Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

ĐỀ XUẤT MỨC PHẠT HÀNH VI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ KHÁM SỨC KHỎE NGHĨA VỤ QUÂN SỰ, THAM GIA CÔNG AN NHÂN DÂN

 Bộ Quốc phòng đề xuất phạt tiền từ 25 - 35 triệu đồng đối với hành vi chống đối, không chấp hành lệnh gọi kiểm tra, khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự; lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân.

Bộ Quốc phòng đang dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu.
Tại dự thảo, Bộ Quốc phòng đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định tại Mục 1 Chương II Nghị định số 120/2013/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 37/2022/NĐ-CP về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả về thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Theo Bộ Quốc phòng, việc bổ sung vào Mục 1 dự thảo Nghị định quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính, đối với công dân vi phạm các quy định về thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân để thống nhất với quy định tại Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 và Nghị định số 70/2019/NĐ-CP ngày 23/8/2019 của Chính phủ quy định về thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân.
Điều 4 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 nêu rõ: Công dân phục vụ trong lực lượng Cảnh sát biển và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân được coi là thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ.
Chống đối, không chấp hành lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân bị phạt đến 35 triệu đồng.
Trong đó, dự thảo đề xuất xử phạt vi phạm quy định về kiểm tra, khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân.
Theo đó, phạt tiền từ 10 – 12 triệu đồng đối với hành vi không có mặt đúng thời gian hoặc địa điểm kiểm tra, khám sức khỏe ghi trong lệnh gọi kiểm tra hoặc khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự của Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự cấp huyện, lệnh gọi kiểm tra sức khỏe nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân của Trưởng Công an cấp huyện theo quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự mà không có lý do chính đáng.
Phạt tiền từ 12 – 15 triệu đồng đối với một trong các hành vi:
1- Cản trở công dân nhận lệnh gọi kiểm tra hoặc khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự của Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự cấp huyện; lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân của Trưởng Công an cấp huyện theo quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự;
2- Không nhận lệnh gọi kiểm tra, khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự của Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự cấp huyện; lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân của Trưởng Công an cấp huyện theo quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự mà không có lý do chính đáng.
Phạt tiền từ 15-20 triệu đồng đối với một trong các hành vi:
1- Người được khám sức khỏe có hành vi gian dối làm sai lệch kết quả phân loại sức khỏe của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự; nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân;
2- Đưa hoặc nhận tiền, tài sản, hoặc lợi ích vật chất khác trị giá đến dưới 2 triệu đồng cho cán bộ, nhân viên y tế hoặc người khác để làm sai lệch kết quả phân loại sức khỏe của người được kiểm tra hoặc người được khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự; khám sức khỏe nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân nhằm trốn tránh nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân.
Phạt tiền từ 25 – 35 triệu đồng đối với hành vi chống đối, không chấp hành lệnh gọi kiểm tra, khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự; lệnh gọi khám sức khỏe nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân.
Phạt đến 75 triệu đồng nếu vi phạm quy định về nhập ngũ; quy định thực hiện nghĩa vụ Công an nhân dân.
Theo dự thảo, phạt tiền từ 30 – 40 triệu đồng đối với hành vi không có mặt đúng thời gian hoặc địa điểm tập trung ghi trong lệnh gọi nhập ngũ; lệnh gọi thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân mà không có lý do chính đáng.
Phạt tiền từ 40 – 50 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau:
1- Cản trở công dân thực hiện lệnh gọi nhập ngũ; lệnh gọi thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân sau khi đã có kết quả khám tuyển sức khỏe nghĩa vụ quân sự đủ điều kiện nhập ngũ; khám tuyển sức khỏe nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân đủ điều kiện thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân theo quy định;
2- Gian dối nhằm trốn tránh thực hiện lệnh gọi nhập ngũ; lệnh gọi thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân sau khi đã có kết quả khám tuyển sức khỏe nghĩa vụ quân sự đủ điều kiện nhập ngũ; khám tuyển sức khỏe nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân đủ điều kiện thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân theo quy đinh.
Dự thảo nêu rõ, phạt tiền từ 50 – 75 triệu đồng đối với hành vi chống đối hoặc không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ; lệnh gọi thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân, trừ các trường hợp quy định phạt từ 30-40 và 40-50 triệu đồng nêu trên./.
St

CHÂN DUNG TƯỚNG LĨNH QUÂN KHU 7 ( 1945-2020): THIẾU TƯỚNG BÙI CÁT VŨ

 Thiếu tướng Bùi Cát Vũ sinh năm 1924, tại xã Hưng Mỹ, quận Châu Thành (nay là huyện Châu Thành), tỉnh Trà Vinh - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng. Ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp đặt chân xâm lược lên vùng đất Trà Vinh, chúng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của nhân dân Trà Vinh dưới ngọn cờ của Trương Định, Thủ khoa Huân, Võ Duy Dương, Đề Triệu… Mặc dù các cuộc khởi nghĩa ấy đều thất bại, song đã khẳng định tinh thần bất khuất không sợ hy sinh, gian khổ để chống xâm lăng của người dân Trà Vinh. Những năm 20 của thế kỷ XX, với tình yêu quê hương, đất nước và tài năng sáng tạo cách mạng của tuổi trẻ, đồng chí Dương Quang Đông về Trà Vinh thành lập tổ chức Thanh niên Tiền phong. Tổ chức này ngày càng phát triển rộng rãi, lần lượt ra đời tại Cầu Ngang, tỉnh lỵ Trà Vinh và Càng Long. Đây chính là chiếc nôi hình thành nên các chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Trà Vinh vào năm 1930.

Năm 1945, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, các huyện ủy, nhân dân Trà Vinh đã vùng lên tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi vào ngày 25-8-1945. Thuở nhỏ, đồng chí Bùi Cát Vũ có tuổi thơ đầy cơ cực. Sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mẹ đều phải đi làm thuê nuôi 4 người con. Năm 11 tuổi, cha mất, đồng chí phải đi làm thuê để phụ mẹ nuôi 3 em nhỏ. Tuy vậy, đồng chí học rất giỏi, thi tiểu học đỗ đầu tỉnh Trà Vinh và được cấp học bổng 5 đồng Đông Dương/tháng. Đồng chí cùng người em trai lên thị xã Trà Vinh ở trọ trong một ngôi chùa để ăn học. Sau đó, đồng chí thi vào Trường Trung học Mỹ Tho và được học bổng toàn phần. Nhưng do không có đủ tiền để mua trang phục, đồng chí Bùi Cát Vũ đã rời xa gia đình lên Sài Gòn kiếm sống. Chàng trai tỉnh lẻ mới 15 tuổi - Bùi Cát Vũ đã ngủ gầm cầu, vỉa hè, làm phụ hồ, bán báo... lay lắt kiếm ăn trên đất Sài Gòn. Cuộc sống khốn khó là vậy, nhưng đồng chí lại thích đọc và cổ động cho báo Dân Chúng. Đồng chí đã viết một truyện ngắn lấy tên “Phía sau ánh đèn điện” (sau được đổi tựa thành “Gió bụi Sài Gòn”) đăng trên báo. Qua truyện ngắn đầu tay này, nhà báo cách mạng Nguyễn Văn Nguyễn nhận thấy Bùi Cát Vũ có thiên khiếu ghi nhận một cách sắc sảo, tinh tế về cuộc sống nên dạy cho chàng trai bán báo dạo cách lấy tin, viết phóng sự. Mới một năm tập sự làm báo, đồng chí đã tiến bộ rất nhiều và đặc biệt là được những bậc thầy cách mạng, chủ biên của tờ Dân Chúng truyền bá về chủ nghĩa Cộng sản.
Khi tờ báo Dân Chúng bị đóng cửa, ký giả Bùi Cát Vũ cũng bị bắt vào tù. Trong tù, đồng chí lại may mắn được tiếp xúc với nhiều bậc trí thức lớn như: Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Tạo, Tạ Thu Thâu, Dương Bạch Mai... Đó là những chiến sĩ cách mạng kiên trung, có nhiều nỗ lực khác nhau để mưu tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Sau một thời gian ở tù, nhờ sự bênh vực của luật sư nên đồng chí được tại ngoại hầu tòa, buộc về quê quản thúc chờ ngày xử án. Trở về quê hương, nơi có con sông Cổ Chiên, vào thời điểm Cách mạng tháng Tám (1945) bùng nổ, đồng chí Bùi Cát Vũ bắt liên lạc với đồng chí Dương Quang Đông (lúc này là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh) và được cử làm Trung đội trưởng Cộng hòa vệ binh.
Sau khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, đồng chí trở lại Sài Gòn rồi lên Biên Hòa, đến Chiến khu Đ. Từ đây, đồng chí Bùi Cát Vũ chính thức nhập ngũ, bắt đầu con đường binh nghiệp. Năm 1947, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương1. Nhận nhiệm vụ Giám đốc Binh công xưởng Biên Hòa (1946-1950), đồng chí đã nghiên cứu chế tạo thành công mìn lõm. Đây là một trong những đóng góp rất lớn cho thắng lợi của ta trong các trận đánh. Khu phó Khu 7 Huỳnh Văn Nghệ đã miêu tả về chiến công chế tạo ra mìn lõm của đồng chí Bùi Cát Vũ như sau: Mặt nước bàu Cá Trê óng ánh như có trăng dưới rừng lá rộng… Các trái mìn lõm như những con mắt theo dõi bước đi của quân giặc. Từ sau hốc đá trên sườn cao, Chỉ huy phó vừa bấm công tắc mìn vừa ra lệnh: “Chi đội, nổ!”. Loáng một cái, đoàn xe thiết giáp từ Nha Trang vào tiếp sức cho địch ở Chiến khu Đ nổ tung trong biển lửa dậy trời. Trong số giặc bị tiêu diệt, có cả những sĩ quan cấp cao tử trận…
Trong thời gian ở Chiến khu Đ, đồng chí còn là người sát cánh cùng Khu phó Huỳnh Văn Nghệ làm nên chiến thắng La Ngà (20-12-1948) vang dội thời kỳ đầu kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp. Sau chiến thắng La Ngà, đồng chí Huỳnh Văn Nghệ được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì, đồng chí Bùi Cát Vũ được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Năm 1950, tổ du kích Tân Uyên được giao nhiệm vụ đánh tháp canh cầu Bà Kiên. Sau nhiều lần nghiên cứu tập luyện và đánh thử nghiệm trên chiến trường, đêm 18-4-1950, đồng chí Bùi Cát Vũ trực tiếp chỉ huy tổ du kích bí mật tiếp cận tháp canh. Các chiến sĩ dùng mìn phá tường (gọi là FT) cho nổ tạo ra lỗ hổng, sau đó đưa tiếp một loại mìn khác (gọi là pêta) cho nổ từ bên trong. Kết quả, tháp canh bị sập. Cách đánh tháp canh cầu Bà Kiên nhanh chóng được phổ biến trên toàn chiến trường. Cách đánh này được bộ đội ứng dụng rộng rãi trong đánh lô cốt, cầu cống, đồn bốt, kho tàng, hình thành một chiến thuật tiến công đặc biệt - cách đánh đặc công.
Những năm từ 1949 đến 1954, đồng chí Bùi Cát Vũ đảm nhiệm chức vụ Tỉnh đội phó - Tham mưu trưởng Tỉnh đội Biên Hòa. Năm 1954, đồng chí tập kết ra miền Bắc, đảm nhiệm chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 311, Sư đoàn 330 và được cử đi đào tạo pháo binh tại Liên Xô.
Năm 1955, đồng chí bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ Khoa học quân sự chuyên ngành pháo binh. Sau khi về nước, đồng chí nhận nhiệm vụ Trưởng ban Tác huấn, Tư lệnh Pháo binh Sư đoàn 330 (1955-1957).
Năm 1957, đồng chí được cử đi học tại Trường Văn hóa Bộ Quốc phòng. Năm 1958, đồng chí tiếp tục đi học tại Học viện Pháo binh Trung Quốc. Hoàn thành khóa học, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Phó phòng Huấn luyện Trường Sĩ quan Pháo binh (1959-1961). Từ năm 1961 đến năm 1964, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Khoa Pháo binh Trường Cán bộ Trung - Cao.
Năm 1964, đồng chí trở lại chiến trường miền Nam. Những năm từ 1965 đến 1972, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Phó phòng Tác huấn Bộ Chỉ huy Miền1, Tư lệnh Pháo binh Miền. Từ năm 1972 đến năm 1973,đồng chí là Tham mưu phó Miền, kiêm Tư lệnh Đoàn Pháo binh Miền.
Gần 10 năm lăn lộn trên chiến trường trọng điểm (Biên Hòa), cửa ngõ sào huyệt địch (Sài Gòn), đồng chí có nhiều đóng góp xây dựng lực lượng pháo binh Miền không ngừng lớn mạnh và lập được nhiều chiến công xuất sắc; nhất là trong các chiến dịch lớn như: Bình Giã (2-12-1964 - 3-1-1965), Đồng Xoài (10-5-1965 - 22-7-1965),… Trong Xuân Hè năm 1972, Tư lệnh Pháo binh Miền Bùi Cát Vũ trực tiếp chỉ huy hỏa lực. Trước giờ khai hỏa, đồng chí yêu cầu các bản kế hoạch hỏa lực phải được chuyển xuống các trận địa cho pháo thủ số 1 ghi lên lá chắn. Đồng chí cũng trực tiếp gọi điện kiểm tra từng cán bộ tiểu đoàn về việc quán triệt nhiệm vụ trận đánh và kế hoạch hỏa lực qua từng giai đoạn bắn. Các tiểu đoàn trưởng và đại đội trưởng đều túc trực trên đài quan sát, sẵn sàng chỉ huy bắn. Ngày 13-4-1972, các trận địa pháo nhất loạt khai hỏa, tạo thành lưới lửa phòng không dày đặc, bắn máy bay địch. Phối hợp cùng Sư đoàn bộ binh 9 và Trung đoàn 1, Sư đoàn bộ binh 5 chia làm hai cánh tiến sau xe tăng, đánh vào thị xã An Lộc theo hướng Tây và hướng Đông. Ngày 20-4-1972, trận đánh kết thúc thắng lợi. Ta tiêu diệt toàn bộ Tiểu đoàn 6, Ban Chỉ huy Lữ đoàn 1 dù và trận địa pháo 4 khẩu của địch…
Chiến công nối tiếp chiến công, trong nhiều trận đánh đồng chí Bùi Cát Vũ trực tiếp chỉ huy kéo pháo vượt Trường Sơn sang đất Lào, Campuchia phối hợp với bạn đánh Mỹ. Sự phối hợp của pháo binh Miền với các lực lượng đạt hiệu quả rất cao. Vì thế, đồng chí có biệt danh “Trùm đại bác Đông Dương”. Sang năm 1973, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh phó Đoàn 301. Năm 1975, với trách nhiệm Tư lệnh phó Quân đoàn 4 (1975-1980), đồng chí Bùi Cát Vũ cùng Tướng Hoàng Cầm chỉ huy trận quyết chiến Xuân Lộc mở toang “cánh cửa thép” cho đại quân tiến vào giải phóng Sài Gòn (30-4-1975).
Sau ngày đất nước thống nhất, năm 1979, trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và giúp bạn Campuchia, đồng chí Bùi Cát Vũ tiếp tục cùng Quân đoàn 4 đánh tan các cuộc xâm lấn biên giới của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari, tham gia trong đội hình Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp cùng lực lượng vũ trang cách mạng Capuchia giải phóng Thủ đô Phnôm Pênh, giúp bạn hồi sinh đất nước. Đồng chí là người đầu tiên điện về báo với Trung ương là bộ đội Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ giúp bạn đẩy lùi tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari. Năm 1980, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia trở về nước, đồng chí Bùi Cát Vũ được bổ nhiệm Phó Tư lệnh Quân khu 7. Năm 1983, đồng chí được thăng quân hàm Thiếu tướng.
Năm 1990, ở tuổi 66, đồng chí được nghỉ hưu theo chế độ. Là vị tướng chiến trường, Tiến sĩ Khoa học quân sự, đồng chí Bùi Cát Vũ đồng thời còn là nhà báo, nhà văn có nhiều tác phẩm giá trị lâu dài trong lòng bạn đọc. “Tay súng, tay bút”, trên mỗi chặng đường chiến đấu, đồng chí đều mải mê viết. Thời gian ở Chiến khu Đ, nhất là mỗi dịp tết đến, đồng chí đều có bài viết được đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng miền Nam. Đồng chí cũng xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị như: “Quê hương”, “Đường vào Sài Gòn”, “Trong rừng sâu Chiến khu Đ” và thiên ký sự “Đường vào Phnôm Pênh” đã nhận được giải thưởng cao nhất của văn học Quân đội. Sau khi nghỉ hưu, từ nguồn cảm hứng những năm tháng tuổi trẻ kiếm sống ở Sài Gòn, đồng chí cảm thấy rất cần sách văn học cho thiếu nhi nên đã viết cuốn truyện cũng lấy tên là “Gió bụi Sài Gòn”. Tác phẩm được giải thưởng Cuộc thi văn học thiếu nhi “Vì tương lai đất nước” của Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Trẻ. Năm 1993, tác phẩm nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 2002, do bệnh nặng, Thiếu tướng Bùi Cát Vũ đã qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng chí ra đi để lại sự nghiệp với nhiều dấu ấn đáng trân trọng trong chiến đấu, nghiên cứu khoa học, nghệ thuật quân sự và sáng tác văn học. Những năm tháng cống hiến cho cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng Nhì; 2 Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì; Huân chương Quân công giải phóng hạng Nhì; Huân chương Chiến công hạng Nhất; Huân chương Chiến thắng hạng Nhì; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; 3 Huy chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, cùng nhiều phần thưởng cao quý khác./.
St

NHÂN QUYỀN HAY KHỦNG BỐ?

 Thái Lan xem ra không còn là mảnh đất hứa với “mấy anh em” dân chủ nữa rồi. Ngày xưa, chống phá trong nước chán chê, đến khi “động”, dạt sang Campuchia rồi phi Thái Lan, lại tiếp tục chống phá. Nhưng ngày nay không còn mùa xuân đấy.

Y Quynh Bdap, đối tượng trực tiếp tuyển mộ, kích động, thực hiện vụ khủng_bố 11-6-2023 ở Đắk Lắk cũng trốn ở Thái Lan. Y Quynh Bdap bị chính quyền Thái Lan bắt giữ và bàn giao cho Việt Nam.
Quyết định gần đây của Tòa án Hình sự Thái Lan chấp thuận yêu cầu dẫn độ đối tượng Y Quynh Bdap về Việt Nam - đây là 01 trong số các đối tượng cầm đầu vụ khủng_bố tại Đăk Lăk là một lời khẳng định chắc chắn nhân quyền không thể và không bao giờ được sử dụng như một lá chắn để bao che cho hành vi khủng bố.
Liên quan đến quyết định trên, một số nhóm tự xưng là bảo vệ nhân quyền đã phản đối. Nhưng họ đã nhầm lẫn nghiêm trọng giữa việc bảo vệ quyền con người và việc dung túng cho tội phạm. Cần phải hiểu rằng, khi một cá nhân thực hiện hành vi khủng_bố, họ đã tự đặt mình ra ngoài phạm vi bảo vệ của các nguyên tắc nhân quyền cơ bản.
Quyết định của Tòa án Thái Lan thể hiện rõ quan điểm này. Nó gửi đi một thông điệp mạnh mẽ rằng không một quốc gia văn minh nào có thể chấp nhận việc lợi dụng các giá trị nhân quyền để che chắn cho những kẻ gây ra bạo lực và đe dọa an ninh quốc gia.
Đồng thời, quyết định này cũng là minh chứng cho sự hợp tác hiệu quả giữa các quốc gia trong khu vực trong cuộc chiến chống khủng_bố. Cho thấy rằng những kẻ khủng_bố không thể trốn tránh công lý bằng cách ẩn náu ở nước ngoài và viện dẫn lý do nhân quyền.
Không có cái lý nào tung hô nhân quyền nhưng lại đi cướp đoạt mạng sống của người khác. Nỗi đau cách đây hơn 1 năm với người dân Đăk Lăk vẫn chưa nguôi ngoai. Những kẻ vì đồng tiền mà bất chấp tính mạng của đồng bào, của nhân dân phải trả giá!
St

ÔNG DONALD TRUMP ĐẮC CỬ TỔNG THỐNG THỨ 47 CỦA MỸ

 Kết quả cuộc bầu cử tổng thống năm 2024 tại Mỹ đã ngã ngũ với việc ứng cử viên Donald Trump của đảng Cộng hòa giành chiến thắng.

Trưa 6/11 theo giờ Việt Nam, kết quả cuộc bầu cử tổng thống năm 2024 tại Mỹ đã ngã ngũ với việc ứng cử viên Donald Trump của đảng Cộng hòa giành chiến thắng thuyết phục.
Theo phóng viên TTXVN tại Mỹ, kết quả kiểm phiếu sơ bộ tính tới 13h30 cho thấy ông Trump đã giành số phiếu đại cử tri vượt ngưỡng 270 phiếu đại cử tri cần thiết theo luật định và qua đó đánh bại ứng cử viên Kamala Harris bên phía đảng Dân chủ để trở thành tổng thống thứ 47 của nước Mỹ.
Chiến thắng quyết định diễn ra tại bang chiến địa Pennsylvania với 19 phiếu đại cử tri.
Đây cũng là nhiệm kỳ thứ 2 ông Trump giữ cương vị chủ nhân Nhà Trắng, sau nhiệm kỳ một từ năm 2016-2020.
Trong ngày bầu cử 5/11, ông Trump đã có màn thể hiện xuất sắc với hàng loạt chiến thắng vang dội tại tất cả 7 bang chiến địa có ý nghĩa quyết định gồm Arizona, Georgia, Michigan, Nevada, North Carolina, Wisconsin và Pennsylvania. Ứng cử viên này đã giành trọn 93 phiếu đại cử tri tại những bang nói trên.
Ngay sau khi kết quả được công bố, ông Trump đã có bài diễn văn ăn mừng trước đông đảo người ủng hộ tại Palm Beach, bang Florida.
Dự kiến, các đại cử tri đoàn tại các bang sẽ nhóm họp vào ngày 17/12 tới để bỏ phiếu đại cử tri chính thức bầu ứng cử viên Trump làm tổng thống tiếp theo của nước Mỹ.
Ông Trump sẽ tuyên thệ nhậm chức tại Đồi Capitol vào ngày 20/1/2025./.
St

ĐẠI TƯỚNG PHAN VĂN GIANG: "CHÚNG TÔI XIN PHÉP 60 TUỔI THÔI"

 Đại tướng Phan Văn Giang cho biết sĩ quan cấp tướng thì muốn công tác hơn, bởi ở chức vụ cao, cường độ làm việc bằng sức khỏe không cần nhiều hơn so với cấp dưới, nhưng như vậy cấp tá không lên cấp tướng được.

Ngày 5-11, Quốc hội (QH) thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Một trong những nội dung được nhiều đại biểu (ĐB) thảo luận liên quan đến việc nâng tuổi nghỉ hưu, cấp quân hàm của sĩ quan quân đội.
Dự thảo luật đề xuất tăng tuổi nghỉ hưu của sĩ quan quân đội ở hầu hết cấp bậc quân hàm, trừ cấp tướng. Theo đó, với cấp úy, hạn tuổi cao nhất của sĩ quan tại ngũ (tuổi nghỉ hưu) tăng từ 46 tuổi lên 50 tuổi; thiếu tá từ 48 tuổi lên 52 tuổi; trung tá từ 51 tuổi lên 54 tuổi; thượng tá từ 54 tuổi lên 56 tuổi; đại tá từ 57 tuổi (đối với nam) và 55 tuổi (đối với nữ) lên 58 tuổi (không phân biệt nam, nữ). Cấp tướng vẫn giữ nguyên 60 tuổi đối với nam, đối với nữ tăng từ 55 tuổi lên 60 tuổi.
Nhất trí cao với đề xuất nâng hạn tuổi nêu trên, ĐB Nguyễn Đại Thắng (đoàn Hưng Yên) cho rằng việc này nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. “Chúng ta cần phát huy, trọng dụng sự cống hiến phục vụ trong quân đội với đội ngũ sĩ quan được đào tạo cơ bản, có bản lĩnh, trình độ, kinh nghiệm, sức khỏe và đảm bảo chế độ chính sách cho một bộ phận trực quan khi nghỉ hưu” - ông Thắng nói.
Dù vậy, ĐBQH đoàn Hưng Yên cũng bày tỏ băn khoăn khi dự thảo luật quy định tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan quân đội cao nhất là 60. Ông Thắng cho rằng cần nghiên cứu, xem xét điều chỉnh tăng tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan cấp tướng quân đội lên 62 để đảm bảo trọng dụng nhân tài, tương quan giữa hai lực lượng quân đội và công an.
Chia sẻ về nội dung này, Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, cho biết: “Chúng tôi đang là sĩ quan cấp tướng thì muốn công tác hơn, bởi ở chức vụ cao, cường độ làm việc bằng sức khỏe không cần nhiều hơn so với cấp dưới”. Tuy nhiên, nếu cấp tướng 62 tuổi nghỉ hưu còn cấp tá 58 tuổi đã nghỉ hưu, như vậy cấp tá không lên cấp tướng được.
“Lực lượng quân đội có rất nhiều cấp, chức vụ khác nhau cho nên chúng tôi xin phép 60 tuổi thôi” - Đại tướng Phan Văn Giang nói.
Theo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, lực lượng trong quân đội có rất nhiều loại sĩ quan, như sĩ quan chỉ huy, sĩ quan chính trị, sĩ quan hậu cần, sĩ quan chuyên môn kỹ thuật…
“Quan điểm của chúng tôi vẫn phải nuôi quân ba năm, sử dụng một giờ, cho nên thời bình cũng phải rèn quân làm sao để đến khi có tình huống phải xử lý được. Nếu chúng ta lơi lỏng, đến lúc có tình huống không xử lý được thì rất khó. Cường độ phải ngày càng cao, nếu cường độ không tăng lên thì rõ ràng không đáp ứng được yêu cầu, nhất là về chuyên môn, kỹ thuật” - Đại tướng Phan Văn Giang cho hay.
Còn ĐB Lữ Văn Hùng (đoàn Bạc Liêu) đề nghị nghiên cứu cấp quân hàm của chỉ huy trưởng quân sự TP. Ông cho rằng giám đốc công an là thiếu tướng thì chỉ huy trưởng quân sự cũng phải là thiếu tướng.
“Tại sao công an là thiếu tướng mà quân đội là đại tá, anh cũng là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, tôi cũng là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy. Việc này cũng phải xem xét nghiên cứu để làm sao cho tương xứng” - ông Hùng nói.
Trao đổi lại, Đại tướng Phan Văn Giang cho rằng công an là thiếu tướng, quân đội cũng phải là thiếu tướng thì “chúng tôi thấy khó thật”.
Đại tướng Phan Văn Giang phân tích giám đốc công an tỉnh chỉ có một thiếu tướng nhưng chỉ huy trưởng tỉnh liên quan đến chính ủy, chỉ huy trưởng biên phòng tỉnh cũng liên quan đến chính ủy. Bốn vị trí này như nhau mà chỉ chọn một để phong tướng thì khó cân lắm…/.
St

KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ ĐẢNG CẦM QUYỀN

 Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay”. Trước những thành quả to lớn có ý nghĩa lịch sử đó, các thế lực thù địch, phản động luôn điên cuồng chống phá nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng bằng luận điệu quen thuộc là đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1. Lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Ở Việt Nam, “Đảng ta” đã trở thành cụm từ thân thuộc, trân trọng đối với mọi người dân Việt Nam. Hòng phủ nhận sự thật đó, trong quá trình thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách hạ thấp uy tín hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những luận điệu thâm độc chúng thường xuyên sử dụng là: “Cần loại bỏ sự toàn trị của Đảng, cần thực hiện chế độ đa đảng, đa nguyên”, “một đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo là không hề có dân chủ”...
Về thực chất, với những luận điệu này, chúng mưu toan xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Gần đây nhất, ngày 25-10-2024, trên trang Facebook của tổ chức khủng bố Việt Tân tiếp tục điệp khúc chống phá rằng: “Chỉ cần quất một phát cho Điều 4 Hiến pháp đi chỗ khác chơi là giải quyết mọi vấn đề của đất nước”…, hay “Mấu chốt của điểm nghẽn là Điều 4 Hiến pháp”. Thực tế đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân phải nhận diện một cách chính xác, toàn diện để đấu tranh, vô hiệu hóa thủ đoạn chống phá thâm độc này của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội như Hiến pháp quy định.
2. Xem xét từ góc độ lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa đảng chính trị và dân chủ trong lịch sử, cũng như hiện nay cho thấy, không phải cứ đa đảng là dân chủ và một đảng là mất dân chủ. Dân chủ không đồng nghĩa với đa đảng và thực hiện đa đảng không đồng nghĩa với có dân chủ. Trên thực tế, theo thống kê, số lượng đảng phái chính trị ở các quốc gia rất khác nhau; một số nước có rất nhiều đảng chính trị, như Anh có 97 đảng, Tây Ban Nha có 87 đảng, Pháp có 76 đảng…, nhưng cũng có nhiều nước chỉ có một đảng chính trị, như Cuba, Lào, Việt Nam... Singapore có nhiều đảng, nhưng chỉ có Đảng Hành động Nhân dân (PAP) lãnh đạo cầm quyền. Ở Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng sản Trung Quốc còn có 8 đảng phái khác và các đảng phái này đều thừa nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước. Thực tiễn cũng cho thấy, dù nhiều quốc gia thực hiện đa đảng nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc quyền làm chủ của đa số nhân dân được bảo đảm.
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử và thể hiện ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, vừa tuân theo quy luật lịch sử chung, vừa tuân theo quy luật lịch sử đặc thù của Việt Nam, đã giải quyết triệt để cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mở ra một thời đại mới trong lịch sử xây dựng, phát triển đất nước. Do đó, mọi luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, phản động xét cho cùng đều không thể phủ nhận được lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng đến nay. Bởi, thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), thắng lợi vang dội của hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân, đế quốc, giải phóng và thống nhất đất nước, nhất là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đều thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những thành tựu đó là bằng chứng thuyết phục để khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo cả dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước; đồng thời cũng làm cho nhân dân ngày càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận để Đảng trở thành lực lượng xã hội duy nhất lãnh đạo toàn xã hội. Do đó, cố tình phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của Việt Nam qua gần 40 năm đổi mới để xuyên tạc rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lãnh đạo, chỉ khiến đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Những kẻ lấy danh nghĩa là “con dân đất Việt”, lấy hình thức viết “tâm thư”, “thư ngỏ” để kêu gọi phải từ bỏ Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cố tình chống phá Đảng, chống phá chế độ ta, cản trở sự phát triển của đất nước.
3. Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Phân tích kỹ, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 về vai trò lãnh đạo của Đảng so với Hiến pháp năm 1992 có điểm mới, là khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động, mà còn là đội tiên phong “của dân tộc Việt Nam”. Về trách nhiệm của Đảng, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung vào Điều 4 nội dung sau: “Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Do đó, luận điệu của các thế lực thù địch cho rằng Hiến pháp năm 2013 “đặt Đảng lên trên Nhà nước” là sự xuyên tạc thô thiển. Chính một số ít những kẻ đang tự cho mình quyền bình luận, xuyên tạc Hiến pháp năm 2013 nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ sự đồng thuận xã hội, xóa bỏ chế độ xã hội ta mới là những kẻ đang đứng trên Hiến pháp, đứng trên xã hội.
Với thực tiễn đó, Điều 4 của Hiến pháp năm 2013 và việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị - xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn. Các thế lực thù địch, đặc biệt là tổ chức phản động Việt Tân, dù cố tình “nhắm mắt giả mù”, “bịt tai giả điếc”, rắp tâm thực hiện âm mưu đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp sẽ không bao giờ thực hiện được. Vì bất luận trong hoàn cảnh nào, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là không thể thiếu được, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong gần 95 năm qua và đã được xác nhận trang trọng trong Điều 4, Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong những năm tới, dự báo tình hình quốc tế, khu vực sẽ có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế bên cạnh thuận lợi là cơ bản sẽ còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng nếu mỗi chúng ta luôn hiểu và vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ góp phần củng cố, gia tăng sức mạnh cho Đảng, để Đảng ta tiếp tục là người lãnh đạo, dẫn dắt cả dân tộc thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; đồng thời qua đó bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
St

MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA NGÀY PHÁP LUẬT

 Theo quy định của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật, Ngày Pháp luật được tổ chức để tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, đồng thời tăng cường nhận thức cho mọi người về vai trò của luật pháp trong đời sống, tăng cường sự hiểu biết pháp luật và khả năng thực thi pháp luật trong hoạt động quản lý Nhà nước, hoạt động kinh tế - xã hội và sinh hoạt hàng ngày của người dân.

Thông qua Ngày Pháp luật giúp cho mọi tổ chức, cá nhân công dân có ý thức tuân thủ pháp luật tốt hơn, là dịp để đánh giá lại những kết quả đã đạt được và những hạn chế trong hoạt động xây dựng, thực thi pháp luật; là cơ hội để tổ chức nhiều hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho cộng đồng thông qua những cách thức khác nhau. Qua đó, những người thi hành pháp luật cũng sẽ nhận được những thông tin phản hồi, những quan điểm đánh giá về tất cả các quy định pháp luật cũng như cách thức thực hiện, hiệu quả của hệ thống pháp luật đối với đời sống xã hội; từ đó hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật, cũng như cải thiện, nâng cao hoạt động của hệ thống tư pháp.
Trên thế giới, hiện có nhiều nước tổ chức Ngày Pháp luật hay “Ngày Hiến pháp” như một ngày hội để “thượng tôn pháp luật”, tôn vinh Hiến pháp – đạo luật gốc của mỗi quốc gia. Hiện có khoảng 40 quốc gia lấy ngày ký, ban hành hoặc thông qua Hiến pháp để hàng năm tổ chức kỷ niệm “Ngày Hiến pháp” của mình. Trong ngày này, các luật gia, luật sư và các hiệp hội nghề nghiệp về luật tổ chức nhiều hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật trong cộng đồng nhằm tăng cường hơn nhận thức của nhân dân, học sinh, sinh viên về vị trí, vai trò tối thượng, không thể thay thế của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, đặc biệt là về các giá trị tự do, dân chủ, công lý, công bằng.
Ở Việt Nam, Luật phổ biến, giáo dục pháp luật quy định ngày 09/11 hàng năm là Ngày Pháp luật với dấu mốc đây là ngày ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta năm 1946, khởi đầu cho tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Là bản Hiến pháp của nền dân chủ đầu tiên của Nhà nước ta, Hiến pháp năm 1946 đã thấm nhuần, thể hiện triệt để tinh thần, tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, là sự khẳng định mạnh mẽ các giá trị dân chủ, dân quyền, thượng tôn pháp luật và còn tồn tại bền vững cho đến ngày hôm nay. Các giá trị đó thể hiện tập trung nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, được kế thừa trong các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992.
Ngày Pháp luật khơi dậy trong mọi cá nhân công dân ý thức về trách nhiệm, bổn phận và quyền lợi của mình mà tham gia một cách tích cực vào các sinh hoạt của đời sống chính trị và đời sống xã hội. Do vậy, Ngày Pháp luật có ý nghĩa giáo dục sâu sắc trong việc đề cao giá trị của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, hướng mọi tổ chức, cá nhân tính tích cực tham gia với hành vi, thái độ xử sự pháp luật đúng đắn, đề cao quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân công dân trong học tập, tìm hiểu pháp luật và tự giác chấp hành pháp luật. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức và niềm tin pháp luật, từng bước xây dựng và củng cố các giá trị văn hóa pháp lý trong cuộc sống xã hội. Đồng thời, đây còn là mô hình để vận động, khuyến khích, kêu gọi toàn thể nhân dân chung sức, đồng lòng vì sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, phát huy triệt để tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc cùng tích cực hành động vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do vậy, đây còn là sự kiện chính trị, pháp lý có ý nghĩa nhân văn, ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Ngày Pháp luật với nội hàm ghi nhận ngày ban hành bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nhà nước Việt Nam thì không chỉ giới hạn chỉ là ngày 09/11, mà được coi là điểm mốc, là sợi chỉ đỏ kết nối, xuyên suốt, có sức lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng dân cư, nhắc nhở, giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật, để không chỉ là một ngày, mà phấn đấu sẽ là 365 ngày trong một năm mọi tổ chức, cá nhân tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật theo hiện khẩu hiệu “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”.
Đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Ngày Pháp luật cũng là một trong những chế định quan trọng đặt tiền đề cho việc đổi mới tổ chức thực hiện công tác này. Ngày pháp luật được tổ chức nhằm tạo bước phát triển mới trong việc nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật - một bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng và là nhiệm vụ thường xuyên của toàn bộ hệ thống chính trị, các cấp, các ngành với mục tiêu cuối cùng là hỗ trợ và tạo điều kiện để mọi cá nhân, tổ chức biết sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và xã hội./.
St

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “CỐT TINH, KHÔNG CỐT ĐÔNG” TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

 Từ thực tiễn xây dựng quân đội và kinh nghiệm tổ chức kháng chiến, các nhà nước quân chủ trong lịch sử Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học giữ nước, trong đó có quan điểm xây dựng quân đội thường trực của quốc gia “cốt tinh, không cốt đông”, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc nền độc lập và vẹn toàn cương vực quốc gia. Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng xây dựng quân đội của các triều đại quân chủ trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh” hiện nay là việc làm cần thiết, có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.

Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Ngoài việc kiên định nguyên tắc quản lý, lãnh đạo, coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tinh thần; gắn với đổi mới công tác huấn luyện-đào tạo; tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực dự bị chất lượng cao... thì một trong những vấn đề quan trọng là phải gắn xây dựng lực lượng tinh nhuệ với điều chỉnh và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, biên chế LLVT phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh lịch sử cụ thể.
Để tiến hành thắng lợi khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm có tư tưởng xây dựng LLVT có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu nhiều thứ quân, trong đó quân triều đình quản lý giữ vai trò quyết định. LLVT triều Lý, Trần bao gồm quân chủ lực của triều đình, quân của quý tộc (vương hầu, tôn thất), quân của các lộ, phủ, châu (quân địa phương) và dân binh làng, xã, động, bản. Quân chủ lực của triều đình do nhà nước trực tiếp quản lý, chỉ huy, gồm các thành phần cấm quân và sương quân. Cấm quân là công cụ bạo lực chủ yếu, chỗ dựa quan trọng nhất của chính quyền quân chủ, là trụ cột của quốc phòng, an ninh và là lực lượng chủ lực trong các cuộc chiến tranh giữ nước.
Đến triều Vua Lê Thánh Tông, cùng với việc cải cách hành chính, chia cả nước thành 13 đạo, tổ chức quân đội cũng được cải tổ một cách toàn diện tạo sự thống nhất với hệ thống tổ chức chặt chẽ, quy củ. Lực lượng quân đội được chia thành hai bộ phận: Quân triều đình và quân các địa phương. Quân triều đình gồm cấm binh (còn gọi là cấm vệ quân) và quân ngũ phủ. Cấm binh được chia thành vệ, sở, vẫn làm nhiệm vụ bảo vệ vua, hoàng cung và kinh thành. Quân ngũ phủ được nhà nước xác định rõ là bộ phận quan trọng của quân đội do triều đình trực tiếp quản lý, thường trực đóng giữ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước.
Để phù hợp với cách tác chiến (nhanh, mạnh, thần tốc), kể từ khi trở thành Bắc Bình vương, Nguyễn Huệ quyết định biên chế quân đội thành hệ thống gồm đội, cơ, đạo và doanh. Trong những trường hợp cần thiết, quân đội Tây Sơn còn được tổ chức thành các đơn vị quy mô lớn gọi là đại quân gồm 2-3 doanh do một đại đô đốc chỉ huy. Để tạo nên sức mạnh tổng hợp, tượng binh, kỵ binh, pháo binh và thủy binh được Vua Quang Trung quan tâm chú trọng phát triển và ngày càng hoàn thiện theo hướng gọn, tinh nhuệ, là lực lượng nòng cốt trong củng cố quốc phòng và bảo vệ nền độc lập...
Tiếp thu truyền thống quân sự dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo trên bình diện tư tưởng, lý luận cũng như trong thực tiễn xây dựng LLVT. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng LLVT ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Tháng 3-1947, lực lượng dân quân du kích được thống nhất về tổ chức, xây dựng thành một bộ phận đông đảo của LLVT nhân dân, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội với quy mô phổ biến là tiểu đội, trung đội, đại đội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu ngay tại địa phương bằng các thứ vũ khí có trong tay với hình thức tác chiến linh hoạt, sáng tạo.
Tháng 4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương có quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, được cấp ủy đảng lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương chỉ huy; có khả năng tác chiến độc lập, làm nòng cốt phát triển chiến tranh nhân dân địa phương. Cùng với việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, Đảng ta rất chú trọng tới việc xây dựng các đơn vị chủ lực và chuẩn bị các điều kiện tiến tới xây dựng các đơn vị cơ động cấp đại đoàn. Trong giai đoạn 1949-1952, các đại đoàn bộ binh chủ lực (Đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325) và Đại đoàn Công pháo 351 lần lượt được thành lập.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện chủ trương của Đảng, Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không-Không quân, các binh chủng: Thông tin liên lạc, Đặc công... được thành lập và nhanh chóng trưởng thành. Đặc biệt, các đơn vị chủ lực của bộ binh có bước phát triển mạnh về tổ chức với quy mô từ cấp sư đoàn phát triển thành quân đoàn binh chủng hợp thành (Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232) vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Đây là lực lượng cơ động chiến lược hoạt động trên địa bàn cả nước, hoặc trên từng chiến trường theo yêu cầu, nhiệm vụ để tiến hành tác chiến tập trung, thực hành các trận quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi quyết định trong chiến tranh cách mạng.
Phương thức tổ chức ba thứ quân thể hiện đậm nét tính nhân dân của LLVT do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, lãnh đạo. Thành công trong việc xây dựng LLVT ba thứ quân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, là cơ sở quan trọng để Đảng phát huy thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh. Thế trận đó cho phép chúng ta thực hiện chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực kết hợp chặt chẽ với các hoạt động tác chiến của lực lượng tại chỗ thuộc bộ đội địa phương và dân quân du kích, với chiến tranh nhân dân địa phương, phong trào toàn dân đánh giặc và phong trào đấu tranh chính trị của đông đảo quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn, do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu xây dựng Quân đội đặt ra trong từng thời kỳ, Đảng ta đã nhiều lần điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ. Đặc biệt, hiện nay, trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ đặt ra ngày càng cao; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động tới tất cả lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh ngày càng sâu sắc thì việc kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan, đơn vị nói riêng, điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội nói chung là vấn đề khách quan, cấp thiết, góp phần xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng BVTQ.
Từng cấp cần chủ động làm tốt việc rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm trang bị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Trước hết, triển khai thực hiện có hiệu quả đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian và quân số phục vụ, bảo đảm; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để tăng cường quân số cho các đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.
Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức theo hướng tăng cường sức mạnh chiến đấu, khả năng cơ động. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sản xuất quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường Quân đội phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế, trang bị của Quân đội, với cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới./.
St

PHÒNG, CHỐNG LÃNG PHÍ, CÔNG VIỆC THƯỜNG XUYÊN VÀ CẤP THIẾT ĐỂ ĐẤT NƯỚC VƯƠN MÌNH!

     Khi Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng, nhất là lãnh đạo và tổ chức cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo dựng một xã hội mới tốt đẹp thì cũng đồng thời đặt ra việc phê phán, phòng chống những cái xấu do chế độ cũ để lại và xây dựng nhận thức và hành động mới tốt đẹp. Xây dựng xã hội mới đòi hỏi huy động sức lực, trí tuệ của toàn dân, của cải, nguồn lực của toàn xã hội và sử dụng có hiệu quả cao nhất tài nguyên của đất nước!
V.I.Lênin yêu cầu, Đảng, Nhà nước Xô viết và những người cộng sản “Hãy tính toán tiền nong cho cẩn thận”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu chữ cần kiệm trong 23 điều về tư cách của một người cách mạng. Cần là làm hết sức mình trong mọi công việc, không lười biếng, thoái thác nhiệm vụ; kiệm là tiết kiệm, không lãng phí. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết quý từng đồng tiền, bát gạo, vì đó là công sức của nhân dân.

Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, chiến tranh kéo dài tàn phá. Điểm xuất phát ở trình độ rất thấp, thấp bởi quan hệ sản xuất lạc hậu và lực lượng sản xuất kém phát triển. Khi miền bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bình quân ruộng đất có 3 sào/người, công nghiệp chỉ có mấy mỏ than. Với “cơ ngơi” ấy phải tiến dần từng bước, phải có phương pháp thích hợp, sáng tạo và cần kiệm xây dựng đất nước, “Mỗi hòn than, mẩu sắt, cân ngô/Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ” (Tố Hữu). Muốn phát triển phải có ý chí, quyết tâm rất cao.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp mới mẻ, khó khăn đòi hỏi hành động tự giác, sáng tạo trên cơ sở nhận thức đúng đắn của toàn dân, của mỗi cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” (1).
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã từng bước hình thành những giá trị tiêu biểu của con người xã hội chủ nghĩa trong cán bộ, đảng viên và trong nhân dân. Đó là những con người nêu cao ý thức làm chủ, tinh thần tập thể, tập trung vì công việc chung, bảo vệ của công, góp sức xây dựng hợp tác xã, nhà máy, xí nghiệp, cơ quan, chăm lo công việc xã hội; là những người có tinh thần đoàn kết, biết sống vì người khác “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; đó là những người nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước, tập thể và nhân dân, có ý thức phục vụ nhân dân; luôn luôn có ý thức “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; là những người sống có kỷ luật, tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Cái mới, tốt đẹp trong con người xã hội chủ nghĩa ngày càng nảy nở, phát triển, tuy nhiên những cái xấu, tiêu cực vẫn hiện hữu và gây tác hại. Bác Hồ nhiều lần phê phán và yêu cầu loại bỏ các thói xấu như: Lười biếng, tham lam, gian giảo, thích hưởng thụ, lãng phí của công. Để phòng chống những tiêu cực trong lãnh đạo, quản lý, đầu năm 1963, Bộ Chính trị khóa III đã ban hành nghị quyết mở các cuộc vận động lớn, trong đó có Nghị quyết số 85-NQ/TW, ngày 24/7/1963 về cuộc vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” (gọi tắt là cuộc vận động 3 xây, 3 chống). Bộ Chính trị cho rằng: “Tệ tham ô, lãng phí, quan liêu xảy ra khá phổ biến, có nơi khá nghiêm trọng, đã gây nhiều thiệt hại cho Nhà nước và nhân dân ta” (2).

Vấn đề chống lãng phí đã được Đảng đặt ra từ rất sớm và luôn luôn gắn liền với chống tham ô, tham nhũng và tệ quan liêu. Bộ Chính trị nêu rõ nhận thức, đây là cuộc đấu tranh cách mạng nhằm xóa bỏ những tàn dư của chế độ bóc lột, xây dựng lập trường, đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính. Cần phải có giải pháp căn bản và thiết thực để ngăn ngừa tệ nạn ấy. Cái gốc vẫn là tinh thần trách nhiệm, sự liêm chính của cán bộ, đảng viên, là cách thức, chế độ quản lý chặt chẽ, minh bạch.
Trước khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), do cơ chế quản lý hành chính, bao cấp, phân phối bình quân dẫn tới lãng phí lớn nguồn nhân lực bởi năng suất lao động thấp, hiệu quả công việc kém, nuôi dưỡng thói lười biếng, ỷ lại. Do không chú ý đúng mức lợi ích kinh tế của người lao động mà mất đi động lực của sự phát triển. Đó là sự lãng phí, mất mát lớn nhất.

Trong công cuộc đổi mới, với tư duy kinh tế mới, đổi mới cơ chế quản lý, gắn kế hoạch với thị trường, hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra nguồn lực và động lực mới để đất nước phát triển. Nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động, sáng tạo, của cải vật chất tăng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, mức sống và chất lượng cuộc sống được nâng cao. Với điều kiện, hoàn cảnh đó, đã nảy sinh ở một bộ phận cán bộ, đảng viên tâm lý hưởng thụ, tìm cách chiếm đoạt của cải, tiền bạc (tham nhũng) và trình độ yếu kém trong quản lý dẫn tới lãng phí. Có những cán bộ được Nhà nước giao nguồn vốn rất lớn nhưng do nhiều lý do mà công trình không được thực hiện trong nhiều năm gây thất thoát, lãng phí vô cùng lớn, làm nghèo đất nước.

Năm 1994, Đảng xác định tham nhũng là một trong 4 nguy cơ lớn làm cản trở quá trình đổi mới. Đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng rất quyết liệt và đến nay đã thu được những kết quả quan trọng. Nhưng cuộc đấu tranh chống lãng phí chưa được nhận thức và đặt đúng vị trí và yêu cầu mặc dù tác hại của nó không kém tham nhũng.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết quan trọng Chống lãng phí. Đó thật sự là khởi động lại, tạo ra động lực mới trong cuộc đấu tranh khó khăn và lâu dài. Chống lãng phí thành công góp phần tăng thêm nguồn lực để đất nước vươn mình trong kỷ nguyên mới. Bài viết đã thống nhất nhận thức trong toàn Đảng với quan điểm coi chống lãng phí là chống “giặc nội xâm”, đặt chống lãng phí ngang với chống tham nhũng. Tổng Bí thư đã đề ra 4 giải pháp căn bản và cấp thiết trong chống lãng phí. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực công tác, mỗi địa phương cần tiếp tục cụ thể hóa để có giải pháp thích hợp và thực hiện có hiệu quả.

Chống lãng phí gắn liền với thực hành tiết kiệm. Những việc đó được thực hiện tốt sẽ tạo nguồn lực lớn trong xây dựng, phát triển đất nước, phát triển các ngành, các địa phương và từng gia đình, làm cho dân giàu nước mạnh. Nhiệm vụ trọng tâm vẫn là chống lãng phí tiền bạc, của cải, tài sản công, cần, kiệm xây dựng đất nước. Cần mở rộng nhận thức chống lãng phí về thời gian, nguồn lực, nhất là nhân lực, lãng phí tài nguyên và nhiều lĩnh vực, nguồn lực khác.

Cần chống lãng phí thời gian, biết quý từng giây, từng phút, từng giờ để lao động, làm việc, học tập có hiệu quả, năng suất cao. Tranh thủ thời gian để phát triển đất nước nhanh, bền vững, thúc đẩy nhanh quy mô, tốc độ, hiệu quả và tính bền vững của nền kinh tế, tránh chủ quan, thỏa mãn, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Phải chống lãng phí nguồn nhân lực. Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng với hơn 100 triệu dân, hơn 50 triệu người trong độ tuổi lao động. Cần đào tạo bài bản, sử dụng tốt nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Có nhân lực chất lượng cao mới ứng dụng có kết quả cao cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo AI, chuyển đổi số, hội nhập quốc tế tốt hơn, bảo đảm cho dân tộc Việt Nam thật sự vươn mình.

Quyết tâm chống lãng phí trong sử dụng tài nguyên đất, nước, rừng, biển, khoáng sản và các nguồn tài nguyên khác. Giữ bằng được 4 triệu héc-ta đất trồng lúa để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia cho hôm nay và các thế hệ tiếp theo. Có chiến lược nước quốc gia cho phát triển kinh tế và đời sống người dân. Bảo vệ tài nguyên rừng vì cuộc sống con người và chống hiểm họa lũ lụt, sạt lở đất. Sử dụng có hiệu quả tài nguyên biển, không khai thác tận diệt nguồn lợi từ biển, bảo đảm Việt Nam mạnh lên từ biển, giàu lên từ biển.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc to lớn, nặng nề, phức tạp và rất vẻ vang. “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (3).

Làm theo tấm gương đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh là giải pháp quan trọng trong phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. V.I.Lênin là lãnh tụ vì dân “Ghét mọi quân thù, ghét mọi nước sơn/Suốt đời mang tấm áo dạ sờn/Đôi giày ống gót mòn sỏi đá” (Với Lênin-Tố Hữu). Hồ Chí Minh: “Một đời thanh bạch, chẳng vàng son/Mong manh áo vải, hồn muôn trượng/Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”. “Nâng niu tất cả, chỉ quên mình” (Bác ơi-Tố Hữu). Trong đấu tranh chống sự hư hỏng, tiêu cực, chỉ có thấm nhuần đạo đức cách mạng mới thành công vững bền./.
Yêu nước ST.

 QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỮNG MẠNH VỀ CHÍNH TRỊ, TINH GỌN, MẠNH, TIẾN LÊN HIỆN ĐẠI

Ban Tuyên giáo Trung ương vừa ban hành Hướng dẫn số 160-HD/BTGTW tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22.12.1944 - 22.12.2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22.12.1989 - 22.12.2024). 

Theo đó, chủ đề tuyên truyền là "Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tinh gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Mục đích nhằm tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về lịch sử vẻ vang 80 năm xây dựng và phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam; vị trí, vai trò, tầm quan trọng của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và thành tựu to lớn của 35 năm xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

Khẳng định sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và trong sự trưởng thành, chiến đấu, chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

 Thông qua các hoạt động tuyên truyền kỷ niệm nhằm khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức phấn đấu, nỗ lực vượt qua khó khăn, thi đua hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị năm 2024, chào mừng ngày lễ lớn của đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Theo đó, các hoạt động tuyên truyền, kỷ niệm được tổ chức bằng nhiều hình thức phù hợp, bảo đảm trang trọng, thiết thực, hiệu quả, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế, đúng quy định hiện hành và hướng tới nhân dân, để nhân dân được thụ hưởng; đồng thời lồng ghép với việc tuyên truyền triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, các phong trào thi đua yêu nước, các sự kiện chính trị của đất nước, ban, bộ, ngành, địa phương, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong toàn Đảng và xã hội.

QĐND

 THANH NIÊN QUÂN ĐỘI TÍCH CỰC THAM GIA ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG 

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, thực sự đã làm thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có những tác động lớn tới nhận thức và hành động của thế hệ trẻ. Việc tham gia vào các trang mạng xã hội của giới trẻ nhằm mục đích giải trí, chia sẻ và trao đổi thông tin, giao lưu, kết nối đã trở nên phổ biến. Việc sử dụng internet có nhiều tiện ích to lớn trong đời sống hiện đại. Thế nhưng nếu chủ quan, đơn giản, thế hệ trẻ rất dễ bị “lạc lối” trên mạng xã hội; nguy hiểm hơn internet đã gián tiếp phát tán những thông tin xấu độc, hoặc rò rỉ thông tin bí mật Nhà nước, bí mật an ninh - quốc phòng gây hại cho cộng đồng.

Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch ra sức dụ dỗ, lôi kéo một bộ phận thanh niên thực hiện theo ý đồ mà chúng đã sắp đặt; bằng các thủ đoạn tinh vi và các phương tiện hiện đại, nhất là mạng internet với các dịch vụ trực tuyến đa dạng như: các Website, Email, Facebook, Zalo, Twitter, Youtube, MySpace,… các thế lực phản động ra sức xuyên tạc, bóp méo sự thật, tuyên truyền lôi kéo làm cho thanh niên Việt Nam nói chung, thanh niên quân đội nói riêng xa rời Đảng, xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi ngược lại mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; ra sức truyền bá hệ tư tưởng giai cấp tư sản, truyền bá văn hóa, lối sống thực dụng vị kỷ cho thanh niên dẫn đến nhận thức sai lệch về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhằm định hướng cho cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp trong việc sử dụng internet, Bộ Quốc phòng đã có Thông tư 110/2014/TT-BQP ngày 22 tháng 8 năm 2014 về Quy chế quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet trong Quân đội nhân dân Việt Nam; Thông tư số 202/2016/TT-BQP ngày 12 tháng 12 năm 2016 của Bộ Quốc phòng quy định về bảo đảm an toàn thông tin trong Quân đội nhân dân Việt Nam; Công điện số 100/Đ-CT, ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam về tăng cường quản lý, bảo đảm an toàn trước các thông tin, hình ảnh, clip xuyên tạc, chống phá Quân đội. Tuy nhiên, khi sử dụng internet một số cán bộ, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, nhất là thanh niên quân đội vẫn còn có những hạn chế như: Bản lĩnh chính trị của một bộ phận thanh niên chưa cao; kỹ năng sử dụng internet an toàn còn yếu; còn biểu hiện chủ quan, sơ hở trong sử dụng các thiết bị điện tử thông minh tham gia mạng xã hội và internet để kẻ xấu lợi dụng chống phá. Đặc biệt, nhiều bạn trẻ hiện nay còn “lơ mơ” chưa nhận biết rõ “đối tượng”, “đối tác” của cách mạng nước ta hiện nay, điều này rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo vào những “cạm bẫy”, dẫn tới sa ngã, thậm chí bị “vô hiệu hóa” mất tinh thần đấu tranh, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Do đó, tổ chức Đoàn các cấp trong quân đội cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đoàn viên thanh niên về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Chủ động nắm, quản lý, dự báo, thông tin định hướng tư tưởng cho cán bộ, đoàn viên thanh niên trước các thông tin xấu độc, ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội.

Cấp ủy và người chỉ huy các cơ quan, đơn vị phải luôn xác định nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng internet là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chủ động, tích cực ngăn chặn, đẩy lùi và bác bỏ các thông tin sai trái, độc hại do các thế lực thù địch gây ra. Thực hiện tốt “4 không”: Không nghe, không xem, không đọc, không tin những thông tin sai trái, bịa đặt, xuyên tạc. Đồng thời, kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn đơn vị thống nhất trong nhận thức và hành động không để những thông tin xấu độc lan truyền, tạo dư luận không tốt trong đơn vị. Chỉ đạo lực lượng chuyên sâu đẩy mạnh đấu tranh, viết bài, chia sẻ, bình luận, lan tỏa thông tin tích cực trên không gian mạng; tăng cường đấu tranh trước các luận điệu chống phá Quân đội của các thế lực thù địch; tuyên truyền sâu rộng bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, những tấm gương bình dị, cao quý, hành động dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ, gương người tốt, việc tốt…


Tăng cường công tác quản lý internet và các trang mạng xã hội, hạn chế thấp nhất tác động xấu tới thanh niên. Hiện nay, nhu cầu khai thác thông tin trên internet của giới trẻ ngày càng nhiều, nội dung, mục đích cũng rất phong phú, đa dạng và nhiều chiều. Hơn nữa, các phương tiện tiếp nhận thông tin cũng ngày càng phát triển theo hướng hiện đại, tinh vi, khó kiểm soát. Vì vậy, cấp ủy, chỉ huy các cấp thường xuyên tổ chức quán triệt, giáo dục cho cán bộ, đoàn viên thanh niên các chỉ thị, thông tư, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân đội, Quân khu về quản lý, khai thác sử dụng mạng internet và bảo mật mạng thông tin điện tử; nêu cao tinh thần cảnh giác, giữ gìn bí mật nhà nước, bí mật quân sự khi khai thác, sử dụng internet và tham gia các trang mạng xã hội. Tổ chức đăng ký, thống kê, quản lý chặt chẽ những trường hợp máy tính có kết nối mạng internet./.


Báo Quân khu 3

 Giá trị của Cách mạng Tháng Tám đối với thế hệ trẻ hiện nay 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đưa dân tộc Việt Nam lên một vị trí mới với những ý nghĩa về chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc. Cuộc cách mạng ấy đã để lại nhiều giá trị và bài học vô cùng quý giá đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay và trong tương lai, mà thế hệ trẻ là những người gánh vác trọng trách quan trọng.

🔥Thứ nhất, giáo dục cho thế hệ trẻ kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Đây là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, trong đó Cách mạng Tháng Tám năm 1945 được xem là điểm xuất phát của một thời kỳ cách mạng mới đấu tranh cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thế hệ trẻ Việt Nam là những người viết tiếp những trang sử vàng truyền thống của dân tộc, tiếp nối thực hiện nhiệm vụ xây dựng thành công xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, tạo thành dòng chảy liên tục của lịch sử dân tộc.

Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ trung thành, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để thế hệ trẻ có niềm tin khoa học vững chắc, niềm tự hào dân tộc tiếp thêm động lực đưa cách mạng nước ta đi đến mục tiêu cuối cùng. Thế hệ trẻ cần nhận thức sâu sắc truyền thống dân tộc, những hy sinh, mất mát không gì so sánh được của đồng bào, đồng chí, chiến sĩ trong đấu tranh cách mạng; sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, Bác Hồ trong xác định đường lối, phương hướng, mục tiêu cách mạng đúng đắn cùng phương pháp đấu tranh linh hoạt, phù hợp từng thời kỳ cách mạng để đánh đuổi đế quốc, lật đổ chế độ phong kiến tay sai…, từ đó không ngừng đổi mới sáng tạo, phấn đấu vươn lên đóng góp tích cực trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn chứng minh sự lựa chọn đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào giải quyết vấn đề dân tộc và thuộc địa. Vì thế, cần giáo dục cho thế hệ trẻ nhận thức sâu sắc rằng, để có được thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, đúc kết những kinh nghiệm của cách mạng thế giới để lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt Nam và cho đến nay thực tế đã chứng minh đó là con đường duy nhất đúng. Tuy vậy, các phần tử phản động, thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của chúng ta, thậm chí, một số người đã “trở cờ”, trắng trợn phủ nhận thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Hơn lúc nào hết, thế hệ trẻ cần có bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng noi gương các thế hệ cha anh đi trước, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc Việt Nam, bằng những luận cứ, luận chứng thuyết phục, khẳng định giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam - cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân để tiến lên một nấc thang mới trong tiến trình phát triển của dân tộc và nhân loại.


🔥Thứ hai, giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường của dân tộc

Truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường của dân tộc được hội tụ và kết tinh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(3). Thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay tự hào mang trong mình truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần bất khuất, ý thức độc lập và tự cường dân tộc. Truyền thống đó là giá trị mà biết bao thế hệ người Việt Nam đã dày công vun đắp, tạo ra những giá trị bất diệt, là nguồn lực nội sinh để phát triển đất nước. Truyền thống yêu nước đó cần được  thế hệ trẻ hôm nay thể hiện bằng việc ra sức đóng góp công sức, trí tuệ để góp phần xây dựng quê hương, đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


🔥Thứ ba, giáo dục cho thế hệ trẻ truyền thống đoàn kết dân tộc, lao động sáng tạo của con người Việt Nam


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã cho thấy những giá trị của tinh thần đoàn kết dân tộc, khắc phục khó khăn, cần cù sáng tạo, đồng tâm hiệp lực để đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Trong Cách mạng Tháng Tám, ở thời điểm khó khăn nhất, toàn thể dân tộc Việt Nam đã phát huy tinh thần đoàn kết, nhất tề đứng dậy khởi nghĩa giành lấy chính quyền trong toàn quốc. Trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(4). Những giá trị đó hiện nay cần tiếp tục được khơi dậy và nhân lên gấp bội, khi một dân tộc đã đoàn kết một lòng thì sẽ làm được những điều to lớn, phi thường. Sự sáng tạo thể hiện ở tư duy và tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đánh giá tình hình, phân tích điều kiện khách quan và phát huy nhân tố chủ quan trong việc nhận định những mâu thuẫn, chớp thời cơ cách mạng lãnh đạo nhân dân, kiên trì thực hiện chủ trương “khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa” giành thắng lợi trên phạm vi toàn quốc. Thế hệ trẻ hôm nay cần phát huy tinh thần đổi mới sáng tạo, không ngừng học tập, rèn luyện làm giàu tri thức, sẵn sàng gánh vác trọng trách chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu "đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(5).


🔥Thứ tư, giáo dục cho thế hệ trẻ tinh thần nhân văn, nhân đạo, hòa hiếu của dân tộc Việt Nam

Vận dụng linh hoạt, sáng tạo về phương pháp cách mạng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phản ánh sâu sắc bản chất nhân văn của con người Việt Nam. Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tên nhiều nhân sĩ, trí thức, có cả quan chức cấp cao trong triều đình Huế và chính phủ Trần Trọng Kim đã cho thấy bản chất nhân văn, nhân đạo, hòa hiếu “không đối đầu” vì mục tiêu, nhiệm vụ chung của cách mạng, của dân tộc. Đây là bài học lớn cho thế hệ trẻ hôm nay, nhất là trong quá trình hội nhập quốc tế cần ứng xử, giải quyết hài hòa các mối quan hệ với các nước và cộng đồng quốc tế, tăng cường tạo dựng lòng tin, không ngừng nâng cao hình ảnh, uy tín, vị thế của Việt Nam nhằm góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định xây dựng và phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng.

Nguồn: QĐND

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐẠI TƯỚNG PHAN VĂN GIANG LÝ GIẢI QUY ĐỊNH SĨ QUAN CẤP TƯỚNG TRONG QUÂN ĐỘI NGHỈ HƯU Ở TUỔI 60!

         Sáng 5-11, sau khi nghe các đại biểu phát biểu thảo luận, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam quy định hạn tuổi cao nhất của sĩ quan phục vụ tại ngũ theo cấp bậc quân hàm như sau: Cấp úy: 50; Thiếu tá: 52; Trung tá: 54; Thượng tá: 56; Đại tá: 58; Cấp tướng: 60.

Trong điều kiện thời bình, Quân đội vẫn có cường độ lao động đặc biệt, vẫn phải rèn quân, rèn cán
Trước một số ý kiến của đại biểu liên quan đến việc tăng tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan như trên, nhất là quân hàm cấp úy, Đại tướng Phan Văn Giang cho biết: Luật hiện hành hiện quy định tuổi nghỉ hưu của cấp úy trước đây là 46 tuổi, nay nâng lên 50 tuổi.

“Sĩ quan sau khi ra trường khoảng 10-12 năm sẽ mang quân hàm Đại úy. Trường hợp 50 tuổi mới mang quân hàm Đại úy cơ bản không có, song vẫn phải quy định vào luật để nếu gặp trường hợp này thì có quy định để xử lý”, Bộ trưởng Phan Văn Giang nói.

Ngoài ra, cũng theo Bộ trưởng Phan Văn Giang, Quân đội có nhiều nhóm ngành sĩ quan như: Sĩ quan chỉ huy, sĩ quan chính trị, sĩ quan hậu cần, chuyên môn kỹ thuật và một số nhóm ngành sĩ quan khác. Bộ trưởng Phan Văn Giang cho biết, trong điều kiện thời bình, Quân đội vẫn có cường độ lao động đặc biệt, vẫn phải rèn quân, rèn cán để đến khi có tình huống thì có thể xử lý được. Mặt khác, cường độ rèn luyện cũng như yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật cũng ngày phải càng cao hơn mới đáp ứng được yêu cầu trong thực tiễn.

"Quan điểm của chúng tôi vẫn phải là "Nuôi quân 3 năm, dùng 1 giờ", do đó, trong thời bình cũng phải rèn quân để đến khi có tình huống thì phải xử lý được. Nếu chúng ta lơi lỏng thì đến lúc có tình huống lại không xử lý được. Cường độ huấn luyện cũng phải ngày càng cao, nhất là về chuyên môn, kỹ thuật", Bộ trưởng Phan Văn Giang nhấn mạnh.

Trước đó, tại phiên thảo luận tổ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Phan Văn Giang cho biết, cấp úy nhập ngũ năm 18 tuổi, hết tuổi phục vụ tại ngũ là 50 thì mới đóng bảo hiểm xã hội được 32 năm, đến khi nghỉ hưu thì được 33 năm, còn thiếu 2 năm mới đạt mức lương hưu tối đa.

“Nhưng thực ra trong Quân đội hầu như không có trường hợp nghỉ hưu ở cấp úy. Có những trường hợp bất đắc dĩ lắm mới nghỉ hưu ở Đại úy”, Đại tướng Phan Văn Giang nói. Mặt khác, tuổi phục vụ tại ngũ của Thiếu tá theo quy định hiện hành là 48, dự thảo luật đề nghị tăng lên 52. Như vậy, Thiếu tá có 34 năm phục vụ trong Quân đội, nghỉ chờ 1 năm là đủ 35 năm.

Giữ tuổi nghỉ hưu của cấp tướng ở 60 tuổi
Trước ý kiến đại biểu đề nghị nâng độ tuổi tại ngũ của sĩ quan cấp tướng, vì đây là cấp tinh hoa của Quân đội và của đất nước, Bộ trưởng Phan Văn Giang cho biết, cơ quan chủ trì soạn thảo cũng bàn bạc nhiều về vấn đề này. 

Bộ trưởng Phan Văn Giang nêu rõ: Nếu kéo dài độ tuổi cấp tướng lên 62 tuổi, trong khi cấp Đại tá nghỉ hưu ở 58 tuổi, nghĩa là tuổi nghỉ hưu chênh nhau 4 tuổi.

“Như vậy, cấp tá không lên được tướng; trong khi Quân đội còn rất nhiều cấp bậc, chức vụ khác nhau”, Bộ trưởng Phan Văn Giang nói và xin giữ nguyên như dự thảo luật về độ tuổi nghỉ hưu của cấp tướng là 60 tuổi.

Theo Bộ trưởng Phan Văn Giang, cấp tướng đúng là tinh hoa, nhưng có những đồng chí Đại tá cũng tinh hoa không kém. Do vậy, nếu nâng tuổi phục vụ tại ngũ của cấp tướng lên 62 thì cấp Đại tá không còn đủ tuổi lên tướng.

Cuối cùng, thay mặt cho cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ trưởng Phan Văn Giang xin tiếp thu tối đa các ý kiến của các đại biểu, hoàn chỉnh dự thảo luật; bày tỏ mong muốn các đại biểu ủng hộ dự án luật, biểu quyết thông qua để bảo đảm Quân đội thực hiện nhiệm vụ nhanh nhất, sớm nhất./.
Theo QĐND
Yêu nước ST.