Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

Tăng cường giáo dục “liêm”, “chính” theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đối với cán bộ, đảng viên hiện nay.

 Uy tín của Đảng và lòng tin của nhân dân với Đảng gắn liền với sự tu dưỡng và gương mẫu thực hành đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần gương mẫu thực hành “Liêm”, “Chính”, góp phần quan trọng củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bài viết làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về “Liêm”, “Chính” trong đạo đức cách mạng, sự vận dụng của Đảng ta và giải pháp tăng cường giáo dục “Liêm”, “Chính” cho cán bộ, đảng viên hiện nay. Bài viết đạt giải Triển vọng Cuộc thi chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ tư, năm 2024.

Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW
Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”_ Ảnh:danvan.vn

1. Mở đầu

Qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay. Thực tế cho thấy, trong từng lĩnh vực công tác, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã gắn việc tu dưỡng “Liêm”, “Chính” trong “tứ đức” (Cần, Kiệm, Liêm, Chính) gắn với nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đặc biệt phải tự soi mình và nhận diện 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Từ đó, góp phần xây dựng những giá trị đạo đức tốt đẹp trong xã hội, thúc đẩy các phong trào thi đua lao động sáng tạo, nhằm tạo động lực đưa công cuộc đổi mới vượt qua những khó khăn, thách thức mới, tiếp tục giành được những thành tựu mới và không ngừng củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về “Liêm”, “Chính”

Hồ Chí Minh quan niệm: “Liêm” là “trong sạch, không tham lam”(1), “luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của nhân dân”(2), “không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”(3).

Trái với “Liêm” là “Bất Liêm”. Người cho rằng: “Công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp”(4). Sự “Bất Liêm” có vô vàn biểu hiện trong thực tế, như: “Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là BẤT LIÊM”(5). Vì lẽ, tham tiền dẫn đến việc đục khoét của dân, trộm cắp của công, buôn gian bán lận, đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lãi, cờ bạc, trộm cắp,...; tham danh vọng, địa vị dẫn đến việc dìm người giỏi, mua bán danh vị, nịnh trên, nẹt dưới; tham nhàn dẫn đến việc ngại khó, sợ khổ, đùn đẩy công việc cho người khác, nhưng khi có công thì tranh, khi có tội thì đổ vấy; tham sống dẫn đến sự hèn nhát, gặp giặc không dám đánh, thấy việc nghĩa không dám làm.

Theo Người, cán bộ “có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân”(6). Người nhấn mạnh: “Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét dân, thì gọi là LIÊM, chữ liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp... Ngày nay, nước ta là Dân chủ Cộng hòa, chữ LIÊM có nghĩa rộng hơn; là mọi người đều phải LIÊM”(7); nghĩa là mọi người đều phải trong sạch, không tham lam. Sự thực hành chữ “Liêm” như vậy sẽ giúp tất cả mọi người, trước hết là cán bộ, đảng viên, tu dưỡng nhân cách phù hợp với sự cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của Đảng.

“Liêm”, về nguyên tắc, luôn gắn liền với “Chính”. Hồ Chí Minh định nghĩa: “Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn. Điều gì không đứng đắn, thẳng thắn, tức là tà”(8). Người còn giải thích, trên quả đất có hàng muôn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai hạng: Người thiện và người ác; trong xã hội, có trăm công, nghìn việc, những công việc ấy có thể chia làm hai loại: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện. Làm việc tà là người ác.

Nói về “Chính” và mối quan hệ của “Cần, kiệm, liêm, chính”, Người chỉ dẫn: “CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải CHÍNH mới là người hoàn toàn”(9). Như vậy, dù “Chính” là hệ quả của “Cần, Kiệm, Liêm”, nhưng vẫn có tính độc lập tương đối, bởi nhiều khi có đủ “Cần, Kiệm, Liêm”, mà vẫn không thể “Chính”. Đức hạnh này đòi hỏi con người phải có sự chính trực, dũng cảm đấu tranh với cái xấu để bảo vệ lẽ phải; do đó, “Chính” là đức khó thực hiện nhất trong “tứ đức”, là sự biểu hiện tập trung nhất của nhân cách con người.

Người có đức “Chính” là người chính trực, đúng mực, công tâm, luôn hành động theo lẽ phải, kiên quyết bảo vệ lẽ phải, nên chính nghĩa có ý nghĩa quan trọng, vị trí rất lớn trong “tứ đức” (Cần, Kiệm, Liêm, Chính). Nói cách khác, “Chính” là chính tâm của nhân cách con người. Chính tâm thể hiện tâm hồn, tấm lòng, lương tâm, tâm trí của con người thẳng thắn, đúng đắn, sáng như tấm gương trong suốt. Chính tâm điều chỉnh bản thân cần trau dồi đạo đức, lối sống trong sáng và hướng đến chữ “Thiện”, tránh xa mọi sự thù hận, ích kỷ, đối với mình, với người và với việc.

“Chính” cũng có nghĩa gần với chân lý; việc gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân, thì đó là “Chính”, là chân lý. Việc gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân thì không phải là “Chính” và không phải là chân lý. Vì vậy, việc ra sức phụng sự Tổ quốc và nhân dân, tức là phụng sự chính nghĩa và chân lý.

“Liêm”, “Chính” được Hồ Chí Minh đặt lên vị trí hàng đầu trong giáo dục đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên xuất phát từ quan niệm hết sức độc đáo của Người về chính trị là: “1. Đoàn kết. 2. Thanh khiết từ to đến nhỏ”(10). Theo đó, có thể hiểu làm cách mạng, trước hết phải đoàn kết, mỗi cá nhân phải giữ “Liêm”, “Chính”, xem đó là giá trị đạo đức cao quý của con người cách mạng, là thước đo danh dự trong đời sống xã hội mới. Suy rộng ra, một đảng chân chính muốn lãnh đạo cách mạng thành công, phải hội tụ được những phẩm chất đạo đức “Liêm”, “Chính” để “Đảng ta là đạo đức, là văn minh” nhằm bảo đảm nền chính trị thanh khiết trong quá trình lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Tháng 3-1947, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thi đua xây dựng đời sống mới: “Cần, kiệm, liêm, chính”. Để giáo dục cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng, tháng 6-1949, Hồ Chí Minh viết tác phẩm Cần, Kiệm, Liêm, Chính, trong đó Người chỉ rõ “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” là bốn đức tính cốt lõi của người cách mạng, như:

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa, thì không thành trời.

Thiếu một phương, thì không thành đất.

Thiếu một đức, thì không thành người”(11).

Tiếp đó, trong tác phẩm Đạo đức cách mạng, đăng trên Tạp chí Học tập, số tháng 12-1958, với dự cảm về những nảy sinh phức tạp tác động đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và trăn trở trước yêu cầu mới của tình hình cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo tổ chức một đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng, nhằm nâng cao đạo đức cách mạng. Người khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(12). Vì vậy, thực hành đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên phải là kết quả của quá trình tự giác ngộ, tu dưỡng, rèn luyện kết hợp với giáo dục, bồi dưỡng thường xuyên của tổ chức mới đạt được.

Hồ Chí Minh cho rằng, để giáo dục cán bộ, đảng viên trở thành người cách mạng chân chính phải ghi nhớ năm điều “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” theo nguyên tắc: “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”(13).

Để tu dưỡng, rèn luyện “Liêm”, “Chính”, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực hành đạo đức thông qua ba mối quan hệ: a/ Đối với mình: Chớ tự kiêu, tự đại, phải khiêm tốn, luôn chịu khó học tập, thường xuyên tự phê bình và phê bình để mau tiến bộ. b/ Đối với người: Chớ nịnh hót người trên; Chớ xem khinh người dưới, luôn có thái độ chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết, phải thực hành chữ Bác - Ái. c/ Đối với việc: Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà; đã phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn, nguy hiểm; việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh(14). Con đường tu dưỡng là, mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân, bởi trong tiền đồ chung đều có tiền đồ riêng của mỗi người. “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”(15).

3. Sự vận dụng của Đảng hiện nay

Việc thực hành “Liêm”, “Chính” không chỉ giúp người cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa, tự rèn mình mà còn tạo ra sức mạnh mềm của tổ chức đảng và của cả dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi theo Hồ Chí Minh, “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”(16).

Thực tế cho thấy uy tín của Đảng cầm quyền, của mỗi cán bộ, đảng viên và lòng tin của nhân dân với Đảng gắn liền với sự tu dưỡng và gương mẫu thực hành đạo đức cách mạng, cho nên, nếu mỗi cán bộ, đảng viên chỉ biết nói lời hay, ý đẹp nhưng không gương mẫu thực hành “Liêm”, “Chính” thì cũng không thể có sức hấp dẫn, quy tụ, lãnh đạo được nhân dân. Vì thế, thực hành “Liêm”, “Chính” không chỉ là yêu cầu cần thiết trong tu dưỡng đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên mà còn là biện pháp quan trọng, không thể thiếu để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Tuy nhiên, trong điều kiện tác động của cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, bên cạnh những tấm gương “Liêm”, “Chính”, vẫn có không ít cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống, thiếu trách nhiệm trước nhiệm vụ, chức trách được giao; sa vào quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cục bộ, bè phái, chạy chức chạy quyền, vi phạm kỷ luật đảng, thậm chí có những trường hợp vi phạm pháp luật phải xử lý hình sự. Những “con sâu mọt” ấy đã làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, làm suy yếu tổ chức đảng và năng lực cầm quyền, lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Do vậy, cần tăng cường giáo dục “Liêm”, “Chính” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

4. Giải pháp tăng cường giáo dục “Liêm”, “Chính” cho cán bộ, đảng viên

Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên và nhân dân về “Liêm”, “Chính”.

Công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên, trong bối cảnh tình hình mới, cần chú trọng giáo dục phẩm chất “Liêm”, “Chính” nhằm hình thành niềm tin, động cơ đúng đắn để thực hiện hành vi đạo đức cách mạng trước những cám dỗ vật chất. Giáo dục phẩm chất “Liêm”, “Chính” có vai trò quan trọng, mấu chốt trong việc chuyển hóa những nguyên tắc, quy phạm, chuẩn mực đạo đức cách mạng thành hành động tự giác của cá nhân cán bộ, đảng viên. Do đó, phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng, chính sách, pháp luật; thường xuyên giáo dục nâng cao ý thức thực hành “Liêm”, “Chính” đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cấp ủy viên.

Gắn thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị khoá XIII “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”” với thực hiện NQTƯ 4 khóa XII (năm 2016) và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII (năm 2021) theo hướng nhấn mạnh một số nội dung mới. Đó là, mở rộng phạm vi, không chỉ xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả xây dựng hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (năm 2021); cùng với ngăn chặn, đẩy lùi thì phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực; bổ sung, làm rõ hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “tiêu cực” sát hợp tình hình mới.

Trong đó, nhấn mạnh sự nguy hiểm của biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh.

Những điểm nhấn này là đột phá quan trọng để cán bộ, đảng viên tự soi, tự sửa, tự tu dưỡng đạo đức cách mạng “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”; và đây cũng là việc làm thường xuyên, liên tục của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và của cả hệ thống chính trị.

Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thực hành “Cần, Kiệm, Liêm, Chính” cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong Đảng và trong xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo hướng cụ thể, thiết thực, gắn liền với các tiêu chí thi đua, đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên ở mỗi cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.

Cần xây dựng một số chuyên đề về “Liêm”, “Chính” gắn với pháp luật theo hướng thiết thực để giáo dục cán bộ, đảng viên, nhằm góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở. Thông qua đó, xây dựng tác phong, lề lối làm việc “Liêm”, “Chính”, tận tụy phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tại các cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp phù hợp với chức trách, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể.

Hai là, nêu cao trách nhiệm gương mẫu, thực hành nghiêm túc, thực chất đạo đức “Liêm”, “Chính” của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.

Theo Hồ Chí Minh, phải làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rằng “tham lam là một điều rất xấu hổ, kẻ tham lam là có tội với nước, với dân”(17). Nếu cán bộ giữ được đức “Liêm”, “Chính” thì họ không chỉ mang lại điều lợi cho dân, cho nước, điều ích cho Đảng mà chính họ cũng có lợi ích lâu bền.

Cần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ thường kỳ, sinh hoạt chuyên đề về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” với những nội dung thiết thực, để cán bộ, đảng viên nhận thức đúng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ sở, sát với chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên.

Để được kính trọng, người cán bộ, đảng viên, trước nhất là người đứng đầu, phải là tấm gương về “Liêm”. Cán bộ lãnh đạo, quản lý mà không liêm, phạm vào các thói hư như tham ô, tư lợi bất chính, lãng phí... thì bản thân “Bất Liêm” và không mang lại niềm tin cho quần chúng, làm suy yếu nội bộ Đảng và xã hội. Cho nên, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn gương mẫu trong công tác và trong sinh hoạt hằng ngày; tự tu dưỡng, rèn luyện bằng cách tự phê bình. Cán bộ, đảng viên với tư cách là những người lãnh đạo, quản lý phải là người tiên phong trong mọi hoàn cảnh. Tiên phong, gương mẫu đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải miệng nói, tay làm, thống nhất giữa lời nói và hành động; phải hết sức nghiêm túc thực hiện “Cần, Kiệm, Liêm, Chính”; kiên quyết đấu tranh với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,…

Để có phẩm chất và thực hành liêm chính, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức tự giác, tự tu dưỡng, rèn luyện, tận tâm, tận lực cống hiến trí tuệ, sức lực cho Đảng, phụng sự đất nước và phục vụ nhân dân, thực hành “Liêm”, “Chính”. Mặt khác, mỗi cán bộ, đảng viên phải biết và sẵn sàng sửa chữa khuyết điểm. Về cách sửa chữa, theo Hồ Chí Minh, là “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp đỡ nhau sửa chữa. Người đứng đầu phải đề cao trách nhiệm và sự gương mẫu thực hành “Liêm”, “Chính” trước, để làm kiểu mẫu cho cấp dưới, cho nhân dân. Bởi niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào Đảng luôn gắn liền với niềm tin vào người đứng đầu. Đảng lãnh đạo bằng “hành động gương mẫu của đảng viên”, niềm tin của dân phụ thuộc vào sự trong sạch, vững mạnh của Đảng và sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Ba là, phát huy vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân giám sát việc thực hành tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất “Liêm”, “Chính” của cán bộ, đảng viên.

Hiện nay, để rèn luyện phẩm chất “Liêm”, “Chính” của cán bộ, đảng viên, cần bổ sung, hoàn thiện cơ chế đồng bộ, cụ thể để phát huy hiệu quả vai trò giám sát của nhân dân đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ các cấp trong việc chấp hành, thực hiện Điều lệ Đảng, kỷ luật của Đảng, các quy định về thực hiện nêu gương, trong thực hành “Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” trong thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Các cấp ủy, chính quyền các cấp cần thực hiện một cách nền nếp và nghiêm túc việc lấy ý kiến phê bình, góp ý của nhân dân; và phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp thu, sửa chữa những khuyết điểm đã được nhân dân chỉ ra. Đối với những ý kiến chưa đúng, thì phải giải thích cho nhân dân hiểu. Coi trọng việc xây dựng cơ chế khuyến khích, động viên nhân dân thực hiện vai trò giám sát một cách tự nguyện, tự giác tại cơ quan công tác và địa bàn nơi cư trú. Thông qua đó, làm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành việc làm tự giác, hằng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, nhằm góp phần thiết thực vào xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Bốn là, thúc đẩy xây dựng văn hóa “Liêm”, “Chính” trong hoạt động công vụ.

Hiện nay, tình trạng cán bộ, đảng viên không “Liêm”, “Chính”, biểu hiện như: Tham nhũng, giấu giếm khuyết điểm, khoe khoang thành tích; lo lót, chạy chọt, mua bán bằng cấp, chức quyền; nói nhiều, làm ít; nói hay, làm dở; nói một đằng, làm một nẻo; “yêu nên tốt, ghét nên xấu”(18);... Việc xây dựng văn hóa “Liêm”, “Chính” giúp con người gột rửa chủ nghĩa cá nhân, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch. Do đó, cần kiên trì xây dựng văn hóa “Liêm”, “Chính” ở mọi lúc, mọi nơi, nổi bật là đề cao cơ chế kiểm soát, giáo dục và thực thi pháp luật từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Cần tăng cường kiểm soát những người có chức, có quyền, vì khi có quyền, dễ tận dụng cơ hội để đục khoét, để chiếm đoạt tài sản nhà nước, vi phạm “Liêm”, “Chính”.

Văn hóa “Liêm”, “Chính” là đặc trưng quan trọng của văn hóa cầm quyền, lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng nền chính trị thanh khiết theo quan điểm Hồ Chí Minh. Nó được biểu hiện trong hành vi ứng xử với người, với tổ chức và với công việc mà một cá nhân hoặc một nhóm người phải tuân thủ trong thực thi công vụ. Văn hóa “Liêm”, “Chính” được xây dựng dựa trên các nguyên tắc đạo đức, truyền thống văn hóa và quan điểm, định hướng chính trị của Đảng, Nhà nước, nhằm giúp mỗi người hoạt động trong hệ thống chính trị nhận thức rõ bổn phận, trách nhiệm và góp phần nâng cao chất lượng thực thi công vụ. Để cán bộ có chức, có quyền triệt để thực hiện “Liêm”, “Chính”, thực hành văn hóa “Liêm”, “Chính” thì cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; kịp thời nghiêm trị những kẻ gian dối; xây dựng phong trào sống và làm việc theo pháp luật, tuyệt đối tuân thủ pháp luật trong cán bộ, công chức, làm gương cho nhân dân noi theo.

5. Kết luận

Xây dựng và rèn luyện phẩm chất “Liêm”, “Chính” của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN, nhất là trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, là một trong những yếu tố nền tảng nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, thật sự là một Đảng cách mạng chân chính, là đạo đức, là văn minh. Thực hành “Liêm”, “Chính” không chỉ là yêu cầu cần thiết trong tu dưỡng đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên mà còn là biện pháp quan trọng, không thể thiếu để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện.

Nhận diện hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng Việt Nam

 

Đặc điểm cơ bản của những hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá Đảng và hệ thống chính trị nước ta 

Thứ nhất, về mục đích: Vấn đề dân tộc luôn là một “mắt xích” mà các thế lực thù địch thường xuyên nhắm tới và tìm mọi cách triệt để lợi dụng để chống phá ta. Việt Nam là đất nước đa dân tộc, đa văn hóa với 54 dân tộc anh em; các dân tộc đều bình đẳng với nhau, không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp; quyền lợi chính đáng của các dân tộc được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Thế nhưng, các đối tượng phản động, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách khoét sâu đặc điểm đa dân tộc của nước ta, làm sai lệch thông tin, bịa đặt, vu cáo rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm quyền của đồng bào dân tộc thiểu số; từ đó dụ dỗ, xúi giục, kích động đồng bào “ly khai”, gây bạo động, làm mất trật tự an ninh tại một số địa phương. Mục đích cuối cùng trong âm mưu, hành động của chúng là làm mất ổn định đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, xói mòn bản sắc văn hóa, băng hoại giá trị đạo đức cộng đồng các dân tộc Việt Nam; tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bôi nhọ hình ảnh Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, tạo cớ cho các thế lực bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của đất nước; phá hoại mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam với các quốc gia; hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị nước ta; từ đó, tìm cách lật đổ chế độ XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn và đang nỗ lực xây dựng.

Thứ hai, về tính chất và thời điểm: Trong những năm qua, âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch vô cùng đa dạng và ngày càng tinh vi, nguy hiểm, vừa công khai, vừa bí mật; diễn ra cả ở trong nước và nước ngoài, trên mọi lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thủ đoạn, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch hiện nay được thực hiện bằng nhiều biện pháp xảo trá, thâm độc, nhưng được che đậy, bao bọc một cách tinh vi, hòng làm cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số tin và làm theo.

Các phần tử phản động, thế lực thù địch sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau để chống phá ta. Một mặt, chúng âm thầm gây dựng lực lượng, bí mật tập huấn, đào tạo các kỹ năng tổ chức, tuyên truyền, dụ dỗ, xúi giục, kích động bạo lực. Mặt khác, chúng chờ đợi thời cơ, lựa chọn thời điểm có những “điểm nóng” về an ninh, các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, vào trước các kỳ Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, hoặc mỗi khi có chủ trương điều chỉnh, thay đổi chính sách phát triển kinh tế - xã hội; kể cả khi chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị đe dọa, là chúng đăng tải, phát tán thông tin xuyên tạc, bịa đặt... gây hoang mang trong nhân dân; tiến hành hoạt động khủng bố có tổ chức, được trang bị vũ khí; hành vi rất manh động, liều lĩnh tấn công cán bộ chính quyền địa phương, phá hoại trụ sở làm việc.

Nói cách khác, chúng triệt để kết hợp các thủ đoạn về an ninh truyền thống và phi truyền thống để chống phá ta, gây mất trật tự trị an ở nhiều khu vực, đặc biệt là những địa bàn trọng yếu về an ninh, quốc phòng như các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ.

Thứ ba, về nguyên cớ và chiêu bài: Các thế lực thù địch thường đánh tráo khái niệm, quan điểm về cái gọi là “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do” (nhất là tự do tôn giáo, tín ngưỡng), đánh tráo khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” với nội hàm là một quốc gia (nation-state) thành quyền của dân tộc với nội hàm là một tộc người (ethnic groups); hoặc đòi áp dụng các khái niệm từ phương Tây vốn không phù hợp với lịch sử các dân tộc ở nước ta như “dân tộc bản địa”; từ đó, tuyên truyền tư tưởng ly khai, tự trị trong vùng dân tộc thiểu số...

Tại các khu vực tập trung đông đồng bào dân tộc Mông, dân tộc Thái ở Tây Bắc; vùng dân tộc Giarai, Êđê ở Tây Nguyên; vùng dân tộc Chăm ở duyên hải Nam Trung Bộ; vùng dân tộc Khmer ở Tây Nam Bộ, chúng lợi dụng quan hệ đồng tộc xuyên biên giới, lôi kéo, xúi giục đồng bào vượt biên trái phép, thực hiện các hoạt động gây rối, phá hoại, chống phá chính quyền, tuyên truyền, kích động thành lập “nhà nước ly khai, tự trị”, chống phá cách mạng Việt Nam gây mất ổn định chính trị - xã hội.

Một chiêu bài khác của các thế lực thù địch là lợi dụng những vấn đề do lịch sử để lại, hoặc những khó khăn trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, khai thác những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội và trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước tại các địa phương để kích động, hướng lái đồng bào không tin vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chúng thúc đẩy nhiều chiến dịch tuyên truyền phản động, thổi phồng các vụ việc phức tạp, tiêu cực liên quan trong cộng đồng các dân tộc thiểu số, quy chụp mọi hạn chế là do sai lầm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị; từ đó, móc nối, lôi kéo, xúi giục hoạt động chống phá, gây mất ổn định chính trị - xã hội tại một số địa phương, nhất là vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn.

Đồng thời, chúng dùng tiền, lợi ích kinh tế để mua chuộc đồng bào, hứa hẹn viển vông về “một tương lai tốt đẹp”, lôi kéo đồng bào tham gia các tổ chức phản động, kết hợp với tăng cường phát triển lực lượng chống đối trong các dân tộc thiểu số nhằm âm mưu tiến hành các cuộc bạo động chống phá chính quyền, giết hại cán bộ và người dân vô tội, gây mất trật tự xã hội, làm hoang mang lòng dân và trực tiếp đe dọa an ninh chính trị của đất nước.

Ngoài ra, các thế lực thù địch còn lợi dụng những khác biệt về văn hóa, đời sống tâm lý, tín ngưỡng, tôn giáo, thói quen, tập quán sản xuất,... giữa các dân tộc thiểu số để gây chia rẽ, kích động hằn thù, xung đột trong cộng đồng các dân tộc nước ta... Chiêu bài chúng sử dụng nhiều nhất trong các hoạt động chống phá an ninh trên lĩnh vực dân tộc ở nước ta là kết hợp lợi dụng vấn đề dân tộc với lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Lợi dụng tình trạng một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp khó khăn, thiếu thốn về kinh tế, trình độ dân trí còn hạn chế, phong tục tập quán lạc hậu, các thế lực thù địch đã lập ra nhiều tổ chức núp bóng tôn giáo để tập hợp, lôi kéo đồng bào; dùng thần quyền, giáo lý chi phối họ tham gia các hoạt động chống Đảng, Nhà nước; thực hiện âm mưu “tôn giáo hóa vùng dân tộc thiểu số”.

Các thế lực thù địch tuyên truyền, lôi kéo lực lượng để lập ra cái gọi là “tôn giáo riêng” cho một số đồng bào dân tộc thiểu số như: “Tin lành Đêga”, “Tin lành đấng Christ Tây Nguyên” (UMCC); “Tin lành riêng của người Mông”, “Phật giáo riêng của người Khmer”... Từ đó, lợi dụng tôn giáo như một công cụ tinh thần để khống chế đồng bào, xây dựng tổ chức phản động và lực lượng đối lập, gây mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc nhằm ly khai, lập khu tự trị, lập “tôn giáo riêng”, “nhà nước riêng” ở một số vùng trọng điểm chiến lược. Đồng thời, chúng móc nối với các phần tử cực đoan ở một số quốc gia, tổ chức các cuộc điều trần, họp báo, ra tuyên bố, xuyên tạc, bóp méo tình hình tôn giáo, nhân quyền ở các vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam, gây sức ép, làm giảm uy tín quốc tế, cản trở quá trình hội nhập quốc tế của nước ta.

Bên cạnh đó, các phần tử phản động tìm cách câu kết, móc nối, “lợi dụng” các tổ chức phản động người Việt lưu vong để kêu gọi ủng hộ, cung cấp tiền bạc, vũ khí, tài liệu cho các hoạt động chống phá Đảng và hệ thống chính trị nước ta. Đồng thời, ra sức lợi dụng không gian mạng xã hội tiến hành đào tạo trực tuyến, chỉ đạo số cầm đầu trong nước hoạt động chống phá bằng nhiều hình thức, củng cố, phát triển lực lượng, xúi giục đồng bào trốn ra nước ngoài; thu thập, cắt ghép, xuyên tạc, bịa đặt thông tin, tài liệu về dân chủ, nhân quyền, nhất là thông tin về quyền của các dân tộc thiểu số, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng gửi ra nước ngoài để vu cáo Việt Nam phân biệt đối xử, đàn áp người dân tộc thiểu số trên các diễn đàn quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ của các thế lực thù địch quốc tế để chống phá nước ta.

Thứ tư, về phạm vi thực hiện: Các thế lực thù địch ngày càng mở rộng mạng lưới và địa bàn hoạt động, không chỉ trên lãnh thổ Việt Nam mà còn ở cả nước ngoài.

Ở trong nước, các thế lực thù địch triệt để tận dụng, khai thác mọi “kẽ hở” nhằm tạo ra những mâu thuẫn trong cộng đồng dân tộc để thực hiện chống phá cách mạng Việt Nam về vấn đề dân tộc trên chính địa bàn đồng bào đang sinh sống, coi đó là điểm xuất phát trong thực hiện âm mưu lâu dài của chúng.

Khu vực đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta thường là vùng giàu tài nguyên, vùng đầu nguồn của các con sông lớn, vùng đệm các rừng đặc dụng các khu sinh thái, vùng đặc trưng văn hóa, vùng biên cương - là những vùng kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn. Đây đều là những địa bàn trọng yếu, nhạy cảm, có sự đa dạng về thành phần tộc người và tôn giáo, từ miền núi phía Bắc (đặc biệt là khu vực Tây Bắc) đến miền Tây Thanh Hóa - Nghệ An, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.

Ở nước ngoài, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức phản động như “Hội người Mông quốc tế”, “Liên hiệp người Mông tự trị”, “Văn phòng Chămpa quốc tế”, “Hội người Khmer - Krum”... Theo thống kê, cộng đồng người Mông ở Mỹ đã hình thành hơn 160 tổ chức, hội nhóm ở 25 bang. Điển hình là các tổ chức “Phát triển quốc gia Mông” (H’Mong National Development - Inc-HND); “Mặt trận giải phóng thống nhất người Mông” (H’Mong United Liberation Front)... Các tổ chức này đều tập hợp các phe phái, hội nhóm người Mông, kêu gọi thành lập “nhà nước Mông”, thông qua Hội người Mông quốc tế, xác định cương lĩnh xây dựng “nhà nước” của dân tộc Mông(1)... Các tổ chức này vừa tập hợp, phát triển lực lượng là người các dân tộc thiểu số đang sinh sống ở ngoài nước, vừa hỗ trợ móc nối phát triển lực lượng ở trong nước; đồng thời tìm cách gây áp lực chống phá cách mạng Việt Nam dưới nhiều hình thức.

Thứ năm, về tổ chức và lực lượng: Các thế lực thù địch ráo riết xây dựng các tổ chức phản động ở vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam. Tổ chức của chúng thường được xây dựng từ lực lượng Việt kiều phản động, cực đoan; hoặc liên kết chặt chẽ với các tổ chức phản động của nước ngoài. Đó là các tổ chức như: “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc (do các thế lực thù địch trong và ngoài nước thành lập, kích động đồng bào Mông ở các tỉnh khu vực Tây Bắc di cư tự do vào các tỉnh Tây Nguyên và di cư sang Lào thành lập nhà nước riêng), “Mặt trận giải phóng Khmer - Krum” ở Tây Nam Bộ, “Mặt trận Chămpa” ở miền Trung...

Một trong những tổ chức chống phá ta quyết liệt là FULRO (viết tắt của “Mặt trận thống nhất đấu tranh của các chủng tộc bị áp bức”), chúng đã dùng nhiều thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gieo rắc tư tưởng ly khai, âm mưu thành lập “Nhà nước Đêga tự trị”, tạo cớ để nước ngoài can thiệp chống phá Việt Nam... Mặc dù FULRO đã bị xóa sổ, nhưng tàn dư của nó vẫn chưa chấm dứt và luôn tìm cách tạo ra những “điểm nóng” trong “vấn đề Tây Nguyên”; chúng không ngừng cấu kết với các phần tử cực đoan, tổ chức phản động trong và ngoài nước tuyên truyền, kích động gây hận thù dân tộc, sẵn sàng nổi dậy gây bạo loạn, tập kích vũ trang khi có thời cơ.

Trong những năm gần đây, xuất hiện nhóm “Người Thượng vì công lý - MSFJ” giả danh “thúc đẩy hòa bình và bảo vệ quyền con người của những người bị áp bức tại Tây Nguyên”, thực chất đây là nhóm đối tượng lợi dụng tình cảm đồng bào huyết thống để xúi giục, kích động người dân tộc thiểu số chống phá chính quyền, chà đạp lên sự bình yên, ổn định của quốc gia - dân tộc để nhận về những đồng USD “tài trợ” cùng những lời hứa mờ mịt về cái gọi là “tương lai hạnh phúc” ở trời Tây(2). Hầu hết các tổ chức phản động lợi dụng vấn đề dân tộc đều được thế lực nước ngoài hậu thuẫn trên mọi phương diện.

Các âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch hiện nay vô cùng phức tạp, không chỉ là vấn đề nội bộ đất nước mà liên quan với yếu tố nước ngoài. Vì vậy, để đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn đó, bên cạnh việc tăng cường biện pháp về kinh tế, xã hội, văn hóa - tư tưởng, pháp lý, quốc phòng, an ninh, cần kết hợp với biện pháp ngoại giao để tạo ra một hệ thống giải pháp toàn diện, căn cốt trong xử lý, giải quyết vấn đề dân tộc nhằm bảo đảm sự ổn định chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.

St

 

Không thể xuyên tạc, phủ nhận chính sách an sinh xã hội của Việt Nam

 

Những năm qua, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, chính sách an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt; trực tiếp góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đó là những minh chứng sinh động, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phản động.

Trong các giai đoạn phát triển của đất nước kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, an sinh xã hội luôn là một trong những chủ trương, chính sách quan trọng của Ðảng và Nhà nước Việt Nam. Bảo đảm an sinh xã hội được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nền tảng cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao vị thế đất nước; là cơ sở để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội nước ta.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận thành quả mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được. Họ triệt để lợi dụng những khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, các vấn đề xã hội bức xúc; kết quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,… để thực hiện các thủ đoạn chống phá. Thứ nhất, trực tiếp công kích, xuyên tạc hệ thống chính sách an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước ta trong gần 80 năm qua, nhất là trong thời gian gần đây. Thứ hai, cố tình bôi đen, phủ nhận những kết quả thực tế trong bảo đảm an sinh xã hội mà chúng ta đã đạt được cùng những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả hai phương diện này được các thế lực thù địch, phản động kết hợp chặt chẽ với nhau và luôn gắn với các vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, coi đó là “điểm tựa” và “chất liệu” để chống phá. Họ thường rêu rao các luận điệu, như: chính sách an sinh xã hội của Việt Nam “thiếu tiến bộ, thiếu công bằng xã hội”; “Nhà nước rũ bỏ trách nhiệm lo an sinh cho dân”, rằng “chế độ an sinh xã hội ở Việt Nam có chiều hướng thụt lùi”, chính quyền “bỏ mặc dân nghèo tự lo”, “tự bơi”, v.v. Qua đó, hình thành mũi nhọn trực tiếp tiến công, hướng đến mục tiêu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; bôi đen, phủ định bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nhưng sự thật luôn rõ ràng! Những luận điệu xuyên tạc không thể phủ nhận được thực tế rằng: việc bảo đảm an sinh xã hội luôn là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam; là chính sách cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm nhẹ tác động bất lợi, rủi ro, thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm đời sống của nhân dân, tạo đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh. Mục đích mà Đảng và Nhân dân ta phấn đấu là làm cho mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Mục đích đó vừa đặt ra yêu cầu, vừa quy định phương hướng, mục tiêu chính sách an sinh xã hội mà Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhìn lại lịch sử, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành côngtrong bối cảnh chính quyền non trẻ phải đương đầu với “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải xây dựng chính quyền mới, củng cố và sử dụng chính quyền ấy để kiến tạo, xây dựng chế độ xã hội mới, không ngừng nâng cao, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, trong đó có đảm bảo an sinh xã hội, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Trước thực tế có tới 95% dân số không biết đọc, biết viết, khoảng 10% dân số bị chết đói, việc đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo cuộc sống cho nhân dân là vấn đề vô cùng hệ trọng và là nhiệm vụ bức thiết được Đảng, Chính phủ thực hiện ráo riết. Chỉ trong thời gian ngắn, khoảng hơn một năm sau Cách mạng Tháng Tám thành công, “giặc đói”, “giặc dốt” cơ bản đã bị đẩy lùi, nền tài chính quốc gia được gây dựng lại; nền văn hóa, nếp sống mới bước đầu được xây dựng; y tế, vệ sinh phòng bệnh được quan tâm, v.v. Đó là những vấn đề rất cơ bản thể hiện sinh động thành tựu an sinh xã hội mà Đảng, Nhà nước đã sớm thực hiện trong chăm lo đời sống nhân dân; phản ánh sâu sắc bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ xã hội nước ta, dù mới chỉ bắt đầu xây dựng.

Trên phương diện chính sách. Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng và không ngừng hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, hướng đến mục tiêu bao phủ toàn dân và toàn diện, theo phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) đã ghi nhận những điều khoản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành hệ thống chính sách an sinh xã hội: “Quyền lợi các giới cần lao, trí thức và chân tay được bảo đảm” (Điều 13); “Những người công dân già cả hoặc tàn tật, không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều 14). Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền được đảm bảo an sinh xã hội” (Điều 34). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”1. Thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta xác định: hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, linh hoạt “có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong cuộc sống”2. Đồng thời, đề ra các giải pháp chủ yếu: hoàn thiện hệ thống bảo hiểm, trợ giúp, cứu trợ xã hội; triển khai các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn; huy động mọi nguồn lực chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”3.

Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình, đề án, kế hoạch,… mang tính toàn diện và bao trùm đến mọi tầng lớp xã hội, trên tất cả các “trụ cột” của chính sách và tổ chức thực hiện trên thực tế. Cụ thể là: (1). Hệ thống bảo hiểm xã hội đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; (2). Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm góp phần tạo việc làm đa dạng, đáp ứng phần lớn nhu cầu lực lượng lao động, đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (3). Hệ thống trợ giúp xã hội, thông qua trợ cấp trực tiếp bằng tiền, hiện vật kinh phí từ ngân sách nhà nước, giúp người dân khắc phục rủi ro, biến cố; (4). Hệ thống chính sách ưu đãi người có công, các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt thòi; (5). Hệ thống bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở, thông tin,...) ngày càng cải thiện về chất lượng và quy mô, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu đại bộ phận người dân, đặc biệt là nhóm dân cư vùng sâu, vùng xa, địa bàn đặc biệt khó khăn, v.v.

Với chính sách ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và đi vào cuộc sống, bảo đảm an sinh xã hội của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trên các lĩnh vựcVề giảm nghèo, Đảng, Nhà nước ta thực hiện linh hoạt các giải pháp hỗ trợ người dân thoát nghèo, đạt thành tựu nổi bật. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều mới giảm từ 9,88% năm 2015 còn 2,75% năm 2020, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và là một trong 30 nước áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, được quốc tế ghi nhận. Về bảo trợ xã hội, cả nước hiện có 425 cơ sở trợ giúp xã hội (trong đó: 191 công lập và 234 ngoài công lập) nuôi dưỡng, chăm sóc hơn 41 nghìn người. Đến cuối năm 2023, đã có 100% đối tượng được hưởng trợ cấp hằng tháng, 100% số người bị thiệt hại do thiên tai, thiếu đói được trợ giúp kịp thời, không để ai bị đói, hơn 90% số người khuyết tật khó khăn được trợ giúp, chăm sóc, phục hồi chức năng, hơn 90% số người cao tuổi khó khăn được trợ giúp, phụng dưỡng, chăm sóc. Đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế - hai trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội quốc gia, có diện bao phủ ngày càng mở rộng. Theo thống kê, đến hết tháng 6/2024, cả nước có khoảng 18,305 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, đạt 39,05% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng 1,164 triệu người so với cùng kỳ năm 2023 (tăng gần 02 lần so với năm 2010). Đặc biệt, số người tham gia bảo hiểm y tế liên tục tăng qua các năm (2021: 91,01%; 2022: 92,04%; 2023: 93,35%), tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Trong đó, hầu hết các nhóm người có thu nhập thấp, người nghèo, người yếu thế trong xã hội đều đã được tham gia bảo hiểm y tế từ nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà nước, địa phương hoặc huy động từ các nguồn lực khác. Quyền tiếp cận thông tin, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa ngày càng được thực hiện tốt hơn. Hiện nay, đường truyền dẫn cáp quang, dịch vụ thông tin di động đã đến 100% xã trong toàn quốc. Mạng điện thoại di động đã phủ sóng cả nước, riêng tỷ lệ phủ sóng điện thoại di động băng rộng 4G của Việt Nam đã lên đến 99,8% xét trên dân số. Hệ thống cơ sở giáo dục phát triển nhanh, phổ cập giáo dục từ cấp mầm non đến trung học cơ sở hoàn thành trước thời hạn; trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 97,85%. Những kết quả từ chính sách an sinh xã hội đã góp phần khiến chỉ số hạnh phúc của Việt Nam liên tục tăng qua các năm. Ngày 20/3/2024, Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố Báo cáo hạnh phúc thế giới thường niên lần thứ 10; trong đó, Việt Nam tăng 11 bậc, từ vị trí 65 (năm 2023) lên vị trí 54/143 quốc gia khảo sát.

Với những số liệu “biết nói” trên, hướng đến mục tiêu: “Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững,… gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân”4, Việt Nam đã có hệ thống an sinh xã hội phát triển thành mạng lưới bao trùm, toàn diện, vì con người, diện bao phủ không ngừng được mở rộng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tất cả các đối tượng. Đây chính là minh chứng khẳng định thành tựu bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam là rất đáng tự hào, người dân được thụ hưởng thực sự, thực tế và ngày càng được cải thiện, nâng cao. Thực tế đó là không thể phủ nhận dưới mọi hình thức./.

St

CẢNH GIÁC VỚI ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI

 

Như một thông lệ, cứ vào dịp kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lại ra sức tung ra những điệp khúc xuyên tạc quen thuộc, hòng chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội. Mới đây, trên trang “Hung-viet” đã phát tán bài viết “Quân đội nhân dân Việt Nam: Hãy trở về đúng tên gọi của mình” với những luận điệu xuyên tạc nhằm chia rẽ, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, thúc đẩy “phi chính trị hóa” quân đội. Bởi vậy, cảnh giác, nhận rõ và chủ động đấu tranh, bác bỏ các luận điệu đó là vấn đề quan trọng, cấp thiết.

Vẫn luận điệu cũ, Nguyên Anh rêu rao rằng: “Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng đang bảo vệ đảng cầm quyền, họ hoàn toàn không bảo vệ người dân, bởi vì toàn bộ cấu trúc hệ thống đều do hệ thống đảng ủy chỉ đạo”. Đây là luận điểm vô căn cứ, phản khoa học nhằm tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hòng thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” quân đội.

Về bản chất, quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực của một giai cấp, nhà nước và do nhà nước, giai cấp đó thành lập, nuôi dưỡng, sử dụng để tiến hành đấu tranh vũ trang, thực hiện mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng nó. Ở một số quốc gia, quân đội còn tuyên thệ trung thành với người đứng đầu nhà nước (đương nhiên cũng là người đứng đầu đảng chính trị cầm quyền). Điều II, khoản 2 Hiến pháp Mỹ ghi rõ: “Tổng thống là Tổng Tư lệnh các lực lượng Lục quân và Hải quân Hoa Kỳ và lực lượng dự bị ở một số bang”. Rõ ràng, không có và không thể có bất kỳ một quân đội nào lại không gắn với một đảng chính trị cầm quyền, không bảo vệ lợi ích của giai cấp nào trong một chế độ xã hội nhất định.

Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành nguyên tắc căn bản trong xây dựng quân đội, quyết định bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, sự trưởng thành, lớn mạnh và chiến thắng của Quân đội ta trong mọi thời kỳ cách mạng. Điều đó được khẳng định rõ tại Điều 25, Chương VI, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và sự trung thành tuyệt đối của Quân đội đối với Đảng là hai mặt thống nhất của một chủ thể; hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng, không tách rời, được thực tiễn kiểm nghiệm trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta. Mối quan hệ giữa Đảng với Quân đội là mối quan hệ lãnh đạo và phục tùng, Đảng giữ vai trò lãnh đạo đối với Quân đội bằng một cơ chế đặc thù, bảo đảm cho Đảng thường xuyên giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt.

Thực tiễn gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội ta không chỉ là công cụ, lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, Nhà nước mà còn là của nhân dân, của dân tộc, chiến đấu cho lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn và triệt để quần chúng nhân dân lao động, phấn đấu không mệt mỏi cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dù công tác ở đâu, đi đến đâu, làm những nhiệm vụ gì, trong điều kiện chiến tranh hay hòa bình, ở đất liền hay trên biển đảo, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đều ra sức bảo vệ, giúp đỡ, tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói giảm nghèo, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, phấn đấu vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đó là biểu hiện sự thống nhất giữa trung thành với Đảng và trung hiếu với nhân dân với đất nước, dân tộc trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam, xứng đáng với lời khen tặng của Bác Hồ: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”

Do đó, luận điệu của Nguyên Anh chỉ là chiêu trò đánh lừa dư luận, hòng phủ nhận sự độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, nhằm phá vỡ nền tảng chính trị của Quân đội, làm cho Quân đội mất phương hướng, mục tiêu chiến đấu, không còn khả năng làm nòng cốt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ./.

St

BẢO VỆ VỮNG CHẮC TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Quan điểm về bảo vệ Tổ quốc là bộ phận đặc biệt quan trọng trong hệ thống quan điểm của Đảng. Đảng ta khẳng định trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, không được một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm này thể hiện sự trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, kế thừa, phát huy truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc ta.

Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã nhận thức rõ hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, chủ động nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu và đạt được nhiều kết quả, thành tựu rất quan trọng, toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, quốc phòng, an ninh tiếp tục được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp tiếp tục được hoàn thiện. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt. Việt Nam đang ngày càng chứng tỏ uy tín và tiếng nói có trọng lượng của mình trong cộng đồng chính trị quốc tế, thúc đẩy vị thế chiến lược mới của nước ta trong khu vực và trên thế giới.

Tuy nhiên, việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có nội dung còn chậm. Kinh tế – xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới.

Hiện nay, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm hình thành ngày càng rõ nét hơn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện, thậm chí đối đầu. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng cảnh báo vẫn còn hiện hữu, có mặt diễn biến phức tạp và gay gắt hơn. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước cấu kết, tăng cường chống phá công khai và trực diện, với âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Trước bối cảnh đó, để tiếp tục thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, Ban Chấp hành trung ương (Khóa XIII) đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 44- NQ/TW ngày 24 /11/2023, Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết chỉ rõ, phải: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ nền văn hoá và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; triệt tiêu các nhân tố gây mất ổn định chính trị từ bên trong, kiên quyết không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập ở trong nước, dập tắt nguy cơ xung đột quân sự, chiến tranh; giữ vững, củng cố, tăng cường môi trường hoà bình để xây dựng, phát triển đất nước; đóng góp tích cực vào gìn giữ hoà bình khu vực, thế giới.

Để thực hiện tốt Nghị quyết của Trung ương, cấp ủy, chính quyền các cấp, ngành cần tổ chức nghiêm túc việc nghiên cứu, quán triệt và xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng địa phương, cơ quan, đơn vị; định kỳ kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết, đồng thời, chú trọng một số nội dung sau:

Một là, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Hai là, nâng cao hiệu quả xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nâng cao năng lực thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả. Phát huy tốt vai trò giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Gắn kết hài hoà, hiệu quả thị trường trong nước và ngoài nước.

Bốn là, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Năm là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả. Ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng có chung biên giới. Tích cực tham gia củng cố, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương, luật pháp quốc tế. Tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện thắng lợi những chủ trương, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta cần nêu cao cảnh giác, đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch. Gắn kết chặt chẽ “ý Đảng” với “lòng dân”, phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn, tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam là con đường duy nhất đúng đắn để bảo vệ vững chắc Tổ quốc và “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” theo Di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

St