Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: KHAI TRƯƠNG CƠ SỞ DỮ LIỆU XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH CỦA BỘ QUỐC PHÒNG!

         Tối 7-11, tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng tổ chức khai trương Cơ sở dữ liệu xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) của Bộ Quốc phòng và Chương trình nghệ thuật “Hành trình mở lối”. Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dự, chỉ đạo chương trình.
Cùng dự chương trình có Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam; đồng chí Trần Quang Phương, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Quốc hội; Thượng tướng Võ Minh Lương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; Thượng tướng Bế Xuân Trường, Chủ tịch Hội CCB Việt Nam...

Tham dự chương trình còn có thủ trưởng Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam; lãnh đạo các ban, bộ, ngành; lãnh đạo cơ quan, đơn vị trong Quân đội.

Tại chương trình, các đồng chí đại biểu đã bấm nút khai trương Cơ sở dữ liệu XLVPHC của Bộ Quốc phòng. Việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính trong Bộ Quốc phòng là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, giúp lực lượng thực thi pháp luật tra cứu nhanh các thông tin, văn bản cũng như tài liệu về công tác xử phạt vi phạm hành chính và theo dõi tình hình vi phạm pháp luật của các đối tượng.

Phát biểu tại chương trình, Thượng tướng Võ Minh Lương nhấn mạnh, pháp luật về quân sự, quốc phòng là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật quốc gia, là công cụ pháp lý để thực hiện quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng. Mỗi một văn bản pháp luật về quân sự, quốc phòng được ban hành đã mở ra hành lang pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 80 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của QĐND Việt Nam, từ 10 lời thề của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đến nay, luôn có sự đồng hành của hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng.

Đồng thời Thượng tướng Võ Minh Lương cho rằng, khai trương Cơ sở dữ liệu XLVPHC của Bộ Quốc phòng và Chương trình nghệ thuật “Hành trình mở lối” là dịp để nhìn lại những nỗ lực của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong công tác xây dựng thể chế về quân sự, quốc phòng.

Những thành quả đó đã tác động đến thực tiễn xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh và xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; đồng thời, nhận rõ những đòi hỏi cấp thiết của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quân sự, quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Chương trình khai trương Cơ sở dữ liệu XLVPHC của Bộ Quốc phòng và Chương trình nghệ thuật “Hành trình mở lối” là một trong những hoạt động thiết thực của Bộ Quốc phòng chào mừng kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-2024), 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22-12-1989 / 22-12-2024) và hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam năm 2024./.



Môi trường ST.

Giữ gìn, phát huy các hệ giá trị quốc gia trong thời kỳ mới.

 Hội thảo đã làm rõ nội dung, nội hàm và thành phần cơ bản của các hệ giá trị; từ đó tìm ra giải pháp khả thi trong triển khai thực hiện hệ giá trị quốc gia; hệ giá trị văn hóa; hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới gắn với thực tiễn vùng Đồng bằng sông Hồng nói chung, vùng đất Bắc Ninh - Kinh Bắc nói riêng.

Ngày 08/11/2024, tại thành phố Bắc Ninh, Tỉnh ủy Bắc Ninh phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Triển khai thực hiện hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới gắn với thực tiễn Vùng đồng bằng sông Hồng”.

Các đồng chí: Đinh Thị Mai, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; Phan Chí Hiếu, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Nguyễn Hương Giang, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Bắc Ninh đồng chủ trì Hội thảo.

Hội thảo nhằm nghiên cứu, cụ thể hóa các hệ giá trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và ý kiến Kết luận chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (ngày 24/11/2021), gắn với tình hình thực tiễn của Vùng đồng bằng sông Hồng; từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp tổ chức thực hiện; góp phần củng cố cơ sở lý luận, thực tiễn để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn hóa nói chung, xây dựng các hệ giá trị nói riêng trong thời gian tới.

28 tham luận cũng như các ý kiến trao đổi trực tiếp tại Hội thảo đã cơ bản xác định rõ nét những yêu cầu, nhiệm vụ trọng tâm đặt ra cho cấp ủy, chính quyền các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên, văn nghệ sĩ, trí thức và quần chúng Nhân dân triển khai thực hiện các hệ giá trị.

Từ đó, xây dựng các định hướng, giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy các hệ giá trị, góp phần phát triển Vùng đồng bằng sông Hồng, các địa phương, cơ quan, đơn vị và đất nước trong giai đoạn hiện nay.

PGS. TS Phạm Minh Sơn - Giám đốc học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) nhận định: Vùng đồng bằng sông Hồng có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nước ta do có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi, có cửa ngõ thông thương lớn và quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa với các khu vực lân cận và thế giới; tài nguyên thiên nhiên phong phú, là vựa lúa lớn thứ hai của đất nước, có trữ lượng than, khí đốt lớn; có những trung tâm lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, hệ thống đô thị phát triển, có chiều sâu và bề dày lịch sử - văn hóa đa dạng, đặc sắc; dân cư đông đúc, trình độ cao.

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta ghi dấu ấn sự đóng góp quan trọng của Vùng đồng bằng sông Hồng trong tiến trình phát triển đất nước ở nhiều chiều cạnh, trên nhiều lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Từ thời Đông Sơn với nhiều di chỉ khảo cổ được tìm thấy không chỉ ở Đông Sơn (Thanh Hóa) mà còn ở rải rác các tỉnh, thành miền Bắc nước ta, trong đó có 11 tỉnh, thành thuộc Vùng đồng bằng sông Hồng gồm Hà Nội ,, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình đã chứng tỏ giá trị, vị thế và bản sắc văn hóa đặc sắc của vùng qua dòng chảy thời gian.

Khẳng định văn hóa, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, bài tham luận của Tỉnh ủy Hải Dương cho rằng, giá trị văn hóa, con người ngày càng hoàn thiện, xã hội sẽ ngày càng văn minh, tiến bộ. Nhận thức rõ điều đó, trên cơ sở định hướng, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Hải Dương đã và đang quyết tâm cụ thể hóa các giá trị văn hóa và chăm lo xây dựng con người xứ Đông - Hải Dương phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng về tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng phát triển, đạo đức, lối sống, nhân cách, trách nhiệm xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đã đề ra.

Mỗi quốc gia, dân tộc đều có những nét bản sắc văn hóa riêng của mình. Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.

Bản sắc văn hóa Việt Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản, giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam mà chúng ta cần gìn giữ và phát huy trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước.

Nhấn mạnh bản sắc văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc được hội tụ bởi nhiều yếu tố cấu thành, đại diện Ban Tuyên giáo Thành ủy Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh chia sẻ đó là truyền thống yêu nước và tinh thần quả cảm trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Bước vào kỷ nguyên mới, thời đại Hồ Chí Minh quang vinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bắc Ninh nổi tiếng là vùng quê sớm có phong trào cách mạng, nơi ra đời các tổ chức tiền thân của Đảng. Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, chiến đấu chống sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cùng với Nhân dân cả nước, Nhân dân Bắc Ninh đã có những cống hiến to lớn cho cách mạng.

Đó là truyền thống lao động cần cù, sáng tạo trong sản xuất. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhân dân Bắc Ninh đã đoàn kết, đồng lòng, tìm tòi, sáng tạo trong lao động sản xuất. Trong thời kỳ đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, truyền thống năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của người Bắc Ninh được nâng lên tầm cao mới, đưa Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp và là trung tâm công nghệ, điện tử của cả nước.

Kết luận Hội thảo, đồng chí Đinh Thị Mai, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương nhấn mạnh: Hội thảo hôm nay tiếp tục khẳng định tính cấp thiết phải nghiên cứu, xác định và triển khai thực hiện Hệ giá trị quốc gia, Hệ giá trị văn hoá, Hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới gắn với thực tiễn Đồng bằng sông Hồng. 

Việc nghiên cứu, triển khai thực hiện các hệ giá trị tại vùng có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng để các địa phương khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội, phát triển nhanh và bền vững, phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng thực sự là vùng động lực phát triển hàng đầu; góp phần phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong giai đoạn tới.

Qua phân tích, làm rõ và sâu sắc hơn vai trò, nội dung, nội hàm các thành tố cơ bản, Hội thảo cũng khẳng định vai trò của từng hệ giá trị, trong đó xác định, chuẩn mực xây dựng con người là trung tâm; hệ giá trị gia đình là cơ bản; hệ giá trị văn hóa là nền tảng; hệ giá trị quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao cả, điều tiết các hệ giá trị khác.

Các tham luận cho thấy công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và xây dựng phẩm chất, nhân cách con người với những giá trị nổi bật “yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo” đã được chú trọng từ gia đình, nhà trường và xã hội. Chất lượng xây dựng gia đình vùng Đồng bằng sông Hồng theo định hướng giá trị “ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh” đã từng bước được cải thiện. Các hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa đã có những chuyển biến tích cực; từ công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tới sáng tạo các giá trị văn hóa mới theo định hướng: “dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học”.

"Nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng nhằm xây dựng, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế; góp phần đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam", đồng chí Đinh Thị Mai, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương nhấn mạnh./.

Trường học lớn để thanh niên phấn đấu

Cần khẳng định, Quân đội là trường học lớn để lớp lớp thế hệ thanh niên phấn đấu rèn luyện, trưởng thành. Được phục vụ trong môi trường Quân đội, cống hiến sức trẻ bảo vệ Tổ quốc là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân. Với kỷ luật tự giác và nghiêm minh, môi trường văn hóa quân sự là cơ hội để thanh niên học tập, rèn luyện, trưởng thành và cống hiến.

Cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần, chế độ, chính sách đối với quân nhân ngày càng được quan tâm, bảo đảm tốt. Quá trình thực hiện NVQS, thanh niên được học tập, tiếp thu những kiến thức về chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ hữu ích cho bản thân. Trong môi trường quân ngũ, họ được học tập, quán triệt đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là về quốc phòng, an ninh, chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; được giáo dục chính trị, truyền thống, giáo dục pháp luật...

Thông qua đó, thanh niên trưởng thành về nhận thức chính trị, hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nhận diện rõ, đúng những vấn đề thời sự, chính trị diễn ra trong nước và thế giới; đồng thời, nâng cao tinh thần yêu nước, nhận thức, ý thức cảnh giác cách mạng, có lập trường chính trị vững vàng, có khả năng “miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch.

Môi trường quân ngũ còn giúp thanh niên được rèn luyện sức khỏe, thể lực dẻo dai; tác phong chững chạc, có trách nhiệm cao với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; giao tiếp, ứng xử đúng mực, có văn hóa. Quân đội cũng chính là môi trường giáo dục tốt nhất về tình đồng chí, đồng đội; tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái; cán bộ, chiến sĩ đồng sức, đồng lòng cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là nơi mà thanh niên thấm nhuần sâu sắc tình đoàn kết, gắn bó máu thịt quân dân, tình yêu quê hương, đất nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Bên cạnh đó, sau khi huấn luyện, những quân nhân có đủ điều kiện sẽ được tuyển chọn, bố trí công việc phù hợp với khả năng hoặc cử đi đào tạo để trở thành sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp (nếu có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong Quân đội). Những quân nhân hoàn thành NVQS, khi xuất ngũ sẽ được hưởng chính sách ưu đãi như cộng điểm khi thi tuyển sinh vào các trường đại học, học viện, hỗ trợ đào tạo học nghề, tạo công ăn việc làm...

Khi xuất ngũ được hưởng trợ cấp xuất ngũ, trợ cấp việc làm, trợ cấp bảo hiểm, thanh toán nghỉ phép, quà Tết, phụ cấp, thẻ học nghề giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp và ổn định cuộc sống sau này. Điều đó minh chứng, môi trường Quân đội không những không “xấu” như sự bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch mà còn là nơi có điều kiện tốt để thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành về mọi mặt.

Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà trên hết đó còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các thế hệ thanh niên được tu dưỡng, rèn luyện và trưởng thành trong môi trường “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”. Thực tiễn sinh động đó là minh chứng bác bỏ, phê phán các luận điệu xuyên tạc về thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân

 Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật trường tồn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử minh chứng, biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong “xếp bút nghiên lên đường ra trận”, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất.

Những anh hùng liệt sĩ như: Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng, Bế Văn Đàn, Cù Chính Lan, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, 10 nữ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc... là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, niềm tự hào của các thế hệ thanh niên Việt Nam học tập, noi theo: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”-câu nói đanh thép của Anh hùng Lý Tự Trọng đã trở thành lời hiệu triệu, động lực thôi thúc hàng triệu thế hệ thanh niên Việt Nam mong muốn được cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc.

Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc là quyền lợi và trách nhiệm cao cả của mỗi công dân Việt Nam để bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình cho Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên cho chính quê hương, gia đình, người thân của mình. Thực hiện NVQS đã được hiến định trong Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Điều 45, Chương II, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.

Công dân phải thực hiện NVQS và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” và Điều 64, Chương IV quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân... Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Thể chế hóa Hiến pháp, khoản 1, khoản 2, Điều 4 và khoản 1, Điều 59 Luật NVQS năm 2015 quy định: “NVQS là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân; công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện NVQS theo quy định.

Tổ chức, cá nhân có hành vi trốn tránh, chống đối, cản trở việc thực hiện NVQS thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, công dân đến tuổi tham gia NVQS không thể đưa ra để bàn luận, so đo, tính toán “đi hay không đi”, “dám hay không dám”. Việc trốn tránh NVQS, trốn tránh trách nhiệm công dân không những vi phạm pháp luật mà còn là tội lớn với thế hệ cha anh đi trước, với Tổ quốc và dân tộc.

Tăng cường giao lưu hữu nghị, hợp tác toàn diện với thành phố Trùng Khánh.

 Thủ tướng khẳng định: Chính phủ Việt Nam coi trọng phát triển quan hệ với Trung Quốc, ủng hộ và sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi để các bộ, ngành, địa phương Việt Nam mở rộng và tăng cường giao lưu hữu nghị, hợp tác toàn diện với thành phố Trùng Khánh.

Trong khuôn khổ dự Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác tiểu vùng Mê Công mở rộng lần thứ 8 và công tác tại Trung Quốc, ngày 8/11/2024 tại thành phố Trùng Khánh, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã hội kiến đồng chí Viên Gia Quân, Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư Thành ủy Trùng Khánh.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính bày tỏ vui mừng đến thăm thành phố Trùng Khánh; chúc mừng những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đi sâu cải cách mở cửa toàn diện, nâng cấp chuyển đổi mô hình kinh tế, phát triển chất lượng cao của Trùng Khánh trong thời gian qua; tin tưởng nhân dân Trùng Khánh sẽ thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chiến lược đã đề ra.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định Chính phủ Việt Nam coi trọng phát triển quan hệ với Trung Quốc, ủng hộ và sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi để các bộ ngành, địa phương Việt Nam mở rộng và tăng cường giao lưu hữu nghị, hợp tác toàn diện với thành phố Trùng Khánh.

Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ cảm ơn Đảng bộ, chính quyền thành phố Trùng Khánh đã tôn tạo Khu trưng bày những năm tháng hoạt động cách mạng tại Trùng Khánh của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bảo tàng Cách mạng Hồng Nham.

Bí thư Thành ủy Trùng Khánh Viên Gia Quân bày tỏ vui mừng và vinh dự được đón Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Việt Nam đến thăm thành phố Trùng Khánh; báo cáo Thủ tướng Phạm Minh Chính về thành quả phát triển kinh tế - xã hội thời gian qua và các định hướng, mục tiêu phát triển thời gian tới của Trùng Khánh, thành phố trực thuộc Trung ương trọng điểm tại khu vực Tây Nam Trung Quốc và có quy mô lớn nhất Trung Quốc.

Nhấn mạnh Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất liên tục trong 5 năm qua và điểm đến đầu tư lớn nhất của Trùng Khánh trong ASEAN, đồng chí Viên Gia Quân khẳng định: Thành ủy, Chính quyền thành phố Trùng Khánh coi trọng cao độ quan hệ hợp tác hữu nghị với Việt Nam.

Đồng chí Viên Gia Quân đánh giá cao việc hai Bộ Ngoại giao hai nước trao đổi Công hàm về việc thành lập Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Trùng Khánh, tin tưởng Tổng Lãnh sự quán Việt Nam sẽ là cầu nối quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực giữa Việt Nam với Trùng Khánh nói riêng và với khu vực miền Tây Trung Quốc nói chung phát triển lên tầm cao mới, mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người dân hai bên.

Trao đổi về hợp tác giữa hai bên thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đề nghị thúc đẩy giao lưu trao đổi đoàn các cấp, các ngành, tăng cường hơn nữa hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và Trùng Khánh, đề nghị các cơ quan hữu quan của thành phố Trùng Khánh ủng hộ, hỗ trợ Việt Nam hoàn thiện các thủ tục liên quan để Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Trùng Khánh chính thức đi vào hoạt động; tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động và công tác của Tổng Lãnh sự quán sau này, qua đó sớm phát huy hiệu quả vai trò là cầu nối giao lưu, hợp tác giữa hai bên; tiếp tục làm sâu sắc hợp tác thực chất trên các lĩnh vực, củng cố nền tảng vật chất cho quan hệ hai bên. Đề nghị các cơ quan hữu quan Trùng Khánh tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam khai thác hiệu quả tuyến đường sắt liên vận quốc tế Trung Quốc - châu Âu, đưa hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đi nước thứ ba; nhập khẩu nhiều hơn các mặt hàng chất lượng cao của Việt Nam; tận dụng tính bổ sung lẫn nhau về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của hai bên để mở rộng kim ngạch thương mại song phương; đẩy mạnh hơn nữa hợp tác du lịch, văn hóa, giáo dục, giao lưu nhân dân và hợp tác địa phương; tích cực nghiên cứu việc mở thêm các đường bay thẳng giữa Trùng Khánh với các địa phương lớn của Việt Nam để tạo thuận lợi cho giao lưu, đi lại của người dân hai bên.

Tán thành với những ý kiến quan trọng của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bí thư Thành ủy Trùng Khánh Viên Gia Quân khẳng định Thành ủy, Chính quyền Trùng Khánh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Trùng Khánh và phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương Việt Nam triển khai thực hiện tốt các đề xuất của Thủ tướng Phạm Minh Chính, nhất là khai thác hiệu quả tuyến đường sắt liên vận quốc tế Trung Quốc - châu Âu, tăng cường nhập khẩu hàng hóa chất lượng cao của Việt Nam; mong hai bên hợp tác trong lĩnh vực Trùng Khánh có thế mạnh hoặc hai bên có nhu cầu như sản xuất công nghiệp, vật liệu mới, năng lượng mới, kho vận, logistics, du lịch, đóng góp tích cực xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Trung Quốc - Việt Nam có ý nghĩa chiến lược./.


Những luận điệu sai trái, xuyên tạc

Trên không gian mạng, mạng xã hội, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đang rêu rao, tuyên truyền các bài viết, đăng status, dòng trạng thái sai sự thật như: “Trong khi các nước phát triển quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi NVQS, nghĩa vụ công an”, “hãy để thanh niên lập nghiệp, làm giàu, đừng bắt đi NVQS”, “mất 2 năm đi NVQS về chẳng được gì”, “chỉ con nhà nghèo mới bị bắt đi nghĩa vụ”...


Trong khi sự thật là, nhiều nước trên thế giới vẫn đang áp dụng bắt buộc nghĩa vụ quân sự, không thực hiện miễn, hoãn-kể cả các ngôi sao nghệ thuật. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch, phản động còn đăng tải các cảnh bạo lực, quân phiệt của quân đội nước ngoài với lời bình xuyên tạc là ở Việt Nam; họ cắt ghép, dàn dựng hình ảnh, video để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội... nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề.

Mục đích của họ là bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, với Đảng, Nhà nước. Từ đó, khiến cho công dân đến độ tuổi nhập ngũ và gia đình, người thân “tự diễn biến”, dao động tư tưởng, hoài nghi, thiếu niềm tin, trốn tránh thực hiện NVQS, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Hệ quả là rơi vào âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tham gia biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, bỏ ngũ.

Bác bỏ luận điệu sai trái “ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”

 

Những luận điệu và thủ đoạn phản ánh sai lệch về quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay đều xuất phát từ những tổ chức, cá nhân chống cộng cực đoan, chống chủ nghĩa xã hội và cơ hội về chính trị. Động cơ và mục đích chính trị của họ cũng không ngoài mục đích phủ nhận thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong gần 80 năm qua.

1. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả hệ thống chính trị vào cuộc thực thi quyền lực nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời luôn thống nhất trong lãnh đạo tổ chức thực hiện, nhằm góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Chủ trương đó không phải là khẩu hiệu suông, càng không phải là việc “đấu đá, triệt hạ phe cánh” như những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trước mỗi kỳ đại hội Đảng, các đối tượng chống phá lại đơm đặt, dựng chuyện và xuyên tạc rằng: “Ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”.

Sự thật lịch sử và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam đã bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, chống phá đó.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, thiết lập nên những thiết chế căn bản đầu tiên của một nhà nước dân chủ nhân dân-khởi đầu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Điều 1 của Hiến pháp năm 1946 khẳng định tính chất của Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Trong suốt quá trình cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân tổ chức, xây dựng hệ thống quyền lực ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh và thực hành tư tưởng: “Nước ta là nước dân chủ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/ Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra/ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên/ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Như vậy, có thể thấy, từ những văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước và người đứng đầu Nhà nước ta đã xác nhận, hệ thống chính trị XHCN nước ta luôn khẳng định chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của Nhà nước và của tất cả quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều này có nghĩa rằng, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân và cho dù bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ thì quyền lực nhà nước cũng đều có nguồn gốc từ sự ủy quyền của nhân dân. Không có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền của nhân dân.

2. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và quyền lực nhà nước, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng hiện thực hóa chủ trương “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội. Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai tầng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, để thông qua Nhà nước hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của các giai tầng xã hội.

Trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo thực hiện lĩnh vực này. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến.

Hiến pháp năm 2013 hiến định: “1) Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2) Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Về hình thức: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Để bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.

Những năm qua, trong đời sống chính trị-pháp lý ở Việt Nam, việc kiểm soát quyền lực nhà nước đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và của các cơ quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội được quan tâm tăng cường; công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước trong bộ máy hành pháp đã được đẩy mạnh, góp phần không chỉ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước mà còn trực tiếp đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và nhất là vai trò, quyền làm chủ của nhân dân đã được bảo đảm thực thi thực chất, đầy đủ theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng”. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng đã được kết hợp chặt chẽ với việc thực thi các cơ chế thanh tra, kiểm soát bằng pháp luật. Công tác phòng, chống tham nhũng, chống tha hóa quyền lực được tiến hành đồng bộ, bài bản, ngày càng hiệu quả. Việc xử lý các hành vi, đối tượng tham nhũng bảo đảm nghiêm khắc nhưng cũng nhân văn, có lý, có tình, kết hợp “xây” và “chống”, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, làm gì; không còn tư tưởng “hạ cánh an toàn”, làm bước nào chắc bước đó, vi phạm đến đâu, xử lý đến đó, kỷ luật Đảng trước, kỷ luật hành chính, hình sự sau; bảo đảm phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ.

Với bước đi có lộ trình, phù hợp và kiên quyết, Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn trong công tác phòng, chống tham nhũng. Qua đó, xử lý dứt điểm, kịp thời, nghiêm minh trước pháp luật nhiều vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, trong đó, có nhiều cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, điều đó cho thấy, sự quyết tâm của Đảng đối với xử lý tham nhũng, tiêu cực trong thực thi quyền lực nhà nước, góp phần củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân.

3. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là kết quả thực hành tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa sáng suốt và rõ ràng, được định hướng bởi lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt, được Nhà nước Việt Nam hiện thực hóa trong các chính sách và luật pháp; được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thực thi hiệu lực và hiệu quả; được nhân dân và các đoàn thể chính trị-xã hội trực tiếp giám sát, tham gia, quản lý bằng những cơ chế, chính sách phù hợp.

Như vậy, cả lịch sử hình thành nhà nước, xây dựng, hiến định những tư tưởng pháp quyền XHCN đầu tiên đến quá trình tổ chức hiện thực hóa, thực thi trong đời sống chính trị, xã hội và pháp lý; cùng với sự bổ sung, phát triển ở những giai đoạn tiếp theo cho thấy, ở Việt Nam quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự tiếp nối mà còn là một sự bổ sung, phát triển và khẳng định sự kiên định nhất về chủ trương, đường lối thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân, hoàn toàn không có sự xa rời và đối nghịch với tư tưởng pháp quyền XHCN mà Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đã đề ra, đó là xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.

Những luận điệu và thủ đoạn phản ánh sai lệch về quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay đều xuất phát từ những tổ chức, cá nhân chống cộng cực đoan, chống chủ nghĩa xã hội và cơ hội về chính trị. Động cơ và mục đích chính trị của họ cũng không ngoài mục đích phủ nhận thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong gần 80 năm qua. Mưu đồ sâu xa là lợi dụng bàn luận về những vấn đề dân chủ của đất nước, lợi dụng việc góp ý vào chủ trương, đường lối, chính sách, nhất là văn kiện của các kỳ đại hội Đảng để xuyên tạc, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc xây dựng chế độ và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.

Những quan điểm, thái độ và hành động chính trị phản động, thù địch đó tất yếu sẽ bị thất bại, không chỉ bởi tất cả quyền lực của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay đã thuộc về nhân dân, mà còn bởi sự nhận thức chính trị của nhân dân Việt Nam hiện nay đã phát triển hơn hẳn những giai đoạn trước; đồng thời nhờ vào chính những thành quả cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới.

Hành lang pháp lý về trách nhiệm hành vi trên mạng xã hội

Internet đã tạo ra một không gian ảo, hình thành xã hội ảo trên cơ sở quan hệ giai cấp với tính chất và quy mô mới, lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới-phương thức sản xuất số-mà ở đó, các mối quan hệ như quan hệ giai cấp, mối quan hệ giữa con người với con người đã có những thay đổi, người dân có thể tiếp cận thế giới một cách dễ dàng hơn.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2024, Việt Nam có hơn 100 triệu dân với hơn 70 triệu người sử dụng internet. Lợi dụng những điều kiện thuận lợi được pháp luật quy định, các đối tượng đã lợi dụng sự bùng nổ về công nghệ thông tin, những tiện ích mà công nghệ thông tin mang lại (như dùng các kỹ thuật để ẩn danh tương tác, lừa đảo qua MXH, các ứng dụng nhắn tin qua mạng (OTT)...) để thực hiện nhiều vụ lừa đảo trực tuyến, chiếm đoạt tài sản có giá trị cao, gây hoang mang dư luận, mất an toàn xã hội.

Ứng phó với những vấn đề trên, theo thống kê của Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông), tính đến tháng 6-2024, thông qua triển khai Hệ thống cảnh báo, ngăn chặn tên miền độc hại quốc gia (DNS Shinkhole quốc gia), cơ quan chức năng đã ngăn chặn 12.818 web/blog vi phạm, trong đó có 3.170 website lừa đảo trực tuyến. Bảo vệ hơn 10,981 triệu người dân không truy cập vào các website lừa đảo, vi phạm pháp luật). Tuy nhiên vẫn còn đó những khó khăn, thách thức về hành lang pháp lý, về kỹ thuật công nghệ, về nhận thức của người dân cần được tiếp tục rà soát, hoàn thiện và thúc đẩy.

Những tài khoản ẩn danh trên MXH mang lại nhiều nguy cơ, thách thức, đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi chúng ta cần có các phương án, giải pháp mang tính định hướng để bảo đảm quyền riêng tư, hạn chế các hoạt động ẩn danh mang mục đích xấu thông qua tăng cường các hoạt động bảo đảm bảo mật thông tin, sử dụng các biện pháp nhằm xác thực danh tính, hoàn thiện hành lang pháp lý theo hướng quy định trách nhiệm hành vi khi sử dụng MXH, tiến tới xử lý nghiêm minh các vi phạm liên quan đến tài khoản ẩn danh.

Cùng với đó, người dân cần nhận diện các hoạt động lợi dụng ẩn danh để quấy rối, bắt nạt, lừa đảo, xâm phạm quyền riêng tư, tán phát thông tin sai lệch và bôi nhọ, cung cấp các thông tin thất thiệt, các quan điểm sai trái, thù địch nhằm chống phá thành quả của cách mạng Việt Nam, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta.

Hiểu đúng về “quyền riêng tư” trên mạng xã hội

MXH và dịch vụ MXH trên không gian ảo là một cách điển hình để triển khai các hoạt động giao tiếp, chia sẻ thông tin của các chủ thể trên không gian ảo. Ban đầu, MXH được tạo ra nhằm cung cấp một dịch vụ trên internet để mỗi thành viên kết nối với nhau trên cơ sở cùng sở thích, cùng mối quan tâm và thực hiện nhiều mục đích khác nhau. Dịch vụ MXH tạo nên một môi trường mà trên đó, người tham gia có thể tự do thể hiện quan điểm, chia sẻ về những hoạt động trong cuộc sống hằng ngày.

Ẩn danh-một tính năng cho người sử dụng internet xuất hiện khi không gian số trở thành phổ biến trong đời sống xã hội của con người. Tính năng này cho phép người dùng xuất hiện mà không lưu lại các dấu vết hoạt động trên không gian mạng. Tính năng này hiện nay thường được người dùng sử dụng các dịch vụ MXH để tổ chức, tạo lập và sản xuất những sản phẩm thông tin, truyền thông như tin, bài, video clip, âm thanh dưới sự hỗ trợ của các công cụ sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp như dữ liệu lớn, các phần mềm thông minh nhân tạo... Tính năng ẩn danh tạo ra một dịch vụ cho phép thực hiện các quyền riêng tư, quyền tự do cá nhân... Bên cạnh những thông tin tích cực, nhân văn, vì xã hội và cộng đồng vẫn có các cá nhân, tổ chức lợi dụng các kỹ thuật, công nghệ tạo nên các kênh, cá nhân ẩn danh nhằm phá hoại những thành quả của đất nước, nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước thông qua việc cung cấp những thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bôi nhọ trên MXH...

Về mặt khái niệm, ẩn danh là việc người sử dụng thiết lập các tài khoản trên không gian số như tài khoản trên MXH Facebook; YouTube; Zalo; TikTok; Threads; Instagram... mà thông tin về danh tính thật của người sử dụng không được tiết lộ. Tính năng này cũng cho phép người dùng sử dụng tên giả, hồ sơ cá nhân giả, ảnh giả hoặc không có thật để hạn chế, trốn tránh việc truy vết thông tin, định danh người dùng.

Chính vì lẽ đó, tài khoản ẩn danh ngoài những người dùng sử dụng để thực hiện các hoạt động truyền thông mang nhiều nét nhân văn, tốt đẹp trên cơ sở hài hòa và gìn giữ văn hóa dân tộc thì hiện nay đang bị các đối tượng phản động, cơ hội chính trị thực hiện những hoạt động chống phá, cung cấp thông tin thất thiệt, quấy rối, bắt nạt người khác, thực hiện các hành vi lừa đảo, gian lận thông qua giả mạo thông tin người dùng khác, lợi dụng sự tin tưởng của người khác để trục lợi.

Bên cạnh đó, các tài khoản ẩn danh còn được sử dụng như một cách để xâm phạm quyền riêng tư, cố tình thu thập thông tin, hình ảnh của người khác để sử dụng cho mục đích xấu, gây lo lắng và bất an cho xã hội. Các tài khoản ẩn danh còn sử dụng những kỹ thuật, công nghệ như trí thông minh nhân tạo để tạo ra các sản phẩm truyền thông chứa đựng những thông tin sai lệch, tin giả, tin thất thiệt gây hoang mang và hiểu lầm trong cộng đồng, đặc biệt là bôi nhọ, xuyên tạc lãnh đạo Đảng, Nhà nước, thành quả của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

Các tài khoản này cũng thường được sử dụng để kích động bạo lực, thù hận và kỳ thị như phân biệt vùng miền, phá hoại tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, gây nên những tổn thương tâm lý, sự hoang mang, phân hóa và mất niềm tin trong cộng đồng cũng như toàn xã hội, gây xung đột và căng thẳng không đáng có.

Hoạt động phá hoại sự ổn định của đất nước

Nói về hoạt động ẩn danh trên KGM, thời gian qua đã có nhiều tiền lệ và hậu quả xấu đối với đời sống xã hội, làm ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân. Các hoạt động lợi dụng MXH, lợi dụng các yếu tố kỹ thuật và kẽ hở của pháp luật, lợi dụng lòng tin và “mơ màng” với cảm giác đứng trong bóng tối, thực hiện các hoạt động ẩn danh để sử dụng các thông tin giả mạo, thất thiệt, đưa thêm thông tin nửa vời, cắt ghép; lợi dụng ẩn danh để lừa đảo, đưa các thông tin sai trái, xuyên tạc để “ném đá” hại người; qua đó gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết; làm nảy sinh tư tưởng nghi ngờ, đố kỵ, thậm chí gây hoang mang, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Nguy hiểm hơn nữa, các hoạt động ẩn danh còn được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng để chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ, kích động bạo lực, cổ vũ cho các hoạt động tập trung đông người hòng thúc đẩy bạo loạn, bạo động; thực hiện các hoạt động cổ xúy, thúc đẩy “cách mạng màu”.

Các kênh truyền thông cả chính danh lẫn ẩn danh của một số cá nhân, tổ chức móc nối với một số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước nhằm đưa các tin, bài có nội dung tiêu cực, xuyên tạc; lợi dụng tình hình và các sự kiện quan trọng của đất nước, các vấn đề dư luận xã hội quan tâm, các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, dân tộc... để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi xấu các thành quả của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vừa qua, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tích cực phòng, chống và khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (bão Yagi), các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng xấu, hoang mang dư luận liên tục được tung ra trên MXH Facebook, YouTube với những dòng trạng thái, hình ảnh, video clip “vỡ đê” ở một địa phương nào đó... Trên các tài khoản này, ngoài các thông tin xấu, thất thiệt còn cung cấp nhiều thông tin sai trái, sai lệch, cổ vũ các hành vi lệch chuẩn, thực hiện các hành vi chống phá những thành quả mà Đảng, Nhà nước, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được.

Trên thế giới, nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ như Mỹ, Liên minh châu Âu... đã có những hành lang pháp lý nhằm xử lý các hành vi trên KGM, trong đó có những quy định để thực hiện giám sát, trừng phạt hoặc thực hiện các biện pháp hình sự. Đã đến lúc chúng ta quan tâm, hoàn thiện và xây dựng các hành lang pháp lý liên quan đến các hoạt động ẩn danh và lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hành vi xấu trên KGM.

Ngoài ra, cần có các hành lang pháp lý về “chính danh” trong các hoạt động liên quan đến KGM, đồng thời cần nâng cao nhận thức, văn hóa ứng xử, trách nhiệm của người dân khi sử dụng MXH. Cần xây dựng “thế trận lòng dân” trên KGM để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới hiện nay.

Từ những hành vi đơn lẻ hòng trục lợi...

 Những mặt tiêu cực này đã và đang dần len lỏi vào đời sống xã hội Việt Nam, xuất hiện những yếu tố làm cho con người trở nên lệch lạc, mất phương hướng dẫn đến dễ tin hoặc làm theo những quan điểm sai trái, thù địch, có những hành động lệch chuẩn gây ảnh hưởng tới uy tín, quyền lợi của tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.

Không gian mạng (KGM) góp phần hình thành nên xã hội số, ngoài các thông tin tích cực, các tri thức có ích còn tồn tại một lượng thông tin xấu, độc nhất định. Nguồn “nguyên liệu” chính để hình thành thông tin trên KGM xuất phát từ những mối quan hệ, các hoạt động hằng ngày của các cá nhân, xã hội nên bao giờ cũng lẫn trong đó những “tạp chất”. Khi con người tiếp nhận thông tin, bản thân mỗi người đều tự hình thành một “bộ lọc” để tiếp nhận những thông tin được coi là có ích, có lợi tùy thuộc vào quan điểm, mục đích, thị hiếu của chính mình.

Có những vấn đề cùng là một thông tin nhưng đối với người này là có lợi, đối với người khác thì không và ngược lại. Các tiêu chí để đánh giá “có lợi”, “có hại”, “có ích”, “vô ích”, “tích cực”, “tiêu cực” chỉ mang tính tương đối. Các hoạt động của con người trên KGM, trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật cho phép con người thực hiện các hoạt động ẩn danh để đạt được những “phần lợi ích” nhiều nhất, “có lợi” nhiều nhất.

Mạng xã hội (MXH) Facebook, một dịch vụ trên KGM có nhiều người sử dụng cho phép các hoạt động ẩn danh để cung cấp thông tin. Ở Việt Nam, tính đến năm 2024, trên MXH Facebook có khoảng 78 triệu tài khoản đang hoạt động. Cũng năm 2024, MXH Zalo có khoảng 75 triệu tài khoản hoạt động thường xuyên; MXH TikTok có 67,72 triệu người dùng từ 18 tuổi trở lên.

Ngoài các tài khoản chính danh, cung cấp thông tin hữu ích, có giá trị còn rất nhiều tài khoản ảo, tài khoản ẩn danh cung cấp các thông tin về mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội dưới danh nghĩa là các hoạt động dân sự, lợi dụng quyền cung cấp thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để trục lợi, lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, xúc phạm, bôi nhọ, cung cấp các thông tin sai lệch gây hoang mang dư luận, gây bức xúc trong xã hội.

Những hoạt động lừa đảo, giả mạo, giả danh cơ quan, tổ chức, cá nhân ngày càng được các đối tượng thông qua hoạt động ẩn danh để lợi dụng niềm tin hòng trục lợi cá nhân, chiếm đoạt tài sản của người khác. Thời gian qua, nhiều người dân trên cả nước liên tục bị các số điện thoại giả mạo cơ quan công an, cơ quan quản lý nhà nước gọi đến với nội dung như: “Cập nhật số liệu thẻ căn cước công dân”; giả danh cán bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, nhà mạng thông báo “số điện thoại sẽ bị chặn, hủy và khóa sau vài giờ”; thông báo triệu tập của “công an xã”, “công an huyện” đến xử lý và thực hiện hoàn thành thủ tục của tòa án, pháp luật hay xử lý nợ; giả danh cán bộ ngân hàng “thông báo trúng thưởng”, thực hiện tra soát tài khoản, yêu cầu người dân cung cấp số tài khoản, mật khẩu giao dịch, mã OTP...

Hay việc người sử dụng MXH Facebook, Zalo, Viber, Telegram... liên tục được đưa vào các hội, nhóm, bị gửi các đường liên kết trên mạng có tiêu đề hấp dẫn, gây sốc có chứa đựng mã độc, chứa đựng các cách thức truy cập trái phép vào tài khoản hoặc giả danh người thân vay tiền... Nhiều tài khoản ẩn danh, giả mạo các kênh truyền thông chính thống như Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân, Báo Quân đội nhân dân... các cơ quan, tổ chức có uy tín như các bệnh viện nổi tiếng để quảng cáo thực phẩm chức năng, thuốc giả, tư vấn cách thức chữa bệnh, bán “thuốc dạo” để chữa bệnh ung thư, bệnh đặc trị... Điều đáng buồn là nhiều người dân đã sập bẫy lừa đảo của các đối tượng này, bị ảnh hưởng tâm lý, thiệt hại về kinh tế với số tiền rất lớn.

Ngoài ra, còn có các hoạt động ẩn danh nhằm thực hiện các hành vi ác ý, bôi nhọ danh dự người khác. Nhiều người dân bị các tài khoản MXH ẩn danh ghép các nội dung xấu, giả mạo và tạo các đoạn video clip nhằm mục đích bắt nạt, quấy rối, lăng mạ, sỉ nhục, tra tấn tinh thần thông qua các phương tiện điện tử và KGM. Trên MXH Facebook, có nhiều hội, nhóm mang những cái tên gây sốc như: “Bóc phốt”, “diễn đàn”, “trang thú tội (confession)”..., các tài khoản này gửi tin nhắn, đánh cắp thông tin và phá hoại tài khoản, đăng tin nhắn, comment, gửi các tin nhắn, đăng các hình ảnh, video clip có nội dung khiêu dâm gây rối loạn tâm lý, tổn thương, tổn hại đến uy tín, danh dự của người khác.

Các tài khoản ẩn danh còn dùng công nghệ để định vị, theo dõi vị trí và hoạt động của nạn nhân để quấy rối, theo dõi người khác trên MXH; đăng tải thông tin riêng tư hoặc giả mạo danh tính nhằm làm tổn hại danh dự, uy tín của người khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm trạng và tinh thần của họ. Các hoạt động này còn hướng đến xâm hại trẻ em, nhiều trẻ em bị dụ dỗ gửi ảnh, video về bộ phận nhạy cảm khi sử dụng internet. Nhiều trẻ vị thành niên thông qua môi trường mạng bị dụ dỗ tham gia đường dây mua bán người, đường dây thực hiện các dịch vụ nhạy cảm như vũ trường, quán bar, quán karaoke trá hình...

Không gian mạng cần được quản lý tốt như thế giới thực

 Không gian mạng cần được quản lý như thế giới thực

Thực tiễn chứng minh, lượng thông tin mà con người được cung cấp, tiếp nhận thông qua internet và không gian mạng là vô cùng lớn. Không gian mạng là mở, được cập nhật liên tục, không phân biệt không gian, thời gian nên con người trong bối cảnh này dù chủ động hay bị động thì thông tin cũng là nhân tố trực tiếp tác động đến nhận thức, và đôi lúc hành động của họ cũng phụ thuộc vào lượng thông tin mà họ tiếp nhận được.

Bộ não của mỗi người trong một khoảng thời gian nhất định chỉ có thể tiếp nhận và xử lý được một lượng thông tin nhất định, nếu vượt quá giới hạn sẽ tạo nên chứng “bội thực thông tin”. Từ đó làm con người mất phương hướng, rơi vào tình trạng mù mờ, không phân biệt được đúng sai, nhận thức không đến nơi đến chốn, tư tưởng và hành động dễ sa vào tiêu cực hoặc có các hành vi lệch lạc. Ví dụ như khi một đối tượng giả danh cán bộ của cơ quan nhà nước hay giả mạo một cơ quan nhà nước có uy tín liên tục gây sức ép, cung cấp thông tin giả mạo, sai trái thì sẽ dễ khiến nạn nhân bị khủng hoảng, ức chế tâm lý và vô thức làm theo yêu cầu của các đối tượng này.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã coi không gian mạng là một nơi cần được quản lý như thế giới thực. Hay nói cách khác, các quy tắc, quy định, chế tài, định hướng được thực hiện cả trên môi trường thực và môi trường ảo. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, mặc dù hiến pháp không bảo đảm quyền ẩn danh một cách rõ ràng nhưng có những tham chiếu chặt chẽ về quyền ẩn danh với các ràng buộc pháp lý. Các luật về truyền thông ở một số tiểu bang cũng quy định về hành vi, theo đó các hành vi sử dụng mạng xã hội để tán phát thông tin sai lệch sẽ bị xử lý từ phạt tiền đến án hình sự. Tòa án có thể yêu cầu các cơ quan chính phủ xác định danh tính của các tài khoản ẩn danh để phục vụ cho quá trình xét xử.

Các điều khoản của hành lang pháp lý ở Liên minh châu Âu và các quốc gia thành viên cũng có những quy định về quyền và nguyên tắc pháp lý về ẩn danh trên không gian mạng để phòng ngừa, xử lý những tác động xấu, tiêu cực do các hoạt động ẩn danh đối với xã hội hay lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hoạt động khủng bố. Có thể thấy rằng, dù cổ vũ cho hoạt động tự do báo chí, tự do ngôn luận nhưng bản thân các quốc gia này cũng đã lường trước và có những quy định chặt chẽ để ứng phó với những tác động tiêu cực mà hoạt động ẩn danh gây ra.

Tuyên bố các nguyên tắc về quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin ở châu Phi năm 2019 của Tòa án Nhân quyền châu Phi (ACHR) đưa ra 16 nguyên tắc mà luật pháp quốc gia phải tuân thủ, bao gồm bảo đảm sự đa dạng của các phương tiện truyền thông, các quy định về xử lý vi phạm bằng các hình phạt, kể cả bằng hình sự đối với những hoạt động cung cấp thông tin gây tổn hại tới xã hội. Tuyên bố về nguyên tắc tự do ngôn luận Tòa án Nhân quyền liên Mỹ (IACHR) bao gồm 13 nguyên tắc, trong đó có cấm kiểm duyệt trước, bảo vệ nguồn, luật riêng tư, tài trợ và quảng cáo công cộng cũng như luật đa dạng và chống độc quyền... hay các quy định Điều 13(3) của Công ước Liên Mỹ, bảo vệ quyền tự do tư tưởng và quan điểm trên không gian mạng cũng như các phương tiện truyền thông. Tất cả đều có những quy định cụ thể với các ràng buộc về pháp lý đối với hoạt động chính danh hay ẩn danh trên môi trường số.

Bước vào thời kỳ mới, chúng ta lựa chọn xây dựng xã hội mới với những con người xã hội chủ nghĩa trên cơ sở phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại-phương thức sản xuất số. Để chiến thắng “địch bên trong ta”, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần có nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp của cuộc đấu tranh này, cần có quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đặc biệt là các hoạt động quản lý, định hướng và triển khai phát triển xã hội số, văn hóa số, con người số.

Không gian số là nội hàm mới, là thực tiễn, việc trang bị kiến thức, kỹ năng cho từng tổ chức, cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, người dân và toàn xã hội không thể thực hiện trong một sớm một chiều mà phải trải qua một thời gian dài tích góp và có quá trình để đấu tranh, sàng lọc, loại bỏ và cập nhật liên tục những kiến thức, kỹ năng mới, đổi mới và cập nhật liên tục để phù hợp với xu hướng chung của thế giới, của xã hội và nhận thức. Mỗi cá nhân, tổ chức cần rèn luyện thói quen tiếp cận thông tin một cách chủ động, có hệ thống, có mục đích.

Cần chủ động sàng lọc, tìm hiểu, tham vấn ý kiến chuyên gia, sử dụng các kênh thông tin chính thống, thực hiện kiểm tra, kiểm chứng thông tin trước khi chia sẻ, bình luận để loại bỏ những thông tin sai trái, thù địch, lệch chuẩn, thiếu các giá trị chuẩn mực xã hội... Mỗi người dân, tổ chức cần nâng cao trình độ nhận thức, tinh tường nhận diện, tiếp cận thông tin một cách đúng đắn, có quan điểm rõ ràng, chuẩn mực, có cái nhìn khách quan, toàn diện, có tư duy phản biện, bản lĩnh vững vàng để sẵn sàng đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.