Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2024

Việt Nam - Thụy Điển không ngừng vun đắp, phát triển quan hệ song phương.

 Từ ngày 10-13/11, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân sẽ thực hiện chuyến thăm chính thức Vương quốc Thụy Điển. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một vị Phó Chủ tịch nước Việt Nam tới Thụy Điển.

Từ ngày 10-13/11/2024, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân sẽ thực hiện chuyến thăm chính thức Vương quốc Thụy Điển.

Nhân dịp này, Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Thụy Điển Trần Văn Tuấn đã có bài trả lời phỏng vấn báo chí về sự kiện quan trọng trên.

Đánh giá về sự phát triển của quan hệ Việt Nam-Thụy Điển trong thời gian qua, Đại sứ Trần Văn Tuấn cho biết Việt Nam và Thụy Điển có mối quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống lâu đời và khá đặc biệt. Thụy Điển là quốc gia phương Tây đầu tiên công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào năm 1969.

Đối với nhân dân Việt Nam, nói tới Thụy Điển là nói tới sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa mà nhân dân Thụy Điển luôn dành cho nhân dân Việt Nam trong công cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, hòa bình và thống nhất Tổ quốc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng, tái thiết và phát triển đất nước sau này.

Trong 55 năm qua, hai nước đã không ngừng xây dựng, vun đắp, phát triển mối quan hệ song phương ngày càng bền chặt, đi vào chiều sâu và đạt được những thành tựu đáng tự hào trên nhiều lĩnh vực.

Về chính trị, hai nước luôn có lòng tin chính trị và tình cảm hữu nghị sâu sắc với nhau. Thụy Điển coi Việt Nam là đối tác quan trọng tại Đông Nam Á, Việt Nam cũng luôn coi Thụy Điển là người bạn tốt, là đối tác tin cậy ở khu vực Bắc Âu.

Tham vấn chính trị và trao đổi đoàn các cấp, đặc biệt là cấp cao, diễn ra một cách thường xuyên, tạo ra những xung lực quan trọng để thúc đẩy mối quan hệ truyền thống tiếp tục phát triển trên khắp các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học-công nghệ, văn hóa, giáo dục, y tế…

Hai bên đã ký kết 107 hiệp định và 12 thỏa thuận song phương, hiện nay có 42 hiệp định và thỏa thuận còn hiệu lực, tạo nền tảng quan trọng và là cơ sở để thúc đẩy hơn nữa hợp tác thực chất trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khoa học - công nghệ và phát triển bền vững.

Về hỗ trợ phát triển, Thụy Điển là một trong những quốc gia cung cấp viện trợ ODA lớn cho Việt Nam với tổng số vốn trị giá 3,46 tỷ USD tính tới năm 2013.

Nguồn vốn này đã được Việt Nam sử dụng hiệu quả để đầu tư vào nhiều lĩnh vực, đóng góp tích cực cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội đất nước.

Thụy Điển cũng giúp Việt Nam đào tạo đội ngũ chuyên gia, kỹ sư trong nhiều lĩnh vực như nông-lâm nghiệp, y tế, năng lượng điện, báo chí, truyền thông...

Nhiều thế hệ chuyên gia Thụy Điển đã sang Việt Nam công tác và cống hiến nhiều trí tuệ, công sức cho sự phát triển của Việt Nam.

Quan hệ thương mại song phương đã có những bước tiến triển rất đáng khích lệ. Năm 2023, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai bên đạt xấp xỉ 1,3 tỷ USD.

Tuy nhiên, chỉ trong 8 tháng năm 2024, con số này đã lên tới 966,77 triệu USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm trước.

Thụy Điển hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam tại Bắc Âu, và ngược lại, Việt Nam là đối tác nhập khẩu lớn nhất của Thụy Điển ở Đông Nam Á.

Về hợp tác đầu tư, tính đến tháng 6/2024, Thụy Điển có 111 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký đạt 742,65 triệu USD, xếp thứ 29 trong số 143 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam.

Tháng 3/2024, đoàn 100 doanh nghiệp lớn của Bắc Âu, trong đó khoảng 40% đến từ Thụy Điển đã tới thăm Việt Nam, cho thấy mối quan tâm rất lớn của giới kinh doanh Thụy Điển đối với môi trường đầu tư của Việt Nam.

Ở chiều ngược lại, Việt Nam cũng đã có dự án đầu tư đầu tiên tại Thụy Điển với tổng vốn đầu tư từ năm 2019 đến nay đạt khoảng 5,2 triệu USD.

Doanh nghiệp công nghệ phần mềm lớn nhất Việt Nam là Tập đoàn FPT cũng đã chính thức khai trương Văn phòng đại diện tại Thụy Điển, đánh dấu bước phát triển mới hết sức tích cực về hợp tác trong lĩnh vực công nghệ phần mềm giữa hai nước.

Về văn hóa-giáo dục, hai nước cũng đang có nhiều bước tiến trong hợp tác song phương thời gian qua.

Gần đây, nhiều sự kiện văn hóa với quy mô lớn và rất ấn tượng đã được tổ chức tại cả hai quốc gia nhằm kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ Việt Nam-Thụy Điển, giúp người dân hai nước có thêm cơ hội được giao lưu, chia sẻ các giá trị văn hóa và thắt chặt thêm tình đoàn kết hữu nghị.

Đánh giá về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của chuyến thăm chính thức Thụy Điển sắp tới của Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân, Đại sứ Trần Văn Tuấn khẳng định chuyến thăm chính thức Thụy Điển của Phó Chủ tịch nước ta lần này có ý nghĩa hết sức quan trọng khi diễn ra đúng vào dịp kỷ niệm 55 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Thụy Điển (1969-2024).

Thứ nhất, đây là chuyến thăm đầu tiên của một vị Phó Chủ tịch nước Việt Nam tới Thụy Điển. Chính vì vậy, chuyến thăm sẽ góp phần củng cố và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa hai quốc gia.

Trong chương trình, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân sẽ có các buổi tiếp xúc với lãnh đạo cao nhất của Quốc hội và Chính phủ Thụy Điển; gặp gỡ các chuyên gia Thụy Điển có quan hệ thân thiết với Việt Nam. Một số văn bản ghi nhớ hợp tác giữa các bộ, ngành hai nước cũng sẽ được ký kết.

Các hoạt động trên sẽ góp phần tăng cường sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa lãnh đạo hai nước, thắt chặt sợi dây tình cảm giữa nhân dân Việt Nam và Thụy Điển, cũng như thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước ngày càng đi vào thực chất.

Thứ hai, chuyến thăm góp phần khẳng định cam kết của Việt Nam về việc tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp Thụy Điển tại Việt Nam.

Trong chương trình, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân sẽ tham dự Hội thảo bàn tròn doanh nghiệp Việt Nam-Thụy Điển về chủ đề chuyển đổi số và phát triển bền vững. Đây là những lĩnh vực mà Việt Nam hiện rất có nhu cầu hợp tác với quốc tế, trong khi Thụy Điển nắm giữ nhiều kinh nghiệm phát triển.

Chuyến thăm được kỳ vọng sẽ mang lại những xung lực mới nhằm thúc đẩy hoạt động hợp tác giữa doanh nghiệp hai nước trong các lĩnh vực nêu trên.

Đáng chú ý, dự kiến trong chuyến thăm này, hai nước sẽ công bố khai trương tuyến đường vận tải biển kết nối trực tiếp giữa Cảng Vũng Tàu (Việt Nam) và Cảng Goteborg (Thụy Điển). Đây sẽ là điều kiện thuận lợi để góp phần tăng cường hơn nữa trao đổi thương mại giữa hai nước trong thời gian tới.

Thứ ba, chuyến thăm cũng là dịp để lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta thăm hỏi, động viên bà con kiều bào đang sinh sống tại Thụy Điển.

Cộng đồng người Việt tại Thụy Điển hiện có khoảng 22.000 người, trong đó có nhiều người là kỹ sư, doanh nhân, trí thức, lao động… làm việc cho các cơ quan, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn của Thụy Điển.

Việc Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân có buổi tiếp xúc với cộng đồng người Việt tại địa bàn sẽ góp phần khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, đồng thời luôn khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam ở nước ngoài nói chung, và ở Thụy Điển nói riêng, hướng về đóng góp xây dựng quê hương, đất nước./.


Tái bản cuốn sách “Tham nhũng: Mưu mô và trừng phạt”.

 Nhằm góp phần tuyên truyền, phổ biến thông tin, tài liệu về phòng, chống tham nhũng đến bạn đọc, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật tái bản có sửa chữa, bổ sung cuốn sách “Tham nhũng: Mưu mô và trừng phạt” của nhà báo Hà Hồng Hà.

Cuốn sách chủ yếu đề cập các câu chuyện, sự kiện, nhân vật trong các vụ án tham nhũng nổi tiếng cũng như công cuộc và giải pháp chống tham nhũng thành công ở một số quốc gia, tổ chức; đồng thời, mô tả sự khốc liệt của cuộc chiến này cả về phương diện pháp lý và thực tiễn. Những kinh nghiệm quý báu của các quốc gia và vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Ôxtrâylia, Singapore, Đan Mạch, Niu Dilân, Đức, Hồng Kông (Trung Quốc), Anh... là bài học tham khảo hữu ích với Việt Nam. Bên cạnh đó, bạn đọc sẽ tìm thấy trong cuốn sách một số thông tin về chế tài pháp luật đối với tội danh tham nhũng, hối lộ trên thế giới.

Cuốn sách cũng dành những bài viết về các vụ việc trong công cuộc phòng, chống tham nhũng của Việt Nam, đặc biệt là bài viết về sự kiên định và ý chí sắt đá của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong việc đẩy lùi tham nhũng ở nước ta.

Theo PGS.TS. Phạm Duy Đức, Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, cuốn sách “Tham nhũng: Mưu mô và trừng phạt” của nhà báo Hà Hồng Hà có thể xem là một nét khá độc đáo và khác lạ trong hàng loạt các tài liệu về phòng, chống tham nhũng hiện nay. Cuốn sách thu hút người đọc ngay từ cái tên. Nó cho thấy, có lẽ đây sẽ không phải là một nghiên cứu có phần khô khan nặng về lý thuyết, biện luận, số liệu và dẫn chứng như nhiều tài liệu khác, mà sẽ là sự pha trộn giữa bình luận báo chí, sự phóng khoáng của văn học và một chút gì đó khá... phiêu lưu. Và quả đúng như vậy, cuốn sách là bức tranh đa màu sắc về phòng, chống tham nhũng với các phương cách khác nhau của nhiều quốc gia, tổ chức, từ Anh, Đức, Nga cho tới Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaixia và cả Butan - quốc gia hạnh phúc, dẫn dắt bạn đọc khám phá một cách ngẫu hứng từ kinh nghiệm này tới kinh nghiệm khác.

“Đọng lại sau cùng là hiểu biết về cuộc chiến chống tham nhũng đa dạng trên thế giới, rất phức tạp và khó khăn nhưng nếu có phương pháp phù hợp, nhất định sẽ hiệu quả. Có những thành công và cả những thất bại, sẽ là bài học để mỗi người tự chiêm nghiệm khi liên hệ đến cuộc chiến chống tham nhũng ở nước mình. Qua đó, chúng ta có một cái nhìn tích cực, lạc quan hơn về tương lai, bởi có nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, thí dụ như Hồng Kông (Trung Quốc), cách đây không lâu, tham nhũng cũng rất nghiêm trọng. Nhưng, với quyết tâm và giải pháp đúng, họ đã thành công. Cuốn sách còn khẳng định giá trị của một nền công vụ minh bạch, ít tham nhũng mà mọi nhà nước cần theo đuổi, nếu muốn tồn tại và phát triển...” - PGS.TS. Phạm Duy Đức nhận định./.


Phát huy sức mạnh, vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn.

 Khi thực hiện các chủ trương liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn, các cấp ủy đảng, chính quyền cần phát huy sức mạnh, vai trò chủ thể của nông dân.

Trong giai đoạn hiện nay, một lớp “nông dân mới” đang dần hình thành cùng với sự phát triển của nền nông nghiệp và hội nhập của đất nước là xu hướng tất yếu. Đây sẽ là lực lượng lao động có trình độ năng lực có thể đáp ứng được yêu cầu của một nền nông nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, thời gian qua, các chính sách về phát triển đội ngũ lao động này có thực hiện nhưng chủ yếu là đào tạo sơ cấp và “cầm tay chỉ việc” chưa có sự nâng cao trong đào tạo và tập trung vào kỹ thuật sản xuất. Chính sách khuyến khích trí thức về nông thôn có thực hiện nhưng chưa đồng bộ và hấp dẫn, đủ sức thu hút, nhất là những trí thức giỏi và sinh viên một số chuyên ngành khác như Luật, Kinh tế, Thương mại… về phát triển sự nghiệp ở nông thôn. Việc chuyển dịch cơ cấu lao động chưa có sự chuẩn bị đầy đủ nên khi lao động nông thôn chuyển sang làm việc ở khu vực khác dẫn đến thiếu cục bộ nguồn lao động, nhất là lao động trẻ, có tay nghề, việc già hóa lực lượng lao động ở nông thôn cũng là vấn đề cần quan tâm.

Dù là người tạo sản phẩm nhưng nông dân vẫn đứng ở vị trí yếu thế hơn, hầu như không được đưa ra các quyết định, nhất là giá bán nông sản. Nông dân thường thụ động, năng lực ứng phó chưa cao đối với những thách thức và rủi ro trong sản xuất nông nghiệp thường xuyên như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu,… Một vài nơi, các ngành chức năng chưa có sự quan tâm đúng mức việc kết nối trong quan hệ giữa nhà nông, nhà khoa học, nhà nước, doanh nghiệp… chưa bền chặt.

Mức đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn dù rất nhiều nhưng so với yêu cầu thực tế còn hạn chế và dàn trải, chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của ngành đối với nền kinh tế quốc dân; kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông thôn còn nhiều bất cập, lĩnh vực logistic chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, làm ảnh hưởng đến giá thành và chất lượng nông sản, xuất khẩu nông sản chủ yếu vẫn là xuất thô, còn ít sản phẩm được chế biến để tăng giá trị và thời gian bảo quản. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, dựa trên kinh tế hộ, chính vì vậy năng suất lao động xã hội thấp. Năng lực thích ứng với cuộc cách mạng công nghệ 4.0 của nông dân còn hạn chế.

Đặc biệt, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của người nông dân, xuất hiện những vấn đề cần quan tâm giải quyết như: một số giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đạo đức xã hội bị ảnh hưởng; tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, cờ bạc, tín dụng đen, đòi nợ thuê ở nông thôn còn diễn biến phức tạp, làm cho nông dân lo lắng, bức xúc. Tình trạng ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực nông thôn ngày một gia tăng, nhất là từ các làng nghề và các khu công nghiệp nông thôn, do khai thác, phát triển tự phát, không theo quy hoạch. Việc nông dân sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu quá mức cũng làm cho môi trường đất, nước bị ô nhiễm, gây ra hậu quả trực tiếp lên nông sản, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người nông dân và người tiêu dùng, đồng thời ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản.

Công tác tuyên truyền vận động nông dân có lúc, có nơi chưa thực hiện tốt, còn dàn trải, chưa có chiều sâu. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở một vài địa phương còn hình thức; việc quán triệt và truyền thông, nâng cao vai trò chủ thể của nông dân còn hạn chế do chưa có sự tham gia tích cực của một số cán bộ, công chức, nhân dân; một số nông dân còn thờ ơ, chưa nhận thức đúng về vai trò, trách nhiệm, sống khép kín và có tư tưởng “muốn được nghèo”, trông chờ sự hỗ trợ của Nhà nước và xã hội.

Khơi dậy khát vọng vươn lên, xây dựng giai cấp nông dân trở thành lực lượng lao động tiên tiến, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới là chủ trương đúng của Đảng. Để tiếp tục cụ thể hóa và đưa các quan điểm đường lối, chủ trương của Đảng đi vào thực tiễn, cần phải nâng cao nhận thức về vai trò chủ thể của giai cấp nông dân và các ngành, các cấp có liên quan trong tất cả các mối quan hệ với nông dân. Chính sự nhận thức đúng về vai trò, vị thế và trách nhiệm, quyền hạn của mình thì giai cấp nông dân mới tự phát huy nội lực để vươn lên, tức là phải có sự phối hợp hài hòa giữa sự tác động của xã hội và suy nghĩ hành động tích cực của nông dân thì mới phát huy được vai trò chủ thể. Cần nâng cao hơn nữa sự công nhận, quan tâm của các giai tầng khác trong xã hội, nhất là nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp.

Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông thôn đã có bước phát triển vượt bậc, đời sống nông dân được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, trong xu hướng hiện nay, vấn đề về giai cấp nông dân đang đặt ra nhiều thách thức mới cần giải quyết. Vì vậy, Đảng cần ban hành nhiều chủ trương, chính sách để xây dựng giai cấp nông dân trong giai đoạn hiện nay nhằm tạo điều kiện để nông dân trở thành lực lượng lao động chuyên nghiệp có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; là lực lượng chính trị - xã hội vững mạnh, hùng hậu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có bản lĩnh, trình độ và năng lực làm chủ nông thôn; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở nông thôn; nông dân phải thật sự là người làm chủ nông thôn, là người được hưởng thụ xứng đáng với những thành quả, công sức và những đóng góp đối với đất nước.

Đặc biệt, trong công tác quản lý và điều hành, Nhà nước cần tiếp tục có cơ chế, chính sách đủ sức hấp dẫn để huy động mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư vào nông thôn, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng, điện, giao thông, thủy lợi, khoa học - công nghệ, chế biến nông sản, dạy nghề cho nông dân...; có chính sách khuyến khích mở rộng quy mô sản xuất, tích tụ ruộng đất, khắc phục tình trạng manh mún đất sản xuất, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng quy hoạch các vùng sản xuất gắn với hình thành cơ sở chế biến và tiêu thụ nông sản. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách hợp lý để nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi, phát triển sản xuất và ngăn chặn tình trạng tín dụng “đen” ở nông thôn; Nhà nước có chính sách vĩ mô giúp nông dân tiêu thụ nông sản, tăng cường các giải pháp quản lý vật tư nông nghiệp, cây, con giống; có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp tiêu thụ nông sản liên kết với nông dân theo hình thức đóng góp cổ phần, tạo ra vùng nguyên liệu ổn định, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu phát triển; khuyến khích các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu khoa học chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, giúp nông dân tổ chức lại sản xuất, đưa kỹ thuật số, tự động hóa, công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp, gắn kết sản xuất và tiêu thụ; tăng cường các chính sách vận động và khuyến khích nông dân tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm nông nghiệp để hạn chế thiệt hại của nông dân do rủi ro, thiên tai, dịch bệnh; tập trung đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao kiến thức cho nông dân về quản lý kinh tế, quản trị nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật, văn hóa - xã hội, pháp luật, thị trường và hội nhập quốc tế; có chính sách thu hút trí thức về nông thôn, từng bước trí thức hóa giai cấp nông dân, xây dựng đội ngũ nông dân chuyên nghiệp nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa việc chuyển dịch cơ cấu lao động và yêu cầu phát triển một lực lượng lao động nông nghiệp tiên tiến.

Mặt khác, xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ phát triển về số lượng, mà phải tạo được sự biến đổi về chất lượng, nâng cao niềm tin của giai cấp đối với Đảng, Nhà nước; nâng cao trình độ kỹ thuật, kỹ năng, kỷ cương lao động, biết hợp tác lao động để nông dân thực sự là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; đồng thời, cũng là đối tượng chính được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cần tập trung xây dựng đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, đây là yêu cầu rất cần thiết, xem làm nông là một nghề và có thể làm giàu từ nghề nông. Chú trọng việc đào tạo nghề nâng cao và toàn diện, vì hiện nay làm nông nghiệp không chỉ cần có kinh nghiệm và kiến thức về nông nghiệp mà cần phải có kiến thức ở nhiều lĩnh vực kinh tế, thương mại, dịch vụ, văn hóa, chính trị…

Cùng với đó, cần quan tâm đổi mới nội dung và phương thức tuyên truyền vận động nông dân về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là biết được vai trò, vị trí trong xã hội và trong mối quan hệ với các giai cấp, tầng lớp khác. Nâng cao trách nhiệm đối với xã hội và cộng đồng, thay đổi nhận thức và tư duy trong sản xuất để biết cần sản xuất ra những sản phẩm gì, có tâm, có tầm, biết nghĩ đến sức khoẻ nhân dân, không làm tổn thương lợi ích chung của cộng đồng, là người có kiến thức và hành động vì một nền nông nghiệp xanh, sạch, hữu cơ, phát triển bền vững cho hôm nay và cho thế hệ tương lai. Biết liên kết trong sản xuất, hợp tác, tự nguyện tham gia vào các tổ chức kinh tế tập thể. Có tư duy mở, luôn mong muốn mở rộng không gian giao tiếp, chủ động tạo lập các mối quan hệ xã hội.

Bên cạnh đó, cần phát huy đúng mức quyền làm chủ của giai cấp nông dân, đây là vấn đề cốt lõi để nông dân thực hiện tốt vai trò chủ thể. Thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” một cách thực tế và lấy sự hài lòng của người dân là thước đo cho hiệu quả công việc. Thực hành tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở một cách cụ thể, thiết thực và hiệu quả.

Song song đó, xây dựng cơ chế phù hợp, tạo điều kiện cho tổ chức Hội Nông dân thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ vận động giai cấp nông dân, làm cầu nối giữa Đảng và giai cấp nông dân. Hội Nông dân có nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, trách nhiệm của Hội đối với giai cấp nông dân, nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Có sự đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ nội dung và phương thức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Hội. Thường xuyên củng cố, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hội viên; vận động nông dân khắc phục khó khăn để phát triển sản xuất, phấn đấu lao động vươn lên làm giàu chính đáng, tham gia tốt các hoạt động xã hội, tích cực xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua yêu nước của chính quyền; phong trào Hội Nông dân phát động phải hấp dẫn, thu hút và tập hợp đông đảo nông dân tham gia.

Đáng chú ý, cần có các công trình nghiên cứu khoa học cấp quốc gia để có thể nghiên cứu và tạo ra các sản phẩm cụ thể, phù hợp với đặc điểm, tính chất và truyền thống của mỗi vùng, miền khác nhau. Có sự phân tích, đánh giá hiệu quả các mô hình đã được triển khai trong thực tế về phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới như: cánh đồng mẫu lớn, nông trang, nông trại; xây dựng hợp tác xã kiểu mới; liên kết giữa nhà nước, nhà nông, doanh nghiệp và nhà khoa học; chuỗi giá trị nông sản; sự quan tâm của nông dân đối với công việc chính quyền địa phương. Cần có các chính sách, pháp luật về nông nghiệp phù hợp để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong thời gian qua, tạo điều kiện để giai cấp nông dân phát huy vai trò chủ thể. Cần nghiên cứu xây dựng Luật về giai cấp nông dân và hoạt động của tổ chức Hội Nông dân nhằm tăng cường địa vị pháp lý của giai cấp nông dân.

Giai cấp nông dân có vị trí quan trọng trong các giai tầng của xã hội, với lực lượng đông đảo, đây là giai cấp đã, đang và sẽ có nhiều đóng góp, có sức ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và trụ đỡ của nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi đất nước trong tiến trình hội nhập với thế giới. Khi thực hiện các chủ trương liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn, các cấp ủy đảng, chính quyền cần phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân trong phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới là yêu cầu quan trọng, cần thực hiện một cách nghiêm túc, có kết quả và đem lại hiệu quả cao. Để làm được điều đó, cần có sự đánh giá và nhìn nhận đúng mức vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng của nông nghiệp, nông dân và nông thôn, quan tâm đến tâm tư, tình cảm và nguyện vọng nhằm phát huy sức mạnh, vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, nông thôn./.

Vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển báo chí - truyền thông.

 Theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền báo chí - truyền thông Việt Nam đã không ngừng trưởng thành về mọi mặt, luôn xứng đáng là lực lượng nòng cốt trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam.

Sáng 8/11, tại Hà Nội, Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Quan điểm, định hướng giải pháp tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển báo chí - truyền thông Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Phát biểu khai mạc, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nhấn mạnh: Thời gian qua, theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền báo chí - truyền thông Việt Nam đã không ngừng trưởng thành về mọi mặt, luôn xứng đáng là lực lượng nòng cốt trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam. 

Trong đó, báo chí đã làm tốt nhiệm vụ “tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng đến mục đích chung” như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhiều cơ quan báo chí, nhiều cán bộ, nhà báo, phóng viên xuất sắc, tâm huyết với nghề, luôn trau dồi bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ, không quản ngại khó khăn, gian khổ, luôn kịp thời có mặt ở những nơi người dân có tâm tư, nguyện vọng cần phản ánh, đi sâu đi sát vào thực tiễn đời sống, bởi “báo chí của ta cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội... để tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ”, góp phần làm rạng danh nền báo chí - truyền thông nước nhà, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, niềm tin sắt son của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, người dân ngày càng gửi gắm niềm tin yêu vào nền báo chí cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. 

Đặc biệt, tầm quan trọng của việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển báo chí - truyền thông ngày càng được nhìn nhận một cách đầy đủ, sâu sắc hơn trong hệ thống các cơ quan quản lý, cơ quan báo chí - truyền thông, cơ sở đào tạo, nghiên cứu báo chí - truyền thông trên cả nước, là nhân tố quan trọng quyết định đến những thắng lợi rực rỡ của nền báo chí - truyền thông nước nhà thời gian qua. 

Tuy nhiên, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi cũng chỉ ra báo chí - truyền thông ở nước ta đang đối mặt với nhiều thử thách, khó khăn xuất phát từ những biến động phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, nhất là sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên mặt trận tư tưởng, cũng như bản thân những tồn tại, hạn chế trong nội tại hoạt động của nền báo chí - truyền thông Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ 4.0 với trọng tâm là chuyển đổi số đã và đang làm thay đổi căn bản, toàn diện hoạt động báo chí - truyền thông, mở ra cơ hội phát triển chưa từng có cho những người làm báo, nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít áp lực, thách thức to lớn nếu như các cơ quan báo chí - truyền thông không có tư duy đổi mới, không có sự chuẩn bị thật tốt để bắt kịp xu hướng làm báo của thời đại ngày nay. 

"Trong bối cảnh “chuyển mình” như vậy, báo chí - truyền thông cách mạng vẫn luôn phải ý thức về sứ mệnh, nhiệm vụ chính trị rất quan trọng của mình, phải giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng”, “những người làm báo phải có lập trường chính trị vững chắc”. Do đó, việc tìm ra những hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu, vận dụng sáng tạo những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh vào phát triển báo chí - truyền thông ở nước ta để phù hợp với bối cảnh và điều kiện hiện nay, là vấn đề có tính cấp bách", Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi nói.

Phát biểu đề dẫn, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Mai Đức Ngọc, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường, Học viện Báo chí và Tuyên truyền một lần nữa khẳng định, bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một nhà báo xuất sắc trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, vì vậy, tư tưởng của Người là sự đúc kết chắc chắn giữa lý luận và thực tiễn, gắn bó mật thiết với những yêu cầu của cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, bối cảnh mới của tình hình thế giới và khu vực đang đặt ra rất nhiều thách thức mới cho nền báo chí - truyền thông của Việt Nam hiện nay. Một bộ phận những người làm báo chí - truyền thông cũng như một số cơ quan báo chí - truyền thông có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích hoạt động, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm pháp luật, chạy theo yếu tố thương mại, lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân. Do đó, cần phải khẳng định những giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng là bất biến và tiếp tục là “kim chỉ nam” cho sự phát triển của báo chí - truyền thông trong nước, nhưng cần phải được hiểu, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay; đồng thời bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống lý luận về phát triển báo chí - truyền thông trong thời kỳ mới cũng như hoàn thiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển báo chí - truyền thông đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.

Theo Tiến sĩ Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, người làm báo hiện nay gặp áp lực từ mạng xã hội là lớn nhất vì mạng xã hội đang đua tranh với báo chí trong việc thông tin. Vì vậy, báo chí cần tiếp tục đổi mới về phương thức nghề nghiệp, cải tiến mạnh mẽ hơn nữa, tận dụng những lợi thế về công nghệ thông tin bởi công nghệ thông tin mang lại rất nhiều lợi ích cho tất cả các hoạt động của xã hội, trong đó có báo chí. Vì vậy, báo chí phải hơn ai hết tiếp cận được những thành tựu về công nghệ thông tin để áp dụng cho sự phát triển. Các cơ quan báo chí không thể hoạt động chỉ với những phương tiện truyền thống như trước đây, mà cần phải đổi mới về công nghệ, đổi mới về thiết bị cơ sở vật chất theo hướng ngày càng hiện đại và chuyên nghiệp hơn. Mỗi cơ quan báo chí, mỗi nhà báo cần phải nhận thức được những thách thức trong thời đại truyền thông kỹ thuật số để chuẩn bị một tâm thế cần thiết; từ đó thấy được nhu cầu phải đổi mới, phải cải tiến, nâng cao chất lượng của các ấn phẩm của các sản phẩm báo chí.

Với góc nhìn của một người đứng đầu cơ quan báo chí, Tiến sĩ Nguyễn Công Dũng, Tổng Biên tập Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: Để báo chí thực sự là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng, là lực lượng xung kích trên mặt trận thông tin, tuyên truyền, cần thực hiện 5 giải pháp chính: Tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh; các cơ quan báo chí phải hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, nâng cao chất lượng nội dung; chú trọng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; bám sát Nghị quyết của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phát huy vai trò trong hội nhập quốc tế; rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực chuyên môn, phấn đấu vì nền báo chí chuyên nghiệp, hiện đại, là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Là người nghiên cứu và giảng dạy về báo chí - truyền thông, Tiến sĩ Đỗ Anh Đức, Giảng viên Viện Đào tạo Báo chí - Truyền thông (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) cho hay, nhiều tòa soạn báo chí đang phải đối mặt với các thách thức không nhỏ về năng lực cạnh tranh với các nền tảng truyền thông xã hội và dịch vụ trực tuyến. Các mô hình kinh doanh truyền thống 

Tại Hội thảo, các đại biểu, các nhà khoa học trao đổi, thảo luận xung quanh các vấn đề: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển báo chí - truyền thông Việt Nam thời kỳ mới; nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong phát triển báo chí - truyền thông Việt Nam thời kỳ mới gắn với các mục tiêu, tầm nhìn và định hướng chiến lược về phát triển đất nước đến năm 2030, định hướng đến năm 2045; đồng thời đề ra các nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong phát triển báo chí - truyền thông Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh thời kỳ mới./.

Đẩy mạnh hợp tác, kết nối về văn hóa, du lịch Việt Nam - Trung Quốc.

 Thủ tướng Phạm Minh Chính kêu gọi các doanh nghiệp văn hóa, du lịch đẩy mạnh hợp tác, kết nối hai nước về văn hóa, du lịch; góp phần thúc đẩy hợp tác văn hóa, du lịch Việt Nam và Trung Quốc ngày càng phát triển.

Trong khuôn khổ dự Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác tiểu vùng Mekong mở rộng lần thứ 8 và công tác tại Trung Quốc, chiều 8/11, Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Chương trình giới thiệu văn hóa và du lịch Việt Nam tại thành phố Trùng Khánh.

Tiếp nối thành công của Lễ hội Văn hóa-Du lịch Việt Nam ngày 5/11 tại Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Chương trình giới thiệu văn hóa và du lịch Việt Nam tại Trùng Khánh thuộc chuỗi các hoạt động của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam hướng tới kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc và Năm giao lưu nhân văn Việt - Trung 2025.

Tại chương trình, các cơ quan, doanh nghiệp hai bên đã trao đổi các biện pháp thúc đẩy hợp tác phát triển văn hóa, du lịch, thúc đẩy người dân tăng cường qua lại lẫn nhau, góp phần xây dựng cơ sở xã hội vững chắc cho quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược. Theo các ý kiến tại chương trình, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đang ở giai đoạn phát triển tốt đẹp và thuận lợi nhất từ trước đến nay. Sự tin cậy về chính trị, nền tảng hợp tác tốt đẹp về văn hóa với những giá trị đặc sắc, tiêu biểu từ hai phía… đã tạo đà phát triển mạnh mẽ cho du lịch, đầu tư, thương mại và giao lưu nhân dân trong thời gian qua.

Việt Nam và Trung Quốc có chung biên giới cả đường bộ, đường không và đường biển, rất thuận lợi cho hợp tác du lịch, trao đổi khách giữa hai nước. Việt Nam và Trung Quốc là những đất nước tươi đẹp, khí hậu đủ bốn mùa, giàu truyền thống văn hóa, lịch sử, thiên nhiên hùng vĩ, con người hiền hòa, nồng hậu, mến khách, sản phẩm du lịch phong phú, đặc sắc luôn bổ sung và hỗ trợ cho nhau và là điểm đến hấp dẫn đối với khách du lịch quốc tế.

Việt Nam có 8 di sản thế giới được UNESCO công nhận, trong đó 5 di sản văn hoá , 2 di sản thiên nhiên và 1 di sản thế giới hỗn hợp. Trong khi đó, Trung Quốc, với bề dày văn hóa và lịch sử lâu đời, phong tục tập quán tương đồng, cảnh sắc đa dạng cũng có sức hút đặc biệt đối với du khách Việt Nam. Riêng Trùng Khánh là trung tâm giao thông của khu vực, có hạ tầng cơ sở tiên tiến và hiện đại, thuận lợi cho vai trò là cửa ngõ trao đổi khách du lịch từ khu vực Tây Nam Trung Quốc đến Việt Nam và ngược lại. Thời gian qua, hợp tác văn hóa, du lịch đã và đang phát triển tích cực, ngày càng phát triển theo chiều sâu, bền vững, là nền tảng quan trọng cho các hoạt động giao thương, đầu tư và một điểm sáng trong quan hệ giữa hai nước.

Hiện trung bình có khoảng 330 chuyến bay qua lại mỗi tuần giữa Việt Nam và Trung Quốc; các tuyến du lịch giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày càng sôi động, sản phẩm liên tục được bổ sung với sự đa dạng về điểm đến, mức giá phải chăng, đáp ứng nhiều phân khúc thị trường. Trước dịch COVID-19, Trung Quốc luôn là thị trường nguồn khách lớn nhất, chiếm khoảng 30% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Năm 2019, Việt Nam đón hơn 5,8 triệu lượt khách du lịch Trung Quốc; năm 2023, đón 1,75 triệu lượt khách Trung Quốc; và chỉ trong 9 tháng đầu năm 2024, đã đón 2,7 triệu lượt khách Trung Quốc. Việt Nam cũng nằm trong 5 thị trường nước ngoài gửi nhiều khách nhất đến Trung Quốc, với 7,9 triệu lượt khách.

Tuy đã đạt được nhiều thành tựu, song hợp tác du lịch, trao đổi khách giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa tương xứng với tầm mức quan hệ và tiềm năng hợp tác to lớn giữa hai nước. Thời gian tới, cơ quan quản lý và doanh nghiệp văn hóa, du lịch hai nước sẽ tiếp tục phối hợp thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác Văn hóa và Du lịch Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2023-2027; trao đổi chính sách, kinh nghiệm phát triển du lịch; khai thác các tuyến du lịch, xây dựng các sản phẩm du lịch; khuyến khích các hãng hàng không tăng thêm chuyến bay giữa Việt Nam và Trung Quốc theo nhu cầu thị trường…

Phát biểu tại Chương trình, Thủ tướng Phạm Minh Chính bày tỏ vui mừng tới thăm Trùng Khánh, thành phố tươi đẹp bên sông Trường Giang, với thiên nhiên hùng vĩ, cảnh quan xinh đẹp, văn hóa bản sắc, ẩm thực đặc sắc, con người nghĩa tình, thành phố trẻ nhưng phát triển năng động, toàn diện, nhanh chóng. Đây là địa điểm rất phù hợp để tổ chức Chương trình giới thiệu văn hóa và du lịch Việt Nam.

Thủ tướng đánh giá cao việc tổ chức các chương trình, ngày hội văn hóa, du lịch Việt Nam tại Trung Quốc, vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa, du lịch của nhân dân hai nước, vừa góp phần củng cố tình hữu nghị "vừa là đồng chí, vừa là anh em" giữa hai nước, có ý nghĩa thiết thực, đặc biệt là trong bối cảnh hai nước chuẩn bị kỷ niệm 75 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (18/1/1950-18/1/2025).

Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ, Trung Quốc là nước láng giềng có chung đường biên giới, "núi liền núi, sông liền sông", là nước bạn bè truyền thống xã hội chủ nghĩa và có quan hệ mật thiết với Việt Nam. Trong chặng đường gần 75 năm qua, quan hệ hữu nghị "vừa là đồng chí, vừa là anh em" do các thế hệ lãnh đạo hai nước dày công vun đắp đã trở thành tài sản chung quý báu của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước.

Việt Nam luôn coi trọng việc củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc, coi đây là chủ trương nhất quán, yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược và ưu tiên hàng đầu trong đường lối đối ngoại. Việt Nam ghi nhớ sự giúp đỡ to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Cách đây 65 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Chúc mừng Trung Quốc, cảm ơn Trung Quốc, học tập Trung Quốc" và điều này đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, việc hợp tác văn hóa, du lịch giữa hai nước có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng tầm Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược với nội hàm "6 hơn". Trong đó, với nội dung thứ 3 "hợp tác thực chất sâu sắc hơn", hợp tác văn hóa-du lịch là một điểm sáng nổi bật trong quan hệ song phương thời gian qua.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hóa, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc lại những quan điểm lớn trong phát triển nền văn hóa Việt Nam: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh của đất nước; văn hóa soi đường cho quốc dân đi; văn hóa có tính dân tộc, khoa học, đại chúng; văn hóa còn thì dân tộc còn. Mặt khác, hai nước Việt Nam - Trung Quốc đều có truyền thống văn hóa-lịch sử phong phú; có nhiều điểm tương đồng về phát triển văn hóa trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc phát triển du lịch cũng gắn bó với chặt chẽ với phát triển văn hóa, hai lĩnh vực này gắn kết, bổ sung, hỗ trợ, nâng đỡ lẫn nhau, tạo điều kiện, tạo động lực, truyền cảm hứng cho nhau cùng phát triển.

Cho biết Việt Nam đang xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, Thủ tướng đề nghị hai bên tiếp tục đẩy mạnh hợp tác, kết nối sâu sắc, chặt chẽ, hiệu quả hơn về văn hóa, du lịch, xây dựng các cơ chế, chính sách khuyến khích phù hợp, chia sẻ kinh nghiệm, xây dựng hạ tầng văn hóa và du lịch, kết nối doanh nghiệp, góp phần cụ thể hóa các nội hàm mới của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc mà lãnh đạo hai Đảng, hai nước đã thống nhất.

Về phần mình, Việt Nam đang đẩy mạnh 3 đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế, xây dựng hạ tầng và đào tạo nhân lực, với định hướng "thể chế thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh". Thủ tướng khẳng định Chính phủ Việt Nam phát huy vai trò kiến tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, du lịch phát triển với tinh thần "lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ", hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, "cùng lắng nghe và thấu hiểu, cùng chia sẻ tầm nhìn và hành động, cùng làm, cùng thắng, cùng hưởng, cùng phát triển, cùng chung niềm vui, hạnh phúc và niềm tự hào".

Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng, thời gian tới, Trung Quốc sẽ vẫn là thị trường du lịch lớn nhất của Việt Nam, Thủ tướng kêu gọi các doanh nghiệp văn hóa, du lịch đẩy mạnh hợp tác, kết nối 2 nước về văn hóa, du lịch, triển khai những chương trình hợp tác, dự án cụ thể, thiết thực để góp phần thúc đẩy hợp tác văn hóa, du lịch Việt Nam và Trung Quốc ngày càng phát triển với tinh thần 20 chữ "liên kết chặt chẽ; phối hợp nhịp nhàng; hợp tác sâu rộng; bao trùm, toàn diện; hiệu quả, phù hợp".

Thủ tướng đề nghị mỗi doanh nghiệp, mỗi người dân cùng góp phần cho tình hữu nghị "vừa là đồng chí vừa là anh em" Việt Nam - Trung Quốc ngày càng đơm hoa, kết trái, mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp, cho hai nước và nhân dân hai nước.

Thủ tướng Phạm Minh Chính mong muốn và tin tưởng rằng, với sự quan tâm của Chính phủ hai nước, sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, các chủ thể liên quan, hợp tác văn hóa, du lịch giữa hai nước sẽ ngày càng thực chất, hiệu quả, bền vững.

Trong khuôn khổ Chương trình, các tập đoàn, doanh nghiệp du lịch, vận tải Việt Nam và các đối tác Trung Quốc ký kết và trao đổi 07 bản ghi nhớ hợp tác nhằm thúc đẩy thu hút, trao đổi khách hai chiều thời gian tới, trong đó có bản ghi nhớ hợp tác giữa cơ quan du lịch hai nước; giữa Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) và Công ty TNHH Du lịch và khoa học kỹ thuật Nguyên Chi Lữ Quảng Châu về phát động đưa 299.000 khách đến Việt Nam từ 2024-2030…/.


Cần mở "con đường tơ lụa" thời đại mới, hành lang thương mại mới.

 Thăm Trung tâm Logistics quốc tế Trùng Khánh, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị mở lại “con đường tơ lụa” trong thời đại mới, kiến tạo tương lai, hợp tác cùng có lợi; mở ra hành lang thương mại mới, không chỉ Việt Nam – Trung Quốc mà cả ASEAN và Trung Á và châu Âu.

Trong chương trình tham dự Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS) lần thứ 8 và công tác tại Trung Quốc, chiều 8/11, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thăm Trung tâm Logistics quốc tế Trùng Khánh, Trung Quốc và đón chuyến tàu nhanh ASEAN xuất phát từ Hà Nội tới đây.

Nằm ở vị trí trung tâm phía Tây Nam Trung Quốc, những năm gần đây, Trùng Khánh đã phát huy vai trò là trung tâm tổ chức vận tải và logistics của Trung Quốc. Trong đó, kết nối các tỉnh khu vực phía Tây Trung Quốc và các nước Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); phía Bắc kết nối với thị trường lớn ở châu Âu thông qua chuyến tàu Trung-Âu; phía Nam mở rộng ra thị trường Đông Nam Á, kết nối với ASEAN và hòa nhập với toàn cầu. Do đó, Trung tâm logistics quốc tế Trùng Khánh có vai trò quan trọng.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tham quan khu gian hàng bày bán các sản phẩm của Việt Nam; nghe giới thiệu hoạt động của Trung tâm điều hành khu logistics; thăm cầu cảng và toàn cảnh Trung tâm. Đặc biệt, Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn công tác đã đón tuyến tàu nhanh ASEAN xuất phát từ Hà Nội tới Trung tâm logistics Trùng Khánh.

Trung tâm logistics quốc tế Trùng Khánh có tổng diện tích 17,93 ha, diện tích xây dựng đạt 108.000m2. Trong đó, cảng cạn Trùng Khánh thuộc tuyến đường trên bộ nằm ở vị trí trung tâm của Khu Logistics quốc tế Trùng Khánh. Hiện nay, cảng có gần 30 công ty vận tải quốc tế chọn làm cửa ngõ để thâm nhập vào nội địa Trung Quốc.

Cảng cạn Trùng Khánh xác định mục tiêu thúc đẩy miền Tây Trung Quốc, lan tỏa tới các quốc gia và Khu vực thuộc Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Cảng có ưu thế về "tập trung hoá, xanh hoá, số hoá, thông minh hoá", hình thành 4 trung tâm là "trung tâm vận hành tuyến đường vận tải trên bộ, trên biển mới", "trung tâm điều tiết, điều phối container vận chuyển biển quốc tế, "trung tâm tập trung và điều phối logistics lạnh xuất nhập khẩu" và "trung tâm tập trung và điều phối hàng hóa xuất nhập khẩu".

Hiện nay, tuyến đường trên bộ, trên biển mới đã kết nối Trùng Khánh với phía Việt Nam bằng nhiều hình thức như liên vận đường sắt - đường biển, đường sắt xuyên biên giới, đường bộ xuyên biên giới. Cảng cạn Trùng Khánh có 7 chức năng lớn gồm: vận chuyển, lưu trữ container quốc tế; gia công, lưu trữ chuỗi đông lạnh xuất nhập khẩu, triển lãm và giao thương, tập trung và điều phối hàng hóa tiêu dùng lớn; giao nhận hàng hóa; nền tảng dịch vụ chuỗi cung ứng và dịch vụ tài chính. Thông qua liên kết với 14 kho bãi ngoại quan tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... đề phát triển kết hợp "logistics + thương mại + phát triển ngành nghề + tài chính".

Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao vị trí chiến lược và vai trò của Trung tâm logistics Trùng Khánh trong việc kết nối giao thương; mong muốn hai bên tiếp tục tăng liên kết với Việt Nam, cả đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, nhất là tuyến đường sắt liên vận quốc tế từ Việt Nam qua Trùng Khánh, Trung Quốc tới Trung Á và châu Âu để khai thác thị trường đầy tiềm năng nhưng đang khó khăn về vận tải. Cho biết vận tải đường sắt có ưu thế dung hoà được cả hàng không và đường thuỷ, với thời gian hàng hoá lưu chuyển không quá lâu và cước không quá cao, lại an toàn, Thủ tướng Phạm Minh Chính mong muốn hai bên khẩn trương đầu tư nâng cấp, tăng kết nối đường sắt để tháo gỡ nút thắt về vận tải tới Trung Á, châu Âu.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị coi trọng thời gian, trí tuệ và kết nối, mở lại “con đường tơ lụa” trong thời đại mới, kiến tạo tương lai, hợp tác cùng có lợi; mở ra hành lang thương mại mới, không chỉ Việt Nam – Trung Quốc mà cả ASEAN và Trung Á và châu Âu; đề nghị phía Trung Quốc phối hợp chặt chẽ với các đối tác Việt Nam, phát triển logistics, thúc đẩy thương mại và các ngành nghề liên quan để hàng hoá của Việt Nam tiếp cận nhiều hơn vào thị trường Trung Quốc và đưa hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đi nước thứ 3, nhất là Trung Đông, châu Âu.

Nhấn mạnh với lợi thế về vị trí địa lý, Việt Nam có chiến lược phát triển thành trung tâm trung chuyển cả hàng không và đường thuỷ, với các sân bay, cảng biển lớn đã đang và sẽ được đầu tư, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định việc phát triển logistics vừa là yêu cầu, vừa là tiềm năng, lợi thế của Việt Nam; mong muốn phía Trung Quốc hợp tác, hỗ trợ về tài chính, chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, chia sẻ kinh nghiệm quản trị và hoàn thiện thể chế… giúp Việt Nam phát triển các Trung tâm logistics tương tự.

Đây là hoạt động cuối cùng của Thủ tướng Phạm Minh Chính trong chuyến công tác tới Trung Quốc dự GMS, Hội nghị Cấp cao Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya – Mekong (ACMECS) lần thứ 10, Hội nghị Cấp cao Hợp tác Campuchia - Lào - Myanmar - Việt Nam (CLMV) lần thứ 11 và thăm làm việc tại Trung Quốc. Chiều tối cùng ngày, Thủ tướng Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam rời thành phố Trùng Khánh, lên đường về nước./.


Tạo động lực mới thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Chile tiếp tục đi vào chiều sâu.

 Vào lúc 15h45 chiều 9/11 theo giờ địa phương (rạng sáng 10/11 theo giờ Việt Nam), chuyên cơ chở Chủ tịch nước Lương Cường và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới sân bay quốc tế Arturo M. Benitez ở thủ đô Santiago de Chile, bắt đầu đầu chuyến thăm chính thức tới Cộng hoà Chile theo lời mời của Tổng thống Gabriel Boric Font.

Đón Chủ tịch nước Lương Cường cùng Đoàn đại biểu cấp cao nước ta tại sân bay Arturo M.Benitez, về phía Chile có Bộ trưởng Ngoại giao Alberto van Klaveren Stork, Đại sứ Chile tại Việt Nam Sergio Narea và một số quan chức Bộ Ngoại giao Chile. Về phía Việt Nam có Đại sứ Việt Nam tại Chile Nguyễn Việt Cường cùng các cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Chile.

Đây là chuyến thăm đầu tiên của Chủ tịch nước Việt Nam đến Chile trong vòng 15 năm qua, qua đó giúp tạo động lực mới thúc đẩy, làm sâu sắc quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Chile tiếp tục đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả. Trải qua năm tháng, dù khoảng cách địa lý xa xôi nhưng quan hệ ngoại giao Việt Nam - Chile vẫn ngày càng phát triển tốt đẹp. Quan hệ trên nhiều lĩnh vực giữa Việt Nam và Chile ngày càng gắn bó và tin cậy, thể hiện qua các chuyến thăm và tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao và lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương.

Chuyến thăm cũng nhằm tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và nâng tâm đối ngoại đa phương theo tinh thần Đại hội Đảng lần thứ XIII, góp phần thúc đẩy hòa bình, hợp tác, liên kết kinh tế và kết nối khu vực; thể hiện chủ trương nhất quán của Việt Nam luôn coi trọng và mong muốn củng cố, thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Chile.

Tối 9/11 theo giờ địa phương, tại thủ đô Santiago de Chile, Chủ tịch nước Lương Cường và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới thăm, nói chuyện với cán bộ, nhân viên Đại sứ quán và đại diện cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, làm việc và học tập tại Chile.

Phát biểu tại cuộc gặp mặt, Đại sứ Việt Nam tại Chile Nguyễn Việt Cường bày tỏ sự cảm ơn Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới cuộc sống của các cơ quan đại diện ở nước ngoài, đặc biệt là những địa bàn xa xôi như Chile, qua đó động viên tinh thần của cán bộ, nhân viên Đại sứ quán để quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó.

Báo cáo với Chủ tịch nước Lương Cường về tình hình cộng đồng, Đại sứ Nguyễn Việt Cường cho biết, cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, làm việc tại Chile dù không đông nhưng luôn biết phát huy tinh thần đoàn kết. Ngoài các cán bộ cơ quan đại diện, bà con người Việt phần lớn làm ăn, sinh sống tại các vùng miền Nam Chile, và một phần nhỏ tại thủ đô Santiago và phía bắc Chile.

Đại sứ khẳng định trên nền tảng mối quan hệ truyền thống, được vun đắp qua nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước, nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của Đại sứ quán Việt Nam tại Chile chính là việc duy trì quan hệ chính trị tốt đẹp giữa hai nước. Cán bộ, nhân viên Đại sứ quán và cộng đồng người Việt tại Chile luôn tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như vị thế ngày càng đi lên của đất nước và niềm tin vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, xây dựng một Việt Nam phát triển.

Đại sứ cam kết sẽ nỗ lực thực hiện tốt công tác đối ngoại, thúc đẩy hợp tác quốc phòng, kinh tế, thương mại tại địa bàn cũng như xây dựng một cơ quan đại diện đoàn kết, gắn bó, góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Chile.

Các ý kiến chia sẻ của đại diện cộng đồng và lưu học sinh cũng bày tỏ vui mừng và xúc động được đón tiếp Chủ tịch nước Lương Cường và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam ở một đất nước cách xa Tổ quốc nửa vòng Trái đất; khẳng định dù sinh sống, học tập và làm việc ở xa quê hương song tất cả bà con luôn nhận được tình cảm ấm áp, chân tình và đoàn kết mỗi khi gặp mặt tại ngôi nhà chung của người Việt Nam tại nước sở tại là Đại sứ quán Việt Nam.

Trong không khí thân tình, ấm áp, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chủ tịch nước Lương Cường đã gửi tới toàn thể cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống và làm việc tại Chile, các cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam và gia đình tình cảm chân thành và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Chủ tịch nước biểu dương và đánh giá cao nỗ lực, thành tích của Đại sứ quán cũng như cộng đồng người Việt tại Chile trong việc triển khai thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, góp phần tiếp tục phát triển mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Chile.

Chia sẻ với cộng đồng về tình hình trong nước, Chủ tịch nước khẳng định, mặc dù tình hình chính trị - kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, song dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện di huấn của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, Việt Nam tiếp tục giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng - an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; công tác đối ngoại được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực.

Nhấn mạnh Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời, một nguồn lực của cộng đồng dân tộc và nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước, Chủ tịch nước đề nghị Đại sứ quán tiếp tục phát huy vai trò cầu nối thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Chile.

Cùng với đó, theo Chủ tịch nước, Đại sứ quán cũng phải tiếp tục triển khai đồng bộ các mảng công tác ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa và công tác cộng đồng, trong đó ưu tiên phát huy vai trò tham mưu, đồng hành và hỗ trợ triển khai các chương trình, dự án hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước. Đồng thời, Đại sứ quán tiếp tục xây dựng tổ chức Đảng, cơ quan đại diện đoàn kết, trong sạch, vững mạnh, gìn giữ hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trước bạn bè quốc tế.

Chủ tịch nước cũng bày tỏ mong muốn Đại sứ quán hỗ trợ kịp thời cho các bà con, đồng bào chúng ta tại nước sở tại cũng như địa bàn kiêm nhiệm; đồng thời hy vọng cộng đồng người Việt tại Chile, mặc dù với số lượng còn khiêm tốn, vẫn luôn đoàn kết, duy trì quan hệ gắn bó, giữ liên lạc thường xuyên và nhiệt tình tham gia các hoạt động hướng về cội nguồn./.

Ngày hội Đại đoàn kết thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc.

 Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nêu rõ: Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành nền nếp hằng năm, là dịp để ôn lại truyền thống vẻ vang của Mặt trận, thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc. Ngày hội năm nay càng có ý nghĩa hơn khi Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ 10, nhiệm kỳ 2024 - 2029 thành công rất tốt đẹp.

Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2024), sáng 10/11, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại Khu dân cư thôn Lời, xã Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

Cùng chung vui với bà con tại Ngày hội có các Ủy viên Trung ương Đảng: Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm; Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh; Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh; Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Hà Nam Lê Thị Thủy.

Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, nhân dân tỉnh Hà Nam, huyện Thanh Liêm, xã Thanh Hương và thôn Lời đã ôn lại truyền thống của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong 94 năm qua; báo cáo kết quả thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” năm 2024.

Năm qua, mặc dù có khó khăn nhưng với sự quyết tâm của Ban vận động, Ban công tác Mặt trận thôn Lời đã thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, mục tiêu Nghị quyết Đảng bộ, kế hoạch UBND xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã giao trong năm 2024.

Ban công tác Mặt trận thôn đã tập trung tuyên truyền 5 nội dung của cuộc vận động và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Qua đó, nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo sự lan tỏa đồng thuận, thống nhất cao trong xã hội, khơi dậy tính tích cực, sáng tạo của tầng lớp nhân dân. Đời sống nhân dân ngày càng cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững.

Về dự Ngày hội, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn bày tỏ vui mừng trước những kết quả nổi bật trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, xây dựng hệ thống chính trị mà Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, nhân dân tỉnh Hà Nam, huyện Thanh Liêm, xã Thanh Hương và thôn Lời đã đạt được thời gian qua.

Tỉnh Hà Nam là một trong những địa phương có sự phát triển kinh tế - xã hội khá cao. Trong 9 tháng năm 2024, tốc độ tăng trưởng GRDP tăng 10,89%, đạt mức tăng trưởng cao nhất vùng đồng bằng Sông Hồng và đứng thứ 4 cả nước. Thu ngân sách đạt gần 10.000 tỷ đồng, tăng 24,9%. Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh còn 2,01%.

Đối với xã Thanh Hương, thu nhập bình quân đầu người đạt 58,6 triệu đồng. Đối với thôn Lời, đời sống nhân dân được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người đạt 75 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình văn hóa cao (97,9%)…

Chủ tịch Quốc hội đánh giá, bên cạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị, tỉnh Hà Nam còn rất quan tâm đến vấn đề xây dựng nông thôn mới. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động trong nhiều năm qua đạt kết quả tích cực. Hà Nam cũng là địa phương được Trung ương công nhận hoàn thành xây dựng nông thôn mới. Huyện Thanh Liêm, xã Thanh Hương, khu dân cư thôn Lời đã tập trung xây dựng nông thôn mới nâng cao với mục tiêu đem lại lợi ích thiết thực, nâng cao hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. 

Chủ tịch Quốc hội vui mừng khi được thấy đường làng, ngõ xóm sạch đẹp, đặc biệt là không khí đoàn kết, vui tươi, phấn khởi, thân tình của nhân dân nơi đây. Huyện Thanh Liêm đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa phong phú. Cho biết dự kiến tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội sẽ thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035 với mục tiêu phát huy được giá trị văn hóa ở xã, ở huyện, ở tỉnh và ở Trung ương, giữ gìn di sản văn hóa, phát huy giá trị văn hóa con người, Chủ tịch Quốc hội đề nghị huyện Thanh Liêm cần hết sức gìn giữ, tạo chuyển biến tích cực trong xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa, môi trường văn hóa, chung sức, đồng lòng xây dựng quê hương ngày càng phát triển giàu mạnh.

Chủ tịch Quốc hội nêu rõ: Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành nền nếp hằng năm, là dịp để ôn lại truyền thống vẻ vang của Mặt trận, thể hiện tinh thần đoàn kết dân tộc. Ngày hội năm nay càng có ý nghĩa hơn khi Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ 10, nhiệm kỳ 2024 - 2029 thành công rất tốt đẹp.

Thông tin với bà con về tình hình kinh tế - xã hội, Chủ tịch Quốc hội cho biết, năm 2024, tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp; trong nước đối mặt với nhiều khó khăn do thiên tai, bão lũ, nhất là cơn bão số 3, mưa lũ sau bão đã gây thiệt hại nặng nề tại một số tỉnh, thành phố phía Bắc và miền Trung. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước, sự đồng thuận của nhân dân, kết quả dự kiến năm 2024 đạt 14/15 chỉ tiêu về kinh tế - xã hội; tăng trưởng GDP đạt 6,82%; ước cả năm đạt 6,8 - 7%. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.400 USD. Đảng, Nhà nước rất quan tâm đến người nghèo, gia đình chính sách; triển khai chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước...

Bên cạnh đó, kinh tế - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh đảm bảo; công tác đối ngoại được tăng cường; vị thế, uy tín của Việt Nam được nâng cao. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được đặc biệt quan tâm, làm cho hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ngày càng được củng cố, tăng cường.

Tuy nhiên, Chủ tịch Quốc hội chỉ rõ những mặt hạn chế, như cơ sở hạ tầng đầu tư chưa đồng bộ, ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất chưa nhiều; cần quan tâm chăm lo hơn nữa cho người nghèo, cận nghèo…

Chủ tịch Quốc hội đề nghị Đảng bộ, chính quyền nhân dân tỉnh Hà Nam, huyện Thanh Liêm, xã Thanh Hương và khu dân cư thôn Lời quyết tâm, nỗ lực phấn đấu cao hơn nữa, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, của huyện để đẩy nhanh tăng trưởng trong thời gian tới.

Chủ tịch Quốc hội mong muốn tỉnh Hà Nam, huyện Thanh Liêm, xã Thanh Hương quan tâm kiện toàn, đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc để xây dựng hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc vững mạnh.

Chủ tịch Quốc hội cho biết, vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết quan trọng về chủ trương tiếp tục tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Tới đây, Trung ương sẽ thực hiện mạnh mẽ chủ trương này. Chủ tịch Quốc hội đề nghị các địa phương quan tâm thực hiện, nhân dân tăng cường giám sát hoạt động của bộ máy.

Chủ tịch Quốc hội yêu cầu tổ chức tốt hơn nữa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, các phong trào thi đua yêu nước do Thủ tướng Chính phủ đã ban hành, Chỉ thị số 39 ngày 15/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước chào mừng Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ XI.

Chủ tịch Quốc hội lưu ý, thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”. Đồng thời, chăm lo cho gia đình chính sách, gia đình người có công, chăm lo cho các hộ nghèo để ổn định cuộc sống vật chất, tinh thần của người dân ở trong huyện, trong xã, trong thôn.

Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị tiếp tục nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến, giúp nhau giảm nghèo bền vững; vận động, sử dụng hiệu quả quỹ "Vì người nghèo - an sinh xã hội", quyết tâm trong thôn không còn hộ nghèo, hộ đã thoát nghèo ngày càng khá hơn; tiếp tục xây dựng nếp sống văn hóa, phát huy hơn nữa truyền thống tương thân, tương ái; đẩy mạnh phong trào hiếu học, khuyến học, khuyến tài vì ngày mai phát triển...

Tại Ngày hội, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã trao quà tặng cán bộ, nhân dân thôn Lời; trao quà tặng 25 gia đình chính sách, các hộ nghèo, cận nghèo và quà tặng Quỹ Khuyến học của thôn./.