Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA MẠNG XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN THANH NIÊN QUÂN ĐỘI

 

Hiện nay thời đại khoa học công nghệ 4.0 là một nội dung hết sức quan trọng trong đó Internet là một môi trường mở cho phép con người sử dụng tự do cung cấp, tìm kiếm và sử dụng  các thông tin, truyền tải nhanh, diện tham chiếu rộng, thông tin gần như tức thì, dễ tạo hiệu ứng xã hội theo chiều rộng nên rất khó quản lý và kiểm soát. Tính ưu trội của mạng xã hội với sự đa dạng của các trang mạng xã hội được sử dụng hiện nay như: Facebook,  Zalo, Google, Twitter, Youtube, …  còn tạo ra khả năng giao lưu, chia sẻ, kết nối cộng đồng rất thuận lợi. Bên cạnh đó Internet được ví như con dao 2 lưỡi chứa nhiều hiểm họa khó lường đối với người sử dụng không đúng mục đích. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay các thế lực thù địch đã triệt để tận dụng mạng internet để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta, thực tế còn vô số thông tin, hình ảnh có nội dung xấu độc, trái với truyền thống văn hóa dân tộc cũng được tán phát lên các trang thông tin điện tử (website), blog, mạng xã hội, trên phần phản hồi (comment) của các báo điện tử… Vì vậy, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng internet để truyền bá những thông tin xấu độc, đăng tải những status trên trang blog cá nhân với ngôn ngữ, luận điệu đầy tính kích động, phản động, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, tìm mọi cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta trên mọi lĩnh vực.

Tình trạng hiện nay thanh niên trong Quân đội đã và đang tiếp cận, sử dụng các trang mạng xã hội với nhiều mục đích khác nhau: tìm kiếm tài liệu phục vụ học tập, trao đổi thông tin hữu ích, chia sẻ, kết nối bạn bè… Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy bên cạnh những tác động tích cực của các trang mạng xã hội mang lại thì không tránh khỏi những tác động tiêu cực, đặc biệt là những tác động trực tiếp ảnh hưởng đến bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức, lối sống, mục tiêu, lý tưởng cách mạng của thanh niên Quân đội hiện nay, ngoài ra còn làm ảnh hưởng tới việc chấp hành kỷ luật và chấp hành các chế độ trong ngày, trong tuần ngày càng có nhiều mặt hạn chế nếu không có sự quản lý chặt chẽ của cán bộ đơn vị, với đặc điểm các trang mạng xã hội có lượng người sử dụng đông đảo, thông tin truyền tải không hạn chế và lan truyền sâu rộng, mạng xã hội chính là “mảnh đất vàng” để các thế lực phản động thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” đối với thanh niên (trong đó có thanh niên trong Quân đội) bằng cách cho đăng tải, chia sẻ, lan truyền các bài viết, bình luận có quan điểm chính trị đối lập với Đảng và Nhà nước ta… Nếu không đủ tỉnh táo, kiên định với lập trường cách mạng, bản lĩnh chính trị thì thanh niên Quân đội sẽ bị cuốn theo những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, bị lung lay ý chí, niềm tin, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do tuổi đời còn trẻ, bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng đang trong quá trình hoàn thiện, thích khám phá những vấn đề mới, hơn nữa cùng với tâm lý thích nổi tiếng, thích được mọi người chú ý, câu “like”, câu “view”… khiến cho một bộ phận không nhỏ thanh niên Quân đội tạo lập tài khoản mạng và cung cấp thông tin, hình ảnh cá nhân với tư cách quân nhân, đưa các thông tin, hình ảnh có nội dung mật, hoặc liên quan đến nội bộ cơ quan, đơn vị, hoặc “nhạy cảm” trong quan hệ gia đình, xã hội, hoặc tán đồng, ủng hộ các quan điểm, luận điệu tiêu cực, sai trái lên trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội. Mạng xã hội là môi trường thuận lợi cho những thông tin, hình ảnh, video clip có nội dung tha hóa về đạo đức hoành hành. Sử dụng mạng xã hội có thể bắt gặp hàng ngày, hàng giờ những thông tin về trộm cắp, giết người, lừa đảo, ăn chơi sa đọa, sự vô tâm, vô cảm… Tất cả điều này đều gây ra những tác động tiêu cực tới đạo đức, lối sống của quân nhân, có thể khiến cho thanh niên Quân đội có những hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, nếu không có nhận thức đầy đủ và ý thức cảnh giác khi đăng tải, chia sẻ các thông tin, hình ảnh, video clip,… thanh niên Quân đội dễ bị dụ dỗ, lôi kéo dẫn đến vi phạm pháp luật, quy định của đơn vị và Quân đội. Thực tế cho thấy việc giao lưu, chia sẻ thông tin lên mạng xã hội của thanh niên Quân đội hiện nay đang ẩn chứa những hệ lụy khó lường, đôi khi chính họ cũng không thể ngờ tới cho đến khi xảy ra những tiêu cực, hậu quả xấu.

 Phòng, chống hiệu quả tác động tiêu cực của các trang mạng xã hội đối với thanh niên Quân đội hiện nay là một yêu cầu cấp thiết song cũng hết sức phức tạp, có tính lâu dài; những tác động tiêu cực của mạng xã hội ảnh hưởng tới quân nhân trong quân đội. Các trang mạng xã hội chứa đựng nhiều nội dung tác động đến tâm tư, tình cảm quan điểm hành vi sai trái có thể làm quân nhân không vững vàng về bản lĩnh dẫn đến thay đổi lập trường; mạng xã hội chứa đựng nhiề nội dung phải ánh lối sống thực dụng, ích kỷ có thể khiến cho quan nhân tha hóa về đạo đức lối sống; sử dụng mạng xã hội có thể làm cho quân nhân có những hành vi vi phạn pháp luật, kỷ luật quân đội; mạng xã hội có thể làm suy giảm năng lực chức trách nhiệm vụ làm thay đổi thái độ, hành vi giao tiếp của quân nhân; mạng xã hội cũng là một môi trường mà các thế lực thù địch tuyên truyền, kích động để chống phá tư tưởng đạo đức, lối sống gây chia rẽ mất đoàn kết, tập hợp lực lượng chống đối để thực hiện diễn biến hòa bình.

Qua đó việc ngăn chặn và đẩy lùi những tiêu cực trên internet là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đối với mỗi cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị, cần được triển khai đồng bộ các chủ trương, giải pháp. Thực hiện tốt những vấn đề cơ bản trên, sẽ góp phần hữu hiệu ngăn chặn, bác bỏ các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa - chế độ tốt đẹp mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng.

GIÁM SÁT, CẢNH GIÁC KHAI THÁC SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI

 

Những năm gần đây, đăng thông tin sai sự thật, hình ảnh phản cảm, lừa đảo trên internet, mạng xã hội đã trở thành vấn nạn gây bất an cho toàn xã hội. Tuy nhiên, việc giám sát mạng xã hội lại không hề đơn giản, cả về phương pháp và công nghệ, nguồn lực, nhân sự cũng như các chế tài, quy định pháp luật… Thế giới đang thúc đẩy nghiên cứu cho sự ra đời nhiều công cụ, phần mềm giám sát thông tin trên mạng xã hội nhằm vào nhiều mục tiêu khác nhau. 

Mạng xã hội phát triển rất nhanh và vai trò của nó ngày càng tăng lên trong đời sống xã hội và quốc phòng. Chưa bao giờ mạng xã hội trở nên phổ biến và chiếm lấy phần lớn thời gian sử dụng Internet của con người, mang lại các giá trị to lớn về mọi mặt. Mạng xã hội mang lại nhiều lợi ích, dễ sử dụng, song mạng xã hội cũng có mặt xấu, “độc hại” khiến người sử dụng nó phải gánh chịu hậu quả nếu vi phạm quy tắc sử dụng. Bên cạnh những lợi ích do mạng xã hội đem lại, mạng xã hội đang là môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng tung tin xấu, độc, đẩy mạnh hoạt động chống phá, gây rối loạn tình hình.

Chiêu thức và thủ đoạn phổ biến của các thế lực thù địch, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, phản động là sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền, kích động chống phá, xuyên tạc sự thật, tập hợp lực lượng, hình thành tổ chức tiến hành các cuộc “cách mạng màu”, thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Vì lẽ đó, mạng xã hội trở thành một “trụ cột” của sự phát triển, một “không gian chủ quyền an ninh” quốc gia.

Nhìn lại các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, “cách mạng nhung” vừa qua, chúng ta thấy rõ vai trò “ngòi nổ” với sự “kích hoạt” nhanh, mạnh, vô cùng nguy hiểm của mạng xã hội khi nó bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để lan truyền các tin thất thiệt, các băng hình giả mạo để kích động, gây hấn, tạo dựng các cuộc bạo động, lật đổ chính quyền.

Việc quản lý thông tin trên mạng xã hội rất khó khăn, nhất là khi các mạng xã hội thực hiện truyền tin qua email, messenger, hoặc liên kết website, youtube, facebook một cách tự do. Ðây chính là “hố đen” được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng khai thác, thao túng. Khi có sẵn trong tay danh sách địa chỉ thư tín của các cá nhân lãnh đạo thuộc diện “quan tâm đặc biệt”, họ chọn thời điểm để phát tán, tung tin và tải lên các trang mạng xã hội nổi tiếng với tần suất lớn để thu hút nhiều người đọc, nhất là giới trẻ, các đối tượng hiếu kỳ nên rất khó kiểm soát.

Chúng ta có nhiều biện pháp quản lý mạng xã hội là rất cần thiết nhưng không phải là ngăn cấm, áp đặt ý chí chủ quan mà yêu cầu người sử dụng mạng xã hội phải theo luật pháp, thực hiện đúng quy tắc và cách ứng xử có văn hóa trên mạng xã hội. Bài học về “ngòi nổ” trong các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, “cách mạng nhung” rất cần phải hết sức cảnh giác, luôn luôn đề phòng. Cùng với đó, phải xử lý nghiêm minh các đối tượng sử dụng, lợi dụng mạng xã hội để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là hành vi trái pháp luật, cần phải trừng trị theo pháp luật, đúng người, đúng việc, đúng tội để làm gương.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

 

“…Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi…

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Lời kêu gọi cả nước tiến lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, đăng Báo Nhân dân, số 5317, ngày 03 tháng 11 năm 1968.

Lời kêu gọi thể hiện sâu sắc ý chí mạnh mẽ và quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc, phản ánh niềm tin vững chắc vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, dù phải chịu nhiều hy sinh gian khổ nhưng không thể lay chuyển ý chí, quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam về một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Lời kêu gọi của Người tựa như lời “hịch” đanh thép thúc giục cả dân tộc đồng tâm, nhất trí, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Lời kêu gọi còn là một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, củng cố niềm tin, xiết chặt đội ngũ để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả nhân loại tiến bộ trong thế kỷ XX. Đó là tinh thần kiên quyết tiến công của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta, của toàn quân và toàn dân ta trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng. Tinh thần tiến công đó tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, bất trắc, khó lường; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biên giới, biển, đảo, đặc biệt là trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại. Các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội. Để thực hiện trọn vẹn lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. Nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, đảm bảo lực lượng vũ trang nhân dân luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, thực sự là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất và các nhiệm vụ khác được giao.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng công an nhân dân

 TCCS - Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một văn kiện vô cùng quý giá có ghi hàng chữ “Tuyệt đối bí mật”. Văn kiện “Tuyệt đối bí mật” này (từ sau ngày 9-9-1969 được Đảng ta gọi là Di chúc) là một di sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân Việt Nam, đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Bản Di chúc tuy rất ngắn gọn song nó chứa đựng biết bao giá trị tư tưởng và tình cảm, là sự kết tinh một đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đem lại sự đổi đời của dân tộc Việt Nam ta, đồng thời để lại những di sản bất hủ đối với những thế hệ mai sau”(1).

Trong Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh tại trụ sở Bộ Công an, đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an khi đó đã thay mặt toàn thể lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tuyên thệ: “Lực lượng Công an nhân dân đoàn kết và quyết tâm làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà”(2). Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng, suốt 55 năm qua, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi rọi, dẫn đường cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam lập nhiều chiến công, thành tích, xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Chỉ với hơn 1.000 từ, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó có lực lượng Công an nhân dân Việt Nam ý chí và quyết tâm sắt đá, niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, sức mạnh của chính nghĩa và chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(3), đưa cả dân tộc giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện thành công công cuộc đổi mới, làm cho “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(4).

Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an kiểm tra trang thiết bị, quân tư trang của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát cơ động tham gia tổng duyệt lễ diễu binh kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát cơ động, ngày 7-4-2024_Ảnh: TTXVN

Quán triệt sâu sắc và thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam được tiếp thêm động lực và sức mạnh to lớn, không quản ngại khó khăn, gian khổ, tận tụy trong công tác, dũng cảm trong chiến đấu, sẵn sàng hy sinh bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công cuộc đổi mới, giữ gìn an ninh, trật tự, đánh thắng mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, các loại tội phạm, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm gần đây, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bám sát và triển khai có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam có nhiều đổi mới mang tính bước ngoặt, đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt công tác, đã được cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ghi nhận, khẳng định: Nhìn lại nửa nhiệm kỳ vừa qua, ngành Công an “hoạt động rất vất vả, song cũng rất đáng tự hào, để lại nhiều dấu ấn tốt(5).

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong công an nhân dân được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng đối với các mặt công tác bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Tập trung xây dựng lực lượng công an thực sự trong sạch, vững mạnh, “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, “Chỉ biết còn Đảng thì còn mình”, “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất” theo đúng di nguyện của Bác. Đảng ủy Công an Trung ương đã chủ động, tham mưu, đề xuất Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-3-2022, “Về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”; lãnh đạo cụ thể hóa và tổ chức thực hiện quyết liệt Nghị quyết này, gắn với kế hoạch thực hiện Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị”; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo đó, kiên quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Công an nhân dân Việt Nam. Quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trước hết là phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay trong nội bộ Công an nhân dân Việt Nam; đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực và chấn chỉnh thái độ thực thi công vụ của toàn lực lượng. Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, nhất là ở những lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng và ở những nơi có nhiều dư luận phản ánh, nhiều đơn, thư tố cáo. Cùng với đó, lần đầu tiên ban hành và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Đảng ủy Công an Trung ương về công tác chính trị, tư tưởng, Quy định về học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân; tổ chức sâu rộng, lan tỏa hàng chục đợt sinh hoạt chính trị, hội thảo chuyên đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong Công an nhân dân Việt Nam, về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân; nghiên cứu, tìm hiểu các tác phẩm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, như: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam””...; gắn với quyết liệt rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo chuyển biến mạnh mẽ, rõ nét trong xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam thực sự trong sạch, tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân, luôn sẵn sàng chấp nhận khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tích cực tham gia công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo chức năng, nhiệm vụ, góp phần quan trọng đẩy lùi một bước nguy cơ mất an ninh chính trị nội bộ, suy giảm “thế trận lòng dân”, làm suy yếu sức chiến đấu của Đảng, của chế độ ta từ gốc, từ bên trong. Thực hiện chức năng bảo vệ Đảng, Đảng ủy Công an Trung ương đã tập trung lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh văn hóa - tư tưởng, an ninh thông tin - truyền thông, an ninh mạng. Tăng cường các giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Phòng ngừa, đấu tranh, vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phản động thâm nhập, chuyển hóa nội bộ, cài cắm nội gián, chui sâu, leo cao; kịp thời phát hiện, báo cáo tham mưu với Đảng ngăn chặn những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung cao độ điều tra, xử lý dứt điểm, nghiêm minh, triệt để, đúng pháp luật nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, theo đúng quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, không để kéo dài, “chìm xuồng” và thực sự tạo sự lan tỏa theo đúng phương châm “xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực, xử lý một người để cứu muôn người”(6); qua đó, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đánh giá cao, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam là một khối đoàn kết, thống nhất về ý chí, gắn kết tư tưởng và hành động; cùng với đoàn kết giữa Công an nhân dân Việt Nam với Quân đội nhân dân Việt Nam và các ban, bộ, ngành, địa phương; đoàn kết, hợp tác quốc tế với các đối tác an ninh, trật tự, tạo sức mạnh to lớn giúp lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, kể cả trong bối cảnh các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp chưa từng có tiền lệ, gia tăng thách thức, áp lực mạnh mẽ từ nhiều hướng đối với bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Công tác thu thập thông tin, phân tích, tham mưu chiến lược của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã cung cấp luận cứ góp phần quan trọng giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Nhờ đó, an ninh quốc gia được giữ vững, tội phạm liên tục kéo giảm qua các năm, môi trường an ninh, an toàn, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố vững chắc, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh “phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(7).

Tình quân dân (Tác giả: Bùi Việt Đức)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Xuyên suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là mục tiêu, lý tưởng “hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”, Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”(8). Trong bản Di chúc thiêng liêng để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tư tưởng, tình cảm chủ đạo trong những điều Người căn dặn là tình yêu thương trọn vẹn của Người đối với mọi tầng lớp nhân dân; kể cả những lời cuối khi Người nói “về việc riêng”, vẫn toát lên những suy nghĩ trăn trở, lo cho nước, cho dân. Quán triệt, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng, đạo đức, phong cách trong Di chúc của Người, mọi chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đều phải “vì dân phục vụ và dựa vào dân mà làm việc”(9), “phải thực sự trung thành, tôn kính, thương yêu dân”(10), “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(11), vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Với việc tham mưu ban hành và phát huy vai trò thường trực thực hiện Quyết định số 06/QĐ-TTg, ngày 6-1-2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã gương mẫu, đi đầu trong chuyển đổi số, góp phần cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu tiêu cực, “tham nhũng vặt”, phục vụ tốt nhất cho nhân dân. Tập trung xây dựng công an cấp xã, tham mưu xây dựng lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, đổi mới mạnh mẽ phương pháp làm việc theo phương châm “công an tìm đến dân”, “gần dân, hiểu dân”, “lúc dân cần, lúc dân khó, có công an”, qua đó, là chỗ dựa tin cậy của nhân dân ở từng địa bàn cơ sở. Chủ động, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương, các nhà hảo tâm xây dựng hàng chục nghìn ngôi nhà cho hộ nghèo, gia đình chính sách, gia đình khó khăn về nhà ở tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, không chỉ giải quyết từ gốc rễ vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, an ninh con người, mà còn góp phần quan trọng củng cố “thế trận lòng dân” trong thế trận an ninh nhân dân, nền an ninh nhân dân vững chắc. Công tác đền ơn, đáp nghĩa, chính sách hậu phương trong Công an nhân dân Việt Nam luôn được chú trọng với nhiều hoạt động thiết thực, nghĩa tình, thể hiện sâu sắc sự tri ân.

Năm mươi lăm năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những bài học vô cùng quý báu trong công tác bảo vệ an ninh, trật tự. Đó là bài học về tăng cường và bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện, trực tiếp về mọi mặt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam; bài học về hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mọi chủ trương, biện pháp công tác an ninh, trật tự đều phải xuất phát từ nguyện vọng, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân; bài học về không ngừng củng cố đoàn kết - đoàn kết trong các cấp ủy đảng, trong toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam; đoàn kết giữa lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, với các cơ quan, ban, ngành hữu quan; tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng vì hòa bình, ổn định và cùng phát triển; bài học về chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Công an nhân dân Việt Nam vừa “hồng”, vừa “chuyên”, gắn bó mật thiết với nhân dân, trọng dân, lễ phép với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, lấy niềm vui của nhân dân làm niềm vui, lẽ sống của mình.

Hiện nay, toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đang ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội Đảng bộ Công an Trung ương lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2025 - 2030 theo Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 16-6-2024, của Bộ Chính trị khóa XIII trong bối cảnh các yếu tố bên trong, bên ngoài, an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp, gia tăng thách thức, áp lực đối với công tác bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động, các loại tội phạm ra sức tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ, đảng viên Công an nhân dân Việt Nam; chúng ráo riết triển khai nhiều âm mưu, hoạt động hết sức thâm độc, trực diện, không từ thủ đoạn nào hòng thúc đẩy các yếu tố suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, “phi chính trị hóa”, gây chia rẽ lực lượng vũ trang với nhân dân.

Bối cảnh tình hình trên đòi hỏi lực lượng Công an nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết, luôn phải thấm nhuần sâu sắc những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; phát huy truyền thống anh hùng vẻ vang; kiên quyết, kiên trì thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo chức năng, nhiệm vụ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên Công an nhân dân Việt Nam; xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thấm nhuần phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tận dụng tối đa thời cơ, đẩy lùi mọi nguy cơ, thách thức đối với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược của Đảng, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trọn đời vì nước, vì dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; là biểu tượng, tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Di chúc của Người, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam luôn kiên định và trung thành với sự nghiệp, lý tưởng cách mạng của Người, đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, không nề gian khổ, hy sinh, nỗ lực phấn đấu, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng mà Người đã trọn đời cống hiến, hy sinh. Toàn lực lượng Công an nhân dân Việt Nam nguyện hết lòng, hết sức thực hiện di huấn của Người, phấn đấu vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

------------------------------

Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” - yếu tố then chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

 TCCS - Cán bộ cấp chiến lược được tôi luyện qua nhiều môi trường thử thách, là mắt xích trọng yếu trong hoạt động của Đảng, Nhà nước, nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Việc lựa chọn cán bộ cấp chiến lược bảo đảm “tâm, tầm, trí” là yêu cầu quan trọng, mang tính then chốt, quyết định đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức thực hiện thắng lợi quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đang đặt ra ngày càng cao của sự nghiệp phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Về đội ngũ cán bộ cấp chiến lược

Trong bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV, ngày 13-3-2024, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đội ngũ cán bộ cấp chiến lược là tinh hoa của Đảng, đòi hỏi phải thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và có uy tín cao để giải quyết những công việc ở tầm chiến lược, xử lý kịp thời, đúng đắn, có hiệu quả những tình huống phức tạp có quan hệ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, sự sống còn của chế độ”(1).

Cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” là những người tiêu biểu về lương tâm, danh dự, trí tuệ, có khả năng quy tụ, tập hợp được đông đảo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân cùng thực hiện những nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước giao phó. Đó là những đồng chí luôn phấn đấu tận tâm, tận lực cống hiến hết mình cho công việc, đặt lợi ích tập thể lên trên hết; luôn cố gắng phát huy sở trường, thế mạnh, kinh nghiệm của bản thân cho nhiệm vụ chung của tập thể… Cán bộ cấp chiến lược giữ cương vị chủ chốt, đứng đầu, chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân về kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương; được rèn luyện, thử thách qua nhiều vị trí, môi trường làm việc khác nhau, trưởng thành từ cơ sở và có sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc, được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tín nhiệm, trở thành những cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảm nhiệm những chức vụ quan trọng của mỗi địa phương, đơn vị.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự Lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng_Ảnh: TTXVN

Đảng ta luôn khẳng định, công tác cán bộ là nhiệm vụ “then chốt” của công tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho chúng ta những bài học bổ ích, quý báu về lựa chọn người “tài”, “đức” để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; đặc biệt là nghệ thuật chọn người, dùng người chuẩn xác vào những vị trí công tác, đem lại hiệu quả cao. Người đã quy tụ, tập hợp được đông đảo những người đức độ, tài năng tham gia Chính phủ khi nước nhà vừa mới giành độc lập; phát hiện, huấn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ trở thành các nhà lãnh đạo ưu tú của Đảng, Nhà nước. Trong đội ngũ, tầng lớp tinh hoa, ưu tú ở các giai cấp, giai tầng trong xã hội, nhiều người đã gạt bỏ lợi ích, vinh hoa, phú quý của riêng mình để làm việc, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh yêu cầu cán bộ cấp chiến lược phải đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Xác định rõ quan điểm và vững vàng ý chí như vậy, đội ngũ cán bộ mới không sa vào chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, mất đoàn kết nội bộ, cục bộ, địa phương, làm giàu bất chính, kê khai tài sản cá nhân không trung thực,... Nếu không có “con mắt tinh đời” để lựa chọn chuẩn xác cán bộ cấp chiến lược vào vị trí lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, các ngành, đơn vị, địa phương sẽ là điều tai hại cho Đảng, Nhà nước và nhân dân; không chỉ mất cán bộ, mà còn làm giảm sút niềm tin, uy tín của Đảng với nhân dân. Do đó, dứt khoát không đưa vào quy hoạch những người có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, không thực đức, thực tài, mất đoàn kết nội bộ, tham nhũng, tiêu cực, cơ hội chính trị.

Thực tế những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp để giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ cấp chiến lược không chỉ cho Trung ương, mà còn cho các địa phương, tạo nguồn cán bộ kế cận, bổ sung, như thực hiện luân chuyển công tác, tổ chức những lớp bồi dưỡng học tập lý luận chính trị cao cấp, thử thách, rèn luyện cán bộ thông qua phân công, giao nhiệm vụ, giải quyết công việc,… Đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đã không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên trong công việc, cuộc sống, tự giác tu dưỡng, rèn luyện về năng lực, phương pháp, tác phong công tác, phẩm chất đạo đức, lối sống đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Nhiều cán bộ cấp chiến lược đã bám sát cơ sở, phát huy dân chủ, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ sức mạnh của tập thể để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị được giao, nhất là thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

“Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới và sau hơn 25 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp ở nước ta đã có bước trưởng thành, phát triển nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng cao, từng bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế”(2).

Tuy nhiên, một số cán bộ cấp chiến lược đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tham nhũng, tiêu cực; vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, quy định những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương, gây hậu quả nghiêm trọng, nhân dân bức xúc, ảnh hưởng lớn đến uy tín của tổ chức đảng và chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị. “Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy phiếu bầu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội…, trong đó có cả cán bộ cấp cao, tuy đã được ngăn chặn, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị đẩy lùi. Làm việc gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự”(3).

Hiện nay, các cơ quan, đơn vị, địa phương tích cực, chủ động làm tốt công tác lựa chọn nhân sự, điều chuyển, luân chuyển, bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo mới để chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Do đó, việc lựa chọn cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. “Công tác nhân sự Đại hội là vô cùng quan trọng, nhưng cũng hết sức phức tạp, khó khăn, nặng nề, đòi hỏi Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cả hệ thống chính trị phải  làm việc với tinh thần trách nhiệm rất cao, với quyết tâm, nỗ lực rất lớn, có cách làm thật sự công tâm, khách quan, khoa học, đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết”(4).

Yêu cầu đặt ra trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí”

Giai đoạn hiện nay là thời điểm “chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong những năm tháng kháng chiến, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hòa bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau”(5). Do đó, việc lựa chọn cán bộ cấp chiến lược càng phải chính xác để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Một trong những cách thức, biện pháp quan trọng để lựa chọn cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” là cần phải tiếp tục rà soát, bổ sung, thay thế các văn bản có liên quan đến công tác cán bộ, quy định một cách chặt chẽ, đầy đủ, toàn diện các tiêu chí, như độ tuổi, trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, lối sống, thời gian công tác, kinh nghiệm thực tiễn, uy tín trước tập thể cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong quá trình tổ chức thực hiện quy trình nên lấy phiếu tín nhiệm, thăm dò cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân trong toàn cơ quan, đơn vị, địa phương.

Cơ quan, ban, ngành làm công tác tổ chức cán bộ cần cẩn trọng, chặt chẽ, nghiên cứu, tham khảo từ nhiều kênh thông tin khác nhau; không chỉ dựa vào bằng cấp, tiêu chí mà cần dựa vào năng lực làm việc, nhất là những kết quả, sản phẩm công việc cụ thể, uy tín trong tập thể, phẩm chất đạo đức, lối sống ở nơi công tác, làm việc và nơi cư trú. Cần nắm bắt tình hình dư luận trước khi bổ nhiệm cán bộ cấp chiến lược; tinh tường trong nhìn nhận, đánh giá cán bộ toàn diện, dự báo triển vọng phát triển lâu dài, từ đó đưa ra quyết định giới thiệu, lựa chọn cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” đúng người, đúng việc.

Những cán bộ cấp chiến lược phải tự giác tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng với nhiệm vụ công việc đặt ra. “Từng cán bộ, đảng viên, trước hết là từng đồng chí ủy viên Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư tự giác, gương mẫu tự phê bình, kiểm điểm, nhìn lại mình, tự điều chỉnh mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa mình; cảnh giác trước mọi cám dỗ về danh lợi, vật chất, tiền tài, tránh rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân”(6). Đây là biện pháp quan trọng, bởi không ai khác, mà chính bản thân mỗi cán bộ cấp chiến lược phải luôn đặt mình vào trong tổ chức, chức vụ càng cao càng phải chấp hành nghiêm những quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; luôn tỉnh táo trước mọi cám dỗ, làm việc bằng lương tâm, trách nhiệm của người cộng sản chân chính. Mỗi cán bộ cấp chiến lược cần thực hiện nghiêm Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới.

Rèn luyện chữ “tâm” của người cán bộ cấp chiến lược để thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ, đồng cảm với cấp dưới và những khó khăn, vất vả, cực nhọc của người dân; luôn hết lòng, hết sức vì công việc, nhiệm vụ chung của tập thể, sẵn sàng nhường bước, ủng hộ những người tài năng giải quyết công việc hiệu quả, phù hợp đem lại những điều có lợi nhất cho tập thể. Rèn luyện chữ “tâm” để mỗi cán bộ cấp chiến lược vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nhất là không bị sa ngã vào chủ nghĩa cá nhân, không hám danh lợi, quyền bính, chức tước, bổng lộc; tự hổ thẹn với bản thân mình khi có ý nghĩ hay những việc làm sai trái. Cần nhận thức sâu sắc rằng, “tâm” mới là gốc, là thiện, là phẩm giá, lương tâm của một con người.

Rèn luyện chữ “tầm” của cán bộ cấp chiến lược để phân tích, suy luận các công việc, nhiệm vụ một cách lô-gíc chặt chẽ, khoa học, đưa ra được những dự báo chiến lược bảo đảm cho sự phát triển của đơn vị, địa phương. Đó là tính quảng đại, bao dung, độ lượng vì việc lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân; mỗi một công việc, nhiệm vụ đưa ra đều tập hợp, đoàn kết và được sự ủng hộ đông đảo của cấp dưới, các tầng lớp nhân dân. Đó còn là tầm nhìn xa, trông rộng trong quyết sách công việc, trong nhìn nhận, đánh giá, lựa chọn cán bộ cấp dưới, phân công, sắp xếp đúng người, đúng việc…

Các đồng chí tham dự Lớp Bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV tham quan, khảo sát thực tế cánh đồng ứng dụng công nghệ cao tại Nghệ An_Ảnh: baonghean.vn

Rèn luyện chữ “trí” của cán bộ cấp chiến lược để sắp xếp, xử lý công việc khoa học, phù hợp, hiệu quả, tạo bầu không khí dân chủ, cởi mở, khơi dậy và phát huy tiềm năng, thế mạnh của cấp dưới, của nhân dân, để mọi người đều toàn tâm, toàn ý cho nhiệm vụ chung của tập thể. Đó chính là sự khôn khéo, quyền biến trong giải quyết mối quan hệ bên trong và bên ngoài, đối nội và đối ngoại, có dấu ấn, đặc sắc riêng mà mọi người phải tâm phục, khẩu phục.

Để rèn luyện được “tâm, tầm, trí” thì cán bộ cấp chiến lược phải tự giác “gột rửa”, “tự soi”, “tự sửa” những hạn chế, khuyết điểm của bản thân mình, gia đình mình. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thường căn dặn: Thường xuyên tự soi, tự sửa, tự răn mình, tránh xa những cám dỗ vật chất, tham vọng, tránh đi vào vết xe đổ, để tay nhúng tràm và nếu đã trót ít nhiều nhúng tràm thì sớm tự giác gột rửa.

Trong xây dựng, lựa chọn, bố trí đội ngũ cán bộ cấp chiến lược cần hội tụ đầy đủ “tâm, tầm, trí”, không được quá coi trọng, đề cao, tuyệt đối hóa hoặc xem nhẹ bất kỳ một yếu tố nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, người cán bộ có năng lực nhưng không có đạo đức, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng thì năng lực đó không thể dùng được, thậm chí còn có hại cho Tổ quốc, cho nhân dân. Ngược lại, những người có đạo đức nhưng kém năng lực, tuy không có hại cho ai, nhưng chẳng giúp gì cho nước, cho dân. Đồng thời, con người khó có thể vẹn toàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài, nhưng vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay, nên cần thực hiện tốt nguyên tắc “dụng nhân như dụng mộc”. “Thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng cong đều tùy chỗ mà dùng được”(7); “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy(8). Sử dụng cán bộ không đúng với khả năng chuyên môn, không đúng chỗ, đúng việc, sẽ ảnh hưởng đến kết quả công việc, cán bộ khó có điều kiện để phát huy hết năng lực, sở trường của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tổng kết: “Biết dùng người như vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”(9); “Dùng cán bộ không đúng tài năng của họ, cũng là một cớ thất bại”(10).

Phát huy vai trò của nhân dân trong lựa chọn cán bộ cấp chiến lược. Theo đó, cần dựa vào nhân dân để đánh giá chính xác cán bộ; cán bộ cấp chiến lược cần phải công khai tài sản cá nhân, giữ thói quen thường xuyên đối thoại dân chủ, trực tiếp lắng nghe tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân; cần có hình thức phù hợp thăm dò ý kiến trong nhân dân để là một kênh đánh giá năng lực làm việc, phẩm chất đạo đức, lối sống, uy tín, niềm tin với cán bộ...

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, qua đó, kịp thời phát hiện những sai phạm và xử lý theo quy định của pháp luật những cán bộ không đủ năng lực, uy tín, phẩm chất đạo đức, lối sống, không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, để nội bộ mất đoàn kết, cấp dưới và nhân dân bức xúc. Tuy nhiên, việc xử lý cán bộ cấp chiến lược cần phải có tình, có lý; trên cơ sở quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước và cần căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, bản chất của sự việc, vấn đề, bản chất con người,… để đưa ra hình thức kỷ luật phù hợp, hiệu quả, vừa mang tính chất cảnh báo, cảnh tỉnh, nhưng cũng vừa mang tính nhân văn, nhân đạo.

Lựa chọn cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” là nhiệm vụ lâu dài, thường xuyên, liên tục; đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng phải có “con mắt tinh đời” để lựa chọn, giới thiệu những người xứng đáng. Những cán bộ cấp chiến lược có “tâm, tầm, trí” cần phải biến cái “khó, khổ” thành “khai mở tiềm năng - khai thông nguồn lực - khát vọng vươn lên”; biến những khó khăn, thách thức thành động lực phát triển; tiềm năng, lợi thế thành của cải vật chất; những cơ hội thành những thành tựu cụ thể. Điều quan trọng hơn cả, cán bộ tinh hoa cấp chiến lược luôn khắc cốt, ghi tâm những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ, đảng viên vừa là người “công bộc”, vừa là người “đầy tớ” thật trung thành của nhân dân; luôn cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng./.

----------------------------------

Thực hành dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 TCCS - Cách đây 55 năm, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng, chứa đựng những tư tưởng lớn về Đảng và xây dựng Đảng, trong đó có nội dung hết sức sâu sắc về thực hành dân chủ trong Đảng. Quán triệt và thực hành dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cách thức hữu hiệu để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, thật sự “là đạo đức, là văn minh” theo tâm nguyện của Người.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến thăm, làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội_Ảnh: TTXVN

1- Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng, kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách và tình cảm, tâm nguyện của Người đối với dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta. Di chúc chứa đựng những tư tưởng lớn, là bản tổng kết lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc về cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, Di chúc đề cập nội dung hết sức  sâu sắc về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng, để Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới, xứng danh là Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền ở nước ta.

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành nhiều tâm huyết, trí tuệ và suy tư, trăn trở cho công tác xây dựng Đảng. Người căn dặn Đảng ta: việc cần làm trước tiên là “chỉnh đốn lại Đảng”, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ “đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”; đồng thời nhấn mạnh, “Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.

Xác định rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc tới việc làm thế nào để dân chủ trong Đảng được phát huy mạnh mẽ trong mọi hoạt động của ĐảngTheo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ là “của quý báu nhất của nhân dân” và thực hành dân chủ là “chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(1) trong quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.

Thực hiện dân chủ trong Đảng là quá trình Đảng đưa các giá trị dân chủ vào hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong sinh hoạt đảng, làm cho dân chủ trở thành hiện thực trong mọi hoạt động của Đảng. Dân chủ trong Đảng là dân chủ có tính đảng, gắn với kỷ luật, kỷ cương, đối lập với tình trạng dân chủ tùy tiện, vô chính phủ, dân chủ giả hiệu.

Thực hành dân chủ trong Đảng thể hiện ở nhiều khía cạnh, trong đó có việc tổ chức đảng, đảng viên bàn bạc, thảo luận các vấn đề để đi tới hình thành quyết sách chính trị của Đảng. Dân chủ trong Đảng được phản chiếu trong văn hóa đấu tranh tự phê bình và phê bình, hoạt động chất vấn của tổ chức đảng và đảng viên; phản ánh, kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, về bản chất, dân chủ không đối lập với tập trung, kỷ luật, mà chỉ đối lập với sự quan liêu, thói gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, lộng quyền và lạm quyền. Tập trung cũng không đối lập với dân chủ, mà chỉ đối lập với phân tán, cục bộ, thói tự do vô chính phủ.

Thực hành dân chủ trong Đảng được thể hiện trong tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. V.I. Lê-nin từng chỉ rõ: Không thể có một đảng cách mạng chân chính mà lại phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ. Nếu không có tập trung thì đảng trở thành một tổ chức biệt phái, hỗn độn, một “câu lạc bộ tranh luận”; nếu xa rời dân chủ, đảng sẽ bị biến thành một tổ chức chuyên quyền, độc đoán, quan liêu. Vận dụng đúng đắn quan điểm của V.I. Lê-nin về nguyên tắc tập trung dân chủ vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, có lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập “tập trung dân chủ”, nhưng nhiều hơn cả là Người đề cập “dân chủ tập trung”. Tập trung dân chủ bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, là nguyên tắc tổ chức cao nhất và là chế độ lãnh đạo của Đảng, phải được tuân thủ nghiêm ngặt, triệt để, làm cho Đảng ngày càng thống nhất về ý chí và hành động. Người lý giải: Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương; tất cả đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Người còn chỉ rõ: “Tập trung trên nền tảng dân chủ. Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân chính. Những phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất định phải chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập trung. Nhưng tập trung ấy không phải là cá nhân chuyên chính; nó là xây dựng trên nền tảng dân chủ(2). Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, được thể hiện ở chỗ “trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh đạo tập trung của Đảng, trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng”(3).

Để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Phải thật sự mở rộng dân chủ để cho tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải tập hợp ý kiến của đảng viên để giúp Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt; làm như thế là khơi dậy tinh thần trách nhiệm và tính tích cực chủ động của tất cả đảng viên. Khi đã thảo luận, bày tỏ ý kiến rồi thì đi đến tập trung, làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(4), tức là đề cập ý chí thống nhất, hành động thống nhất. Việc thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ trong Đảng cũng như đi tìm chân lý trong lĩnh vực tư tưởng. Người chỉ rõ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lýChân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”(5). Trong quá trình thực hành dân chủ phải kiên quyết chống mọi biểu hiện lệch lạc, không để “sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác”(6).

Là tổ chức lãnh đạo xây dựng, phát triển nền dân chủ ở nước ta, Đảng phải là hạt nhân và là tấm gương thực hành, phát huy dân chủ. Vì thế, Người đòi hỏi “đảng viên ở địa vị càng cao... càng phải làm gương dân chủ”(7). Dân chủ trong Đảng, do đó có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát huy dân chủ trong xã hội.

Một điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm khi phát huy dân chủ trong Đảng, đó là: Với vai trò, sứ mệnh là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thì Đảng phải phát huy cao độ vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất và các tổ chức chính trị - xã hội để thông qua các tổ chức này, nhân dân thực hiện và phát huy vai trò là chủ, làm chủ của mình. Quyền lực thuộc về nhân dân - đó chính là dấu hiệu đặc trưng của chế độ dân chủ mới. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn tình trạng người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đảng tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Vì thế, thực hành dân chủ trong Đảng đòi hỏi phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, “Phải thật sự thi hành dân chủ trong Đảng và trong quần chúng”(8). Đảng phải khuyến khích nhân dân trong vai trò làm chủ “giúp Chính phủ và Đoàn thể kiểm tra công việc và hành vi của các cán bộ”(9). Điều đó có ý nghĩa lớn trong phát triển nền dân chủ mới, giúp cho Đảng phòng, tránh được tệ quan liêu hóa, xa rời nhân dân. Để phát huy dân chủ, Đảng có trách nhiệm làm cho mỗi người dân “phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”(10)họ phải biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Đó là những vấn đề có liên quan trực tiếp tới quá trình thực hành và phát triển dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Một trong những vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm là phòng, chống việc làm đi ngược với lợi ích của quần chúng, biểu hiện lệch lạc trong quá trình dân chủ hóa. Người lên án hiện tượng một số cán bộ “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ”(11). Người còn chỉ rõ: “Tác phong của những “ông quan liêu” là thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách”(12).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ và kỷ luật của Đảng có mối quan hệ biện chứng, là hai mặt không thể tách rời trong một thể thống nhất của chế độ sinh hoạt đảng. Người cho rằng, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật”(13) và “thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất kỷ luật, tập trung lãnh đạo là việc cực kỳ cần thiết và cực kỳ quan trọng(14). Theo Người, “Trong nội bộ Đảng có dân chủ rộng rãi, đồng thời có kỷ luật nghiêm khắc”(15); do đó, phải kiên quyết chống lời nói và việc làm tự do vô tổ chức, như “không xét thời gian, địa điểm, điều kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ quá trớn”(16).

2- Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để phát huy dân chủ, để cán bộ, đảng viên được phát huy tối đa năng lực cá nhân, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội chính là cách thức phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Vận dụng và phát triển tư tưởng về thực hành dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã cụ thể hóa trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Nghị quyết Đại hội các khóa và từng bước hoàn thiện trong nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, trong hoạt động thực tiễn của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.

Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, của công tác xây dựng Đảng là thước đo cho những giá trị đạt được về thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Thực tiễn cho thấy, dân chủ ngày càng được thực hiện tốt hơn qua từng năm và qua mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Dân chủ trong Đảng được mở rộng đúng hướng, từ đó tăng cường đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng; đồng thời, phát hiện và ngăn ngừa nhiều việc làm sai trái, xử lý nghiêm không ít tổ chức đảng và đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề cập việc có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng đều được lấy ý kiến rộng rãi trong Đảng và trong xã hội. Trong công tác cán bộ, việc lấy phiếu tín nhiệm, ứng cử, đề cử đều được đưa vào quy định của Đảng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, theo phương châm “trong trước, ngoài sau”, “trên trước, dưới sau”, “cấp trên nêu gương cho cấp dưới”, thực hành dân chủ được quán triệt và yêu cầu thực hiện trong tất cả hoạt động của Đảng, từ công tác cán bộ, khen thưởng, kỷ luật và “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” khi xử lý sai phạm.

Trong các nhiệm kỳ gần đây, thực hành dân chủ trong Đảng tiếp tục được mở rộng, phát huy bằng những quy chế, quy định chặt chẽ hơn, như Quy định của Bộ Chính trị báo cáo công việc và hoạt động giữa hai kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; các cấp ủy có trách nhiệm báo cáo sự lãnh đạo, chỉ đạo giữa hai kỳ họp. Quy định thời gian tiến hành tự phê bình và phê bình, lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, đảng viên từ cơ quan cao nhất đến tổ chức cơ sở, nhân dân góp ý xây dựng Đảng. Các quy chế về thông tin, cung cấp thông tin, bảo mật thông tin được tăng cường(17).

Cùng với đẩy mạnh thực hành dân chủ trong Đảng, việc thực hành dân chủ trong các cơ quan nhà nước được chú trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”(18)Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), tiếp tục khẳng định và nêu rõ hơn vấn đề này: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”(19). Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa các Hiến pháp trước đó, trên cơ sở truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam, quán triệt việc lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Hiến pháp năm 2013 đã cụ thể hóa tư tưởng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.

Các đại biểu biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Gia (tỉnh Lạng Sơn), nhiệm kỳ 2020 - 2025 _Ảnh: TTXVN

Trong sự vận hành của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Đảng ta nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phải bảo đảm “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” thông qua kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong gần 40 năm đổi mới vừa qua, Đảng đã chỉ đạo xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực đạt nhiều kết quả trong thực tiễn. Nhiều văn bản liên quan được chỉ đạo xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả trong đời sống xã hội(20). Trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, nhất là nhiệm kỳ Đại hội XII và hơn nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, Bộ Chính trị đã ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 26-10-2022, về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng lần lượt được ban hành, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở...

Tuy nhiên, để dân chủ thấm sâu trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội..., chúng ta còn nhiều việc phải làm. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về dân chủ và phát huy dân chủ phần nào chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, đặc biệt trong điều kiện mới, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy công nghệ thông tin, công nghệ số, mạng xã hội phát triển nhanh chóng, mở ra nhiều cơ hội đồng thời đưa đến nhiều thách thức cho việc thực hành dân chủ,... Việc thực hành dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, nhiều mặt chưa gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện pháp luật, kỷ luật, kỷ cương. Tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho một số nghị quyết của Đảng khó vào cuộc sống. Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn kịp thời; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết, chất lượng sinh hoạt đảng giảm sút... Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp”(21).

3- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước”(22). Người cũng lưu ý: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”(23), vào Đảng không phải là để “làm quan cách mạng”, để “thăng quan tiến chức”, để “một người làm quan cả họ được nhờ”, “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời thực dân, phong kiến”,... Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức rất rõ trách nhiệm lịch sử và vinh quang khi được nhân dân và dân tộc trao sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền, để quyết tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, theo đó: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Trong bản Di chúc lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(24).

Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò quyết định trong quá trình phát huy dân chủ. Dân chủ trong Đảng là một trong những tiền đề chủ yếu để thúc đẩy dân chủ trong xã hội. Đứng trước thuận lợi, thời cơ mới của đất nước sau gần 40 năm đổi mới; đối diện với nhiều khó khăn, thách thức đan xen trong quá trình phát triển đất nước, Đảng ta ngày càng nhận rõ sức mạnh của dân chủ và phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội.

Để thực hành dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách thực chất, hiệu quả, trước hết cần giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, làm cho họ nhận thức rõ sức mạnh và ý nghĩa hết sức to lớn của dân chủ đối với Đảng, với chế độ. Cùng với đó, quy định cụ thể, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên; giúp cho cán bộ, đảng viên tự giác, nghiêm túc, thường xuyên thực hiện và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, theo hướng mở rộng dân chủ trong tất cả các khâu, từ tuyển dụng, tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến bổ nhiệm, giới thiệu, bầu cử, sử dụng, thực hiện chính sách đối với cán bộ,... bảo đảm lựa chọn và sử dụng được người có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện thể chế và cơ chế kiểm soát quyền lực đi đôi với bảo vệ, khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung; thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là của cấp ủy, người đứng đầu bảo đảm thực chất, thiết thực đồng thời với đẩy mạnh việc noi gương, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đổi mới mạnh mẽ nội dung và hình thức sinh hoạt đảng theo hướng phát huy hơn nữa tinh thần dân chủ, tiếp thu ý kiến góp ý. Có cơ chế cụ thể để phát huy mạnh mẽ vai trò và tinh thần trách nhiệm của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt là trong giám sát việc thực hiện nêu gương, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. 

Bản Di chúc thiêng liêng, trong đó có những lời căn dặn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, luôn là kim chỉ nam, là ánh sáng soi đường để Đảng và nhân dân ta thêm kiên định, vững vàng trên nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện, xứng danh Đảng “là đạo đức, là văn minh”, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tri, phẩm giá của dân tộc và thời đại./.

--------------------