Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024

NHẬN DIỆN VÀ XỬ LÝ NHỮNG VẤN ĐỀ PHỨC TẠP, NHẠY CẢM TRONG SÁCH TÔN GIÁO

         Theo thống kê, từ năm 2018 - 2023, nước ta đã có hơn 2.000 ấn phẩm về tôn giáo được cấp phép xuất bản, trong đó có nhiều xuất bản phẩm được dịch ra tiếng Anh, Pháp. Bên cạnh những cuốn sách tôn giáo giúp lan toả các giá trị tích cực của các giáo lý thì vẫn còn những cuốn sách xuất hiện các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, đặt ra yêu cầu cần phải nhận diện và xử lý kịp thời.

Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, các tôn giáo cùng tồn tại và bình đẳng trước pháp luật. Tính đến tháng 5 năm 2024, nhà nước ta đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo, với trên 27 triệu đồng bào theo đạo (chiếm 27% dân số cả nước). Một số tôn giáo tiêu biểu ở nước ta có thể kể đến là: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao đài, Phật giáo Hòa Hảo, Hồi giáo, Tôn giáo Baha’I, Tịnh độ Cư sỹ Phật hộ... Trên thực tế, với bất kỳ một tôn giáo nào, nhiệm vụ truyền giáo, mở rộng đạo là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn. Truyền giáo có sự khác nhau giữa các thời kỳ lịch sử và bị quy định bởi những đặc trưng riêng của thời đại đó. Ngày nay, bên cạnh những cách thức truyền đạo hiện đại thì cách thức truyền thống vẫn luôn có vị trí nhất định, nhất là hình thức truyền đạo qua sách tôn giáo.

1. Thực trạng xuất bản sách tôn giáo

Nước ta đã có những điều khoản riêng về vấn đề xuất bản ấn phẩm tôn giáo, đảm bảo đúng theo đường lối chính trị, tư tưởng của Đảng, tránh sự xung đột và mâu thuẫn về nội dung hay các nền văn hóa khác nhau. Hoạt động in, xuất bản các loại kinh, sách và các xuất bản phẩm tôn giáo; sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm, đồ dùng được hướng dẫn tại Mục IV Thông tư 01/1999/TT-TGCP hướng dẫn Nghị định 26/1999/NĐ-CP về các hoạt động tôn giáo do Ban Tôn giáo Chính phủ ban hành, theo đó:

Thứ nhất, Nhà nước cho phép các tổ chức tôn giáo được in, xuất bản các loại sách kinh, các ấn phẩm tôn giáo; được sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng việc đạo.

Thứ hai, các thủ tục hành chính cho việc in, xuất bản, sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo theo những quy định sau đây:

- Thủ tục hành chính về in, xuất bản các loại kinh, ấn phẩm tôn giáo.

Tổ chức tôn giáo có nhu cầu cần in, xuất bản các loại kinh, sách, văn hoá phẩm có nội dung tôn giáo phải đăng ký đề tài xuất bản với Nhà xuất bản Tôn giáo trực thuộc Ban Tôn giáo của Chính phủ.

Trong thời gian 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn, Giám đốc Nhà xuất bản Tôn giáo có trách nhiệm giải quyết và trả lời bằng văn bản.

Nghiêm cấm việc chuyển, nhượng giấy phép xuất bản dưới bất cứ hình thức nào (Điều 9 - Nghị định 79/CP ngày 6/11/1993 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật Xuất bản).

- Thủ tục hành chính về xuất, nhập khẩu văn hoá có nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những đồ dùng trong việc đạo:

Các tổ chức tôn giáo thuộc Trung ương hoặc thuộc địa phương và những người thuộc các tổ chức đó xuất văn hoá phẩm có nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những hiện vật phục vụ cho công việc tôn giáo, nếu có văn bản đồng ý của Ban Tôn giáo của Chính phủ (ở Trung ương) hoặc Ban Tôn giáo của ủy ban nhân dân cấp tỉnh (ở địa phương) thì cơ quan văn hoá sẽ cấp giấy phép làm thủ tục hải quan (Điều 4 - Quyết định 893 QĐ-CP ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hoá Thông tin Thể thao quy định về xuất, nhập khẩu văn hoá phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh).

Các tổ chức tôn giáo thuộc Trung ương hoặc thuộc địa phương và những người thuộc các tổ chức đó, nhập văn hoá phẩm nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những hiện vật phục vụ cho công việc tôn giáo phải làm đơn xin phép trước, nếu được sự đồng ý bằng văn bản của Ban Tôn giáo của Chính phủ (ở Trung ương) hoặc Ban Tôn giáo của ủy ban nhân dân cấp tỉnh (ở địa phương) thì cơ quan văn hoá sẽ cấp giấy phép nhập khẩu (Điều 10 - Quyết định 893/QĐ-CP ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hoá Thông tin Thể thao quy định về xuất, nhập khẩu văn hoá phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh).

- Những trường hợp xuất bản, kinh doanh, lưu hành, tàng trữ, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm trái quy định của pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: cảnh cáo (Điều 12); phạt tiền (Điều 13); tước quyền sử dụng giấy phép (Điều 14); tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (Điều 15) hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 215/BLHS và các điều khác có liên quan).

Trong năm 2023, theo thống kê của Cục Xuất bản – In ấn và phát hành, Nhà xuất bản Tôn giáo xuất bản tổng cộng 141 xuất bản phẩm, trong đó có 64 xuất bản phẩm về Phật giáo (bao gồm 18 đầu sách là kinh điển Phật giáo, số đầu sách còn lại thuộc thể loại khác liên quan đến Phật giáo như lịch, sách chủ đề Phật giáo, các văn bản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam), 72 xuất bản phẩm về Công giáo (trong đó 22 đầu sách là kinh điển Công giáo, số đầu sách còn lại thuộc thể loại khác như sách chủ đề Công giáo, sách dành cho các dân tộc thiểu số, lịch...), 5 xuất bản phẩm về Đạo Cao đài (trong đó có 4 đầu sách và 1 sản phẩm lịch). Mặc dù số lượng sách tôn giáo so với các dòng sách khác là tương đối khiêm tốn nhưng xét tổng thể, sách tôn giáo đã làm khá tốt vai trò hỗ trợ cho việc truyền bá các giáo lý, giáo điểm đến các tín đồ.

. Những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo

- Sự xuyên tạc, chống phá Đảng và nhà nước

Đối với các thế lực thù địch, tôn giáo được sử dụng như một "cớ" để xuyên tạc, nhằm chống phá Đảng, chế độ, đoàn kết dân tộc và đoàn kết tôn giáo, gây chia rẽ, lo lắng, kích động bạo loạn,... Một vấn đề nhỏ trong lĩnh vực tôn giáo cũng có thể bị phóng đại, bóp méo và xuyên tạc trở nên nghiêm trọng; một sự kiện tôn giáo ở một khu vực hay địa phương cũng dễ trở thành vấn đề quốc tế; một sự việc ban đầu chỉ là hiện tượng nhỏ có thể bị xuyên tạc bản chất biến thành vấn đề lớn; một câu chuyện ban đầu rất bình thường lại có thể trở nên phức tạp.

Sách là một trong những công cụ lí tưởng thường được các đối tượng thù địch sử dụng để lồng ghép, đan xen các tư tưởng gây tranh cãi về tôn giáo, kích động tranh cãi hoặc gây xung đột giữa các tôn giáo nhằm chống phá Đảng, Nhà nước. Trên thực tế, đã có những cuốn sách mang danh phục vụ việc truyền bá văn hoá để cài cắm tư tưởng phản động, thù địch, gây chia rẽ các tôn giáo, làm suy giảm niềm tin của các tín đồ vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước(1). Chính vì vậy, khi thẩm định bản thảo sách tôn giáo, bản thân biên tập viên phải có kiến thức, sự am hiểu nhất định và sự nhạy cảm với các vấn đề tôn giáo được đề cập đến trong sách. Bởi lẽ, chỉ cần một chút sơ xuất trong vấn đề về tôn giáo, có thể gây ra một cuộc tranh cãi lớn, khiến sách có thể bị thu hồi và tiêu huỷ.

- Sự thiếu tôn trọng đạo lý và giáo điểm

Đạo lý và giáo điểm đóng vai trò quan trọng trong một tôn giáo vì chúng hướng dẫn và định hình cách sống và hành xử của người theo tôn giáo đó. Đạo lý là những nguyên tắc và giá trị cốt lõi mà tôn giáo đặt ra để hướng dẫn con người trong việc định hình ý thức, đạo đức và quyết định hành động. Giáo điểm là các quy tắc và nghi thức mà tôn giáo thiết lập để thể hiện sự tôn trọng và sự kính trọng đối với thần linh và cộng đồng tôn giáo. Sự tuân thủ và thực hành đạo lý, giáo điểm giúp người theo tôn giáo duy trì và phát triển mối quan hệ với thần linh và cộng đồng tôn giáo, cũng như tạo nền tảng cho sự phát triển cá nhân và đạo đức của họ. Việc xuất bản một cuốn sách không đảm bảo được sự tôn trọng đạo lý và giáo điềm của một tôn giáo có thể gây ra tranh cãi, thậm chí là một cuộc xung đột.

Tôn trọng đạo lý và giáo điểm đồng nghĩa với việc hiểu và đánh giá cao các nguyên tắc, giáo lý và giá trị cốt lõi của một tôn giáo cụ thể. Nó bao gồm sự tôn trọng và không phê phán các quy tắc, quyền hạn, và niềm tin của tôn giáo đó. Mỗi tôn giáo có thể có nhiều hướng tiếp cận và diễn giải khác nhau về đạo lí và giáo điểm. Sách tôn giáo cần thể hiện sự linh hoạt trong việc trình bày các quan điểm và diễn giải khác nhau, đồng thời tôn trọng sự đa dạng này. Khi biên tập sách có nội dung về tôn giáo, biên tập viên có trách nhiệm phải nghiên cứu và hiểu rõ về đạo lý và giáo điểm của tôn giáo được đề cập đến trong sách, tránh việc biến tướng hoặc xúc phạm các giáo điểm, khiến tranh cãi nổ ra. Ví dụ như đã có sách tôn giáo gây sự bức xúc và phẫn nộ cho độc giả khi ngoài bìa là hình ảnh của Phật pháp nhưng bên trong lại toàn những chi tiết miêu tả về tính dục với ngôn ngữ dung tục và giọng điệu cợt nhả, châm biếm.

- Sự vi phạm bản quyền

Vấn đề bản quyền đối với sách tôn giáo là một chủ đề phức tạp, luôn thu hút được sự quan tâm của đông đảo độc giả. Đối với sách tôn giáo, việc bảo vệ bản quyền có thể có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo sự tôn trọng và bảo vệ những giá trị tôn giáo. Tuy nhiên, việc áp dụng bản quyền trong lĩnh vực tôn giáo cũng đặt ra nhiều thách thức. Một số tôn giáo coi các văn bản tôn giáo là công cộng và không thuộc quyền sở hữu cá nhân. Ví dụ, đã có cuốn sách tôn giáo xuất bản trong nước vào năm 2023 được phát hiện chỉ là sự cóp nhặt, lắp ghép một cách lộ liễu, sống sượng từ một ấn phẩm khác đã xuất bản ở nước ngoài. Toàn bộ nội dung cuốn sách được lấy từ một sách khác đã từng xuất bản tại Úc. Khi sao chép lại, cuốn sách vi phạm thậm chí còn cài vào những chi tiết có tính xuyên tạc tôn giáo nghiêm trọng. Việc vi phạm bản quyền đối với sách tôn giáo đòi hỏi phải được xem xét dựa trên cả các quy định pháp luật và quyền lợi của tác giả cùng với quyền tự do tôn giáo.

- Sự đánh giá sai lệch về văn hoá

Sách tôn giáo thường chứa những giá trị, quan điểm và truyền thống văn hóa của một tôn giáo cụ thể. Việc tôn trọng và đánh giá đúng giá trị của các yếu tố văn hóa trong sách tôn giáo là rất quan trọng, để không gây xúc phạm hay phân biệt đối với các tôn giáo và cộng đồng. Bên cạnh đó, sách tôn giáo thường liên quan đến các khía cạnh tôn giáo nhạy cảm như tín ngưỡng, thần thoại, tôn giáo và các bí quyết tôn giáo. Việc hiểu và tôn trọng sự thiêng liêng và đặc biệt của những khía cạnh này là rất quan trọng để tránh việc xâm phạm hoặc làm tổn thương tôn giáo và cộng đồng.

Một cuốn sách tôn giáo chuẩn mực cần phải tránh được những đánh giá sai lệch về một tôn giáo hoặc văn hóa cụ thể. Bởi lẽ, mỗi tôn giáo và văn hóa có đặc điểm riêng, hệ quy chuẩn riêng. Ví dụ, trên thế giới, đã có sách phê phán và châm biếm đối với Islam và các giá trị tôn giáo của Hồi giáo. Cuốn sách đưa ra những tưởng tượng và tác phẩm hư cấu liên quan đến các sự kiện lịch sử và tôn giáo quan trọng trong Islam. Cuốn sách đã gây ra sự phẫn nộ và xúc phạm đối với cộng đồng người Hồi giáo bởi họ cho rằng nó xâm phạm vào niềm tin tôn giáo và thiêng liêng của họ.

. Một số giải pháp nhằm ngăn chặn, phòng ngừa và đấu tranh với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của đội ngũ biên tập viên về âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch đối với nước ta trên mọi mặt trận, nhất là mặt trận văn hoá tư tưởng. Từ việc nhận thức và đánh giá chính xác về các âm mưu, thủ đoạn, biên tập viên càng phải nâng cao ý thức cảnh giác trước những hình thức chống phá khác nhau của các thế lực thù địch nhằm lật đổ chế độ Nhà nước ta hoặc làm cho nước ta kiệt quệ buộc phải đi theo quỹ đạo của chúng, lệ thuộc vào chúng. Mỗi biên tập viên cần luôn luôn có ý thức thường trực trong tiếp cận và xử lý các bản thảo nhạy cảm, phức tạp.

Thứ hai, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức toàn diện đối với đội ngũ biên tập viên sách tôn giáo, nhất là kiến thức về tôn giáo, lý luận chính trị, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời đại nhiều biến động phức tạp và khó lường. Có kế hoạch, chương trình bồi dưỡng biên tập viên về lịch sử dân tộc, lịch sử các tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo trong việc truyền bá lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Từ đó, giúp các biên tập viên đủ bản lĩnh và kiến thức để làm việc với các cộng tác viên, tác giả, đủ kỹ năng và sự nhanh nhạy để xử lý các vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong khâu biên tập.

Thứ ba, các biên tập viên và nhà xuất bản cần có sự lựa chọn sáng suốt, tìm ra các cộng tác viên trong và ngoài nước đủ uy tín và sự nhạy cảm chính trị để tổ chức các bản thảo sách tôn giáo. Cần chú ý rằng, quá trình xuất bản sách tôn giáo phải vừa phải thể hiện cá tính sáng tạo của cộng tác viên tài năng nhưng cũng vừa phải có sự tham vấn của các chuyên gia có kinh nghiệm để hạn chế những phức tạp, rủi ro có thể xảy ra trong bản thảo do vô tình hay cố ý của họ. Với những người thuộc nhóm đối tượng có nguy cơ cao, dễ nảy sinh ý thức chống đối, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng thì cần phải nâng cao cảnh giác, cẩn trọng trong tiếp nhận và biên tập.

Thứ tư, lãnh đạo các Nhà xuất bản cần có quy trình biên tập chặt chẽ, khoa học, nhất là biên tập, phát hành sách tôn giáo trên các nền tảng số, không để lọt những bản thảo có nội dung xấu chống phá nhà nước, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng khi xuất bản, phát hành. Chú ý khi có những bản thảo có nội dung phức tạp về chính trị, về tôn giáo, về dân tộc… cần tổ chức Hội đồng thẩm định của Nhà xuất bản để tranh luận khoa học, dân chủ trước khi quyết định.

Thứ năm, trong quá trình làm việc, theo định kỳ mỗi tháng, mỗi quý hoặc mỗi năm, lãnh đạo Nhà xuất bản nên phối hợp với cơ quan an ninh bảo vệ chính trị nội bộ để liên tục cập nhật, tuyên truyền, phổ biến âm mưu, thủ đoạn mới của thế lực thù địch đối với nước ta, giúp các biên tập viên, cán bộ Nhà xuất bản nâng cao cảnh giác và ý thức chính trị khi làm việc./.

 

Từng bước định hình đặc trưng tiêu biểu của văn hóa kinh doanh Việt Nam.

 Trong thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, tăng nhanh về số lượng và quy mô, đóng góp quan trọng trong thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực xây dựng văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, tạo nên sức mạnh mềm, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững.


Ngày 10/11/2024, Hiệp hội Phát triển văn hoá doanh nghiệp Việt Nam tổ chức Diễn đàn quốc gia thường niên "Văn hóa với Doanh nghiệp" và Chương trình xét, công nhận doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa kinh doanh Việt Nam năm 2024.

Diễn đàn là một trong chuỗi các hoạt động thiết thực nhằm triển khai Cuộc vận động "Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam", đồng thời là sự kiện có ý nghĩa để chào mừng Ngày Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam 10/11 hằng năm. Diễn đàn góp phần hiện thực hóa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nhân, thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Diễn đàn là nơi các doanh nghiệp giao lưu, học hỏi, trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm hữu ích trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp hướng tới phát triển bền vững. Diễn đàn cũng là dịp để Lãnh đạo Đảng và Nhà nước gặp gỡ, trao đổi với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, lắng nghe các kiến nghị, đề xuất về cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp; tôn vinh các doanh nghiệp đạt chuẩn Văn hoá kinh doanh Việt Nam; lan tỏa sâu rộng Cuộc vận động “Xây dựng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam” do Thủ tướng Chính phủ phát động.

Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) Trịnh Thị Thủy nhấn mạnh, tiếp nối thành công của các kỳ Diễn đàn những năm qua, Bộ VHTTDL tiếp tục phối hợp với Hiệp hội phát triển văn hoá doanh nghiệp Việt Nam tổ chức Diễn đàn với chủ đề “Kinh doanh trong môi trường đa văn hóa”. Đây là hoạt động có ý nghĩa nhằm góp phần hiện thực hóa các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ về xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đồng thời tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn hoá trong việc góp phần kiến tạo môi trường kinh doanh, phục hồi và phát triển kinh tế bền vững, tôn vinh các doanh nghiệp có thành tích xuất sắc trong xây dựng và thực hành văn hoá doanh nghiệp, hưởng ứng tích cực Cuộc vận động “Xây dựng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam” do Thủ tướng Chính phủ phát động.

Thứ trưởng nhấn mạnh, trong thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, tăng nhanh về số lượng và quy mô, đóng góp quan trọng trong thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều doanh nghiệp nỗ lực xây dựng văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, tạo nên sức mạnh mềm, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững.

"Trong giai đoạn hiện nay, trước các cơ hội, thách thức đặt ra, chúng ta đã xác định văn hóa là nguồn lực nội sinh; bảo vệ bản sắc văn hóa, phát huy tiềm năng, sức mạnh văn hóa dân tộc trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh là giải pháp quan trọng để phát triển đất nước. Mỗi doanh nghiệp trở thành những đại sứ quảng bá giá trị văn hóa, con người Việt Nam ra thế giới, lan toả “sức mạnh mềm” của văn hoá Việt Nam”, Thứ trưởng Trịnh Thị Thủy khẳng định.

Điểm nhấn của Diễn đàn gồm tọa đàm với chủ đề “Kinh doanh trong môi trường đa văn hóa”. Nội dung Tọa đàm diễn ra trong 2 phiên thảo luận. Phiên 1 với chủ đề "Môi trường đa văn hoá trong bối cảnh kinh doanh toàn cầu" tập trung trao đổi, thảo luận về các vấn đề chính như: Đặc điểm, tác động của môi trường đa văn hóa đến hoạt động kinh doanh; Thách thức và cơ hội của doanh nghiệp trong môi trường đa văn hóa; Kinh nghiệm quản trị đa văn hóa của một số doanh nghiệp thành công; Giải pháp nâng cao năng lực thích ứng và phát triển trong môi trường kinh doanh đa văn hóa; Đề xuất kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan, ban, ngành.

Phiên 2 với chủ đề "Doanh nghiệp thời 4.0: Chuyển đổi văn hoá số tạo nên sự khác biệt" tập trung trao đổi, thảo luận về vai trò của văn hóa số trong môi trường kinh doanh thời đại 4.0; Những thay đổi căn bản về văn hóa doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi số; Kinh nghiệm xây dựng và phát triển văn hóa số từ một số doanh nghiệp tiên phong; Giải pháp thúc đẩy chuyển đổi văn hóa số hiệu quả; Định hướng và chiến lược phát triển văn hóa số tạo lợi thế cạnh tranh bền vững.

Nhân dịp này, Chương trình cũng biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc hưởng ứng Cuộc vận động "Xây dựng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam". Biểu dương và trao tặng Bằng khen cho 6 doanh nghiệp, 1 diễn đàn, 19 phóng viên báo, đài có những đóng góp tích cực trong việc lan tỏa Cuộc vận động Xây dựng văn hoá doanh nghiệp Việt Nam trên phạm vi cả nước và ở nước ngoài.

Lễ tôn vinh và trao chứng nhận "Doanh nghiệp đạt chuẩn Văn hoá kinh doanh Việt Nam" năm 2024, vinh danh và trao chứng nhận cho 20 "Doanh nghiệp đạt chuẩn Văn hoá kinh doanh Việt Nam" năm 2024. Đây là các doanh nghiệp đã đáp ứng xuất sắc các tiêu chuẩn của Bộ tiêu chí văn hóa kinh doanh Việt Nam do Hội đồng quốc gia xét chọn. Bộ tiêu chí đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành tham gia xây dựng và có sự đóng góp trí tuệ, tâm huyết của các nhà khoa học, chuyên gia, đại diện doanh nghiệp và cơ quan báo chí.

Các hoạt động của Diễn đàn sẽ góp phần tích cực vào việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ở trong và ngoài nước, từng bước định hình những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa kinh doanh Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập quốc tế và thời đại 4.0 hiện nay./.


“NHẠT ĐẢNG, KHÔ ĐOÀN, XA RỜI CHÍNH TRỊ” - CĂN BỆNH CẦN CHỮA TRỊ KỊP THỜI VÀ TRIỆT ĐỂ

Thanh niên Quân đội (TNQĐ) có vai trò nòng cốt trong nhiệm vụ xây dựng Quân đội, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu mắc phải căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” cần phải chữa trị kịp thời và triệt để, bởi đây là căn bệnh đặc biệt nguy hiểm, làm cho TNQĐ mất đi sức chiến đấu, không giữ được vai trò tiên phong, thậm chí quay lưng với đất nước, nhân dân. Tăng cường “sức đề kháng” để phòng, chống và loại bỏ căn bệnh này nhằm góp phần xây dựng thế hệ trẻ trong Quân đội có bản lĩnh vững vàng, ý thức trách nhiệm cao, không dao động trước mọi khó khăn, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin của Đảng và Nhân dân giao phó.

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”[1]. Với đặc thù về yêu cầu nhiệm vụ quân sự, TNQĐ là bộ phận ưu tú, được kỳ vọng là lực lượng xung kích, luôn tiên phong đi đầu của thanh niên cả nước. Trong quá khứ, hiện tại và tương lai, TNQĐ là những người trực tiếp cầm súng bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhân dân, họ luôn mang trong mình khát vọng cống hiến, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng TNQĐ là nhiệm vụ quan trọng, tạo nên động lực to lớn trong xây dựng Quân đội nói riêng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung. Đặc biệt trong điều kiện các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để thúc đẩy nhanh quá trình “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” của thanh niên nói chung và TNQĐ nói riêng.

 

Bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” trong TNQĐ – triệu chứng và những hệ lụy khôn lường

 

Tháng 12 năm 2017, trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ XI, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến cụm từ “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”, với ý nghĩa nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của công tác định hướng giáo dục, định hướng lý tưởng cách mạng cho thế hệ thanh niên, đồng thời tạo cho thanh niên “sức đề kháng” mạnh mẽ trước những mặt trái của xã hội, biểu hiện tiêu cực và sự xuyên tạc chống phá của các thế lực thù địch.

 

“Nhạt Đảng” tức là nhận thức sai lệch, chưa đầy đủ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta, thiếu niềm tin vào con đường cách mạng của dân tộc, không kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đối với Quân đội, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách thúc đẩy “nhạt Đảng”, đây là một phần của âm mưu “phi chính hóa Quân đội” - phủ nhận nguyên tắc “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội”, hòng tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, đối tượng chính chúng hướng đến chính là TNQĐ. Biểu hiện của “nhạt Đảng” đó là thanh niên lười phấn đấu để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoặc khi đã trở thành đảng viên thì cầm chừng, thỏa mãn, ngại học, ngại rèn.

 

Cụm từ “khô Đoàn” chỉ sự mờ nhạt của tổ chức Đoàn Thanh niên, tức là Đoàn chưa thể hiện được vai trò trong việc giáo dục, định hướng đoàn viên thanh niên, chưa phát huy chức năng là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên, chưa khơi dậy được niềm tin, khát vọng và tinh thần xung kích đi đầu của đoàn viên trong thực hiện các nhiệm vụ. Biểu hiện cụ thể của “khô Đoàn” đó là: Thanh niên chưa nhận thức đầy đủ vai trò, chức năng của tổ chức Đoàn, thiếu niềm tin vào nghị quyết, chương trình hành động của tổ chức Đoàn các cấp, không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ điều lệ Đoàn, trốn tránh sinh hoạt đoàn hoặc có tham gia sinh hoạt nhưng chiếu lệ, qua loa.

 

“Xa rời chính trị” về bản chất có thể hiểu là việc xây dựng bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của việc rèn luyện phẩm chất chính trị cũng như học tập lý luận chính trị, không dám đấu tranh trước biểu hiện sai trái. Mức độ nguy hiểm hơn của “xa rời chính trị” đó chính là sự lệch lạc trong nhận thức dẫn đến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đi ngược lại với chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Biểu hiện của “xa rời chính trị” đó là còn mơ hồ về lý tưởng cách mạng, lười học tập chính trị, không có chí hướng rõ ràng, thiếu ý chí phấn đấu, chưa kiên định trước khó khăn, thử thách, thậm chí sa vào chủ nghĩa cá nhân, thờ ơ, vô cảm, không quan tâm đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, dễ bị lôi kéo, kích động tham gia vào các hoạt động vi phạm pháp luật...

 

“Nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” là con đường ngắn nhất dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong TNQĐ. Bởi vì, khi đã mắc phải “căn bệnh” này tất yếu sẽ dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng cách mạng, thậm chí dẫn đến “chệch hướng xã hội chủ nghĩa”. Đây luôn là nguy cơ được đánh giá có mức nguy hiểm cao nhất, được Đảng đặc biệt quan tâm và thể hiện trong các chỉ thị, nghị quyết. Cách đây 30 năm tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII năm 1994, Đảng ta xác định 4 nguy cơ thách thức lớn là: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”, cho đến nay 4 nguy cơ đó vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp hơn;  Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã nêu 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trong đó, biểu hiện thứ nhất là “Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Quy định về những điều đảng viên không được làm, Điều 1 đã chỉ rõ: Đảng viên không được “Nói, viết, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, quyết định của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép”.

 

Không chỉ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” trực tiếp dẫn đến suy thoái về đạo đức, khiến những ai trong TNQĐ mắc phải sẽ thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; thoái thác trách nhiệm, nghĩa vụ hoặc thực hiện nhiệm vụ không đến nơi, đến chốn, đơn giản trong suy nghĩ và hành động, suy giảm phẩm chất, đạo đức, lối sống của người quân nhân cách mạng, dẫn đến thiếu tinh thần rèn luyện, vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, quy định của đơn vị, Ngoài ra, sức tàn phá của căn bệnh mang tên “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” còn tạo cơ hội cho phần tử xấu lôi kéo, dụ dỗ tham gia vào các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá chế độ, để rồi trở thành những kẻ “tội đồ” quay lưng với Tổ quốc và Nhân dân.

 

Căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” còn làm suy giảm sức mạnh của các tổ chức Đoàn trong Quân đội. Tổ chức Đoàn trong Quân đội là nơi diễn ra các hoạt động sinh hoạt, học tập, rèn luyện của thanh niên TNQĐ, là cầu nối giữa từng thanh niên với cấp ủy, chỉ huy đơn vị, có vai trò xung kích đi đầu trong xây dựng đơn vị vững mạnh. Hoạt động của tổ chức Đoàn chỉ thực sự có hiệu quả và phát huy tốt chức năng của mình khi TNQĐ tích cực, chủ động và tự giác tham gia với tinh thần hăng say, phấn khởi. Do vậy, một khi căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” phát tác sẽ dẫn đến TNQĐ ngại sinh hoạt đoàn, không tham gia xây dựng Đoàn, thậm chí chống đối, điều đó hiển nhiên khiến cho tổ chức Đoàn các cấp không phát huy được vai trò, chức năng của mình, hoạt động thiếu chiều rộng và bề sâu, không còn giữ được vị trí tiên phong trong xây dựng đơn vị.

 

Căn nguyên của căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” trong TNQĐ

 

Căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” trong TNQĐ xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan.

 

Nguyên nhân khách quan: TNQĐ chịu ảnh hưởng không nhỏ từ những tác động tiêu cực từ mặt trái của xã hội và chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản của quá trình hội nhập quốc tế, tác động của lối sống thực dụng nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự tương phản của văn hóa trong và ngoài, mâu thuẫn cục bộ giữa lý tưởng và hiện thực, nghĩa vụ và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ, những biểu hiện tiêu cực của xã hội như quan liêu, tham nhũng, lãng phí, mặt trái của các phương tiện truyền thông hiện đại, nhất là mạng xã hội. Đặc biệt, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng mạng xã hội để tung ra những “nấm độc thông tin” nhằm vào Quân đội nói chung mà trọng tâm chúng hướng đến là TNQĐ, bởi vì TNQĐ đang trong độ tuổi nhạy cảm, dễ bị kích động. Các phần tử phản động thường thổi phồng, bóp méo sự thật hòng kích động TNQĐ, kêu gọi thanh niên không tham gia sinh hoạt đoàn. Những yếu tố trên đã tác động không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm và suy nghĩ của TNQĐ, do vậy, cấp ủy, lãnh đạo chỉ huy các cấp, đội ngũ cán bộ Đoàn cần tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho TNQĐ, tránh để bị động, bất ngờ.

 

Nguyên nhân chủ quan: Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho TNQĐ tại một số cơ quan đơn vị, một số thời điểm chưa được quan tâm đúng mức; chưa đầu tư đúng mức cho thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển đảng viên trong TNQĐ: “Công tác giáo dục chính trị, đạo đức, lối sống, văn hóa, pháp luật, kỷ luật, dự báo tình hình tư tưởng, nắm và quản lý các mối quan hệ xã hội, định hướng dư luận, hỗ trợ tâm lý, pháp lý cho đảng viên, sĩ quan trẻ, cán bộ đoàn, đoàn viên, thanh niên ở một số đơn vị và tổ chức đoàn còn hạn chế”[2]. Một số tổ chức Đoàn ở một số đơn vị còn lúng túng trong công tác giáo dục, định hướng tư tưởng cho đoàn viên, thiếu chủ động, chưa nhạy bén trong nắm bắt tâm tư, tình cảm, diễn biến tư tưởng của đoàn viên trong đơn vị mình, nhất là trong những thời điểm nhạy cảm; cá biệt, có tổ chức Đoàn còn nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên, làm “qua loa”, “chiếu lệ”, làm để kiểm tra, đối phó: “Kết quả triển khai các phong trào thanh niên ở một số đơn vị chưa tạo sự lan tỏa sâu rộng. Tổ chức các phong trào ở một số đơn vị còn dàn trải, chưa phát huy tốt vai trò của phòng, ban công tác quần chúng, tổ chức đoàn, đội ngũ cán bộ đoàn, cán bộ đảm nhiệm công tác thanh niên, đảng viên trẻ, sĩ quan trẻ”[3].

 

Mặt khác, TNQĐ tuổi đời còn trẻ, thiếu kinh nghiệm sống, một số lười tu dưỡng, học tập, mắc bệnh hình thức, cá nhân, tự cao, tự đại; tâm lý, tính cách chưa ổn định, khả năng chọn lọc, lĩnh hội kiến thức còn hạn chế, dễ hoang mang, dao động khi gặp khó khăn, thử thách: “Việc chấp hành pháp luật, kỷ luật, thực hiện nền nếp chính quy, đảm bảo an toàn giao thông của một số ít cán bộ, đoàn viên, thanh niên chưa tốt; còn xảy ra vi phạm pháp luật, kỷ luật làm ảnh hưởng đến truyền thống Quân đội, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. “Trong giai đoạn 2017-2022 số lượng đoàn viên, thanh niên vi phạm kỷ luật ở mức thông thường là 763; mức nghiêm trọng là 79; 0,04% đoàn viên không hoàn thành nhiệm vụ[4].

 

Một số giải pháp đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn cân bệnh mang tên “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” trong TNQĐ hiện nay

 

Một là, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, góp phần làm cho mỗi TNQĐ thấm nhuần lý tưởng của Đảng, có tinh thần phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân

 

Muốn phòng, chống căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” trong TNQĐ, trước tiên phải làm cho mỗi TNQĐ thực sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tuyệt đối trung thành với Đảng, có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được điều đó, cấp ủy, tổ chức đảng cần nắm chắc các nội dung giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ, chiến sĩ; nhất là đội ngũ đoàn viên thanh niên trong đơn vị, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối, nghị quyết và những nhận thức mới của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, quán triệt cho TNQĐ về nghị quyết của Đảng, của Đoàn các cấp. Trọng tâm nội dung giáo dục cho TNQĐ đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng, truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng, Quân đội và Đoàn Thanh niên; tuyên truyền những tấm gương anh hùng liệt sĩ nhỏ tuổi đã anh dũng hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, những đóng góp của TNQĐ trong suốt 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội; những tấm gương TNQĐ có thành tích học tập, cống hiến nổi bật, càng ở những nơi khó khăn, gian khổ, càng có nhiều sự cống hiến, hy sinh của tuổi trẻ Quân đội. Từ đó, hình thành và phát triển ở TNQĐ niềm tin sâu sắc vào Đảng, Quân đội, Đoàn và con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, khơi dậy khát vọng cống hiến, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, tập trung xây dựng hình mẫu người TNQĐ “Khát vọng lớn - Trách nhiệm cao; Học tập tốt - Hành động giỏi; Đoàn kết tốt - Kỷ luật nghiêm” thực sự tiêu biểu cho bản lĩnh, trí tuệ của thanh niên Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. 

 

Hai là, làm tốt công tác quản lý tư tưởng của TNQĐ

 

Quản lý tư tưởng của TNQĐ là nền tảng quan trọng để đảm bảo sự thống nhất về tư tưởng, hành động, là “liều thuốc” hiệu quả nhất để phòng, chống căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” cho TNQĐ. Đội ngũ cán bộ các cấp mà trực tiếp là cán bộ quản lý đơn vị cần phối hợp chặt chẽ với gia đình các TNQĐ kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, diễn biến tư tưởng của quân nhân; đồng thời thông qua các hình thức như đối thoại dân chủ, tọa đàm để lắng nghe ý kiến của TNQĐ; kết hợp giữa quản lý hành chính với giáo dục thuyết phục, cảm hóa và phát huy vai trò nêu gương. Cán bộ chỉ huy các cấp phải kiểm tra thật chặt chẽ mỗi khi đơn vị thực hiện nhiệm vụ hay bất cứ một hoạt động nào, nhất là các thời điểm nhạy cảm như giờ nghỉ, ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết... Bên cạnh đó, trong công tác quản lý tư tưởng của TNQĐ, cán bộ cần đặc biệt chú ý đến những đối tượng thanh niên có hoàn cảnh khó khăn hoặc cá tính bất thường, hay vi phạm các quy định của đơn vị, kỷ luật của quân đội cần có biện pháp giáo dục riêng, thường xuyên gặp gỡ, trao đổi nắm bắt tâm tư, tình cảm… tạo điều kiện giúp TNQĐ nhận thức đầy đủ những thiếu sót, hạn chế, khuyết điểm của bản thân, tự phấn đấu, sửa chữa khuyết điểm của mình. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ phải gương mẫu, quan tâm, gần gũi “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” TNQĐ, với phương châm “trên mẫu mực đi trước, dưới tích cực làm theo”, đó mệnh lệnh không lời nhằm giáo dục, thuyết phục và là tấm gương cho TNQĐ học tập, noi theo. 

 

Ba là, xây dựng tổ chức Đoàn các cấp vững mạnh xứng đáng là trường học xã hội chủ nghĩa để giáo dục TNQĐ

 

Đoàn Thanh niên luôn đồng hành cùng TNQĐ trong quá trình học tập, rèn luyện và trưởng thành, là nơi TNQĐ gửi gắm tâm tư, nguyện vọng của bản thân; đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng, là cầu nối giữa đoàn viên thanh niên với lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Để TNQĐ không “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” đòi hỏi tổ chức Đoàn phải thực sự vững mạnh, phong trào thanh niên diễn ra sôi nổi thu hút được TNQĐ hào hứng tham gia. Đầu tiên, cần xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn các cấp trong Quân đội có nhiệt huyết, có kỹ năng duy trì và tổ chức hoạt động đoàn và phong trào thanh niên, thực sự tiêu biểu để đoàn viên noi theo, có sự năng động, sáng tạo trong hoạt động để tổ chức nhiều phong trào hay, mô hình mới thu hút TNQĐ tham gia tích cực; gần gũi và hiểu đặc điểm đoàn viên. Hơn nữa, cán bộ Đoàn cần thường xuyên tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy thực hiện hiệu quả các phong trào gắn với đặc điểm yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị như “Thanh niên Quân đội thi đua rèn đức, luyện tài, xung kích, sáng tạo xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”,  “Thanh niên Quân đội vươn tới những đỉnh cao”, “Thanh niên Quân đội tiến quân vào khoa học và công nghệ”, gắn với thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc sống hiện đại cùng với sự bùng nổ của khoa học công nghệ, tổ chức Đoàn trong Quân đội phải không ngừng tự làm mới mình bằng cách đa dạng hóa, tổ chức các hoạt động trẻ trung phù hợp với nhu cầu của TNQĐ. Trong quá trình tổ chức hoạt động đoàn, cần có trọng tâm, trọng điểm, xung kích trong nhiệm vụ khó khăn, phức tạp với tinh thần đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên, nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, nghiên cứu khoa học, làm chủ công nghệ, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại. Làm tốt công tác giao lưu kết nghĩa giữa tổ chức Đoàn và đơn vị nơi đóng quân, vừa giúp TNQĐ có cách cư xử chuẩn mực khi tiếp xúc với nhân dân, vừa lan tỏa hình ảnh tốt đẹp về “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.

 

Bốn là, xây dựng môi trường văn hóa quan đội lành mạnh giúp TNQĐ có “sức đề kháng” phòng, chống căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”

 

Môi trường văn hóa quân sự có vai trò như một “lá chắn” bảo vệ TNQĐ trước tác động của văn hóa độc hại và “nấm độc thông tin”, góp phần tạo nên “hệ miễn dịch” phòng chống căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”. Xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh sẽ ngăn chặn và hạn chế những tác động, ảnh hưởng của văn hóa độc hại xâm nhập vào quân đội, trực tiếp làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta. Bên cạnh đó, môi trường văn hóa quân sự còn trực tiếp nuôi dưỡng, phát triển những giá trị cao đẹp của TNQĐ, góp phần nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, tình cảm cách mạng, xây dựng nhân cách con người mới trong quân đội, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, vừa phát huy được bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

 

Để xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, cấp ủy đảng và người chỉ huy các cấp cần quán triệt và thực hiện tốt những nội dung của cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa trong Quân đội, cũng như bảo đảm tiêu chuẩn về môi trường văn hóa trong đơn vị. Trong đó, cần chú trọng xây dựng các yếu tố của môi trường văn hóa quân sự như: Xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp trong đơn vị, tình đồng chí, đồng đội, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, gắn bó như anh em một nhà; xây dựng đời sống vật chất đầy đủ như tăng gia, sản xuất đảm bảo sức khỏe cho bộ đội; xây dựng đời sống tinh thần, văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú với những hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao để bồi đắp nhân cách, tâm hồn trong sáng, cao đẹp cho TNQĐ;  xây dựng cảnh quan môi trường đơn vị sáng - xanh - sạch - đẹp để mỗi TNQĐ thêm yêu và gắn bó với đơn vị; nâng cao chất lượng, phối hợp có hiệu quả với tổ chức Đoàn ở địa phương, xây dựng mối quan hệ đoàn kết máu thịt “quân - dân”. Mặt khác, cán bộ, chỉ huy đơn vị phải coi trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng cho TNQĐ tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức tự phòng, chống các tác động xấu độc từ bên ngoài vào đơn vị, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh đối với các quân nhân vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, quy định của đơn vị.

 

Năm là, nâng cao hiệu quả hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch của TNQĐ

 

Sự chống phá của các thế lực thù địch là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” trong TNQĐ. Do vậy, muốn tạo nên “thuốc đặc trị” đủ mạnh cho TNQĐ để phòng, chống căn bệnh này cần phải tăng cường đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng: “Thanh niên Quân đội phải luôn luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”[5]. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trẻ trong Quân đội là một hạt nhân và cần có ý thức trau dồi kiến thức, “tự hiện đại hóa” bản thân để xứng đáng là người chiến sĩ trong thời kỳ mới, trong kỷ nguyên 4.0, đủ sức nhận diện và đấu tranh với luận điệu chống phá của các thế lực thù địch trên mạng xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; góp phần tích cực vào công tác xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh tiêu biểu, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, mẫu mực tiêu biểu. Đẩy mạnh các mô hình “câu lạc bộ lý luận trẻ” để bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, trình độ lý luận chính trị cho TNQĐ trong hoạt động đấu tranh trên không gian mạng, song song với đó, thường xuyên làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng tổ chức hoạt động đấu tranh trên không gian mạng cho TNQĐ.

 

Trong thời đại mới, đất nước đang vững bước đi lên với khát vọng hùng cường, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội ngày càng cao, TNQĐ là những “hạt giống đỏ” để gieo mầm tương lai của đất nước. Để làm tốt vai trò xung kích của mình, mỗi TNQĐ phải thấm nhuần lý tưởng cách mạng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, không ngừng trau dồi đạo đức, lối sống, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là phải có “sức đề kháng” đủ mạnh để phòng, chống căn bệnh “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”, góp phần tạo nên TNQĐ thực sự vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, đủ “đức, trí, thể, mỹ” là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ xây dựng Quân đội cũng như nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN./. 

 

Tác giả: TS. Bùi Văn Huấn - Trường Chính trị tỉnh Bắc Giang; ThS. Triệu Thu Thủy - Trường Sĩ quan Chính trị; ThS. Đậu Trọng Chương - Học Viện Chính trị

Nguồn: Tạp chí Xây dựng Đảng

 

[1] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2011, tr. 216.

 

[2] Văn kiện Đại hội Đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Quân đội lần thứ X (2022 – 2027), Hà Nội, 2023, tr.64

 

[3] Văn kiện Đại hội Đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Quân đội lần thứ X (2022 – 2027), Hà Nội, 2023, tr.66

 

[4] Văn kiện Đại hội Đại biểu Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Quân đội lần thứ X (2022 – 2027), Hà Nội, 2023, tr.99

 

[5] Phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại buổi gặp mặt đại biểu ưu tú dự Đại hội Đại biểu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Quân đội lần thứ X (2022 -2027)../.

NHỮNG CHUẨN MỰC KHÔNG BAO GIỜ CŨ

 Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch để thực sự vững mạnh, thực sự là Đảng chân chính cách mạng theo học thuyết đảng kiểu mới của V.I. Lê-nin. Người yêu cầu Đảng Cộng sản Việt Nam phải là hiện thân của “danh dự và lương tâm của dân tộc”, “là đạo đức, là văn minh”.

 

Ngay từ sớm, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã cho rằng, những giá trị đạo đức của giai cấp vô sản sẽ hình thành nên đạo đức của xã hội tương lai, đó là đạo đức cộng sản, một kiểu đạo đức mang tính nhân văn, nhân đạo nhất trong lịch sử phát triển của nhân loại.

 

Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ rõ: "Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, tư tưởng đạo đức thống trị chính là tư tưởng đạo đức của giai cấp thống trị. Theo đó, cơ sở hình thành đạo đức là nền tảng kinh tế - xã hội, gắn liền với quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức và hoạt động thực tiễn của con người. Nền tảng đó đóng vai trò to lớn đối với sự hình thành, phát triển của đạo đức mới - đạo đức cộng sản".

 

Theo C.Mác, các hệ thống lý luận đạo đức của các giai cấp khác nhau trong xã hội thường biểu biện giá trị đạo đức của cả thời quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp công nhân căn bản thống nhất với lợi ích của người lao động, và cũng từ đó, đạo đức và chính trị càng trở nên gắn bó mật thiết với nhau, đồng thời trở thành những yếu tố căn bản trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Dưới chế độ xã hội mới này, “chính trị là đức, chuyên môn là tài”, hai mặt đó luôn thống nhất với nhau trong nhân cách của người cách mạng.

 

C.Mác cũng từng chỉ ra những điều kiện cần và đủ để Đảng Cộng sản có thể làm tròn nhiệm vụ của Đảng tiên phong là có “đầu não” và “trái tim”. “Đầu não” là trí tuệ, là triết học (phép biện chứng duy vật, sau này V.I.Lê-nin gọi là chủ nghĩa duy vật chiến đấu). “Trái tim” là nhiệt huyết, dũng cảm, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, bất công, tàn bạo; là lương tâm và trách nhiệm đối với quần chúng cần lao; là yêu thương con người và chống lại tất cả những cái xấu xa mất nhân tính.

 

Theo V.I Lê-nin, xây dựng Đảng về đạo đức và các yêu cầu chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản luôn luôn luôn cấp bách và cần thiết. Chuẩn mực đạo đức chính là những yếu tố cấu thành của ý thức đạo đức, là những nguyên tắc, quy tắc đạo đức được mọi người thừa nhận trở thành mực thước, khuôn mẫu để xem xét, đánh giá và điều chỉnh hành vi con người trong xã hội.

 

Trong diễn văn đọc tại Đại hội III toàn Nga của Đoàn Thanh niên cộng sản Nga (ngày 02-10-1920), V.I. Lê-nin không chỉ đưa ra quan niệm về đạo đức cộng sản, mà còn nói rõ về nguồn gốc, yêu cầu, mục đích, cơ sở của đạo đức cộng sản. Theo ông, “Đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra”; “Đạo đức của chúng ta phải hoàn toàn phục tùng lợi ích đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản”; Đạo đức cộng sản “là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống mọi sự bóc lột, chống mọi chế độ tư hữu nhỏ”; “Cơ sở của đạo đức cộng sản là cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản”.

 

Các chuẩn mực đạo đức của người đảng viên cộng sản được nói tới trong nhiều tác phẩm, bài viết, diễn văn, thư từ của V.I.Lê-nin được viết vào giai đoạn sau Cách mạng Tháng Mười có thể được khái quát thành các nhân tố như: Phẩm chất trung thành, trước hết là trung thành với Đảng, với cách mạng và sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động; tinh thần tự giác gánh vác nhiệm vụ gian khổ, hiểm nguy và hy sinh quên mình phục vụ chủ nghĩa cộng sản; giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; tận tâm, tận tụy, trách nhiệm với công việc; tinh thần gương mẫu, nêu gương, làm gương; khiêm tốn, cầu thị, không “kiêu ngạo cộng sản”, không tự phụ, không tự cao tự đại; thái độ khách quan, không thiên vị, không hẹp hòi, không có đầu óc bè phái, phường hội; không tham ô, hối lộ; tiết kiệm, tránh lãng phí; không ham địa vị, không lạm quyền, không đặc quyền, đặc lợi; trung thực, không che giấu sai lầm, khuyết điểm, dũng cảm nhận sai lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa; không quan liêu; tôn trọng, gần gũi, tin tưởng và phục vụ lợi ích của nhân dân...

 

Ngay từ trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, xuất phát từ bối cảnh phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới phát triển mạnh mẽ, ngay trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã xác định rõ những chuẩn mực đạo đức của những người cách mạng và về tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng. Tác phẩm được xem như đặt nền móng tư tưởng, lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930.

 

Về “Tư cách một người cách mệnh”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra 23 tiêu chuẩn, quy tụ trong 3 mối quan hệ cơ bản là: (I) Tự mình, có 14 tiêu chuẩn: “Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật”. (II) Đối với người, có 5 chuẩn mực: “Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người”. (III) Đối với công việc, có 4 tiêu chuẩn: “Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể”; đó là những phẩm chất cơ bản làm thành các giá trị về nhân cách của người cách mạng - Một mẫu người mới cần có trong phong trào cách mạng của dân tộc.

 

Theo Người, chỉ có sự kết hợp thống nhất và nhuần nhuyễn giữa trí tuệ khoa học với đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị của đảng cách mạng, của người cách mạng mới đủ sức tập hợp dân chúng thành lực lượng, mới giác ngộ và thức tỉnh dân chúng, đoàn kết họ, quy tụ họ thành phong trào theo đảng tiên phong, đưa cách mạng tới thành công.

 

Sau khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nghĩa vụ của đội ngũ cán bộ, đảng viên với quốc dân, đồng bào. Đây là tác phẩm tập hợp đầy đủ nhất những những tiêu chuẩn của người cán bộ cách mạng, người đảng viên cộng sản, về yêu cầu và chỉ dẫn đối với hoạt động của chính quyền cách mạng, là sự cảnh báo về những thói hư, tật xấu mà người cán bộ, đảng viên hay mắc phải, để từ đó đề ra biện pháp phòng, chống những thói hư, tật xấu đó.

 

Những lời căn dặn, nhắc nhở của Người giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, thấy rõ những tiêu chí cần phải kiên trì tu dưỡng, rèn luyện, nỗ lực phấn đấu để xứng đáng với sự mong đợi, kỳ vọng của quần chúng nhân dân, với nhiệm vụ do Đảng giao phó, xứng với danh hiệu đảng viên cộng sản.

 

Kế tiếp đó, khi đất nước bước vào những giai đoạn cách mạng quan trọng, vấn đề đạo đức cách mạng tiếp tục được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập một cách sâu sắc, đặc biệt trong vấn đề việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

 

Người có viết 2 tác phẩm riêng về Đạo đức cách mạng (1955 và 1958), trong đó tác phẩm "Đạo đức cách mạng", đăng trên Tạp chí Học tập, số 12 năm 1958 dưới bút danh Trần Lực được coi là tác phẩm tập trung đầy đủ nhất những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm và nghĩa vụ của người cán bộ, đảng viên với sự nghiệp của Đảng và Nhân dân: “Chúng ta, tất cả đảng viên, đoàn viên, tất cả cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ Nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của người cách mạng, đó là đạo đức cách mạng, đó là tính Đảng, tính giai cấp, nó bảo đảm cho sự thắng lợi của Đảng, của giai cấp, của Nhân dân”. Theo Người: "Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".

 

Một trong những lời di huấn của Người đối với công tác giáo dục lý tưởng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên được kết tinh trong bài viết “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (3-2-1969). Người nhấn mạnh: “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của Nhân dân lên trên hết, trước hết”. Nửa thế kỷ sau khi ra đời, những lời dặn của Người trong tác phẩm vẫn vẹn nguyên giá trị đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn của Đảng ta hiện nay.

 

Đối với vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”; “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

 

Theo Người, người cán bộ cách mạng phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ cách mạng chân chính. Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không.

 

Đề cập việc xây dựng được đạo đức cách mạng, Người cũng chỉ rõ: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc”, tức là phải xác định rõ ràng về tiêu chí, chuẩn mực.

 

Chuẩn mực đạo đức cách mạng của đảng viên thực chất là các giá trị đạo đức cộng sản được cụ thể hóa vào thực tiễn Việt Nam và trở thành cái để phân biệt người đảng viên với đông đảo quần chúng. Việc xác định các chuẩn mực đạo đức cách mạng là vấn đề đặc biệt quan trọng bởi đó chính là hình mẫu con người đại diện cho lý tưởng cộng sản, cho chế độ tốt đẹp mà Đảng ta xây dựng.

 

Theo đó, với tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem xét các chuẩn mực đạo đức trong các mối quan hệ lớn: với Tổ quốc và Nhân dân thì phải trung - hiếu; với con người thì phải yêu thương, với tự mình thì phải cần, kiệm, liêm, chính; với công việc thì phải chí công vô tư; với nhân loại thì phải có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung...

 

Có thể tóm gọn những chuẩn mực đạo đức cách mạng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm những nội dung cơ bản sau:

 

Một là, trung với nước, hiếu với dân, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Ðảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nước là của dân, của toàn dân tộc chứ không phải của riêng ai. Về chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh, hiếu với dân không phải chỉ là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với toàn dân tộc, vì "nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước.

 

Ngay từ những ngày đầu cách mạng, khi mở lớp huấn luyện, đào tạo lớp cán bộ đầu tiên của Ðảng (ở Quảng Châu, Trung Quốc), một trong những vấn đề đầu tiên đồng chí Nguyễn Ái Quốc quan tâm là, đào tạo những người tự nguyện hy sinh phấn đấu suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; học tập, tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là để "giữ chủ nghĩa cho vững", tuyệt đối trung thành với sự nghiệp lớn của Ðảng, biết đoàn kết và tổ chức quần chúng thực hiện.

 

Sau này, ngay từ chính Bản Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng cũng do Người trực tiếp soạn thảo, cùng với thư kêu gọi các tầng lớp dân chúng ủng hộ Đảng, làm cách mạng giải phóng do Đảng lãnh đạo, đã đặt cơ sở cho việc hình thành, phát triển chính sách dân tộc của Đảng và giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường mác-xít. Mà trong đó, theo Người, truyền thống yêu nước đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến thái độ chính trị không chỉ của giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà còn của đa số trí thức và nhiều người thuộc tầng lớp trên.

 

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người nhấn mạnh: “Đảng không phải là tổ chức để làm quan, phát tài, mà là để phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc; vì thế, đảng viên phải luôn rèn luyện, phấn đấu, luôn sẵn sàng hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng”.

 

Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi công việc cách mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Chỉ dẫn đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà còn lâu dài mãi mãi về sau.

 

Hai là, tình yêu thương con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định tình yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp nhất trong tình cảm đạo đức của loài người. Cũng chính tình yêu thương con người đã làm nên một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp, làm nên giá trị vô giá về nhân cách, phẩm giá, chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình yêu thương đối với đồng bào, với Nhân dân, với những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Vì vậy, phải hết lòng giúp dân, giúp nước để đem lại tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.

 

Ngay từ 5 điều Bác Hồ dạy thiếu nhi Việt Nam, điều đầu tiên đã được nhấn mạnh “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”. Tình thương yêu con người của Bác còn dành cho cả những người lầm đường, lạc lối… Tình yêu thương con người của Bác không phân biệt miền xuôi hay miền ngược, già hay trẻ, gái hay trai...

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Những người cách mạng là những người giàu tình cảm nhất và vì giàu tình cảm mới đi làm cách mạng để giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến, mang lại hạnh phúc cho con người, trước hết là những con người cùng khổ”. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến tình yêu thương con người.

 

Ngoài tình yêu quê hương, đất nước, yêu Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhắc nhở mỗi cán bộ đảng viên về tình đồng chí, đồng đội. Tình đồng chí là tình cảm thiêng liêng, cao quý của những người cùng chung mục tiêu, lý tưởng cộng sản, sợi dây thắt chặt sự đoàn kết, gắn bó giữa các đảng viên trong một tổ chức, đơn vị, rộng hơn là sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, trở thành truyền thống tốt đẹp của Đảng ta. Ngay trước khi từ biệt cõi đời, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn Đảng: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.

 

Ba là, Dĩ công vi thượng, tức người cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích chung lên trên hết, tất cả vì nước vì dân, đặt lợi ích của dân, của nước, của Ðảng lên trên hết, đem lòng chí công vô tư mà đối xử với người, với việc, không mảy may có chút chủ nghĩa cá nhân. Người quan niệm cái gì có lợi cho Nhân dân, cho dân tộc là chân lý và Người xem phục vụ Nhân dân là phục vụ chân lý, làm công bộc cho Nhân dân là một việc làm cao thượng.

 

Thực chất “Dĩ công vi thượng” là câu nói của Bác đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong một đêm tối lạnh lẽo tại hang Pắc Pó năm 1941. Tuy nhiên, nó lại là một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh mà ở đó bản thân Người là tấm gương mẫu mực nhất.

 

Sau 30 năm bôn ba cho đến khi làm Chủ tịch nước và đến lúc về với Các Mác, Lê-nin, Bác Hồ chỉ về thăm quê hương, thăm ngôi nhà nơi mình sinh ra có hai lần. Tháng 4-1949, Người viết thư nói không phải vô tình với quê hương mà là trong lúc cả nước đuổi giặc Pháp thì bổn phận mỗi người là “vì nước quên nhà, vì công quên tư”. Khi Chiến dịch Biên giới bước vào giai đoạn quyết định, anh cả của Bác - ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời. Bác không thể về nên đã gửi bức điện tới họ Nguyễn Sinh nói hoàn cảnh, tâm trạng xin chịu tội “bất đễ”. Những dòng chữ ấy vừa thật đậm tình người, vừa cho thấy tinh thần hy sinh cao cả của vị Chủ tịch nước vì việc chung phải nén tình riêng.

 

Ngay trong phần Đạo đức cách mạng của tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người viết: “Người đảng viên, người cán bộ muốn trở nên người cán bộ chân chính không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn là do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày càng ít mà những tính tốt ngày càng thêm”.

 

Ngoài chí công vô tư, một trong những chuẩn mực đạo đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến nhiều nhất trong vấn đề công tác và sinh hoạt hằng ngày chính là cần, kiệm, liêm, chính. Người đặt "cần" lên đầu tiên vì cần cù lao động chính là nguồn gốc của văn minh và xã hội loài người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là siêng năng, lao động cần cù mà phải đi liền với sáng tạo để lao động có năng suất, hiệu quả cao. “Kiệm” là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to. “Liêm” tức là luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước, của Nhân dân; phải trong sạch, không tham lam, không tham địa vị, không ham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, nhờ đó mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa. “Chính” nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, “là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh”.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/Thiếu một mùa, thì không thành trời/Thiếu một phương, thì không thành đất/Thiếu một đức, thì không thành người”.

 

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một câu thơ “Quan sơn muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em!, là tinh thần đoàn kết giữa những người cộng sản với các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động trên thế giới mà Người đã dày công vun đắp bằng thực tiễn hoạt động cách mạng của mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

 

Theo Người, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước: "Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới". Nếu tinh thần yêu nước không chân chính và tinh thần quốc tế không trong sáng có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc...".

 

Với người cách mạng, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng phải hòa quyện làm một. Vì thế, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!". Đó cũng là tinh thần đoàn kết, hợp tác và hữu nghị của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, vì mục tiêu hòa bình, công lý, tiến bộ xã hội và độc lập dân tộc.

 

Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình đoàn kết quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới./.

"Hồ Chí Minh - Biểu tượng quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc".

 Hội thảo nhằm góp phần thiết thực củng cố, làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, kỷ niệm 100 năm Ngày Hồ Chí Minh đến hoạt động cách mạng tại Quảng Châu - Trung Quốc (11/11/1924 -11/11/2024).

Chiều 11/11, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Hội hữu nghị Việt Nam -Trung Quốc tổ chức Hội thảo khoa học: "Hồ Chí Minh - Biểu tượng quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc".

Phát biểu khai mạc và đề dẫn Hội thảo, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, chiến sĩ Quốc tế Cộng sản xuất sắc, Người là biểu tượng của sự gắn kết giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới; của tình đoàn kết, hữu nghị giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc.

Trong hành trình hiện thực hóa khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc và nhân loại, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nơi, nhiều nước và bằng hoạt động của mình, Người đã để lại những dấu ấn quan trọng đối với tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Trong đó, Quảng Châu - Trung Quốc chính là một trong những địa danh như vậy. Từ đây, Người đã mở ra một chương mới trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, đồng thời đặt cơ sở vững chắc cho quan hệ hữu nghị giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc trong các giai đoạn phát triển về sau.

"Di sản Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là vô cùng to lớn và quý báu, đã thấm sâu trong trái tim, khối óc của nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân hai nước, mà chúng ta cần hết sức trân trọng, kế thừa và phát huy trong bối cảnh mới. "Những năm tháng bên nhau" của cách mạng Việt Nam và Trung Quốc, với biểu tượng sinh động qua tư tưởng và tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình đoàn kết, hữu nghị tốt đẹp, đã trở thành tài sản tinh thần vô giá, là niềm tin và động lực to lớn để hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc hôm nay vững bước trên hành trình đi tới thắng lợi của sự nghiệp mạng mỗi nước", Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi nói.

Với gần 40 tham luận của đại diện một số cơ quan ban, bộ, ngành Trung ương, Hội hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc và của nhiều nhà khoa học, các tham luận tập trung làm sáng tỏ những nội dung: Quảng Châu - Trung Quốc trong tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng Trung Quốc và cách mạng thế giới; Hồ Chí Minh và những hoạt động tăng cường quan hệ hợp tác giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng Trung Quốc trong kháng chiến chống xâm lược, xây dựng chủ nghĩa xã hội; Kế thừa và phát huy nền tảng vững chắc trong quan hệ đoàn kết, hữu nghị Việt - Trung đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông, cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước tạo dựng, vun đắp, đưa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phát triển lên tầm cao mới. Qua đó, làm sâu sắc hơn những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đảng, cách mạng và dân tộc Việt Nam, với việc xây đắp tình hữu nghị, hợp tác của hai Đảng, nhân dân và hai nước Việt Nam - Trung Quốc./.

Xây dựng các văn kiện Đại hội theo hướng khoa học, tiếp tục tinh gọn tổ chức bộ máy.

 Đó là chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc họp Tiểu ban Văn kiện và Tiểu ban Điều lệ Đảng trình Đại hội XIV của Đảng diễn ra ngày 11/11, tại Trụ sở Trung ương Đảng.

Tại cuộc làm việc, Thường trực Tổ Biên tập các Tiểu ban trình bày Tờ trình về tiếp thu, giải trình, hoàn thiện dự thảo Báo cáo chính trị; Báo cáo những nội dung cốt lõi, quan trọng trong dự thảo Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng.

Phát biểu kết luận cuộc làm việc, Tổng Bí thư Tô Lâm ghi nhận, đánh giá cao và biểu dương hai Tiểu ban đã nỗ lực làm việc với tinh thần chủ động, trách nhiệm; tích cực phối hợp với các tiểu ban khác để bảo đảm sự thống nhất giữa các Báo cáo, trong đó Báo cáo chính trị là văn kiện trung tâm, Báo cáo kinh tế - xã hội, Báo cáo công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng là các báo cáo chuyên đề quan trọng.

*Xây dựng các văn kiện theo hướng khoa học, rõ định hướng

Về Báo cáo chính trị, để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Báo cáo chính trị, Tổng Bí thư nhấn mạnh, cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp xây dựng các văn kiện theo hướng khoa học, cụ thể, rõ định hướng, rõ chủ trương chiến lược, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện để triển khai được ngay trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, ngay sau Đại hội XIV của Đảng.

Đánh giá, ý kiến của các thành viên Tiểu ban Văn kiện tại cuộc họp là hết sức quý báu, Tổng Bí thư Tô Lâm đề nghị các đồng chí Thường trực Tiểu ban và Thường trực Tổ biên tập nghiêm túc nghiên cứu, chắt lọc tiếp thu để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Báo cáo; trên cơ sở đó xây dựng bản Tóm tắt dự thảo Báo cáo chính trị với các nội dung cốt lõi, nội dung mới đã được thống nhất, trình Bộ Chính trị xem xét, trước khi gửi tới Đại hội Đảng cấp cơ sở để thảo luận, góp ý, bước đầu tạo khối thống nhất về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với các Văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng.

Tổng Bí thư nhấn mạnh, thống nhất nhận định về tầm vóc, ý nghĩa của Đại hội XIV. Đây là Đại hội gắn liền với bối cảnh đất nước sau 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, 80 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 95 năm thành lập Đảng, hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, mở ra một kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, nhân dân tin tưởng, tự hào chung sức, đồng lòng xây dựng thành công nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Tổng Bí thư nêu rõ, ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước nhanh và bền vững; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Nguồn lực và động lực quan trọng để đất nước vươn mình phát triển trong kỷ nguyên mới là ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới; thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển xanh, chuyển đổi năng lượng; phát huy sức mạnh văn hóa, con người, mọi người dân Việt Nam chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.

*Tinh gọn tổ chức bộ máy với quyết tâm chính trị cao

Về Báo cáo công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ, tiếp tục nâng cao năng lực hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, đổi mới mạnh mẽ việc ban hành, quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng, làm cho mỗi nghị quyết mới ban hành phải giải quyết được những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, mang hơi thở cuộc sống, có tính dẫn dắt, mở đường và được thực hiện hiệu quả trên thực tế, bảo đảm cho các nhân tố mới phát triển; đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động của Đảng, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tăng cường củng cố niềm tin của Nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.

Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, tập trung hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Trong đó, khẩn trương thực hiện Nghị quyết số 18 về tinh gọn tổ chức bộ máy với quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt, thống nhất về tư tưởng của cả hệ thống chính trị. Đây là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, hy sinh của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, tất cả vì sự phát triển của đất nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, trong đó chú trọng công tác thẩm định, đánh giá cán bộ; tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, cán bộ cấp cơ sở; tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung làm động lực cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Tổng Bí thư yêu cầu, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Chú trọng và tăng cường đoàn kết trong Đảng, lấy đoàn kết trong Đảng là cơ sở, nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tăng cường công tác dân vận, thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư chỉ rõ, tăng cường siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, kiểm soát quyền lực chặt chẽ, hiệu quả; thực hiện kiểm tra, giám sát có trọng tâm, trọng điểm và có tính đột phá; đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với phương châm "không ngừng, không nghỉ", "không có vùng cấm", "không có ngoại lệ". Trong đó, cần đẩy mạnh phòng, chống lãng phí như phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành "tự giác", "tự nguyện", "cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày". Nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực để Đảng mạnh hơn, đoàn kết hơn, phục vụ tốt hơn mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của Nhân dân./.


TĂNG CƯỜNG TUYÊN TRUYỀN, TẠO ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI ĐỂ NGƯỜI DÂN, DOANH NGHIỆP CHUNG TAY XOÁ NHÀ TẠM, NHÀ DỘT NÁT

 Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ quan thông tấn, báo chí có các giải pháp kịp thời tăng cường tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội để người dân, doanh nghiệp ủng hộ, chia sẻ, cộng đồng trách nhiệm, chung tay hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng, xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo.

 

Đây là chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Chỉ thị số 42/CT-TTg ngày 9/11/2024 về việc đẩy nhanh triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn cả nước.

 

Đồng thời, theo Chỉ thị, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan trình Trưởng ban Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo. Cùng với đó, chủ trì, phối hợp Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành và địa phương xây dựng, hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo xóa nhà tạm, nhà dột nát, trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 11 năm 2024.

 

Chỉ đạo, hướng dẫn Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác định đối tượng người có công với cách mạng, đối tượng được hỗ trợ từ Quỹ cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo theo đúng quy định.

 

Đối với Bộ Xây dựng khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về mức hỗ trợ xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở đối với người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ và tỷ lệ phân bổ vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương, tỷ lệ đối ứng vốn hỗ trợ từ ngân sách địa phương giai đoạn 2023 - 2025 ngay trong tháng 11 năm 2024; tổ chức triển khai thực hiện, hoàn thành trong năm 2025.

 

Khẩn trương hướng dẫn, đôn đốc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có nhà tạm, nhà dột nát nghiên cứu, thiết kế một số mẫu nhà ở điển hình, đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, hiệu quả, phù hợp với văn hóa, phong tục tập quán và đặc điểm của từng địa phương, vùng miền để các hộ gia đình tham khảo, nghiên cứu áp dụng xây nhà ở phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng hộ, hoàn thành trước ngày 15/12/2024.

 

Trình Quốc hội đề xuất cho phép sử dụng khoản cắt giảm, tiết kiệm 5% chi phí thường xuyên năm 2024 để xóa nhà tạm, nhà dột nát

 

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương cân đối, bố trí vốn từ ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ nhà ở cho người dân từ chương trình mục tiêu quốc gia và hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

 

Báo cáo Chính phủ trình Quốc hội đề xuất cho phép sử dụng khoản cắt giảm, tiết kiệm 5% chi phí thường xuyên năm 2024 của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương để triển khai hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và được chuyển nguồn sang năm 2025 và trình Chính phủ hướng dẫn triển khai thực hiện sau khi được Quốc hội cho phép.

 

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục vận động, tiếp nhận ủng hộ từ các tổ chức, cá nhân để thực hiện hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát thông qua Quỹ do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quản lý. Cùng với đó, phối hợp với Chính phủ và cấp ủy, chính quyền các cấp, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ trung ương đến địa phương thực hiện chức năng giám sát quá trình triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo đảm bảo đúng mục tiêu và yêu cầu.

 

Ủy ban Dân tộc đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra các địa phương thực hiện Hỗ trợ nhà ở thuộc Dự án Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt tại Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025, đảm bảo hoàn thành hỗ trợ trong năm 2025.

 

Thành lập Ban Chỉ đạo triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát ở địa phương

 

Thủ tướng yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương trình cấp có thẩm quyền thành lập Ban Chỉ đạo triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát ở địa phương phù hợp với tình hình cụ thể (tỉnh, huyện, xã) do Bí thư cấp ủy làm Trưởng ban Ban chỉ đạo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp làm Phó trưởng Ban Chỉ đạo; thành viên Ban Chỉ đạo là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các sở, ngành, cơ quan liên quan, hoàn thành trong tháng 11 năm 2024.

 

Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý thực hiện mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước (bao gồm cả 3 chương trình: (1) Hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng; (2) Hỗ trợ nhà ở theo các chương trình mục tiêu quốc gia và (3) Xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người dân; trong đó ưu tiên xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người có công từ nguồn ngân sách nhà nước), đảm bảo đúng đối tượng, tiêu chuẩn, định mức, không trùng lặp giữa các Chương trình, các hoạt động hỗ trợ khác từ ngân sách nhà nước, tuân thủ trình tự, thủ tục theo đúng quy định pháp luật, không để xảy ra thất thoát, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực.

 

Thủ tướng Chính phủ giao Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương giải quyết các công việc liên quan đến triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước./.