Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Tinh gọn bộ máy: Làm lợi cho nhân dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

 

Bài viết "Tinh-Gọn-Mạnh-Hiệu năng-Hiệu lực-Hiệu quả" của Tổng Bí thư Tô Lâm với những yêu cầu, giải pháp cấp bách thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị đã nhận được sự quan tâm và đồng tình của các cán bộ, đảng viên tại Thủ đô Hà Nội.

Bài viết đã nhấn mạnh những yếu tố cốt lõi trong công tác lãnh đạo và quản lý nhà nước hiện nay để đem lại lợi ích cho nhân dân; từ đó, Việt Nam có thể đối mặt với những thách thức trong thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế-xã hội mạnh mẽ trong tương lai.

GẮN VỚI NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

Qua nghiên cứu bài viết của Tổng Bí thư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Khoát, Phó Giám đốc Trung tâm Ứng dụng công nghệ thông tin, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng vấn đề tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị là yêu cầu cấp thiết, đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng nước ta trong tình hình mới, giúp đất nước vững bước trên con đường của kỷ nguyên phát triển, "kỷ nguyên vươn mình" của dân tộc.

Theo Tiến sỹ Nguyễn Xuân Khoát, bài viết của Tổng Bí thư đã đúc kết lý luận và thực tiễn nước ta; khẳng định tầm quan trọng to lớn của năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu năng của hệ thống chính trị. Lịch sử đất nước cho thấy, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội làm nòng cốt, tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ, khi được vận hành thông suốt, là nhân tố quyết định bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

Để tinh gọn bộ máy chính trị, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Khoát cho rằng cần đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước mang tính tổ chức cao, tập trung thống nhất và phân công, phân cấp theo phạm vi không gian và nhiệm vụ chính trị.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên nâng cao hiệu quả thực hiện vai trò đại diện nhân dân, để tinh thần "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" được thực hiện trong đời sống chính trị-xã hội của đất nước.

 

Là Phó Bí thư Chi bộ, đảng viên 25 năm tuổi Đảng tại Trung tâm Ứng dụng công nghệ thông tin, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Khoát khuyến nghị công tác tinh gọn bộ máy phải gắn với nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thì mới đảm bảo được sức mạnh, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính trị.

Ngoài ra, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục nâng cao công tác quản lý, đánh giá, tuyển dụng và sử dụng biên chế; thực hiện tốt đề án vị trí việc làm, có quyết sách tiền lương phù hợp để sử dụng, trọng dụng được người có tài, có tâm huyết với công việc, cương quyết đưa ra khỏi bộ máy chính trị những cán bộ không làm được việc, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm…

CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH THEO MÔ HÌNH "CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ"

Theo ông Lâm Bình Sản, Bí thư Chi bộ 2, Đảng bộ phường Ngọc Hà, bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ những yếu kém, tồn tại của hệ thống chính trị cần phải khẩn trương khắc phục để lãnh đạo, quản lý, thực hiện được mục tiêu, định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra như hoàn thiện đồng bộ thể chế; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng...

Đồng thời, bài viết định hướng 3 công tác trọng tâm nhằm tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đó là xây dựng và tổ chức thực hiện trong toàn hệ thống chính trị mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới; tập trung hoàn thiện thể chế theo tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng" để nhanh chóng đưa chủ trương của Đảng đi vào thực tiễn cuộc sống; gắn tinh gọn tổ chức bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh.

Đánh giá về công tác tổng kết 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về "Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập" được Tổng Bí thư đề cập trong bài viết, ông Lâm Bình Sản cho rằng bài viết tập trung những nội dung tổng kết 7 năm thực hiện Nghị quyết số 18, đánh giá nghiêm túc, toàn diện về tình hình và kết quả đạt được, những ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Nghị quyết; đề xuất, kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Bài viết cũng yêu cầu, quá trình tổng kết Nghị quyết 18 phải được tiến hành khách quan, dân chủ, khoa học, cụ thể, sâu sắc, cầu thị, sát đúng với tình hình thực tiễn, bởi có khách quan, khoa học, cụ thể thì mới đánh giá đúng, chính xác tình hình và kết quả đạt được; có dân chủ thì mới phát huy được trí tuệ tập thể trong công tác tổng kết.

Đề xuất giải pháp xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu quả, ông Lâm Bình Sản cho rằng, trước hết cần quán triệt phương châm "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ là cơ chế chung trong quản lý xã hội" mà Đảng ta đã khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986).

Cùng với đó, chỉ rõ trách nhiệm giữa lãnh đạo của Đảng và quản lý của các cơ quan Nhà nước; đổi mới về thể chế có ý nghĩa quyết định, trong đó có cải cách thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu; đổi mới từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở.

Đồng thời, cần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng; trong đó, Đảng cần lắng nghe, tiếp thu các ý kiến phản biện của xã hội trong xây dựng chủ trương, đường lối, nâng cao công tác quản lý của Nhà nước...; trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các Bộ, ngành, cơ quan theo hướng Bộ, ngành, cơ quan chủ trì và chịu trách nhiệm thực hiện một số lĩnh vực được giao.

Đối với cấp cơ sở như phường Ngọc Hà, nơi ông Lâm Bình Sản làm việc và sinh hoạt Đảng, để xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện, ngoài những giải pháp trên, cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo mô hình "chính quyền đô thị" gắn với chuyển đổi số; mạnh dạn nâng cao quyền hạn, trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp xã, phường, thị trấn trong tuyển dụng, bố trí cán bộ, công chức, viên chức; khoán Quỹ lương cho bộ máy trên cơ sở năng suất lao động trung bình tiên tiến trở lên.

 

Cùng với đó, nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức phục vụ nhân dân của các công chức, viên chức theo hướng tự đào tạo là chính và đánh giá định kỳ 6 tháng, 1 năm kết quả hoàn thành nhiệm vụ thông qua dư luận, ý kiến của người dân./.

 

Nguyễn Ái Quốc - Những năm tháng ở Quảng Châu

 LỰA CHỌN QUẢNG CHÂU LÀ MỘT BƯỚC ĐI QUAN TRỌNG

Trên hành trình tìm đường cứu nước để giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bất công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới - con đường mà Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giành thắng lợi và Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Một chặng đường mới trên hành trình hoạt động cách mạng của Người - khi rời Pháp đến nước Nga Xô Viết để học tập, trau dồi lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; khi tiến hành các hoạt động thực tiễn phong phú đã giúp Người hiểu rõ cần phải đi về đâu và làm thế nào để tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.

Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc đã viết trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về Tổ quốc, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1). Đến nước Nga, khi trả lời phỏng vấn Giôvanni Giécmanto - Phóng viên báo L’Unità, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Italia, ngày 15/3/1924: “Khi học xong, anh dự định làm gì?”, Nguyễn Ái Quốc đã trả lời: “Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc để đấu tranh cho sự nghiệp của chúng tôi. Ở bên chúng tôi còn nhiều việc phải làm lắm”(2). Tuy nhiên, từ những hoạt động lý luận và thực tiễn ở Liên Xô, nhận thức của Người về cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, mối quan hệ giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc… đã giúp Người xác định được con đường để giải phóng dân tộc, vì thế kế hoạch “trở về Tổ quốc” của Người đã thay đổi. Điều này thể hiện rõ trong Thư gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ngày 11/4/1924 của Nguyễn Ái Quốc: “Trước hết tôi phải đi Trung Quốc. Tiếp đó sẽ hướng sự hoạt động theo những khả năng sẽ xuất hiện”(3) - Đó chính là thiết lập những quan hệ giữa Đông Dương và Quốc tế Cộng sản; thông báo tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của thuộc địa này; tiếp xúc với các tổ chức đang tồn tại ở đó; tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền…

Trong khi đó, ở Trung Quốc, tình hình Quốc - Cộng hợp tác có chiều hướng phát triển tốt đã thúc đẩy sự phát triển của cách mạng Trung Quốc, nhất là ở Quảng Châu. Vì thế, để tăng cường cán bộ cho phái bộ M. M. Bôrôđin giúp đỡ cách mạng Trung Quốc, ngày 25/9/1924, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã quyết định: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Chi phí do Ban Phương Đông chịu”(4) theo đề nghị của Người. Vì thế, Người đã rời nước Nga và ngày 11/11/1924, về đến Quảng Châu, Trung Quốc (trên cương vị phái viên của Quốc tế Cộng sản; trong Phái bộ của Cố vấn Bôrôđin, bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn), với tên gọi Lý Thụy để triển khai kế hoạch hoạt động của mình. Từ những “ưu thế” không thể phủ nhận của Quảng Châu, có thể hiểu được vì sao Nguyễn Ái Quốc lại chọn địa bàn chiến lược này làm điểm “dừng chân” để xây dựng “căn cứ địa” và triển khai những hoạt động quan trọng trong lộ trình giải phóng dân tộc.

Thứ nhất, Quảng Châu khi đó đang là trung tâm phong trào cách mạng của Trung Quốc. Năm 1924, được Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ, Tôn Trung Sơn đã cải tổ thành công Quốc Dân Đảng, thành lập Chính phủ Cách mạng tại Quảng Châu và với vị thế Tổng thống, Tôn Trung Sơn đã tiến hành công cuộc hợp tác giữa Quốc Dân Đảng với Đảng Cộng sản lần đầu tiên; đã tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô (với sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn do Liên Xô và Quốc tế Cộng sản cử tới); đồng thời triển khai thực hiện 3 chính sách lớn “Liên Nga, liên Cộng, phù trợ công nông”.

Thứ hai, Quảng Châu khi đó đang được mệnh danh là “Mátxcơva của phương Đông”. Khi ấy, những người cộng sản Trung Quốc như Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Trương Thái Lôi... mà Nguyễn Ái Quốc từng gặp gỡ, cùng hoạt động cách mạng khi còn ở Paris và được Người giới thiệu vào Đảng Cộng sản Pháp thập niên 1920 cũng đã có mặt tại Quảng Châu, nên nơi đây đã thu hút nhiều nhà cách mạng từ những nước thuộc địa và phụ thuộc đến hoạt động.

Thứ ba, Quảng Châu khi đó vừa gần Việt Nam, vừa là địa bàn đang có nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước, đầy nhiệt huyết sang hoạt động, trong đó có tổ chức Tâm Tâm Xã. Dù là một tổ chức yêu nước, nhưng Cương lĩnh của tổ chức này vừa chưa rõ ràng, vừa phần nào chịu ảnh hưởng của một số tổ chức cánh tả ở Trung Quốc, nên đây cũng vừa là mảnh đất tốt, vừa có những hạt giống tốt để Nguyễn Ái Quốc có thể gieo mầm con đường cách mạng vô sản theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Hơn nữa, Quảng Châu còn có những điều kiện tương đối thuận lợi về giao thông, dễ thực hiện việc chuyển tài liệu, sách báo bí mật cũng như đưa người sang và đưa người về nước để phát triển phong trào cách mạng…

Thực tế là Nguyễn Ái Quốc không chỉ lựa chọn Quảng Châu để thực hiện “lộ trình” giải phóng dân tộc Người đã ấp ủ, mà Người còn triển khai lộ trình đó vừa đúng đắn vừa phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam để tiến hành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc trong những thập niên sau. 

DẤU ẤN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC Ở QUẢNG CHÂU

Được về hoạt động tại một địa bàn gần Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc không chỉ kịp thời báo cáo tình hình của Người về Mátxcơva (thông qua 3 bức thư gửi cho Quốc tế Cộng sản; cho đồng chí Đômban - Tổng thư ký Quốc tế Nông dân và cho Ban biên tập Tạp chí Rabốtnhítxa), mà còn nhanh chóng bắt liên lạc với những người Việt Nam yêu nước, trong đó có những thanh niên hăng hái nhất trong tổ chức Tâm Tâm xã để mở rộng địa bàn hoạt động. Với công việc này, Người đã báo cáo cán bộ phụ trách Ban Phương Đông là “đã tìm thấy ở đây một vài người Đông Dương mà với họ, tôi hy vọng làm được việc gì đó”(5).

Tiếp đó, từ những thanh niên yêu nước này, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925) - một tổ chức có tính chất quần chúng “có khuynh hướng mácxít”, với hạt nhân là Cộng sản đoàn gồm 9 đồng chí (Lê Hồng Sơn tức Lê Văn Phan; Lê Hồng Phong tức Lê Huy Doãn; Hồ Tùng Mậu tức Hồ Bá Cự; Lê Quảng Đạt tức Lê Doạt; Vương Thúc Oánh; Trương Vân Lĩnh tức Lệnh; Lưu Quốc Long tức Quý; Lý Quý tức Trần Phú; Lâm Đức Thụ tức Nguyễn Chí Viễn).

Được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số; thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình; yêu cầu tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của Hội... Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã thu hút nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước đến Quảng Châu dù thực dân Pháp khủng bố gắt gao.

Có thể nói, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên là một sáng tạo, có chủ đích của Nguyễn Ái Quốc, bởi “trong tư tưởng của những người đứng ra tổ chức thì Hội này sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn và tương lai đã chứng minh điều đó”(6) . Thông qua những hội viên của Hội này và qua hoạt động của phong trào vô sản hoá, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ được truyền bá về trong nước, xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, mà còn thúc đẩy, làm thay đổi tính chất, chiều hướng phát triển của phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng vô sản lan tỏa, phổ rộng và phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát sang tự giác…

Không chỉ dừng ở việc sáng lập và tổ chức hoạt động Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc còn tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán “thời dựng Đảng” cho cách mạng Việt Nam bằng việc mở các Lớp huấn luyện chính trị tại số nhà 13 và 13/1 đường Văn Minh (nay là số nhà 248 và 250). Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp phụ trách lớp và là giảng viên chính của các khóa học. Ngoài ra còn có Hồ Tùng Mâu, Lê Hồng Sơn; một số cán bộ trong Đoàn cố vấn của Liên Xô và một số cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các bài giảng tập trung vào 3 loại vấn đề “cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam và phương pháp vận động cách mạng” gắn với hoạt động ra “bích báo” của học viên; tổ chức các vở diễn “kịch cương”, sinh hoạt văn nghệ hoặc tham quan Trường Quân sự Hoàng Phố… đã giúp cho các học viên sự liên hệ lý luận với thực tiễn. Với 3 khóa huấn luyện (từ đầu năm 1926 - 4/1927), đã có khoảng 75 học viên học xong đã trở về nước và đến Xiêm hoạt động. Đó chính là những “hạt giống đỏ”, những người tuyên truyền, tổ chức phong trào cách mạng ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ và Việt kiều ở Xiêm.

Đặc biệt, ngay từ thời gian này, để thực hiện sự kế tục trong xây dựng và đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc không chỉ lựa chọn một số thanh niên Việt Nam để gửi đi học ở Trường Đại học Phương Đông và Trường Quân sự Hoàng Phố, mà còn viết thư gửi Uỷ banTrung ương thiếu nhi Liên xô, gửi thư cho đại diện đoàn Thanh niên cộng sản Pháp tại Quốc tế Thanh niên cộng sản đề nghị giúp đỡ, để gửi một số thiếu niên Việt Nam sang Liên Xô học tập. Mục đích của Người là “để các em được tiếp thu một nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp, trở thành những thiếu nhi cộng sản đầu tiên của nước An Nam”- “những chiến sĩ Lêninnít tí hon chân chính” - hạt nhân vừa hồng vừa chuyên của Đoàn Thanh niên Cộng sản sau này. Đó cũng chính là thế hệ “rường cột” đảm đương vai trò kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh.

Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản sách, báo chí làm phương tiện tuyên truyền. Đầu tiên, báo Thanh Niên ra đời, số 1 ra ngày 21/6/1925. Trong tổng số 202 số báo Thanh Niên, thì có có 88 số báo được xuất bản từ 21/6/1925 - 17/4/1927 do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp biên soạn, sửa chữa. Từ việc xác định rõ mục đích của báo là “gửi về nước để tuyên truyền cho nhân dân”, Người chọn lối viết ngắn gọn, dễ hiểu thể hiện qua tranh vẽ, ca dao, thơ ca, khẩu hiệu đăng tải trong các chuyên mục Tin tức trong nước, Thế giới, Phụ nữ, Từ điển cách mạng,v.v.. để tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản, Đảng Cộng sản. Nội dung của các bài báo không chỉ khơi dậy truyền thống yêu nước, ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm, mà còn kêu gọi tinh thần đoàn kết của mọi người dân để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc.

Dù số lượng phát hành không nhiều (100 bản), nhưng báo Thanh Niên có hình thức nhỏ, gọn được chuyển về trong nước, được người dân truyền đọc và ghi chép lại đã góp phần mang hơi thở của thời đại đến với phong trào công nhân, phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam; đồng thời đưa ý thức hệ vô sản lan tỏa trong đời sống xã hội Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mácxít Lêninnít kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.

Sau báo Thanh Niên, Người cho xuất bản báo Công nông (từ 12/1926 - đầu năm 1928), Bán nguyệt san Lính Cách mệnh (đầu năm 1927 - đầu năm 1928); Việt Nam tiền phong cho những đối tượng hẹp hơn…

Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc dành thời tập hợp và hoàn thiện những bài giảng của mình tại các Lớp huấn luyện chính trị để xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh. Sách được Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản đầu năm 1927, làm tài liệu học tập và truyên truyền. Đường Kách mệnh được bí mật được chuyển về trong nước không chỉ là một trong những tác phẩm lý luận quan trọng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam, mà còn góp phần trang bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cho nhân dân/đưa thế giới đương đại hội nhập với Việt Nam và đưa cách mạng Việt Nam hội cùng dòng chảy của cách mạng thế giới.

Những năm tháng ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc còn cùng với các đồng chí Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Miến Điện… vận động thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9/7/1925) nhằm đoàn kết, liên lạc với các dân tộc bị áp bức cùng làm cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc, bởi “con đường thoát duy nhất để xóa bỏ sự áp bức chỉ có thể là liên hiệp các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới”(7).

Tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức mở rộng hơn Hội Liên hiệp thuộc địa (1922) không chỉ “đánh dấu sự thức tỉnh của các dân tộc châu Á”, mà còn nhanh chóng thu hút đông đảo sự tham gia của chi hội Nông dân Quảng Đông, Hội Phụ nữ Quảng Đông,v.v.. Với Hội này, Nguyễn Ái Quốc “mang tên Lý Thụy là một trong những người lãnh đạo của Hội, được bầu làm Bí thư kiêm phụ trách công việc tài chính của Hội, đồng thời cũng là người trực tiếp phụ trách chi bộ Việt Nam của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức”(8).

Cũng ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã quan tâm, nghiên cứu tình hình nông dân Trung Quốc (bài viết “Tình cảnh nông dân Trung Quốc” ngày 4/1/1924; “Nông dân Trung Quốc” ngày 19 - 21/3/1925); đã tham gia tổ chức Đại hội lần thứ nhất của nông dân tỉnh Quảng Đông (1/5/1925); đã tham gia tổ chức Hội nghị đại biểu đầu tiên của 20 vạn nông dân tỉnh Quảng Đông và Hội nghị đại biểu lần thứ hai của công nhân Trung Quốc (đầu tháng 5/1925) nhằm “thành lập một Mặt trận thống nhất giữa những người bị bóc lột ở thành thị và nông thôn”; đã tham gia đội diễn thuyết, ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Trung Quốc…

Thực tế là sau ngày 12/4/1927, mặc dù Tưởng Giới Thạch đã tiến hành đảo chính phản cách mạng và đàn áp khủng bố các lực lượng cách mạng, nhưng Nguyễn Ái Quốc “vẫn tiếp tục ở lại Quảng Châu để bí mật liên lạc với các đồng chí Trung Quốc và duy trì công việc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên”(9), thể hiện rõ tinh thần, trách nhiệm của một người chiến sĩ cộng sản quốc tế…

Tháng 6/1927, trước khi rời Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã viết gửi Ban Phương Đông kết quả công tác của mình: “Mặc dù thiếu thời gian và tiền, nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí người Nga và Annam, chúng tôi đã có thể: 1) Đưa 75 thanh niên Annam đến học ở Trường tuyên truyền do chúng tôi tổ chức ở Quảng Châu, 2) Xuất bản ba tờ tuần báo nhỏ, 3) Phái những người tuyên truyền vừa mới được đào tạo về Xiêm, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ, 4) Thành lập một liên đoàn cách mạng do một uỷ ban gồm 5 uỷ viên ở Quảng Châu lãnh đạo, liên đoàn đã bắt rễ khắp nơi trong tất cả các xứ Đông Dương đó”(10). Những nội dung ngắn gọn trong báo cáo này là kết quả thực hiện kế hoạch mà Nguyễn Ái Quốc đã đề ra trong những năm tháng hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (11/11/1924 - 5/1927). Những kết quả này không chỉ có ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần quan trọng dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; con đường và tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng sau đó, mà còn tác động đến phong trào cách mạng Trung Quốc nói riêng và Quốc tế Cộng sản nói chung.

Những thông tin trong các báo cáo, trong những bài viết của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này không những giúp Quốc tế Cộng sản nắm được tình hình phong trào cách mạng ở các nước phương Đông, mà còn phân tích, đánh giá, làm phong phú hơn lý luận của Quốc tế Cộng sản trong lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản bởi thực tiễn sinh động ở Trung Quốc và An Nam…

Đặc biệt, từ sự am hiểu tình hình Trung Quốc, phong trào cách mạng Trung Quốc - Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ là Người bắc nhịp cầu đoàn kết giữa những người cộng sản Việt Nam và những người cộng sản Trung Quốc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc, mà còn đặt nền móng vững chắc cho mối quan hệ tương hỗ, tương trợ, cùng đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc “có núi liền núi, sông liền sông” ở những thời kỳ sau./.

 

 

Nhân cách văn hóa và danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ hội tụ các giá trị chân, thiện, mỹ

 

Chân, thiện, mỹ là giá trị quan trọng trong hệ giá trị của cá nhân cũng như quốc gia, dân tộc; là giá trị phổ quát lý tưởng của toàn nhân loại. Đối với Quân đội ta, giá trị chân, thiện, mỹ không phải tự nhiên mà có, nó được hình thành, phát triển trong quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và trao truyền qua các thế hệ thông qua những việc làm tốt đẹp, những hành động anh hùng, những hy sinh cao cả của tập thể, cá nhân, từ đó vun đắp, trở thành những chuẩn mực hằng ngày của cán bộ, chiến sĩ.

Bộ đội Cụ Hồ luôn thấm nhuần các giá trị chân, thiện, mỹ  

Giá trị chân, thiện, mỹ ở mỗi thời đại, giai đoạn lịch sử khác nhau thì biểu hiện khác nhau. Trong xã hội có giai cấp thì giá trị chân, thiện, mỹ cũng mang tính giai cấp sâu sắc. Trong thời đại ngày nay, chân, thiện, mỹ theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử.

Hệ thống giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là sự kết tinh những chuẩn mực con người mới theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta; có sự thống nhất giữa tính phổ quát của nhân cách con người mới và tính đặc thù của nhân cách quân nhân.

“Chân” có nghĩa là chân lý, tính đúng đắn của tri thức. Trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, “chân” được biểu hiện ở sự thấm nhuần, kiên định với những chân lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; có niềm tin sâu sắc vào mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng cao cả đó.

Thực tiễn lịch sử chứng minh, trong suốt những năm tháng kháng chiến đã có nhiều tấm gương anh dũng xả thân vì nước, vì dân. Đầu những năm 90 của thế kỷ 20, khi mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta vẫn luôn tin tưởng tuyệt đối vào tính đúng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Ngày nay, khi tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, các thế lực thù địch ra sức chống phá, nhưng Quân đội ta vẫn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

“Thiện” có nghĩa là tốt, trái nghĩa với ác. Trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, “thiện” được biểu hiện ở sự đoàn kết, thống nhất nội bộ, hết lòng thương yêu đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt, luôn đồng cam cộng khổ; lắng nghe, tôn trọng, giúp đỡ, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; có tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, chí nghĩa, chí tình.

Lịch sử 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta, cái thiện trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ được thể hiện sâu sắc ở tinh thần đoàn kết một lòng với nhân dân, kiên cường chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc, đưa cả nước đi lên CNXH. Không những vậy, Quân đội ta đã làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh đất nước, vì thế người dân Campuchia thân thương gọi bộ đội Việt Nam là “đội quân nhà Phật”. Trong thời bình có rất nhiều tấm gương cán bộ, chiến sĩ xả thân giúp đỡ nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; cùng chung sức, đồng lòng với nhân dân trong công cuộc giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

“Mỹ” là cái đẹp, bao gồm cả vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp nội tâm của mỗi con người. Cái đẹp trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là hệ giá trị văn hóa-chính trị-đạo đức tốt đẹp, phản ánh bản chất, truyền thống của Quân đội, biểu hiện ở đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, chân thành, lạc quan, nói đi đôi với làm, luôn đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân, không thỏa mãn với thành tích, không chùn bước trước khó khăn, thử thách; có văn hóa, tri thức khoa học kỹ thuật quân sự, năng lực, phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung; gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội; có thể chất, sức khỏe bền bỉ, dẻo dai, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta là lịch sử hình thành, phát triển giá trị văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, làm phong phú thêm giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ là quá trình “gạn đục khơi trong”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, góp phần xây dựng nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, tạo động lực, động viên, cổ vũ cán bộ, chiến sĩ tu dưỡng, rèn luyện hoàn thiện nhân cách người quân nhân cách mạng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Tiếp tục hoàn thiện giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ

Trong giai đoạn cách mạng mới, tiếp tục xây dựng, bổ sung, phát triển giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ là vấn đề cần thiết, góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại và tô đẹp, tỏa sáng hình ảnh, danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ trong lòng nhân dân.

Trước hết, chú trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động hướng tới giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.

Giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ quan trọng, góp phần xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, bồi đắp, củng cố giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ. Tập trung nâng cao nhận thức cho mỗi quân nhân về vai trò, ý nghĩa, giá trị và nội dung biểu hiện của các giá trị chân, thiện, mỹ, qua đó nêu cao trách nhiệm, tự giác phấn đấu hoàn thiện các giá trị tốt đẹp ấy.

Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tập trung giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật Quân đội; nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và bản chất cách mạng của Quân đội, hệ giá trị chuẩn mực Bộ đội Cụ Hồ để khơi dậy lòng tự hào, tinh thần trách nhiệm, ý chí quyết tâm cao của cán bộ, chiến sĩ trong học tập, rèn luyện theo giá trị chân, thiện, mỹ.

Hai là, cụ thể hóa các giá trị chân, thiện, mỹ thành các tiêu chí phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị.

Trải qua các cuộc kháng chiến, giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ được kết tinh, thể hiện rõ nét qua lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

Trong giai đoạn hiện nay, giá trị ấy tiếp tục được phát huy, cụ thể hóa thành các chuẩn mực Bộ đội Cụ Hồ được xác định trong Chỉ thị số 855-CT/QUTW ngày 12/8/2019 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh Cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ" và Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương "Về phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới".

Các chuẩn mực đó mang tính phổ quát, là chuẩn mực chung đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Các cơ quan, đơn vị căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể hóa thành các tiêu chí để mỗi quân nhân học tập, rèn luyện, phấn đấu làm theo, đồng thời là thước đo để đánh giá mức độ hoàn thiện các giá trị chân, thiện, mỹ của mỗi quân nhân.

Ba là, phát huy vai trò của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong rèn luyện, phấn đấu hướng tới các giá trị chân, thiện, mỹ.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tự đánh giá đúng bản thân; đối chiếu với giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, trên cơ sở đó tiếp tục rèn luyện, phấn đấu, hoàn thiện bản thân, loại bỏ cái sai, cái xấu, cái không phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ Quân đội và đơn vị trong thời kỳ mới.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục; có tinh thần tự nguyện, tự giác cao để việc hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ trở thành nhu cầu, việc làm thường xuyên hằng ngày; trong mọi điều kiện, hoàn cảnh luôn giữ vững và nêu gương sáng về nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.

Bốn là, xây dựng môi trường văn hóa quân sự tốt đẹp để góp phần hình thành, phát triển các giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa Bộ đội Cụ Hồ.

 Giá trị chân, thiện, mỹ chỉ thực sự được dung nạp, bồi đắp, lan tỏa và trở thành giá trị bền vững trong một môi trường văn hóa quân sự tốt đẹp, đồng thời môi trường ấy cũng là tấm khiên ngăn chặn, loại bỏ cái sai, cái xấu trong mỗi cá nhân, tập thể. Vì vậy, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; đề cao tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể; kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch và những tiêu cực, lạc hậu; đề cao trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp để tạo sức lan tỏa mạnh mẽ các giá trị chân, thiện, mỹ trong nhân cách văn hóa và danh hiệu Bộ đội Cụ Hồ.

 

Cao Bằng - Nơi ra đời Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam

 

Với địa thế “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”, Cao Bằng - vùng đất của sự hội tụ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, được Đảng và Bác Hồ chọn làm căn cứ địa trong nước đầu tiên của Trung ương Đảng. Đây cũng là nơi ghi dấu mốc lịch sử vẻ vang về sự ra đời Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - “Đội quân đàn anh” của lực lượng vũ trang cách mạng; đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. 

Là tỉnh miền núi biên giới, nằm ở phía Đông Bắc nước ta, Cao Bằng từ ngàn xưa đã được biết đến là một vùng đất cổ, có lịch sử và truyền thống yêu nước lâu đời, là nơi “phên giậu” vững chắc của Tổ quốc, có vị trí, vai trò rất quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh đối với cả nước. Cũng do vị trí đặc biệt đó, năm 1886, thực dân Pháp đánh chiếm Cao Bằng, nhưng phải mất 10 năm sau chúng mới thiết lập được bộ máy cai trị ở đây. Không chịu khuất phục sự cai trị của thực dân, đồng bào các dân tộc Cao Bằng đã liên tục đứng lên đấu tranh, nhưng chưa giành được thắng lợi, bởi chưa có một chính đảng và đường lối lãnh đạo đúng đắn, đặc biệt là chưa có lực lượng vũ trang đủ sức mạnh để đối phó với kẻ thù.

Với lòng yêu nước thiết tha, tầm nhìn chiến lược và trí tuệ hơn người, lại thấu hiểu nỗi đoạ đày đau khổ của nhân dân ta dưới ách nô dịch của thực dân Pháp, sau nhiều năm bôn ba khắp các châu lục, Nguyễn Ái Quốc đã đến với Học thuyết của Lênin. Và chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã soi rọi cho Người tìm thấy con đường đấu tranh giành tự do, độc lập cho dân tộc Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”1; đồng thời, chọn cho mình con đường “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập”2. Theo Người, “Cách mệnh là sự nghiệp của quần chúng”; trong đó, “công nông là gốc cách mệnh”. Để thực hiện mục tiêu đánh đổ cả hai kẻ thù của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp và phong kiến tay sai, ngay trong văn kiện đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam nói chung cũng như “Quân đội công nông” (sẽ được tổ chức) nói riêng là làm “cách mạng tư sản dân quyền” do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Như vậy, ngay từ rất sớm, Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xác định muốn đập tan bạo lực phản cách mạng thì phải dùng bạo lực cách mạng; để có bạo lực cách mạng thì phải có lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cùng nhân dân thực hiện mục tiêu đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, mang lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc và cuộc sống tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Đường lối cứu dân, cứu nước, giải phóng dân tộc của Đảng nhanh chóng lan tỏa về nước, chỉ hai tháng sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngày 01/4/1930, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của tỉnh Cao Bằng được thành lập tại Nặm Lìn, xã Hoàng Tung, châu Hòa An (nay là xã Hoàng Tung, huyện Hoà An). Những người cộng sản Cao Bằng cũng đã nhận thức sâu sắc và triệt để thực hiện quan điểm của Đảng về vai trò to lớn của lực lượng vũ trang cách mạng và đấu tranh vũ trang, phải “tổ chức ra quân đội công nông”. Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Pác Bó (xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Với nhãn quan chính trị nhạy bén của nhà chiến lược cách mạng thiên tài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chọn Cao Bằng - nơi hội tụ các yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên của cả nước. Người nhận định: “Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lấy đó làm cơ sở để liên lạc quốc tế rất thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc với toàn quốc được. Có nối phong trào được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khi phát động đấu tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tấn công, lúc khó khăn có thể giữ3. Từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng làm “đại bản doanh” đầu tiên của cách mạng nước ta, mảnh đất biên cương này đã chứng kiến biết bao sự kiện quan trọng gắn liền với tên tuổi và hình ảnh của Người, gắn liền với lịch sử vẻ vang của đất nước Việt Nam liên quan tới vận mệnh quốc gia, dân tộc. Nhân dân Cao Bằng vốn giàu truyền thống yêu nước, từ ngày Bác về, truyền thống ấy được khơi dậy mạnh mẽ. Nhân dân theo lời dạy của Già Thu, Ông Ké làm cách mạng, để giải phóng mình và góp phần giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. 

Dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, tại Pác Bó) đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam; trong đó, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh; chỉ đạo thành lập các tổ chức quần chúng đều lấy tên là Hội cứu quốc. Hội nghị khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”4; chiến lược cách mạng của nước ta được xác định là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và xác định khởi nghĩa là vấn đề then chốt; “phải có những tổ chức tiểu tổ du kích, du kích chính thức và tổ chức binh lính đế quốc”5. Sau Hội nghị, việc xây dựng lực lượng vũ trang được xúc tiến khẩn trương, những đồng chí cốt cán tốt nhất trong các đoàn thể cứu quốc được lựa chọn để tổ chức các đội tự vệ và tự vệ chiến đấu. Công tác đào tạo cán bộ quân sự được đặc biệt chú trọng. Cùng với tổ chức lập trạm liên lạc ở Trung Quốc để đưa đón cán bộ sang học tập chính trị6, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giao nhiệm vụ cho các đồng chí Lê Quảng Ba, Lê Thiết Hùng, Hoàng Sâm mở lớp quân sự tập trung đầu tiên tại Pác Bó. Không chỉ thể hiện sự quan tâm công tác huấn luyện thông qua việc trực tiếp đề ra kế hoạch huấn luyện, nắm tình hình, rút kinh nghiệm sau từng ngày huấn luyện, Người còn trực tiếp giảng dạy cho các học viên về cách đánh du kích, cách điều tra nắm tình hình địch, v.v. Để giảng dạy và huấn luyện đạt kết quả tốt, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc biên soạn nhiều tài liệu quan trọng như: “Mười chính sách của Việt Minh”, “Chiến thuật du kích”, “Kinh nghiệm du kích Nga”, v.v. Những giáo trình quân sự đầu tiên này góp phần quan trọng vào việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Đối với Đảng bộ Cao Bằng, Người chỉ thị: “Bây giờ là lúc phải tổ chức lực lượng vũ trang cho tới tận các địa phương, phải làm gấp, nếu chần chừ sẽ không kịp đâu, chẳng mấy chốc mà Hồng quân Liên Xô sẽ tiêu diệt bọn phát xít, lúc bấy giờ ta phải có đủ lực lượng để đứng lên giành chính quyền”7.

Theo đà phát triển của phong trào Việt Minh, việc luyện tập quân sự trở nên sôi nổi rộng khắp trong cả nước. Tháng 11/1941, Tỉnh uỷ Cao Bằng đã thành lập Đội du kích tập trung đầu tiên (còn gọi là Đội du kích Pác Bó), gồm 12 người, do đồng chí Lê Quảng Ba làm đội trưởng. Đội được giao nhiệm vụ bảo vệ cơ quan, bảo vệ cán bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ thường, tự vệ chiến đấu, tuyên truyền thực hiện công tác đặc biệt, v.v. Đảng bộ Tỉnh mở nhiều lớp huấn luyện quân sự cấp tỉnh để đào tạo cán bộ quân sự huấn luyện, tổ chức lực lượng vũ trang các cấp. Đặc biệt, với nòng cốt là các chiến sĩ Đội du kích Pác Bó được phân tán về các địa phương làm nhiệm vụ, các đội tự vệ chiến đấu ở các châu của Cao Bằng đã không ngừng phát triển, được tổ chức huấn luyện sâu về kỹ thuật cá nhân và các phương thức chiến đấu. Đến đầu năm 1943, các xã, tổng thuộc các châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình đều có các đội tự vệ. Tháng 3/1943, Liên Tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng quyết định thành lập các đội vũ trang thoát ly, châu Hà Quảng do đồng chí Dương Đại Lâm làm đội trưởng; châu Hòa An do đồng chí Nguyễn Thế Đỗ làm đội trưởng và khu Thiện Thuật của đồng bào Mông ở Nguyên Bình do đồng chí Cao Lý làm đội trưởng. Lực lượng vũ trang thoát ly đã tổ chức nhiều trận đánh phục kích, tập kích vào các toán địch đi lùng sục, bắt bớ cán bộ cách mạng và diệt trừ những tên tay sai phản động, có nhiều nợ máu với nhân dân, bảo vệ cơ sở cách mạng và tài sản của nhân dân.

Cùng với xây dựng, phát triển tổ chức lực lượng, Trung ương Đảng và Bác Hồ rất coi trọng vai trò, vị trí quan trọng thiết yếu của vũ khí, trang bị trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng. Do đó, ngay sau khi được thành lập, tháng 3/1931, Đảng đã chỉ đạo Chi bộ Nặm Lìn lựa chọn, cử 04 đồng chí: Hoàng Hồng Việt, Hoàng Đình Hùng, Nguyễn Nam Hùng và Đàm Thế Vinh đi học sửa chữa và chế tạo vũ khí tại Trung Quốc, sau đó thành lập binh công xưởng tại vùng núi Lam Sơn (Hồng Việt, Hòa An) để sửa chữa, chế tạo vũ khí, trang bị cho cán bộ, hội viên hoạt động bí mật, vừa để tự vệ, vừa để tiêu diệt những tên tay sai gian ác và bọn mật thám chỉ điểm lùng bắt cán bộ cách mạng. Đặc biệt, khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, trước yêu cầu đòi hỏi thực tiễn, lãnh tụ Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn đồng chí Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh biên soạn các bài giảng (về sau được in thành sách “Con đường giải phóng”) nêu rõ sự cần thiết và vị trí quan trọng của việc sắm sửa vũ khí: “Trước hết phải có ít khí giới”8 và cách để có vũ khí “Một là từ trong tay giặc. Hai là ở trong dân. Nhân dân sẽ bằng mọi cách tự tạo ra vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang của mình”9. Khi cử các đồng chí Hoàng Văn Thái, Đàm Quang Trung, Vũ Lập, Hoàng Minh Thảo,… đi học lớp quân sự, Người dặn đồng chí Đàm Quang Trung phải học tập cách sử dụng thành thạo các loại vũ khí hiện có của các nước trong phe Đồng minh và của cả đối phương. Nhận thức rõ vị trí, vai trò và sự đòi hỏi cấp thiết về vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang, tháng 3/1944, Liên Tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng giao đồng chí Hoàng Đức Thạc (tức Lã), Bí thư Liên Tỉnh uỷ trực tiếp chỉ đạo Binh công xưởng tại căn cứ Lam Sơn (Hòa An, Cao Bằng) để sửa chữa, sản xuất các loại vũ khí để trang bị cho các đội tự vệ. Nguyên vật liệu cung cấp cho binh công xưởng chế tạo các loại vũ khí thô sơ gồm các loại thùng sắt, cuốc xẻng, nồi đồng, chảo gang, dao hỏng, liềm gẫy, lư hương đồng,… do nhân dân xung quanh vùng Lam Sơn, Hòa An mang đến ủng hộ.

Không ngăn nổi làn sóng cách mạng ở Cao Bằng ngày một dâng cao, thực dân Pháp ra sức khủng bố phong trào và tăng cường xây dựng hệ thống đồn bốt xung quanh các căn cứ cách mạng, hòng thị uy, bắt bớ, giết hại cán bộ cách mạng. Chỉ trong mấy tháng đầu năm 1944, chúng bắt hơn 200 cán bộ, sát hại 22 người. Những thủ đoạn, tội ác dã man của thực dân Pháp không làm lung lay lòng trung thành và ý chí của nhân dân đối với cách mạng. Đồng bào các dân tộc Cao Bằng vẫn vững tâm tin tưởng và một lòng ủng hộ phong trào cách mạng. Nhờ vậy, phong trào đấu tranh ngày càng phát triển mạnh mẽ, tình thế cách mạng có những chuyển biến tích cực. Như vậy, so với các địa phương trong cả nước, Cao Bằng luôn có được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và Bác Hồ; các tổ chức đảng và lực lượng vũ trang Cao Bằng được phát triển mạnh mẽ; đường lối cứu dân, cứu nước của Đảng được tuyên truyền rộng rãi; đồng bào các dân tộc trên địa bàn có niềm tin vững chắc vào sự thắng lợi của cách mạng, một lòng theo Đảng và Bác Hồ. Vũ khí, trang bị chiến đấu từng bước được bảo đảm cho các đội tự vệ. Đây là những cơ sở nền tảng, điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển đội quân vũ trang cách mạng chủ lực tập trung, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cấp bách của cách mạng thời kỳ mới.

Năm 1944, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến nhanh chóng. Tháng 8/1944, Trung ương Ðảng kêu gọi nhân dân “Cầm vũ khí, đuổi thù chung”, không khí khởi nghĩa sôi sục khắp nơi. Ngày 13/8/1944, Liên Tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng họp bàn thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Nhân dân vùng Cao - Bắc - Lạng sẵn sàng hưởng ứng khởi nghĩa. Tuy nhiên, sau khi trở lại Pác Bó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh10  đã phân tích và nhận định: “Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải là từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên”11. “Hình thức thích hợp” được Hồ Chí Minh chỉ ra là thành lập “Đội quân giải phóng” - Đội quân chủ lực - Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Theo Người: “Lực lượng vũ trang của ta hiện nay đã ít lại phân tán quá. Bây giờ nên tập hợp những cán bộ, chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức thành một đội vũ trang tập trung để hoạt động. Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng. Tác chiến nhằm gây được ảnh hưởng tốt về chính trị, do đó mà mở rộng cơ sở, phát triển lực lượng vũ trang. Chúng ta sẽ lập đội quân giải phóng...”12.

Chấp hành Chỉ thị của Người và sự chỉ đạo của Trung ương, với sự chuẩn bị khẩn trương, chặt chẽ, chu đáo về mọi mặt của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Cao Bằng, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, châu Nguyên Bình, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Đội gồm 34 chiến sĩ do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy, trong đó có 25 chiến sĩ là con em các dân tộc tỉnh Cao Bằng (đồng chí Xích Thắng tức Dương Mạc Thạch làm chính trị viên). Sự kiện Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - Đội quân chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập trên mảnh đất quê hương cội nguồn cách mạng Cao Bằng cũng như sự có mặt của 25 con em các dân tộc của Tỉnh trong đội ngũ 34 chiến sĩ đầu tiên của Đội đã phần nào nói lên cống hiến to lớn của mảnh đất và con người Cao Bằng đối với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

Chỉ hai ngày sau khi thành lập, với sự vận dụng linh hoạt địa thế hiểm yếu “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ”13, hoạt động dựa vào nhân dân và sự quán triệt sâu sắc lời căn dặn: “Nhớ bí mật: ta ở Đông, địch tưởng ta ở Tây. Lai vô ảnh, khứ vô hình”, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã lập được chiến công vang dội, tiến công tiêu diệt gọn 02 đồn Phai Khắt, Nà Ngần, mở ra truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Hai trận công đồn tuy quy mô tác chiến nhỏ, nhưng thanh thế, tiếng vang của Đội quân chủ lực đã vang xa cả trong và ngoài nước, mang lại niềm tin vững chắc cho nhân dân cả nước nói chung, nhân dân Cao Bằng nói riêng về tương lai trưởng thành, lớn mạnh của “Đội quân đàn anh”, gây hoang mang lo sợ trong hàng ngũ của địch.

Sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là một bước ngoặt lịch sử trên con đường đấu tranh cách mạng giải phóng của dân tộc ta. Và mảnh đất, con người Cao Bằng là cội nguồn vững chắc cho sự hình thành, nơi chứng kiến sự kiện lịch sử chính trị vẻ vang ấy. Từ đây, cách mạng Việt Nam xuất hiện ba hình thức tổ chức của lực lượng vũ trang nhân dân: Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - Đội quân chủ lực, các đội vũ trang ở các châu và các đội tự vệ nửa vũ trang ở xã. Lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam có một Quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện. Một Quân đội mang bản chất giai cấp công nhân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; anh hùng, dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Cùng với sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, sự giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng, cùng với nhân dân cả nước, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - Đội quân chủ lực đầu tiên đã không ngừng phát triển, trở thành đội quân vững vàng về chính trị, tài giỏi về quân sự, chiến đấu và chiến thắng trong Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), trong 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược; nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ năm 1975 đến nay. Đúng như tiên đoán của Bác Hồ: Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước chúng ta”14. Đó là Đội quân anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng.

 

 

Gần chiến sĩ mới hiểu được chiến sĩ

 

Với tinh thần “nghe bộ đội nói, nói cho bộ đội hiểu, giải quyết tốt mọi vướng mắc của bộ đội”, những năm qua, Lữ đoàn Pháo phòng không 283, Quân khu 4 luôn thực hiện tốt việc đối thoại giữa lãnh đạo, chỉ huy các cấp với cán bộ, chiến sĩ. Qua đó, phát huy dân chủ, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong đơn vị để cán bộ, chiến sĩ an tâm tư tưởng, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Với tác phong giản dị, gần gũi, mở đầu buổi đối thoại với cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1, Đại tá Võ Xuân Sơn, Chính ủy Lữ đoàn Pháo phòng không 283 nhẹ nhàng gợi ý: “Hôm nay, Lữ đoàn tổ chức sinh hoạt đối thoại với cán bộ, chiến sĩ của Tiểu đoàn 1, tôi đề nghị các đồng chí nói thẳng, nói thật, đừng ngần ngại bất cứ vấn đề gì. Tuy nhiên, để buổi đối thoại được hiệu quả, các đồng chí nên tập trung đi sâu vào những bất cập, hạn chế và các vấn đề còn vướng mắc...”.

Sau gợi ý của đồng chí Chính ủy Lữ đoàn, nhiều cánh tay giơ lên, xung phong phát biểu bày tỏ tâm tư, nguyện vọng, những vướng mắc trong sinh hoạt, công tác tại đơn vị... Các ý kiến lần lượt được Đại tá Võ Xuân Sơn và chỉ huy các cơ quan giải đáp cặn kẽ, thấu tình đạt lý. Buổi sinh hoạt vì thế mà diễn ra sôi nổi từ đầu đến cuối. Binh nhất Trương Xuân Đạt, Chiến sĩ Đại đội 2, Tiểu đoàn 1 chia sẻ: “Mọi ý kiến của chúng tôi đều được cấp trên tôn trọng, lắng nghe, giải quyết thấu đáo. Đó chính là điều lý giải vì sao trong đối thoại, mọi cán bộ, chiến sĩ đều mạnh dạn phát biểu...”.

Theo Thiếu tá Phạm Xuân Hiếu, Chính trị viên Tiểu đoàn 1 thì trước đây, thực hiện quy chế dân chủ tại đơn vị, nội dung thường xoay quanh một số lĩnh vực như: Giải quyết chế độ nghỉ phép, tranh thủ, quân tư trang, ăn uống, đời sống văn hóa, tinh thần... Để phát huy dân chủ tốt hơn, đơn vị đã đổi mới cách thức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Cấp ủy, chỉ huy đơn vị thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ; luôn gần gũi, khuyến khích, động viên, tạo điều kiện để bộ đội bày tỏ tâm tư, nguyện vọng và những vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ; kịp thời giải quyết những nhu cầu chính đáng của anh em, không để những khó khăn, vướng mắc trở thành nỗi bức xúc trong suy nghĩ và hành động của bộ đội.

Những năm qua, việc tổ chức đối thoại trực tiếp giữa lãnh đạo, chỉ huy các cấp với cán bộ, chiến sĩ trở thành nền nếp ở Lữ đoàn Pháo phòng không 283 và mang lại hiệu quả thiết thực. Các buổi đối thoại đã phát huy được tính dân chủ, tạo sự gần gũi giữa người đối thoại với bộ đội nên cán bộ, chiến sĩ có tâm lý thoải mái, cởi mở, mạnh dạn bày tỏ những vướng mắc của bản thân. Qua đó, ý thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, tinh thần đoàn kết, kỷ luật trong đơn vị được nâng lên rõ rệt.

Thượng tá Trần Thế Thắng, Chủ nhiệm Chính trị Lữ đoàn nêu kinh nghiệm: “Để dân chủ được phát huy rộng rãi, trước hết, lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải quan tâm, xây dựng tình cảm gần gũi, sẻ chia với bộ đội. Sự quan tâm đó không chỉ là những lời động viên suông mà quan trọng là người chỉ huy phải biết chia sẻ với cán bộ, chiến sĩ trong những hoàn cảnh đặc biệt. Lãnh đạo, chỉ huy phải luôn đồng cam cộng khổ, giúp đỡ bộ đội vượt qua những khó khăn; phải thật sự là tấm gương sáng trong lời nói, việc làm hằng ngày. Có như vậy mới tạo cho bộ đội niềm tin, sự kính trọng đối với người chỉ huy. Qua đó, xây dựng được bầu không khí đoàn kết, dân chủ, tạo động lực để cán bộ, chiến sĩ nêu cao ý thức trách nhiệm, nỗ lực phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ”.

Thực tế cho thấy, thực hiện tốt đối thoại dân chủ, lãnh đạo, chỉ huy đơn vị lắng nghe những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của bộ đội ở Lữ đoàn Pháo phòng không 283 thời gian qua mang lại hiệu quả thiết thực. Khi bộ đội được nói thẳng, nói thật, được giãi bày và giải thích một cách nghiêm túc, thẳng thắn, thấu tình đạt lý những vướng mắc, họ sẽ thấy thoải mái và an tâm công tác, sẵn sàng nhận, hoàn thành tốt các nhiệm vụ.

 

Cảnh giác trước âm mưu hủy hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ gốc rễ

 

An ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là vấn đề cốt lõi của an ninh chính trị, an ninh quốc gia. Trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, việc tăng cường bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay.

Âm mưu chống phá về tư tưởng chính trị của Đảng

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là tổng thể các biện pháp của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị tiến hành, nhằm phát hiện, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh tư tưởng chính trị, bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống mọi nguy cơ chệch hướng XHCN và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trước sự tác động của tình hình và sự chống phá của các thế lực thù địch trong tình hình mới.

Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị, đấu tranh với các thông tin tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, các trào lưu tư tưởng phản động nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ; bảo vệ sự đồng thuận, nhất trí về chính trị trong nhân dân.

Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch ra sức chống phá Việt Nam, nhất là chống phá về tư tưởng chính trị bằng nhiều hình thức, thủ đoạn. Các đối tượng chống phá cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin “đã lỗi thời, chỉ phù hợp với thế kỷ 19”, “đó là sản phẩm ngoại nhập của phương Tây, không thích hợp với điều kiện kinh tế-xã hội ở Việt Nam”. Đặc biệt, các thế lực phản động đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng luận điệu: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ”; họ lấy quan điểm dân chủ, nhân quyền tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; nhà nước pháp quyền với thiết chế tam quyền phân lập; nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá nhân, rồi vu cáo Đảng ta là “độc tài, độc đoán, mất dân chủ”, không thể lãnh đạo đất nước.

Nguy hại là lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập, các trào lưu tư tưởng tư sản đang thâm nhập vào nước ta thông qua nhiều con đường. Các “giá trị” văn hóa, lối sống tư sản cũng có điều kiện thâm nhập, thẩm thấu, phát triển, làm phai nhạt, mất dần bản sắc văn hóa dân tộc. Các khuynh hướng này cùng với sự tác động hằng ngày của các hình thức, các sản phẩm văn hóa nước ngoài khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân mất phương hướng; các chuẩn mực giá trị có nguy cơ xuống cấp, dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, những biến động về chính trị, kinh tế ở các nước luôn tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của Việt Nam, trước hết là lĩnh vực tư tưởng chính trị. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội kéo theo sự khủng hoảng về lý luận, ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Biến động chính trị ở các nước trên thế giới vô tình cổ xúy và cung cấp kinh nghiệm cho những phần tử phản động, cơ hội chính trị tiến hành các hoạt động phá hoại nước ta trên các lĩnh vực, nhất là chống phá về tư tưởng chính trị. Ngoài ra, những mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng chính trị. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông và mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hòng gây chia rẽ Đảng với nhân dân, hạ thấp uy tín của Đảng, thậm chí vu khống, bịa đặt, bôi nhọ bộ máy lãnh đạo của đất nước, kích động chống Đảng và Nhà nước, gây hoài nghi và tạo nên những dư luận xấu trong xã hội.

Phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, nhằm giữ vững sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN ở Việt Nam; bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; chống mọi nguy cơ chệch hướng XHCN và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trước sự tác động của tình hình và sự chống phá của các thế lực thù địch. Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị góp phần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; góp phần nâng cao nhận thức, tư tưởng, lý luận, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời khắc phục những tư tưởng, lý luận lạc hậu, chệch hướng trong xã hội; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những biểu hiện cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm quy định của Đảng về những điều đảng viên không được làm, nhất là phát ngôn, tuyên truyền, tán phát tài liệu trái Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đấu tranh hiệu quả với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Để tạo nền tảng bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị từ gốc rễ, cần làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống; khơi dậy lòng tự hào dân tộc, đề cao các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống lành mạnh của con người Việt Nam. Tăng cường các hình thức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Đẩy mạnh học tập, thực hiện các nghị quyết của Đảng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ trách nhiệm phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng, nhận thức sai trái, lệch lạc, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị. Tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành; bồi dưỡng nhận thức, lập trường, quan điểm và năng lực vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Vấn đề mấu chốt là phát huy vai trò tự tu dưỡng, tự học tập, rèn luyện của cán bộ, đảng viên để nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng. Đây là giải pháp căn cơ nhằm phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ cán bộ, đảng viên, biến quá trình bồi dưỡng thành quá trình tự bồi dưỡng; là con đường tự thân nhằm nâng cao sức đề kháng thông qua khả năng tự nhận biết, tự phân loại, sàng lọc và định hướng thông tin để bảo vệ mình, bảo vệ tổ chức trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự học tập, tự rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, luôn kiên định, vững vàng trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch với những âm mưu, thủ đoạn đa dạng, tinh vi, xảo quyệt; không để kẻ thù lợi dụng mua chuộc, lôi kéo, chống phá.

Trong thời đại thông tin bùng nổ, chú trọng giải pháp lãnh đạo, quản lý các hoạt động báo chí, xuất bản, nhất là trong việc định hướng chính trị-tư tưởng, phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Củng cố, kiện toàn tổ chức, cán bộ các cơ quan tư tưởng, văn hóa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm nòng cốt trong tuyên truyền, định hướng, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng. Phát huy tốt hơn nữa vai trò của truyền thông, báo chí trong định hướng tư tưởng chính trị, định hướng các giá trị, lối sống phù hợp với bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời phải tích cực, chủ động “nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội” như văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

Các cơ quan chức năng cần phát huy vai trò nòng cốt trong tham mưu cho Đảng, Nhà nước đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, đề ra các chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị. Phối hợp tổ chức tốt cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng-lý luận, chủ động phát hiện các vấn đề phức tạp nảy sinh trong đời sống xã hội ảnh hưởng đến an ninh tư tưởng chính trị để có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời những sơ hở, thiếu sót, ngăn chặn các nguy cơ tiềm ẩn xâm phạm an ninh trong lĩnh vực tư tưởng chính trị. Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng; chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam và xu hướng toàn cầu hóa thâm nhập, phá hoại, tác động, chuyển hóa từ bên trong, tiến hành các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, an ninh về tư tưởng chính trị.

Trước những tác động mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị càng trở nên quan trọng. Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp và của toàn xã hội, cần được tổ chức, phối kết hợp thống nhất nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong bảo vệ vững chắc an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Khẳng định trí tuệ, ý chí của người Việt Nam

 

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức tới Cộng hoà Peru, chiều 12/11, Chủ tịch nước Lương Cường và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã tới thăm, làm việc với công ty Viettel Peru (Bitel)- liên doanh của Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) tại Peru.

Báo cáo với Chủ tịch nước về tình hình hoạt động tại địa bàn, Tổng Giám đốc Phạm Anh Đức cho biết công ty Viettel Peru với thương hiệu Bitel được thành lập năm 2011, chính thức đi vào kinh doanh năm 2014 với 100% vốn của Viettel. Trong 10 năm qua, Bitel đã có một hành trình đầy khó khăn và thử thách khi đối diện với những rào cản, từ thiên nhiên đến văn hóa, từ ngôn ngữ đến những cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Bitel đã góp phần phổ cập dịch vụ viễn thông tại Peru khi làm cho đơn giá cước hiện tại đã giảm 30 lần so với trước đây. Hiện tại, Bitel là nhà mạng sở hữu hạ tầng mạng lưới lớn nhất tại Peru và có hệ thống kênh phân phối rộng khắp trên cả nước với trụ sở đóng tại tất cả các bang của Peru.
Cùng với đó, Bitel là nhà mạng có tốc độ phát triển nhanh nhất trên thị trường viễn thông Peru với doanh thu tăng trưởng trung bình 35%/năm và đạt 8,3 triệu thuê bao và được Cơ quan quản lý viễn thông Osiptel đánh giá là nhà mạng có dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt nhất. Bitel cũng tạo việc làm cho gần 3.000 lao động chính thức và gần 23.000 lao động gián tiếp.

Ba năm trở lại đây, doanh thu bình quân đạt 420 triệu USD/năm, lợi nhuận đạt 83 triệu USD/năm và đặc biệt là năm 2024, Bitel tiếp tục lập đỉnh mới khi lợi nhuận dự kiến đạt 103 triệu USD, tăng trưởng 38% so với năm 2023. Bên cạnh việc kinh doanh hiệu quả, tập thể cán bộ nhân viên Bitel luôn ý thức và gắn cho mình sứ mệnh về chính trị, ngoại giao, trở thành cầu nối hợp tác hữu nghị, bền vững giữa Nhà nước, Chính phủ, nhân dân Việt Nam và Peru.
Phát biểu tại buổi làm việc, Chủ tịch nước bày tỏ vui mừng và xúc động khi được gặp mặt với cán bộ, nhân viên, người lao động của Viettel tại Peru với tư cách nhà mạng viễn thông mang tên Bitel, đang làm việc, kinh doanh tại một đất nước cách xa Tổ quốc nửa vòng trái đất.
Chỉ rõ những khó khăn, thách thức mà Bitel phải đối mặt, Chủ tịch nước nhấn mạnh, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và thường xuyên, trực tiếp là Đảng ủy, Ban Giám đốc Viettel, cán bộ, nhân viên, người lao động Bitel đã phát huy phẩm chất "Bộ đội cụ Hồ", sự mưu trí, dũng cảm, đoàn kết, vượt qua khó khăn thử thách để tìm ra những cách làm sáng tạo, khác biệt, giúp Bitel đã từng bước khẳng định vị thế của mình và đứng vững trên thị trường ngày càng "khó tính" ở Mỹ Latinh.
Chủ tịch nước cho rằng thành công của Bitel cho thấy tiềm năng và trí tuệ Việt Nam hoàn toàn có thể vươn ra thế giới, cạnh tranh bình đẳng trên các thị trường quốc tế. Mặt khác, thành công của Bitel là thành công của Việt Nam và niềm tin của người dân Peru vào Bitel chính là niềm tin với Việt Nam.
Chủ tịch nước nhấn mạnh, là người Việt Nam trên đất bạn, cán bộ, người lao động Bitel không chỉ là nhân viên của Viettel mà còn là những "đại sứ" của Việt Nam và vì vậy từng hành động, việc làm và sự nỗ lực của tập thể Bitel trong thời gian qua đã thể hiện bản lĩnh, tinh thần Việt Nam nói chung và của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng nói riêng; khắc sâu vào tình cảm người dân Peru hình ảnh của một Việt Nam thân thiện, kiên cường và đáng tin cậy.

Chủ tịch nước lưu ý cần phải ghi nhớ rằng mỗi bước tiến của Bitel là một bước tiến của Việt Nam trên trường quốc tế, là một minh chứng cho trí tuệ và ý chí của người Việt Nam, là hình ảnh một Việt Nam hiện đại, năng động và đầy khát vọng.

Trân trọng về sự cống hiến không mệt mỏi của tập thể cán bộ nhân viên Bitel, Chủ tịch nước khẳng định những thành tựu mà Bitel đạt được tại Peru là thành quả của sự đoàn kết, nỗ lực và sự kiên trì không ngừng nghỉ của toàn thể cán bộ nhân viên trong môi trường mới lạ và đầy thách thức để khẳng định vị thế của Bitel, của Viettel.
Để Bitel giữ vững những thành công và tiếp tục phát triển và vươn lên mạnh mẽ hơn nữa, Chủ tịch nước yêu cầu tập thể Bitel tiếp tục giữ vững sự đoàn kết, thống nhất cao trong nội bộ; quan tâm chăm lo đến đời sống cho cán bộ công nhân viên để phát huy nội lực con người, làm tiền đề cho tăng trưởng và phát triển bền vững.
Cùng với đó, Chủ tịch nước cho rằng Bitel phải ý thức ngoài nhiệm vụ kinh doanh còn là "cầu nối" quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Peru, một đối tác quan trọng của Việt Nam trong các nước thành viên APEC. Ban lãnh đạo Bitel nói chung và mỗi cán bộ, nhân viên, người lao động người Việt nói riêng phải tiếp tục là một "đại sứ" văn hóa tại Peru, tiếp tục giữ vững và tô thắm thêm hình ảnh cao đẹp "Bộ đội Cụ Hồ" trên đất bạn; góp phần giữ gìn, duy trì và phát triển mối quan hệ hữu nghị, và hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia, hai dân tộc.
Chủ tịch nước đề nghị Bitel tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, giữ vững lòng tin của người dân Peru. Đây không chỉ là nhiệm vụ kinh doanh mà còn là trách nhiệm với cộng đồng địa phương; và đặc biệt phải thượng tôn pháp luật và tạo được sự tin tưởng của chính quyền các cấp tại Peru; đồng thời, phải quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam; cạnh tranh phải lành mạnh, đúng luật; kinh doanh bằng sự tử tế.
Chủ tịch nước khẳng định Bitel là niềm tự hào của Việt Nam và mỗi cán bộ, nhân viên tại đây là một đại sứ, góp phần xây dựng hình ảnh đất nước thân thiện, sáng tạo và giàu ý chí; tin tưởng rằng với tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và trách nhiệm, sứ mệnh với Tổ quốc, Bitel tiếp tục vững bước và ngày càng tiến xa hơn trên hành trình đầy ý nghĩa hiện nay.
Nhân dịp này, Bộ trưởng Quốc phòng Phan Văn Giang thay mặt Thủ tướng Chính phủ đã tặng bằng khen cho công ty Viettel Peru thuộc Tổng Công ty cổ phần đầu tư quốc tế Viettel, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội, Bộ Quốc phòng vì đã có thành tích xuất sắc đột xuất trong sản xuất, kinh doanh và hỗ trợ chính phủ Peru phát triển văn hoá xã hội và tổ chức thành công các sự kiện chính trị trọng đại./.

 

Hoạt động không mệt mỏi để đặt cơ sở cho việc thành lập một chính đảng mác-xít ở Việt Nam

 

Chuẩn bị về tổ chức và đào tạo cán bộ

Với tầm nhìn chiến lược, với vị thế cán bộ của Ban Phương Đông, Quốc tế Cộng sản, tại Quảng Châu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn một số thanh niên ưu tú yêu nước trong các tổ chức cách mạng, như Tâm Tâm xã, Việt Nam Quốc dân Đảng... và một số thanh niên yêu nước khác ở trong nước nhằm đào tạo họ trở thành những cán bộ cách mạng để đưa về nước hoạt động trong phong trào công nhân, trong đó lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặc biệt chú ý tới các thành viên trong tổ chức Tâm Tâm xã. Tháng 6-1925, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chính thức thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, lấy tổ chức “Cộng sản đoàn”(8) làm nòng cốt cho Hội, đào tạo cán bộ cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam. Đại hội lần thứ I Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (tháng 5-1929) khẳng định: “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là đội tiền phong cách mạng của dân chúng Việt Nam hết sức tổ chức dân chúng lại cho thành một đội quân tranh đấu rất có lực lượng; hết sức hy sinh đi trước để lĩnh đạo dân chúng quyết liệt tranh đấu với tụi bóc lột, đè nén, để lấy lại quyền lợi, để đoạt thủ chính quyền”(9); “để phá tan cái xã hội bất bình hiện tại mà lập ra xã hội ai cũng phải làm, ai cũng đủ dùng, ai cũng tự do, bình đẳng, tức là xã hội cộng sản”(10).

Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức có tính chất quá độ, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc đó, giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các tầng lớp dễ tiếp thu chủ nghĩa cộng sản. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dùng tên hội mà chưa dùng tên đảng là do muốn đưa tổ chức cách mạng đó vào quần chúng một cách thuận lợi, để quần chúng dễ tiếp thu cả về tổ chức, tôn chỉ, mục đích của Hội, từ đó sẽ phát triển lên ở mức cao hơn, như Người giải thích: “Trong tư tưởng của những người đứng ra tổ chức thì Hội này sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn và tương lai đã chứng minh điều đó”(11). Được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, lấy tự phê bình và phê bình làm phương châm phát triển, trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của Hội. Hội được tổ chức thành 5 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Thông qua những hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thông qua phong trào “vô sản hóa”, luồng tư tưởng mới của thời đại đã xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, làm thay đổi tính chất, chiều hướng của phong trào đấu tranh cách mạng, không chỉ thu hút đông đảo các lực lượng vào tổ chức cách mạng của mình, mà còn ảnh hưởng tích cực đến các tổ chức chính trị cùng thời khác.

Có được tổ chức cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp tục đào tạo một đội ngũ cán bộ cốt cán cho phong trào cách mạng bằng việc mở các lớp huấn luyện chính trị. Để thực hiện mục đích này, từ đầu năm 1926 đến tháng 4-1927, được sự giúp đỡ bí mật của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chính phủ cách mạng ở Quảng Châu, tại trụ sở số nhà 13 và 13B đường Văn Minh (nay là số nhà 248 và 250) đối diện với Trường Đại học Trung Sơn (nay là Bảo tàng Cách mạng Quảng Châu), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp mở ba lớp huấn luyện chính trị cách mạng cho lớp thanh niên ưu tú của Việt Nam, với tổng số 75 người. Lớp đầu tiên được khai mạc vào khoảng đầu năm 1926. Theo Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 3-6-1926, Người cho biết: “Tổ chức một trường tuyên truyền. Các học viên được bí mật đưa đến Quảng Châu. Sau một tháng rưỡi học tập, họ trở về nước. Khóa thứ nhất được mười học viên, khóa thứ hai sẽ mở vào tháng bảy tới, sẽ có khoảng 30 người”. Từ giữa năm 1926 đến đầu năm 1927, Người mở thêm hai lớp nữa, mỗi lớp hơn 30 người. Trong Báo cáo gửi Ban Phương Đông, Quốc tế Cộng sản, Người viết: “Mặc dù thiếu thời gian và tiền, nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí người Nga và An Nam, chúng tôi đã có thể: 1) Đưa 75 thanh niên An Nam đến học ở Trường Tuyên truyền do chúng tôi tổ chức ở Quảng Châu, 2) Xuất bản 3 tờ tuần báo nhỏ, 3) Phái những người tuyên truyền vừa mới được đào tạo về Xiêm, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ, 4) Thành lập một liên đoàn cách mạng do một ủy ban gồm 5 ủy viên ở Quảng Châu lãnh đạo, liên đoàn đã bắt rễ khắp nơi trong tất cả các xứ Đông Dương đó”(12).

Tại các lớp huấn luyện chính trị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách lớp và là giảng viên chính. Thông qua lớp huấn luyện, học viên được trang bị những vấn đề sơ giản về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về những nguyên tắc hoạt động bí mật, về kỹ năng thực hành các công tác vận động quần chúng... Nội dung học tập mới mẻ và phong phú, đã lôi cuốn sự say mê của các học viên, nhưng sức hút mạnh mẽ nhất đối với họ lại chính là những bài giảng sinh động, hấp dẫn và thiết thực của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Sau giờ học trên lớp, các học viên được đi tham quan thực tế các cơ sở cách mạng ở Quảng Châu, để học từ thực tiễn những kinh nghiệm quý giá, giúp ích cho bước đường hoạt động cách mạng của mình. Thông qua các tuyến đưa đón thanh niên ra dự lớp huấn luyện(13) (Băng Cốc - Quảng Châu; Móng Cái - Quảng Châu; Lạng Sơn - Nam Ninh - Quảng Châu; giao thông trên các tàu buôn), với ba khóa huấn luyện (từ đầu năm 1926 đến tháng 4-1927) đã có 75 người được đào tạo. Khi học xong, có người ở lại nước ngoài công tác, có người được cử đi học tiếp ở Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô), còn phần đông thì được cử về nước hoạt động, xây dựng và tổ chức, phát triển các phong trào cách mạng.

Đặc biệt, từ rất sớm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị cho cách mạng một đội ngũ cán bộ quân sự, bởi Người hiểu rằng, để lật đổ bộ máy thống trị thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân thì sớm hay muộn phải cần tới bạo lực vũ trang. Vì thế, ở một hướng khác, Người đã gửi nhiều thanh niên Việt Nam theo học Trường Quân sự Hoàng Phố của Chính phủ Tôn Trung Sơn, dưới sự huấn luyện của các chuyên gia quân sự Xô-viết, trong số đó có một số thanh niên ưu tú, như Lê Thiết Hùng, Trương Vân Lĩnh, Phùng Chí Kiên… Những học viên sau khi tốt nghiệp trường này đã trở thành những cán bộ quân sự cốt cán của cách mạng, hăng say hoạt động trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, gia nhập quân cách mạng và tham gia khởi nghĩa Quảng Châu(14).

Có thể thấy, 75 học viên của buổi đầu mới nhen nhóm trong ba lớp huấn luyện chính trị cách mạng tại Quảng Châu trong hai năm (1926 - 1927) là một con số đầy ý nghĩa. Đó là “75 hạt giống đỏ” được đích thân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn lựa, đào tạo đã trưởng thành, cứng cáp, trở thành những cán bộ nòng cốt và từ những hạt giống này, tiếp tục nhân lên lớp lớp thanh niên cách mạng kế tiếp trên toàn đất nước Việt Nam. Như vậy, bằng sự nỗ lực vượt bậc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã trở về gần Tổ quốc, “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết kết họ, huấn luyện họ”, để chuẩn bị đưa họ ra đấu tranh, giành độc lập, tự do(15).

Chuẩn bị về mặt lý luận, tuyên truyền

Cùng với việc đào tạo đội ngũ cán bộ, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản sách và báo chí làm phương tiện tuyên truyền. Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là cây bút chủ chốt (số đầu tiên ra ngày 21-6-1926(16)). Thông qua Báo Thanh niên, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thống nhất về phương hướng và nội dung tuyên truyền, giáo dục ở trong và ngoài Hội. Báo Thanh niên ra hằng tuần bằng tiếng Việt. Từ tháng 6-1925 đến tháng 4-1927, báo ra được 88 số. Báo có các chuyên mục: xã hội, bình luận, tin tức, diễn đàn, vấn đáp, phê bình, trả lời bạn đọc,... Các bài đăng trên báo đều nhằm phục vụ đối tượng chủ yếu là công nhân và nhân dân lao động nước ta. Với nội dung dễ đọc, dễ hiểu, Báo Thanh niên đã kêu gọi tinh thần yêu nước, khơi dậy truyền thống và ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm của toàn dân tộc, từ đó mong mọi người hãy xích lại gần nhau hơn, đoàn kết hơn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tuy số lượng phát hành không nhiều (100 bản), nhưng với hình thức nhỏ, gọn, được truyền tay nhau đọc, ghi chép lại rồi cho người khác đọc, nhờ có hệ thống giao thông cách mạng hoạt động tốt, Báo Thanh niên đã đến được khắp đất nước, sang cả Lào và Campuchia. Mật thám Pháp điên cuồng lùng sục, bắt bớ những người cộng sản, hủy gần hết những tờ báo mà chúng bắt được, song Báo Thanh niên vẫn đến được với đông đảo quần chúng, đến được với những chiến sĩ cách mạng và những nội dung tư tưởng của báo đã đem đến cho những người dân Việt Nam yêu nước một đường lối cứu nước mới, một phương pháp cách mạng mới. Có thể thấy, sự ra đời, những đóng góp của Báo Thanh niên đối với phong trào cách mạng Việt Nam ở những năm 20 của thế kỷ XX đã mở ra một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Là tờ báo đầu tiên trong lịch sử báo chí cách mạng nước ta, Báo Thanh niên đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam(17). Tiếp theo Báo Thanh niên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng các bạn chiến đấu của mình còn xuất bản ba tờ báo định kỳ khác là: Công nông (từ tháng 12-1926 đến đầu năm 1928), Lính cách mệnh (từ đầu năm 1927 đến đầu năm 1928) và Việt Nam tiền phong cho những đối tượng hẹp hơn.

Cùng với việc xuất bản báo, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc còn biên soạn cuốn sách Đường cách mệnh, gồm những bài giảng của Người tại các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu trong những năm 1925 - 1927. Cuốn sách được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản lần đầu tiên năm 1927 để làm tài liệu học tập và tuyên truyền. Đường cách mệnh được bí mật đưa về trong nước theo nhiều ngả đường khác nhau trong những năm 1927 - 1930. Trong bối cảnh Việt Nam đang khủng hoảng trầm trọng về đường lối cách mạng, phương pháp và tổ chức cách mạng, cùng với chính sách đàn áp hà khắc của thực dân Pháp, dư luận bị bưng bít thông tin, nhân dân bị đầu độc bởi văn hoá thực dân, thì cuốn sách Đường cách mệnh đã góp phần trang bị cho nhân dân hệ tư tưởng mới của thời đại và đưa cách mạng Việt Nam hòa nhập cùng dòng chảy chung của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới. Có thể thẳng định, cuốn sách Đường cách mệnh ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng thời là một trong những văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng ta, là nền tảng cho đường lối của cách mạng Việt Nam sau đó(18).

Người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế

Trong thời kỳ ở Quảng Châu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ quan tâm, chăm lo cho sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam, mà còn tham gia những hoạt động giúp đỡ phong trào cách mạng Trung Quốc, phong trào cách mạng của các nước trong khu vực. Cùng với các đồng chí Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Miến Điện, Người đã tích cực vận động thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quốc tế, đó là Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (ngày 9-7-1925) nhằm đoàn kết các dân tộc nhỏ yếu, bị áp bức, liên lạc với các dân tộc cùng làm cách mạng nhằm đánh đổ chế độ thực dân, đế quốc.

Nhìn nhận về cách mạng Trung Quốc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc luôn xuất phát từ những nét tương đồng trong lịch sử văn hóa Việt Nam - Trung Quốc, đồng thời thấy được mối quan hệ tương hỗ giữa cách mạng Trung Quốc với cách mạng vô sản thế giới. Người đã có nhiều đóng góp cho cách mạng Trung Quốc. Từ khi còn hoạt động ở Pháp và Nga, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài về Trung Quốc đăng trên các báo, như: Chủ nghĩa cộng sản và thanh niên Trung Quốc, đăng trên Báo L’Humanitté (Nhân đạo) ngày 19-8-1922; Tình hình ở Trung Quốc đăng trên Báo L’Humanitté ngày 4-12-1923; Tình cảnh nông dân Trung Quốc đăng trên Báo La Vie Ouvrière (Đời sống công nhân) ngày 1-4-1924,... Đầu năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với một nhóm sinh viên Trung Quốc học tại Trường Đại học Phương Đông biên soạn cuốn sách “Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc”(19).

Tại Quảng Châu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ bày tỏ thiện cảm, sự quan tâm và ủng hộ đối với phong trào cách mạng đang sục sôi, mà còn tham gia trực tiếp như một chiến sĩ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người đã tham gia Hội nghị đại biểu đầu tiên của 20 vạn nông dân tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Đầu tháng 5-1925, Người tham dự Hội nghị lần thứ hai đại biểu công nhân Trung Quốc. Ngày 19-6-1925, cuộc tổng bãi công của công nhân Hương Cảng, Quảng Châu bùng nổ nhằm ủng hộ “Phong trào 30 tháng 5”(20). Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề nghị được tham gia đội diễn thuyết với danh nghĩa là hội viên Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức và được ghi tên với bí danh Lý Thụy. Trước đó, Người được Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân của Quốc tế Cộng sản ủy nhiệm phụ trách công tác vận động nông dân ở Trung Quốc và một số nước khác; tháng 7-1925, Người đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông nhằm đoàn kết các dân tộc bị áp bức ở châu Á trong một mặt trận chống chủ nghĩa đế quốc. Người đã đặt cơ sở cho việc xây dựng tình đoàn kết giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng các nước.

Tại Quảng Châu, theo dõi và chỉ đạo phong trào nông dân ở Trung Quốc và Đông Nam Á, tìm hiểu thực tiễn cách mạng Trung Quốc, tình hình các nhà hoạt động cách mạng đến từ các quốc gia, các dân tộc bị áp bức..., lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giúp Quốc tế Cộng sản nắm được tình hình về phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông; phân tích, đánh giá để báo cáo với Quốc tế Cộng sản, hoặc viết bài đăng trên Tạp chí Thông tin quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Điều đó góp phần làm gia tăng ảnh hưởng, tăng cường mối liên hệ giữa Quốc tế Cộng sản và phong trào cách mạng ở các nước phương Đông, thúc đẩy phát triển phong trào cách mạng vô sản trên phạm vi toàn thế giới.

***

Trở về giúp đồng bào mình là trăn trở, mong muốn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khi đã chọn được con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Gây dựng phong trào cách mạng Việt Nam từ Quảng Châu, Trung Quốc là một sự lựa chọn đúng đắn của Người nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930. Có thể nói, những năm tháng hoạt động cách mạng ở Quảng Châu đã giúp Người thực hiện được những công việc hết sức trọng đại, cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam cũng như sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới./.

Quảng Châu - “Căn cứ địa quốc tế” của cách mạng Việt Nam

 

Cuối thế kỷ XIX, cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp tổ chức, lãnh đạo cách mạng. Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành lên con tàu Amiral Latouche Treville tại bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, mang theo khát vọng tìm con đường mới để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, giúp đồng bào thoát khỏi cảnh áp bức, nô lệ. Từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã đến các nước Pháp, Mỹ, Anh và rất nhiều thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ở các châu lục, hòa mình vào cuộc sống của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa để khảo sát con đường cứu nước, học tập lý luận và tham gia các cuộc đấu tranh chính trị. Trong thời kỳ này, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi đã đánh dấu bước ngoặt mới, đưa sự nghiệp đấu tranh của các dân tộc bị áp bức đi theo con đường cách mạng vô sản; đến năm 1920, sau khi Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lê-nin được công bố, đã đánh dấu bước ngoặt căn bản trong phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa, như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định, Luận cương “tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”(1), “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2). Cũng từ đây, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm thấy ánh sáng chân lý thời đại, tìm được con đường cách mạng Việt Nam - con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách hoàn toàn và triệt để nhất.

Sau khi trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, năm 1923, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Thủ đô Moskva, Liên Xô. Những năm tháng hoạt động trên đất nước của Lê-nin là khoảng thời gian lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc hiểu sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để đi đến nhận thức rằng, chỉ có thành lập một chính đảng mác-xít ở Việt Nam, tiến hành cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản mới có thể giải phóng dân tộc mình khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Thực hiện mong muốn của mình và được sự đồng ý của Quốc tế Cộng sản, ngày 11-11-1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc rời Thủ đô Moskva đến Quảng Châu, Trung Quốc với tên gọi Lý Thụy trên danh nghĩa công khai là cán bộ phiên dịch trong Phái bộ của cố vấn Bôrôđin, bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn.

Việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lựa chọn đến Quảng Châu, Trung Quốc là một bước đi quan trọng và nằm trong kế hoạch trở về Tổ quốc của Người, đồng thời cũng xuất phát từ những điều kiện khách quan của tình hình lúc bấy giờ.

Trong bức thư để lại cho những người bạn cùng hoạt động trong Hội Liên hiệp thuộc địa trước khi Người lên tàu rời Pari (Pháp) qua Đức để tới nước Nga Xô-viết vào tối ngày 13-6-1923, Người nói rõ mục đích với những nội dung kế hoạch của mình: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(3). Trong thời gian ở Moskva, Người đã tiến hành nhiều hoạt động để chuẩn bị cho hành trình đến Trung Quốc. Người đã báo cáo với Quốc tế Cộng sản về mục đích, nội dung của chuyến đi Trung Quốc, đồng thời đề nghị gặp và trao đổi với những nhà lãnh đạo trong Quốc tế Cộng sản nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản đối với các hoạt động cách mạng ở thuộc địa. Bên cạnh đó, để chuẩn bị cho chuyến đi đến Trung Quốc và những hoạt động sau đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành tìm hiểu để nắm chắc tình hình cách mạng ở đây, nhất là trước tình hình có sự hợp tác đang tiến triển tốt giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng ở Trung Quốc. Vì thế, trong thời gian ở Moskva, Người đã có những liên hệ với cách mạng Trung Quốc nhằm nắm vững tình hình ở Trung Quốc, tranh thủ mọi liên hệ và giúp đỡ khi Người tới Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ của mình(4).

Những năm 1923 - 1927, Quảng Châu - thủ phủ của tỉnh Quảng Ðông (Trung Quốc) là một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa lớn ở miền Nam Trung Quốc. Nơi đây có nhiều khu công nghiệp lớn, bến cảng thông thương quốc tế, đồng thời cũng tập trung số lượng lớn công nhân với bề dày đấu tranh mạnh mẽ chống đế quốc, phong kiến và quân phiệt. Phong trào cách mạng Trung Quốc với Quảng Châu làm trung tâm đã thu được nhiều thắng lợi. Thời kỳ này, Quảng Châu được mệnh danh là “Moskva của phương Đông”, thu hút nhiều nhà cách mạng đến từ những quốc gia bị áp bức.  

Tháng 1-1924, tại Quảng Châu, Đại hội lần thứ I của Quốc dân Đảng được tổ chức và tuyên bố thực hiện chủ nghĩa Tam dân mới của Tôn Trung Sơn với ba chính sách lớn: liên Nga, liên Cộng và giúp đỡ công nông; tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô, cải tổ Quốc dân Đảng với sự giúp đỡ của đoàn cố vấn do Liên Xô và Quốc tế Cộng sản cử tới. Nội dung mới của chủ nghĩa Tam dân về cơ bản phù hợp với nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới ở các nước thuộc địa và phụ thuộc nên được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chú ý, vì thấy nó “thích hợp với điều kiện của nước ta hiện nay”(5).

Những người cộng sản Trung Quốc mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quen biết, như Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Trương Thái Lôi,... lúc này cũng đã có mặt tại Quảng Châu, tạo ra cục diện quốc - cộng hợp tác, cùng thúc đẩy cách mạng Trung Quốc. Chính vì vậy, Người tin rằng, ở Quảng Châu lúc này nếu kết hợp tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cách mạng Trung Quốc với thực hiện mục tiêu vận động cách mạng Việt Nam, nhất định sẽ có hiệu quả(6).

Mặt khác, Quảng Châu cũng là nơi trú chân của những nhà hoạt động yêu nước và cách mạng Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, hoặc xuất dương tìm đường cứu nước, hoặc thất bại phải lánh nạn ra nước ngoài. Ðầu những năm 20 của thế kỷ XX, một lớp thanh niên mới đầy nhiệt huyết đã cùng nhau tìm đến Quảng Châu. Lúc này Việt Nam Quang phục hội đang tan rã. Họ cảm thấy thất vọng trước khuynh hướng cách mạng bảo thủ, cũ kỹ của lớp tiền bối và muốn tìm một con đường đi mới. Vì vậy, năm 1922, họ đã lập ra nhóm Tâm Tâm xã, gồm những thanh niên đầy nhiệt huyết và chí khí, sẵn sàng hy sinh tính mệnh vì nghĩa lớn để thức tỉnh đồng bào, song vì chưa có người tổ chức và hướng dẫn nên họ chưa biết làm gì ngoài hành động mưu sát cá nhân mà tiêu biểu là vụ mưu sát Toàn quyền Ðông Dương Méc-lanh ngày 19-6-1924 tại Quảng Châu. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang ở Liên Xô dự Ðại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản. Người đã thấy “cánh én báo hiệu mùa xuân”, vì vậy, càng nóng lòng trở về Tổ quốc để dẫn dắt và chỉ đạo cách mạng Việt Nam (sau này, những thành viên ưu tú của Tâm Tâm xã đã trở thành hạt nhân của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu năm 1925).

Bên cạnh đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho rằng, tìm đến Quảng Châu, một địa điểm gần với Việt Nam, sẽ có điều kiện tương đối thuận lợi cho việc triển khai những công việc cần thiết để sớm thực hiện mục tiêu về nước phát triển phong trào cách mạng(7).