đó, các thế lực thù địch xác định, Quân đội nhân dân Việt Nam là mục tiêu tập trung chống phá; trước mắt là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, “phi chính trị hóa” quân đội, làm rệu rã tinh thần, mất sức chiến đấu, tiến tới vô hiệu hóa lực lượng trung thành, chủ lực, nòng cốt bảo vệ Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Chúng lý luận rằng, quân đội là một tổ chức quân sự, công cụ bạo lực vũ trang của Nhà nước, được tổ chức ra để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì thế, quân đội trung lập về chính trị, đứng ngoài những biến động chính trị - xã hội, không chịu sự lãnh đạo của bất cứ đảng phái chính trị nào.

Với lập luận đó, chúng ra sức tuyên truyền nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội, ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin; xuyên tạc tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Chúng đòi xóa bỏ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ chính trị trong quân đội; xuyên tạc truyền thống, bản chất “Bộ đội Cụ Hồ”, chia rẽ đoàn kết quân - dân, hòng làm giảm lòng tin của nhân dân đối với quân đội...

Đặc biệt, hằng năm, càng gần đến Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12), sự chống phá của các thế lực thù địch lại càng gia tăng với nhiều thủ đoạn nguy hiểm và thâm độc. Các thế lực thù địch tuyên truyền theo hướng phủ nhận chiến thắng của Quân đội dưới sự lãnh đạo của Đảng qua những giai đoạn cách mạng; xuyên tạc các sự kiện lịch sử có Quân đội tham gia; thổi phồng khuyết điểm của một vài cá nhân, đơn vị, hòng làm mất uy tín của Quân đội… Tất cả những điều đó không có gì khác ngoài mục đích là nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội, làm cho Quân đội bị tha hóa, biến chất về chính trị, suy giảm về sức mạnh chiến đấu; Đảng, Nhà nước và nhân dân ta mất chỗ dựa vững chắc.

Tuy nhiên, sự chống phá của các thế lực thù địch luôn bị thực tiễn bác bỏ, bởi Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sáng lập, tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Đây là đội quân kiểu mới, mang bản chất của giai cấp vô sản. Sự ra đời của Quân đội ta không phải từ các đội quân của chế độ thực dân, phong kiến để lại, mà là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; được xây dựng hoàn toàn mới, theo hệ tư tưởng, nguyên tắc, đường lối chính trị, quân sự Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ những đội tự vệ công nông đầu tiên trong cao trào cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), những đội du kích hình thành từ các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, Bắc Sơn… đến Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ngoài mục tiêu đó, Quân đội nhân dân Việt Nam không còn mục tiêu và lợi ích nào khác.

Đó là điều không thể phủ nhận. Các thế lực thù địch dù có mưu mô, xảo quyệt đến đâu cũng không thể bác bỏ được.

Một số vấn đề cấp thiết đặt ra.

Hiện nay, sự chống phá của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đòi hỏi phải có những biện pháp thiết thực để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc đó, đặc biệt là để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội.

Một là, luôn quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh. Quá trình xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam gần 80 năm qua đã khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội vừa là nguyên tắc, vừa là quy luật trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân; đồng thời, là nhân tố quyết định bảo đảm cho Quân đội luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, khâu then chốt của then chốt để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội là tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị. Do đó, hơn lúc nào hết cần luôn nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững trận địa tư tưởng, văn hóa văn nghệ của Đảng trong quân đội. Trên cơ sở đó, xây dựng, rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ; giúp họ có đủ sức đề kháng, miễn dịch trước âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch.

Hai là, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Đây là giải pháp quan trọng, làm cho cán bộ, đảng viên và bộ đội nhận thức sâu sắc những nguyên lý cơ bản, giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của Quân đội; bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tình đoàn kết quân dân; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, thù địch nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Theo đó, các cơ sở giáo dục, đào tạo trong Quân đội cần tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị ở đơn vị cơ sở trong tình hình mới”; duy trì nghiêm chương trình, kế hoạch giáo dục chính trị hằng năm của các đối tượng, các chế độ đọc báo, nghe đài, xem thời sự, Ngày Đảng, Ngày Chính trị và văn hóa tinh thần...

Ba là, cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp trong Quân đội cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TƯ ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trực tiếp là của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cấp ủy Đảng, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy các cấp đối với nhiệm vụ này. Trên cơ sở đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, nhất là trong các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường; phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí đối với nhiệm vụ đấu tranh phản bác các thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Đồng thời, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng; nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ phận nòng cốt, chuyên sâu; tổ chức đấu tranh bằng nhiều hình thức, như trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua hệ thống giáo dục lý luận chính trị, tuyên truyền miệng và trên mạng xã hội, internet...

Bốn là, đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cần thiết lập thế trận chủ động, rộng khắp, liên hoàn, vững chắc trong Quân đội để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Đồng thời, xác lập tổng thể các biện pháp, nguyên tắc, bố trí, triển khai và tổ chức các lực lượng cụ thể để đấu tranh, bao phủ toàn bộ nội bộ Quân đội, không ngừng mở rộng trên phạm vi quốc gia và quốc tế; chủ động gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả; "lấy cái đẹp dẹp cái xấu"; không bỏ trống trận địa tư tưởng, bảo đảm ở đâu có bộ đội là ở đó có tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; mỗi đơn vị, mỗi cán bộ, chiến sĩ là một tấm gương sáng về truyền bá nền tảng tư tưởng của Đảng. Chỉ có như vậy mới làm thất bại mọi âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội là nội dung quan trọng, cần được tiến hành thường xuyên, liên tục; qua đó, khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Trong thời gian qua, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội đã được tiến hành hiệu quả với nhiều nội dung, hình thức khác nhau. Trong thời gian tới, trước bối cảnh tình hình mới, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội đặt ra nhiều yêu cầu mới cao hơn. Do đó, những giải pháp như đã nêu là những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần tiếp tục được vận dụng một cách sáng tạo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng: Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ./.


KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN TÍNH NHÂN DÂN - GIÁ TRỊ VĂN HÓA ĐẶC TRƯNG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, cùng với giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc, Quân đội ta luôn khẳng định, bồi đắp và tỏa sáng tính nhân dân, xứng đáng là Quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tạo nên giá trị văn hóa đặc trưng, cội nguồn sức mạnh để cán bộ, chiến sĩ hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Đó là thực tế không thể phủ nhận.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Lãnh tụ Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội ta đã xây đắp nên truyền thống vẻ vang, hào hùng: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Truyền thống đó không chỉ mang đậm bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, tính dân tộc, mà còn thể hiện sâu sắc tính nhân dân - giá trị văn hóa đặc sắc của một đội quân từ nhân dân mà ra, luôn “sẵn sàng vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và niềm tin yêu của nhân dân”.

Tính nhân dân của Quân đội nhân dân Việt Nam là giá trị kết tinh văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là sự hòa quyện giữa giá trị văn hóa dân tộc và thời đại; sự kế thừa, phát huy tinh hoa văn hóa, con người Việt Nam; là đặc trưng nổi trội về văn hóa quân sự của quân đội cách mạng, hội tụ những giá trị cao đẹp của phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng; không ngừng được giữ gìn, bồi đắp và phát huy, tỏa sáng với những giá trị cao đẹp.

Tuy nhiên, giá trị cao đẹp và hiển nhiên đó luôn bị các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, phủ nhận với những luận điệu, như: “Quân đội chịu sự lãnh đạo của Đảng, chỉ phục vụ Đảng, ngày càng xa rời nhân dân”; rằng “Quân đội phải trung lập”, không mang bản chất giai cấp nào, không chịu sự lãnh đạo của một đảng phái nào. Và họ “kiến nghị”, cần phải xây dựng Quân đội ta thành đội quân chiến đấu “chuyên nghiệp” theo mô hình của quân đội nước ngoài; việc thực hiện chức năng “đội quân công tác” và “đội quân lao động sản xuất” chỉ làm “yếu quân đội”, mất tính “chuyên nghiệp” của đội quân chiến đấu, v.v. Đây là những luận điệu không mới, nhưng rất nguy hiểm, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội; kích động, chia rẽ mối quan hệ gắn bó giữa Quân đội với nhân dân; qua đó, làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Tuy nhiên, dù có trăm phương nghìn kế chúng cũng không thể xuyên tạc, phủ nhận tính nhân dân - giá trị văn hóa đặc sắc, nét đẹp truyền thống, cội nguồn sức mạnh vô địch của Quân đội nhân dân Việt Nam bởi những luận điểm sau:

 Tính nhân dân - thuộc tính thống nhất, không thể tách rời của Quân đội.

 Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, trong bất cứ xã hội nào, với tính cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, một tổ chức của nhà nước, không có và không bao giờ có “quân đội trung lập”, “đứng ngoài chính trị”. Quân đội luôn mang bản chất của một giai cấp - giai cấp thống trị chi phối quyền lực nhà nước và tổ chức, nuôi dưỡng sử dụng quân đội đó. Vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới, Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân, cho nên hy sinh kham khổ” và “Không có dân thì không có bộ đội”, “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”.

Tính nhân dân của Quân đội không tách rời, đối lập với tính giai cấp và tính dân tộc mà luôn thống nhất chặt chẽ với nhau. Tiền đề của sự thống nhất hữu cơ giữa bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội là sự thống nhất giữa lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích dân tộc và lợi ích của nhân dân. Biểu hiện của sự thống nhất đó là: một mặt, tính nhân dân không làm phai nhạt tính chất giai cấp công nhân của Quân đội; mặt khác, tính chất giai cấp công nhân của Quân đội không mâu thuẫn với tính chất nhân dân, mà lại là điều kiện trước tiên, quyết định nhất để Quân đội trở thành một quân đội có tính nhân dân thực sự. Đặc biệt, tính nhân dân còn là một biểu hiện chủ yếu nhất về bản chất giai cấp công nhân của Quân đội ta. Điều đó khẳng định, tính nhân dân là thuộc tính không thể tách rời và không thể phủ nhận của Quân đội ta.

Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội phản ánh tính nhân dân sâu sắc.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, đồng thời cũng là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Ngay từ khi thành lập, Quân đội ta đã đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh, đảm nhận sứ mệnh lịch sử vì nhân dân chiến đấu, vì nhân dân hy sinh. Mục tiêu, lý tưởng đó đã kết tinh “ý Đảng, lòng dân”; đồng thời, biểu hiện tình cảm sâu nặng, trách nhiệm chính trị, đạo đức của Quân đội đối với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân; là sợi chỉ đỏ xuyên suốt định hướng nhận thức, thái độ và hành động cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ. Cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta được nhân dân yêu thương gọi một cách thân mật, trìu mến “Bộ đội Cụ Hồ”, thể hiện sâu sắc mối quan hệ gắn bó giữa Quân đội với nhân dân, mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Và như vậy, không thể nói Quân đội ta không có tính nhân dân.

Tính nhân dân được thể hiện ở thành phần xuất thân của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội.

Từ khi thành lập cho đến nay, về cơ bản, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội đều xuất thân từ con em các tầng lớp nhân dân. Sự trưởng thành, phát triển của Quân đội được đánh đổi bằng xương máu, trí tuệ và công sức của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ là con em của nhân dân. Nhân dân luôn là người chở che, nuôi dưỡng và xây dựng Quân đội, cùng Quân đội chiến đấu và chiến thắng. Là “những người con của nhân dân”, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn “vì nhân dân mà chiến đấu”, cùng với nhân dân đánh đổ thực dân, đế quốc, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn có mặt ở những nơi xung yếu, khó khăn, nguy hiểm, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Thực tiễn đó đã khẳng định, Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ và đương nhiên sẽ mang tính nhân dân sâu sắc.

Tính nhân dân được minh chứng qua thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội.

Với chức năng là đội quân chiến đấu, từ khi ra đời, Quân đội ta luôn tiên phong lập nhiều chiến công hiển hách, cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Đại thắng mùa Xuân 1975, thống nhất non sông, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, Quân đội ta tiếp tục là lực lượng nòng cốt, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi để “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, Quân đội ta luôn giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” - Bộ đội của dân, đồng cam, cộng khổ, gắn bó máu thịt với nhân dân, thực sự là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân; tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh và triển khai hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, góp phần xây dựng, phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”, nhất là ở các địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh, biên giới, biển, đảo. Đặc biệt, Quân đội ta luôn là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong phòng chống thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Trong đại dịch Covid-19, với phương châm “chống dịch như chống giặc”, sức khỏe của nhân dân là trên hết, toàn quân đã huy động gần 140.000 cán bộ, chiến sĩ và dân quân tự vệ tham gia phòng, chống dịch; ủng hộ trên một nghìn tỉ đồng góp phần ổn định đời sống, an sinh của người dân. Trong ứng phó với thiên tai, thảm họa, gần đây nhất là cơn bão số 3 (Yagi, tháng 9 năm 2024), Quân đội đã huy động gần 458.000 cán bộ, chiến sĩ và hơn 10.100 phương tiện, không quản hiểm nguy, gian khổ và hy sinh để ngày đêm có mặt ở những nơi nguy hiểm nhất, bảo vệ tính mạng, tài sản, cùng nhân dân khắc phục hậu quả, v.v. Điều đó khẳng định: “Ở đâu có khó khăn, ở đó có bộ đội” và tính nhân dân của Quân đội luôn được khẳng định, phát huy, tỏa sáng.

Thực hiện chức năng đội quân lao động sản xuất, Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần tích cực, chủ động, tự lực, tự cường, đẩy mạnh phát triển kinh tế, tăng gia sản xuất góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng đời sống bộ đội. Đặc biệt, những năm gần đây, các tổng công ty, tập đoàn, binh đoàn, các đoàn kinh tế - quốc phòng của Quân đội, như: Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội, Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn, Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội; Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn... cùng các đoàn kinh tế - quốc phòng đã và đang đem lại hiệu quả kinh tế lớn và tiên phong trong việc mang “sức sống mới” đến những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo với các công trình trọng điểm không chỉ phục vụ dân sinh mà còn có ý nghĩa chiến lược quốc phòng, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc trên những địa bàn chiến lược, trọng điểm. Qua đó tiếp tục phát huy và lan tỏa hình ảnh cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, thể hiện sinh động tính nhân dân trong thực tiễn.

Những vấn đề lý luận và thực tiễn trên chưa phản ánh hết tất cả, song cũng đủ để khẳng định tính nhân dân là giá trị văn hóa đặc sắc, nét đẹp truyền thống, cội nguồn sức mạnh vô địch của Quân đội nhân dân Việt Nam mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận.


 

Chế độ một Đảng cầm quyền không phải nguyên nhân của tham nhũng

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) tại Việt Nam những năm gần đây đã đạt kết quả quan trọng, tạo cơ sở, nền tảng vững chắc trong xây dựng hệ thống chính trị, môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh, củng cố được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, được quốc tế đánh giá cao.

Tuy nhiên, thế lực thù địch, phản động thời gian qua vẫn cố gieo rắc quan điểm sai trái cho rằng: Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tham nhũng; tham nhũng là thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chỉ khi nào ở Việt Nam bỏ chế độ độc đảng lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng thì nạn tham nhũng mới được dẹp bỏ.

Vậy tại sao có thể khẳng định quan điểm nói trên là sai trái?

Chế độ đa đảng không phải là phép màu để chống tham nhũng

Trước hết, tham nhũng là căn bệnh do quyền lực nhà nước bị thao túng, tha hóa gây ra. Có nhà nước là có nguy cơ sinh ra căn bệnh tham nhũng, không phân biệt nhà nước đó là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, đi theo thể chế chính trị đa đảng hay một đảng. Chỉ khi quyền lực được kiểm soát chặt chẽ với cơ chế quản lý, phòng ngừa đồng bộ, ngày càng hoàn thiện thì quyền lực sẽ không thể bị lạm dụng, tình trạng tham nhũng sẽ được kiểm soát và hạn chế tối đa. Như vậy, chế độ một đảng lãnh đạo cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng và cũng không phải là không thể chống được tham nhũng.

Chế độ một Đảng cầm quyền không phải nguyên nhân của tham nhũng

Ảnh minh họa: Tạp chí Tổ chức Nhà nước 

Thực tế là, ở các quốc gia thực hiện chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn cứ hoành hành. Báo cáo Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2022, do Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) vừa công bố đầu năm 2023 cho thấy, trên thế giới không có quốc gia nào không có tham nhũng, không nhà nước nào là hoàn toàn minh bạch, trong sạch. TI sử dụng thang điểm từ 0 đến 100 để phản ánh quan điểm của các chuyên gia và giới kinh doanh đánh giá về tình trạng minh bạch và hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng của mỗi quốc gia, trong đó điểm số 0 là rất tham nhũng và điểm số 100 là rất trong sạch. Quốc gia có điểm số cao nhất thế giới trong bảng xếp hạng này là Đan Mạch với số điểm 90, Phần Lan và New Zealand cùng đứng thứ hai với số điểm 87. Cũng trong bảng xếp hạng này, Nhật Bản và Vương quốc Anh cùng xếp thứ 18 với số điểm là 73, Hoa Kỳ xếp thứ 24 với số điểm là 69, Hàn Quốc xếp thứ 31 với số điểm là 63. Như vậy, từ báo cáo trên thì các quốc gia đứng đầu bảng xếp hạng về phòng, chống tham nhũng vẫn không hoàn toàn trong sạch và minh bạch. Những quốc gia luôn tự đề cao như một hình mẫu về dân chủ và tinh thần chống tham nhũng thì vẫn có chỉ số chống tham nhũng khá khiêm tốn.

Nếu ai đó cho rằng, thực hiện chế độ đa đảng sẽ tạo ra phép màu để triệt tiêu được tham nhũng là hoàn toàn sai lầm. Việt Nam chúng ta đứng thứ 80 trong bảng xếp hạng 180 quốc gia, vùng lãnh thổ về chỉ số CPI. Như thế, có 100 quốc gia, vùng lãnh thổ xếp dưới chúng ta trong bảng xếp hạng này. Mà trong đó, đại đa số quốc gia này theo chế độ đa đảng. Vậy tại sao các quốc gia, vùng lãnh thổ có hệ thống chính trị đa đảng phái vẫn có hiệu quả phòng, chống tham nhũng kém Việt Nam?

Như thế có thể thấy hiệu quả phòng, chống tham nhũng không phụ thuộc vào chế độ một đảng lãnh đạo hay chế độ đa đảng mà phụ thuộc vào chất lượng của hệ thống pháp luật, năng lực quản trị của Nhà nước và phẩm chất của cán bộ, công chức. Sẽ thật ngây thơ khi ai đó tin rằng, cứ có đa đảng thì sẽ có sự kiểm soát quyền lực tốt hơn, dẫn tới triệt tiêu tham nhũng. Tại những quốc gia đa đảng phái thì vẫn luôn có sự thỏa thuận quyền lực của các đảng phái đại diện cho giai cấp thống trị xã hội. Dù có bao nhiêu cuộc bầu cử thì quyền lực nhà nước vẫn không thoát khỏi sự thống trị của các đảng phái này. Vì thế, tại các quốc gia đó, nguy cơ và thực tế tham nhũng vẫn luôn là thách thức hiện hữu.

Đảng ta đủ năng lực lãnh đạo để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Thế còn tại Việt Nam, một quốc gia do một đảng lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam thì sao? Thực tế cho thấy, bản chất cách mạng, tính tiền phong và năng lực lãnh đạo, tổ chức thực tiễn là nhân tố cơ bản quyết định, bảo đảm Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ khả năng để chống tham nhũng hiệu quả.

Theo báo cáo của TI, trong lúc tình hình không được cải thiện hoặc tồi tệ hơn ở 86% các quốc gia trong bảng xếp hạng thì chỉ số CPI của Việt Nam liên tục được cải thiện. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiến bộ nổi trội, với 42 điểm, tăng tới 9 điểm kể từ năm 2018.

Đó là kết quả của cả một quá trình PCTNTC rất quyết liệt do Đảng ta lãnh đạo. Với nhận thức, tham nhũng là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, Đảng ta xác định đấu tranh PCTNTC là một việc làm cần thết, tất yếu, hợp lòng dân và xu thế phát triển của nhân loại. Vì vậy, tiếp nối kết quả từ những nhiệm kỳ trước, Đại hội XIII của Đảng đề ra phương châm: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn”.   

Dấu ấn nổi bật là việc Bộ Chính trị quyết định bổ sung, mở rộng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng để chỉ đạo cả công tác phòng, chống tiêu cực. Từ đây, cuộc đấu tranh PCTNTC bước sang giai đoạn mới, đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ hơn giữa “xây” và “chống”, giữa PCTNTC với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ngay sau đó, Ban chỉ đạo đã quyết định đưa một số vụ việc tiêu cực vào diện theo dõi, chỉ đạo, qua đó, các cơ quan chức năng đã làm rõ, xử lý nghiêm hành vi tiêu cực của nhiều cán bộ, đảng viên.

Công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh. Các cơ quan chức năng đã chủ động phát hiện, quyết liệt đấu tranh, khởi tố, điều tra, xử lý nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, xảy ra trên diện rộng, trong các lĩnh vực chuyên môn sâu, hoạt động khép kín, vi phạm có tính hệ thống, có tổ chức, cả trong khu vực nhà nước và ngoài nhà nước. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra hơn 7.800 vụ án, hơn 15.200 bị can về tội tham nhũng, chức vụ, kinh tế. Vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á đến nay đã khởi tố 30 vụ án, 109 bị can (trong đó 25 địa phương đã khởi tố 28 vụ án, 71 bị can); vụ án xảy ra trong lĩnh vực đăng kiểm đã khởi tố 80 vụ án, 613 bị can tại Cục Đăng kiểm Việt Nam, 98 trung tâm và chi cục đăng kiểm; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) đã khởi tố 54 bị can... 

Qua xử lý các sai phạm liên quan đến tham nhũng, tiêu cực đã xử lý trách nhiệm chính trị của người đứng đầu trong việc để xảy ra vi phạm, khuyết điểm trong lĩnh vực được phân công quản lý, phụ trách theo đúng nguyên tắc “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xem xét, cho thôi giữ chức vụ, cho nghỉ công tác, nghỉ hưu, bố trí công tác khác đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý. Các địa phương đã bố trí công tác và thực hiện chính sách đối với 22 trường hợp cán bộ sau khi bị kỷ luật. Đảng ta đã “nói đi đôi với làm”, chống tham nhũng, tiêu cực đã “tắm từ trên đầu xuống”, không phải chỉ “tắm từ vai xuống” như có ý kiến băn khoăn, lo lắng thời gian trước.

Trước đây, trong một số vụ án tham nhũng, tiêu cực, việc điều tra, xử lý gặp khó khăn, vướng mắc, chậm tiến độ do có một số đối tượng liên quan bỏ trốn. Tuy nhiên, vừa qua, các cơ quan chức năng đã điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt, tuyên án xử phạt tù đối với cả những đối tượng đang bỏ trốn, như trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, Công ty Cổ phần Tiến bộ quốc tế (AIC). Điều này sẽ tạo tiền đề để xử lý nhiều đối tượng bỏ trốn ở một số vụ án khác, là hồi chuông cảnh tỉnh, răn đe, dù có trốn ra nước ngoài cũng không thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật.

Tham nhũng chính sách là vấn đề nan giải với mọi quốc gia. Thời gian qua, Đảng ta đã chỉ đạo việc quan tâm phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngay từ khâu tham mưu, ban hành chính sách. Ban chỉ đạo Trung ương về PCTNTC đã chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.

Việc kiểm soát quyền lực, PCTNTC trong hoạt động của chính các cơ quan có chức năng PCTNTC được đẩy mạnh. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, các cơ quan chức năng đã xử lý kỷ luật hơn 300 cán bộ, công chức trong các cơ quan PCTNTC có sai phạm; nhiều trường hợp trong số đó bị xử lý hình sự. Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã khởi tố, điều tra hơn 40 vụ án tham nhũng, chức vụ, tiêu cực xảy ra trong hoạt động tư pháp. Đặc biệt là, đã xử lý kỷ luật đối với 3 lãnh đạo, nguyên lãnh đạo thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước. Từ đầu năm 2023 đến nay, đã khởi tố, điều tra 2 thiếu tướng công an, 15 cán bộ thanh tra, giám sát của các cơ quan: Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, chánh thanh tra tỉnh...

Cùng với đó, để khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, sự ra đời của ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTNTC chính là nhân tố mới giúp công tác PCTNTC ở địa phương, cơ sở có sự chuyển biến tích cực. 

Như thế, có thể khẳng định luận điểm cho rằng “tham nhũng là căn bệnh kinh niên của chế độ xã hội chủ nghĩa, của chế độ một đảng cầm quyền” và “chế độ một đảng không chống được tham nhũng” là hoàn toàn sai cả về lý luận và thực tiễn. Tham nhũng gắn với cá nhân có quyền lực và tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ có nhà nước vì nó luôn gắn với nhà nước và quyền lực. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nên xét về bản chất, không có cơ sở sinh ra tham nhũng. Tham nhũng, tiêu cực về bản chất là tàn dư của chế độ cũ, xã hội cũ, con người cũ. Chỉ những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, nhưng thiếu tu dưỡng, rèn luyện mới sa vào chủ nghĩa cá nhân, thoái hóa, biến chất, rồi việc thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát của tổ chức, của nhân dân mới dễ làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực. Hiệu quả của việc PCTNTC đến đâu là do sức đề kháng của chế độ xã hội mới-xã hội chủ nghĩa, do năng lực của Đảng cầm quyền, do chất lượng hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt phụ thuộc vào phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

HỒ QUANG PHƯƠNG

 

ĐẤU TRANH, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG!

         Nghị quyết số 29-NQ/TW về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng xác định: “... Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và lợi ích quốc gia-dân tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước...”!
Không gian mạng là vùng “lãnh thổ đặc biệt” của quốc gia. Đấu tranh và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là nhiệm vụ quan trọng thiết yếu, lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.

Đấu tranh trên không gian mạng
Internet và mạng xã hội đã và đang mang lại nhiều giá trị tích cực; gắn kết cộng đồng, chia sẻ tình cảm, giao lưu công việc, kinh doanh, mang lại hiệu quả thiết thực cho nền kinh tế và trên các lĩnh vực chính trị, xã hội... Thông qua đó, thông tin được truyền tải nhanh chóng, có tính lan toả rộng. Tuy nhiên, trên không gian mạng, bên cạnh số đông người sử dụng có ý thức, trách nhiệm thì vẫn còn những phát ngôn lệch chuẩn, đi ngược lại đạo lý, truyền thống của dân tộc, trở thành một trong những yếu tố tiềm năng nhất trong lan truyền quan điểm sai trái, thù địch; gây khó khăn cho sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng, đồng thuận xã hội; gây mất ổn định an ninh chính trị, chia rẽ khối đoàn kết giữa Đảng với nhân dân. Đặc biệt, các thế lực thù địch lợi dụng trí tuệ nhân tạo (AI), chat GPT... tạo ra những nguy cơ, thách thức mới.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trên không gian mạng là mặt trận quyết liệt, phức tạp và lâu dài. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng không gian mạng, nhất là mạng xã hội với khả năng tương tác, tạo hiệu ứng nhanh, rất khó kiểm soát, quản lý, giám sát, kiểm duyệt. Phương thức chủ yếu là tạo nguồn tin thật-giả lẫn lộn, gây nhiễu dư luận; cổ xúy tư tưởng đối lập, kích động, chống đối, chống phá rất bài bản, chặt chẽ, có mục tiêu rõ ràng, đó là: Tuyên truyền chống phá, kêu gọi tụ tập, biểu tình, bạo loạn, gây rối trật tự công cộng bằng thủ đoạn “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, “diễn biến hòa bình”.

Đáng chú ý: Một số quốc gia vẫn đang bí mật triển khai các hoạt động trinh sát, giám sát, tình báo, bố trí hệ thống vũ khí mạng, sẵn sàng tấn công, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam trên không gian mạng. Các tổ chức phản động đều xây dựng tài khoản mạng xã hội, các kênh truyền thông, kết nối các đối tượng chống đối trong và ngoài nước xuyên biên giới “lớn giọng” rao giảng và chỉ trích Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, cho rằng Việt Nam là “kẻ thù của internet”; phát triển các kênh truyền thông bằng tiếng dân tộc thiểu số, xúi giục các hoạt động ly khai, tự trị; móc nối, lôi kéo các đối tượng cơ hội chính trị, có cả cán bộ đương chức, một số cán bộ nghỉ hưu và thành phần chống đối trong trí thức, văn nghệ sĩ tăng cường chống Đảng; luôn rêu rao cho cái gọi là “dân chủ tư sản”, “xã hội dân sự”.

Các thế lực thù địch lợi dụng những sơ hở trong xử lý đất đai, vụ án kinh tế, công cuộc chống tham nhũng... tán phát bài xuyên tạc, hướng lái dư luận làm rối loạn an ninh chính trị trên mạng xã hội. Lợi dụng thông tin báo chí chính thống về các sự kiện chính trị, biển, đảo, những diễn biến phức tạp trên thế giới, khu vực... để tạo khách quan, rồi lồng ghép thông tin hư cấu, bóp méo sự thật. Lợi dụng sự hiếu kỳ, thiếu hiểu biết của không ít người dân để kích động cộng đồng mạng tham gia tán phát thông tin xấu độc, tạo dư luận xã hội để từ đó đẩy lên thành các vấn đề chính trị, gây nhiễu loạn thông tin.

Bởi vậy, nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng chính là cuộc đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; là vấn đề mang tính cấp thiết, nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là ý thức, trách nhiệm của toàn xã hội.

Bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng
Chủ quyền trên không gian mạng là một bộ phận không thể tách rời của chủ quyền quốc gia và bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng chính là bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc. Bởi vậy, cần phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ hệ thống thông tin, các dữ liệu, tài nguyên số, bảo đảm tính vẹn toàn, bí mật, sẵn sàng của thông tin. Trong thời đại chuyển đổi số mạnh mẽ, xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số, công dân số, nhất là trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, an ninh, không gian mạng đã trở thành môi trường tiến hành tác chiến mạng, tác chiến thông tin, đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khai thác, sử dụng và bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.

Trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc quyết liệt, hiệu quả của các cấp, các ngành để huy động mọi nguồn lực. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, kỹ năng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân thường xuyên, liên tục với nội dung và biện pháp phù hợp, hiệu quả. Tổ chức triển khai và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 29-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược an ninh mạng quốc gia.

Hoàn thiện chiến lược bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng. Bổ sung, thể chế hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Tiếp tục triển khai việc xác lập và thực thi đầy đủ chủ quyền, lợi ích an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của Việt Nam trên không gian mạng. Hoàn thiện khung khổ luật pháp quốc gia, ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với các quy định quốc tế, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về an toàn thông tin, an ninh mạng. Sẵn sàng ứng phó với các thách thức an ninh mạng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Xác định rõ vai trò, tầm quan trọng của chiến tranh thông tin, chiến tranh mạng. Tự chủ công nghệ, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng công nghệ, phần cứng, từ hạ tầng lõi đến các thiết bị điện tử cá nhân để hạn chế sự xâm nhập các mã độc, bởi hiện nay chúng ta cơ bản nhập khẩu từ nước ngoài nên độ bảo mật vẫn còn nhiều lỗ hổng. Chủ động “xây” và “chống”, “đấu tranh” và “bảo vệ”, kịp thời phát hiện và đáp trả các mối đe doạ an ninh mạng, gián điệp mạng nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, giữ vững chủ quyền trên không gian mạng.

Tăng cường củng cố và phát triển lực lượng chuyên trách, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao về lĩnh vực công nghệ thông tin, an ninh mạng, bảo đảm tinh thông nghiệp vụ, nhạy bén về chính trị, hiểu biết pháp luật. Hiện đại hoá vũ khí, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu tác chiến mạng và an ninh mạng trong tình hình mới. Huy động sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân; phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng Quân đội, Công an, thông tin-truyền thông và các lực lượng khác, trong đó Quân đội và Công an làm nòng cốt. Tập trung đấu tranh với các đối tượng, như: Các thế lực thù địch, đồng minh, tay sai có âm mưu, hành động sử dụng không gian mạng can thiệp, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa; các tổ chức phản động trong và ngoài nước; lực lượng cơ hội, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có âm mưu, hành động cấu kết với thế lực bên ngoài, sử dụng không gian mạng chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng thực hiện các hoạt động xâm nhập, phá hoại về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự, không gian mạng là môi trường tác chiến, cho phép người chỉ huy, người lính sử dụng hệ thống thông tin quản lý, điều hành, điều khiển vũ khí, trinh sát kỹ thuật; sử dụng các hệ thống tự động hoá chỉ huy để tương tác trong các hoạt động tác chiến. Sự ra đời không gian mạng xuất hiện hình thái chiến tranh và lực lượng tác chiến mới, ví như cuộc chiến Nga-Ukraine... đã làm thay đổi học thuyết, tư duy và phương thức tiến hành chiến tranh.

Trên cơ sở công tác quản lý của Nhà nước về các dịch vụ trên không gian mạng, cần tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành, địa phương để tạo thế trận phòng thủ vững chắc; giám sát, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, phục vụ nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia trên không gian mạng; nâng cao ý thức và năng lực tự bảo vệ của người dân khi tham gia các hoạt động trên không gian mạng, tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Tăng cường hợp tác quốc tế để bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế để đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái chống phá Việt Nam. Tham gia các công ước quốc tế phù hợp với luật pháp Việt Nam. Phối hợp có hiệu quả trong thực thi các nghị định thư, thoả thuận hợp tác phòng, chống tội phạm.

Đấu tranh và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp trong tiến trình thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Không gian mạng vừa mang lại nhiều cơ hội mới để xây dựng và phát triển đất nước, nhưng cũng tạo ra không ít thách thức chi phối, ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống xã hội. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, quyết tâm thực hiện mạnh mẽ chuyển đổi số để xây dựng Việt Nam hùng cường, giàu mạnh, phát triển./.
Yêu nước ST.

NGƯỜI ẨN DANH VÀ TRÒ LỐ CỦA NHỮNG KẺ “ NÉM ĐÁ” HẠI NGƯỜI!

BÀI 3: ĐẤU TRANH VỚI “ĐỊCH BÊN TRONG TA” VÀ LÀNH MẠNH HÓA KHÔNG GIAN MẠNG!
 (Tiếp theo và hết)
     Công nghệ số đã tạo nên một môi trường mà ở đó hình thành và chứa đựng mọi mặt hoạt động của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cuộc cách mạng số không chỉ là cuộc cách mạng về công nghệ, kỹ thuật mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống của con người, đến các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội và tự nhiên!

“Địch bên trong ta đáng sợ hơn”
Trong bối cảnh mới, khi phương thức sản xuất mới ra đời thì công tác chống “giặc nội xâm”, đấu tranh với “địch bên trong ta” trở thành yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Nó không chỉ xuất hiện trong thế giới thực mà còn len lỏi vào đời sống xã hội thông qua internet, mạng xã hội. Nhiều kẻ cơ hội chính trị, phản động và một bộ phận người dân (có cả một số cán bộ, công chức, đảng viên) trong cuộc sống hằng ngày thì thể hiện sự quyết tâm, đồng thuận cao đối với các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật nhưng trên không gian mạng lại sử dụng các kỹ thuật, công nghệ ẩn danh để thực hiện các hoạt động cung cấp thông tin sai lệch, có các hành vi lệch chuẩn. Có những cá nhân còn bôi nhọ, chống phá những thành quả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Cần coi giặc nội xâm, coi kẻ địch bên trong ta là kẻ thù trực tiếp, toàn diện, đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động đang sử dụng các công nghệ, nhất là sử dụng không gian mạng và các hoạt động ẩn danh trên không gian mạng để cổ xúy cho các hành vi lệch chuẩn, cung cấp các thông tin sai trái, thù địch, lệch lạc, tiêu cực, thực hiện “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu” với mục tiêu làm thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.

Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác và tinh thần yêu nước của nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, thì trong chống giặc nội xâm, “chống kẻ địch ngay trong ta” cũng phải dựa vào dân mới có thể giành được thắng lợi: Ví dụ như “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”.

Công cuộc chống “giặc nội xâm” chống lại “kẻ địch ngay trong ta” sẽ lâu dài và khó khăn, phức tạp hơn cả sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Người khẳng định rằng: “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người chỉ rõ: “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.

Ngày nay, người dân không chỉ ở trong thế giới thực mà còn sống, sinh hoạt, hoạt động tích cực trên không gian ảo. Do đó, không chỉ cần quan tâm đến người dân trong thế giới thực mà còn phải tranh đấu với kẻ địch ở ngay trong ta, ngay trong nội bộ, ngay trong tinh thần.

Không gian mạng cần được quản lý như thế giới thực
Thực tiễn chứng minh, lượng thông tin mà con người được cung cấp, tiếp nhận thông qua internet và không gian mạng là vô cùng lớn. Không gian mạng là mở, được cập nhật liên tục, không phân biệt không gian, thời gian nên con người trong bối cảnh này dù chủ động hay bị động thì thông tin cũng là nhân tố trực tiếp tác động đến nhận thức, và đôi lúc hành động của họ cũng phụ thuộc vào lượng thông tin mà họ tiếp nhận được.

Bộ não của mỗi người trong một khoảng thời gian nhất định chỉ có thể tiếp nhận và xử lý được một lượng thông tin nhất định, nếu vượt quá giới hạn sẽ tạo nên chứng “bội thực thông tin”. Từ đó làm con người mất phương hướng, rơi vào tình trạng mù mờ, không phân biệt được đúng sai, nhận thức không đến nơi đến chốn, tư tưởng và hành động dễ sa vào tiêu cực hoặc có các hành vi lệch lạc. Ví dụ như khi một đối tượng giả danh cán bộ của cơ quan nhà nước hay giả mạo một cơ quan nhà nước có uy tín liên tục gây sức ép, cung cấp thông tin giả mạo, sai trái thì sẽ dễ khiến nạn nhân bị khủng hoảng, ức chế tâm lý và vô thức làm theo yêu cầu của các đối tượng này.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã coi không gian mạng là một nơi cần được quản lý như thế giới thực. Hay nói cách khác, các quy tắc, quy định, chế tài, định hướng được thực hiện cả trên môi trường thực và môi trường ảo. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, mặc dù hiến pháp không bảo đảm quyền ẩn danh một cách rõ ràng nhưng có những tham chiếu chặt chẽ về quyền ẩn danh với các ràng buộc pháp lý. Các luật về truyền thông ở một số tiểu bang cũng quy định về hành vi, theo đó các hành vi sử dụng mạng xã hội để tán phát thông tin sai lệch sẽ bị xử lý từ phạt tiền đến án hình sự. Tòa án có thể yêu cầu các cơ quan chính phủ xác định danh tính của các tài khoản ẩn danh để phục vụ cho quá trình xét xử.

Các điều khoản của hành lang pháp lý ở Liên minh châu Âu và các quốc gia thành viên cũng có những quy định về quyền và nguyên tắc pháp lý về ẩn danh trên không gian mạng để phòng ngừa, xử lý những tác động xấu, tiêu cực do các hoạt động ẩn danh đối với xã hội hay lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hoạt động khủng bố. Có thể thấy rằng, dù cổ vũ cho hoạt động tự do báo chí, tự do ngôn luận nhưng bản thân các quốc gia này cũng đã lường trước và có những quy định chặt chẽ để ứng phó với những tác động tiêu cực mà hoạt động ẩn danh gây ra.

Tuyên bố các nguyên tắc về quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin ở châu Phi năm 2019 của Tòa án Nhân quyền châu Phi (ACHR) đưa ra 16 nguyên tắc mà luật pháp quốc gia phải tuân thủ, bao gồm bảo đảm sự đa dạng của các phương tiện truyền thông, các quy định về xử lý vi phạm bằng các hình phạt, kể cả bằng hình sự đối với những hoạt động cung cấp thông tin gây tổn hại tới xã hội. Tuyên bố về nguyên tắc tự do ngôn luận Tòa án Nhân quyền liên Mỹ (IACHR) bao gồm 13 nguyên tắc, trong đó có cấm kiểm duyệt trước, bảo vệ nguồn, luật riêng tư, tài trợ và quảng cáo công cộng cũng như luật đa dạng và chống độc quyền... hay các quy định Điều 13(3) của Công ước Liên Mỹ, bảo vệ quyền tự do tư tưởng và quan điểm trên không gian mạng cũng như các phương tiện truyền thông. Tất cả đều có những quy định cụ thể với các ràng buộc về pháp lý đối với hoạt động chính danh hay ẩn danh trên môi trường số.

Bước vào thời kỳ mới, chúng ta lựa chọn xây dựng xã hội mới với những con người xã hội chủ nghĩa trên cơ sở phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại-phương thức sản xuất số. Để chiến thắng “địch bên trong ta”, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần có nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp của cuộc đấu tranh này, cần có quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đặc biệt là các hoạt động quản lý, định hướng và triển khai phát triển xã hội số, văn hóa số, con người số.

Không gian số là nội hàm mới, là thực tiễn, việc trang bị kiến thức, kỹ năng cho từng tổ chức, cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, người dân và toàn xã hội không thể thực hiện trong một sớm một chiều mà phải trải qua một thời gian dài tích góp và có quá trình để đấu tranh, sàng lọc, loại bỏ và cập nhật liên tục những kiến thức, kỹ năng mới, đổi mới và cập nhật liên tục để phù hợp với xu hướng chung của thế giới, của xã hội và nhận thức. Mỗi cá nhân, tổ chức cần rèn luyện thói quen tiếp cận thông tin một cách chủ động, có hệ thống, có mục đích.

Cần chủ động sàng lọc, tìm hiểu, tham vấn ý kiến chuyên gia, sử dụng các kênh thông tin chính thống, thực hiện kiểm tra, kiểm chứng thông tin trước khi chia sẻ, bình luận để loại bỏ những thông tin sai trái, thù địch, lệch chuẩn, thiếu các giá trị chuẩn mực xã hội... Mỗi người dân, tổ chức cần nâng cao trình độ nhận thức, tinh tường nhận diện, tiếp cận thông tin một cách đúng đắn, có quan điểm rõ ràng, chuẩn mực, có cái nhìn khách quan, toàn diện, có tư duy phản biện, bản lĩnh vững vàng để sẵn sàng đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Yêu nước ST.

NGƯỜI ẨN DANH VÀ TRÒ LỐ CỦA NHỮNG KẺ “ NÉM ĐÁ” HẠI NGƯỜI!

BÀI 2: LỢI DỤNG ẨN DANH “NÉM ĐÁ” HẠI NGƯỜI!
         Internet giúp con người có thể tiếp nhận một lượng thông tin rất lớn. Về mặt tích cực, những thông tin này là nguồn tri thức vô hạn, để con người khai thác, học tập, vận dụng trong các hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, đây cũng là mảnh đất màu mỡ để các thông tin xấu, độc, lệch chuẩn, sai trái, thù địch, các thông tin gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân phát triển - tuy trên môi trường ảo, nhưng những thông tin này lại có mối quan hệ mật thiết với thế giới thực!

Từ những hành vi đơn lẻ hòng trục lợi...
Những mặt tiêu cực này đã và đang dần len lỏi vào đời sống xã hội Việt Nam, xuất hiện những yếu tố làm cho con người trở nên lệch lạc, mất phương hướng dẫn đến dễ tin hoặc làm theo những quan điểm sai trái, thù địch, có những hành động lệch chuẩn gây ảnh hưởng tới uy tín, quyền lợi của tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.

Không gian mạng (KGM) góp phần hình thành nên xã hội số, ngoài các thông tin tích cực, các tri thức có ích còn tồn tại một lượng thông tin xấu, độc nhất định. Nguồn “nguyên liệu” chính để hình thành thông tin trên KGM xuất phát từ những mối quan hệ, các hoạt động hằng ngày của các cá nhân, xã hội nên bao giờ cũng lẫn trong đó những “tạp chất”. Khi con người tiếp nhận thông tin, bản thân mỗi người đều tự hình thành một “bộ lọc” để tiếp nhận những thông tin được coi là có ích, có lợi tùy thuộc vào quan điểm, mục đích, thị hiếu của chính mình.

Có những vấn đề cùng là một thông tin nhưng đối với người này là có lợi, đối với người khác thì không và ngược lại. Các tiêu chí để đánh giá “có lợi”, “có hại”, “có ích”, “vô ích”, “tích cực”, “tiêu cực” chỉ mang tính tương đối. Các hoạt động của con người trên KGM, trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật cho phép con người thực hiện các hoạt động ẩn danh để đạt được những “phần lợi ích” nhiều nhất, “có lợi” nhiều nhất.

Mạng xã hội (MXH) Facebook, một dịch vụ trên KGM có nhiều người sử dụng cho phép các hoạt động ẩn danh để cung cấp thông tin. Ở Việt Nam, tính đến năm 2024, trên MXH Facebook có khoảng 78 triệu tài khoản đang hoạt động. Cũng năm 2024, MXH Zalo có khoảng 75 triệu tài khoản hoạt động thường xuyên; MXH TikTok có 67,72 triệu người dùng từ 18 tuổi trở lên.

Ngoài các tài khoản chính danh, cung cấp thông tin hữu ích, có giá trị còn rất nhiều tài khoản ảo, tài khoản ẩn danh cung cấp các thông tin về mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội dưới danh nghĩa là các hoạt động dân sự, lợi dụng quyền cung cấp thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để trục lợi, lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, xúc phạm, bôi nhọ, cung cấp các thông tin sai lệch gây hoang mang dư luận, gây bức xúc trong xã hội.

Những hoạt động lừa đảo, giả mạo, giả danh cơ quan, tổ chức, cá nhân ngày càng được các đối tượng thông qua hoạt động ẩn danh để lợi dụng niềm tin hòng trục lợi cá nhân, chiếm đoạt tài sản của người khác. Thời gian qua, nhiều người dân trên cả nước liên tục bị các số điện thoại giả mạo cơ quan công an, cơ quan quản lý nhà nước gọi đến với nội dung như: “Cập nhật số liệu thẻ căn cước công dân”; giả danh cán bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, nhà mạng thông báo “số điện thoại sẽ bị chặn, hủy và khóa sau vài giờ”; thông báo triệu tập của “công an xã”, “công an huyện” đến xử lý và thực hiện hoàn thành thủ tục của tòa án, pháp luật hay xử lý nợ; giả danh cán bộ ngân hàng “thông báo trúng thưởng”, thực hiện tra soát tài khoản, yêu cầu người dân cung cấp số tài khoản, mật khẩu giao dịch, mã OTP...

Hay việc người sử dụng MXH Facebook, Zalo, Viber, Telegram... liên tục được đưa vào các hội, nhóm, bị gửi các đường liên kết trên mạng có tiêu đề hấp dẫn, gây sốc có chứa đựng mã độc, chứa đựng các cách thức truy cập trái phép vào tài khoản hoặc giả danh người thân vay tiền... Nhiều tài khoản ẩn danh, giả mạo các kênh truyền thông chính thống như Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân, Báo Quân đội nhân dân... các cơ quan, tổ chức có uy tín như các bệnh viện nổi tiếng để quảng cáo thực phẩm chức năng, thuốc giả, tư vấn cách thức chữa bệnh, bán “thuốc dạo” để chữa bệnh ung thư, bệnh đặc trị... Điều đáng buồn là nhiều người dân đã sập bẫy lừa đảo của các đối tượng này, bị ảnh hưởng tâm lý, thiệt hại về kinh tế với số tiền rất lớn.

Ngoài ra, còn có các hoạt động ẩn danh nhằm thực hiện các hành vi ác ý, bôi nhọ danh dự người khác. Nhiều người dân bị các tài khoản MXH ẩn danh ghép các nội dung xấu, giả mạo và tạo các đoạn video clip nhằm mục đích bắt nạt, quấy rối, lăng mạ, sỉ nhục, tra tấn tinh thần thông qua các phương tiện điện tử và KGM. Trên MXH Facebook, có nhiều hội, nhóm mang những cái tên gây sốc như: “Bóc phốt”, “diễn đàn”, “trang thú tội (confession)”..., các tài khoản này gửi tin nhắn, đánh cắp thông tin và phá hoại tài khoản, đăng tin nhắn, comment, gửi các tin nhắn, đăng các hình ảnh, video clip có nội dung khiêu dâm gây rối loạn tâm lý, tổn thương, tổn hại đến uy tín, danh dự của người khác.

Các tài khoản ẩn danh còn dùng công nghệ để định vị, theo dõi vị trí và hoạt động của nạn nhân để quấy rối, theo dõi người khác trên MXH; đăng tải thông tin riêng tư hoặc giả mạo danh tính nhằm làm tổn hại danh dự, uy tín của người khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm trạng và tinh thần của họ. Các hoạt động này còn hướng đến xâm hại trẻ em, nhiều trẻ em bị dụ dỗ gửi ảnh, video về bộ phận nhạy cảm khi sử dụng internet. Nhiều trẻ vị thành niên thông qua môi trường mạng bị dụ dỗ tham gia đường dây mua bán người, đường dây thực hiện các dịch vụ nhạy cảm như vũ trường, quán bar, quán karaoke trá hình...

...đến phá hoại sự ổn định của đất nước
Nói về hoạt động ẩn danh trên KGM, thời gian qua đã có nhiều tiền lệ và hậu quả xấu đối với đời sống xã hội, làm ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân. Các hoạt động lợi dụng MXH, lợi dụng các yếu tố kỹ thuật và kẽ hở của pháp luật, lợi dụng lòng tin và “mơ màng” với cảm giác đứng trong bóng tối, thực hiện các hoạt động ẩn danh để sử dụng các thông tin giả mạo, thất thiệt, đưa thêm thông tin nửa vời, cắt ghép; lợi dụng ẩn danh để lừa đảo, đưa các thông tin sai trái, xuyên tạc để “ném đá” hại người; qua đó gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết; làm nảy sinh tư tưởng nghi ngờ, đố kỵ, thậm chí gây hoang mang, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Nguy hiểm hơn nữa, các hoạt động ẩn danh còn được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng để chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ, kích động bạo lực, cổ vũ cho các hoạt động tập trung đông người hòng thúc đẩy bạo loạn, bạo động; thực hiện các hoạt động cổ xúy, thúc đẩy “cách mạng màu”.

Các kênh truyền thông cả chính danh lẫn ẩn danh của một số cá nhân, tổ chức móc nối với một số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước nhằm đưa các tin, bài có nội dung tiêu cực, xuyên tạc; lợi dụng tình hình và các sự kiện quan trọng của đất nước, các vấn đề dư luận xã hội quan tâm, các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, dân tộc... để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi xấu các thành quả của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vừa qua, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tích cực phòng, chống và khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (bão Yagi), các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng xấu, hoang mang dư luận liên tục được tung ra trên MXH Facebook, YouTube với những dòng trạng thái, hình ảnh, video clip “vỡ đê” ở một địa phương nào đó... Trên các tài khoản này, ngoài các thông tin xấu, thất thiệt còn cung cấp nhiều thông tin sai trái, sai lệch, cổ vũ các hành vi lệch chuẩn, thực hiện các hành vi chống phá những thành quả mà Đảng, Nhà nước, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được.

Trên thế giới, nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ như Mỹ, Liên minh châu Âu... đã có những hành lang pháp lý nhằm xử lý các hành vi trên KGM, trong đó có những quy định để thực hiện giám sát, trừng phạt hoặc thực hiện các biện pháp hình sự. Đã đến lúc chúng ta quan tâm, hoàn thiện và xây dựng các hành lang pháp lý liên quan đến các hoạt động ẩn danh và lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hành vi xấu trên KGM.

Ngoài ra, cần có các hành lang pháp lý về “chính danh” trong các hoạt động liên quan đến KGM, đồng thời cần nâng cao nhận thức, văn hóa ứng xử, trách nhiệm của người dân khi sử dụng MXH. Cần xây dựng “thế trận lòng dân” trên KGM để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới hiện nay./.
(còn nữa)
Yêu nước ST.

NGƯỜI ẨN DANH VÀ TRÒ LỐ CỦA NHỮNG KẺ “ NÉM ĐÁ” HẠI NGƯỜI!

BÀI 1: NGƯỜI ẨN DANH-QUYỀN RIÊNG TƯ HAY KẼ HỞ LỢI DỤNG?
     Internet tạo ra một không gian mới, một xã hội mới vừa ảo vừa thật. Trên không gian ấy có những phương thức và cách thức để kết nối con người, phát triển xã hội mới dựa trên nền tảng công nghệ số.
Bên cạnh những thông tin tích cực, nhân văn, vì xã hội và cộng đồng vẫn có các cá nhân, tổ chức lợi dụng kỹ thuật, công nghệ tạo nên các kênh, cá nhân ẩn danh nhằm phá hoại thành quả của đất nước, làm suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước thông qua việc cung cấp những thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bôi nhọ trên mạng xã hội (MXH)...

Nhận diện để có các biện pháp ứng phó với những hành vi sai trái này mang ý nghĩa quan trọng, làm lành mạnh không gian mạng đang là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Trên xã hội số, các dịch vụ và mối quan hệ của những chủ thể có mối quan hệ cơ hữu, gắn kết chặt chẽ với nhau. Một xã hội mới trong không gian ảo trên cơ sở các quan hệ giai cấp với tính chất và quy mô mới, lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới, dân tộc và quan hệ dân tộc, gia đình và quan hệ gia đình, các tầng lớp xã hội cũng đã dần hình thành trên môi trường này.

Hiểu đúng về “quyền riêng tư” trên mạng xã hội
MXH và dịch vụ MXH trên không gian ảo là một cách điển hình để triển khai các hoạt động giao tiếp, chia sẻ thông tin của các chủ thể trên không gian ảo. Ban đầu, MXH được tạo ra nhằm cung cấp một dịch vụ trên internet để mỗi thành viên kết nối với nhau trên cơ sở cùng sở thích, cùng mối quan tâm và thực hiện nhiều mục đích khác nhau. Dịch vụ MXH tạo nên một môi trường mà trên đó, người tham gia có thể tự do thể hiện quan điểm, chia sẻ về những hoạt động trong cuộc sống hằng ngày.

Ẩn danh-một tính năng cho người sử dụng internet xuất hiện khi không gian số trở thành phổ biến trong đời sống xã hội của con người. Tính năng này cho phép người dùng xuất hiện mà không lưu lại các dấu vết hoạt động trên không gian mạng. Tính năng này hiện nay thường được người dùng sử dụng các dịch vụ MXH để tổ chức, tạo lập và sản xuất những sản phẩm thông tin, truyền thông như tin, bài, video clip, âm thanh dưới sự hỗ trợ của các công cụ sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp như dữ liệu lớn, các phần mềm thông minh nhân tạo... Tính năng ẩn danh tạo ra một dịch vụ cho phép thực hiện các quyền riêng tư, quyền tự do cá nhân... Bên cạnh những thông tin tích cực, nhân văn, vì xã hội và cộng đồng vẫn có các cá nhân, tổ chức lợi dụng các kỹ thuật, công nghệ tạo nên các kênh, cá nhân ẩn danh nhằm phá hoại những thành quả của đất nước, nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước thông qua việc cung cấp những thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bôi nhọ trên MXH...

Về mặt khái niệm, ẩn danh là việc người sử dụng thiết lập các tài khoản trên không gian số như tài khoản trên MXH Facebook; YouTube; Zalo; TikTok; Threads; Instagram... mà thông tin về danh tính thật của người sử dụng không được tiết lộ. Tính năng này cũng cho phép người dùng sử dụng tên giả, hồ sơ cá nhân giả, ảnh giả hoặc không có thật để hạn chế, trốn tránh việc truy vết thông tin, định danh người dùng.

Chính vì lẽ đó, tài khoản ẩn danh ngoài những người dùng sử dụng để thực hiện các hoạt động truyền thông mang nhiều nét nhân văn, tốt đẹp trên cơ sở hài hòa và gìn giữ văn hóa dân tộc thì hiện nay đang bị các đối tượng phản động, cơ hội chính trị thực hiện những hoạt động chống phá, cung cấp thông tin thất thiệt, quấy rối, bắt nạt người khác, thực hiện các hành vi lừa đảo, gian lận thông qua giả mạo thông tin người dùng khác, lợi dụng sự tin tưởng của người khác để trục lợi.

Bên cạnh đó, các tài khoản ẩn danh còn được sử dụng như một cách để xâm phạm quyền riêng tư, cố tình thu thập thông tin, hình ảnh của người khác để sử dụng cho mục đích xấu, gây lo lắng và bất an cho xã hội. Các tài khoản ẩn danh còn sử dụng những kỹ thuật, công nghệ như trí thông minh nhân tạo để tạo ra các sản phẩm truyền thông chứa đựng những thông tin sai lệch, tin giả, tin thất thiệt gây hoang mang và hiểu lầm trong cộng đồng, đặc biệt là bôi nhọ, xuyên tạc lãnh đạo Đảng, Nhà nước, thành quả của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

Các tài khoản này cũng thường được sử dụng để kích động bạo lực, thù hận và kỳ thị như phân biệt vùng miền, phá hoại tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, gây nên những tổn thương tâm lý, sự hoang mang, phân hóa và mất niềm tin trong cộng đồng cũng như toàn xã hội, gây xung đột và căng thẳng không đáng có.

Hành lang pháp lý về trách nhiệm hành vi trên mạng xã hội
Internet đã tạo ra một không gian ảo, hình thành xã hội ảo trên cơ sở quan hệ giai cấp với tính chất và quy mô mới, lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới-phương thức sản xuất số-mà ở đó, các mối quan hệ như quan hệ giai cấp, mối quan hệ giữa con người với con người đã có những thay đổi, người dân có thể tiếp cận thế giới một cách dễ dàng hơn.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2024, Việt Nam có hơn 100 triệu dân với hơn 70 triệu người sử dụng internet. Lợi dụng những điều kiện thuận lợi được pháp luật quy định, các đối tượng đã lợi dụng sự bùng nổ về công nghệ thông tin, những tiện ích mà công nghệ thông tin mang lại (như dùng các kỹ thuật để ẩn danh tương tác, lừa đảo qua MXH, các ứng dụng nhắn tin qua mạng (OTT)...) để thực hiện nhiều vụ lừa đảo trực tuyến, chiếm đoạt tài sản có giá trị cao, gây hoang mang dư luận, mất an toàn xã hội.

Ứng phó với những vấn đề trên, theo thống kê của Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông), tính đến tháng 6-2024, thông qua triển khai Hệ thống cảnh báo, ngăn chặn tên miền độc hại quốc gia (DNS Shinkhole quốc gia), cơ quan chức năng đã ngăn chặn 12.818 web/blog vi phạm, trong đó có 3.170 website lừa đảo trực tuyến. Bảo vệ hơn 10,981 triệu người dân không truy cập vào các website lừa đảo, vi phạm pháp luật). Tuy nhiên vẫn còn đó những khó khăn, thách thức về hành lang pháp lý, về kỹ thuật công nghệ, về nhận thức của người dân cần được tiếp tục rà soát, hoàn thiện và thúc đẩy.

Những tài khoản ẩn danh trên MXH mang lại nhiều nguy cơ, thách thức, đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi chúng ta cần có các phương án, giải pháp mang tính định hướng để bảo đảm quyền riêng tư, hạn chế các hoạt động ẩn danh mang mục đích xấu thông qua tăng cường các hoạt động bảo đảm bảo mật thông tin, sử dụng các biện pháp nhằm xác thực danh tính, hoàn thiện hành lang pháp lý theo hướng quy định trách nhiệm hành vi khi sử dụng MXH, tiến tới xử lý nghiêm minh các vi phạm liên quan đến tài khoản ẩn danh.

Cùng với đó, người dân cần nhận diện các hoạt động lợi dụng ẩn danh để quấy rối, bắt nạt, lừa đảo, xâm phạm quyền riêng tư, tán phát thông tin sai lệch và bôi nhọ, cung cấp các thông tin thất thiệt, các quan điểm sai trái, thù địch nhằm chống phá thành quả của cách mạng Việt Nam, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta./.
(còn nữa)
Yêu nước ST.