Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại ấp có 94% dân số là người có đạo Công giáo ở Đồng Nai

 Ngày 13-11, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa đã tham dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại ấp Tân Bắc, xã Bình Minh, huyện Trảng Bom.

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cùng các đồng chí trong đoàn công tác của trung ương và lãnh đạo tỉnh, huyện Trảng Bom dâng hương, tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại Khu căn cứ Tỉnh ủy Biên Hòa U1, xã Thanh Bình, huyện Trảng Bom. Ảnh: Huy Anh

Cùng dự ngày hội tại đây, về phía tỉnh Đồng Nai có đồng chí Nguyễn Hồng Lĩnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy: Cao Văn Quang, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh; Cao Tiến Dũng, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy; Phạm Xuân Hà, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy cùng Phó chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Sơn Hùng, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Viên Hồng Tiến và Bí thư Huyện ủy Trảng Bom Lê Tuấn Anh.

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cùng các đồng chí trong đoàn công tác của trung ương và lãnh đạo tỉnh, huyện Trảng Bom thăm quan di tích giếng nước trong Khu căn cứ Tỉnh ủy Biên Hòa U1, xã Thanh Bình, huyện Trảng Bom. Ảnh: Huy Anh

Trước khi dự ngày hội tại ấp Tân Bắc, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cùng các đồng chí trong đoàn công tác của trung ương và lãnh đạo tỉnh, huyện Trảng Bom đã dâng hương, tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ tại Khu căn cứ Tỉnh ủy Biên Hòa U1, xã Thanh Bình, huyện Trảng Bom.

Người dân chào đón các đại biểu về dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại ấp Tân Bắc, xã Bình Minh, huyện Trảng Bom. Ảnh: Huy Anh

Thay mặt nhân dân ấp, Trưởng ban Công tác Mặt trận ấp Tân Bắc Nguyễn Ái Quốc đã tặng hoa chào mừng Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa cùng các đồng chí trong đoàn công tác của trung ương và lãnh đạo tỉnh, huyện Trảng Bom về dự ngày hội.

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa trao đổi cùng người dân. Ảnh: Huy Anh
Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa trao đổi cùng người dân. Ảnh: Huy Anh

Theo ông Nguyễn Ái Quốc, ấp Tân Bắc nằm dọc theo quốc lộ 1 và là ấp trung tâm của xã. Trên 94% trong tổng số 6,8 ngàn người của ấp là đồng bào Công giáo.

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa tặng lẵng hoa cho ấp Tân Bắc, xã Bình Minh, huyện Trảng Bom. Ảnh: Huy Anh

Năm 2024, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền, nhân dân trong ấp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, trong đó ấp được công nhận giữ vững danh hiệu ấp văn hóa và giữ vững ấp không có tệ nạn ma túy, mại dâm.

Ấp không có tình trạng học sinh phải nghỉ học hoặc bỏ học do hoàn cảnh khó khăn. Ấp đã đóng góp, vận động 114 triệu đồng để hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn. Đặc biệt, người dân trong ấp, các chức sắc, cơ sở tôn giáo đã đoàn kết nhân dân chung tay tham gia bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu bằng nhiều mô hình thiết thực…

Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Hồng Lĩnh tặng lẵng hoa, quà cho ấp Tân Bắc, xã Bình Minh, huyện Trảng Bom. Ảnh: Huy Anh
Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Hồng Lĩnh tặng lẵng hoa, quà cho ấp Tân Bắc, xã Bình Minh, huyện Trảng Bom. Ảnh: Huy Anh

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa chúc mừng những kết quả mà tập thể ấp Tân Bắc đạt được trong năm 2024 và tặng lẵng hoa, quà cho tập thể ấp và các cá nhân, gia đình, tập thể tiêu biểu của khu dân cư, những gia đình là hộ nghèo, cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn tại ấp.

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa phát biểu tại Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại ấp Tân Bắc, xã Bình Minh, huyện Trảng Bom. Ảnh: Huy Anh

Theo Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa, ngày hội là dịp để ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang của MTTQ Việt Nam qua các thời kỳ; tập hợp, củng cố, tăng cường sự đoàn kết, đồng thuận và phát huy vai trò của cộng đồng dân cư trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường sự gắn bó mật thiết giữa cán bộ, đảng viên với nhân dân… 

Ngày hội năm nay càng ý nghĩa khi Mặt trận vừa tổ chức thành công đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam các cấp, nhiệm kỳ 2024-2029 và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức thi đua lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2025-2030.

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa tặng quà cho ban ấp Tân Bắc, xã Bình Minh, huyện Trảng Bom. Ảnh: Huy Anh

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa đánh giá, thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đồng Nai đã rất nỗ lực để đưa địa phương phát triển, tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt mức cao, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra.

Riêng với ấp Tân Bắc, người dân đã phát huy tinh thần đoàn kết lương - giáo để cùng cấp ủy, chính quyền chung sức xây dựng đời sống nhân dân, hoàn thiện cơ sở vật chất, tích cực thực hiện đời sống văn hóa, văn minh.

Ấp đã đóng góp, vận động hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn, thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa. Ấp không còn hộ sống trong nhà tạm, nhà dột nát, đóng góp vào hiện thực hóa mục tiêu cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát do trung ương phát động.

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa tặng quà cho người dân. Ảnh: Huy Anh
Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa tặng quà cho người dân. Ảnh: Huy Anh

Năm 2025 là năm diễn ra nhiều sự kiện lớn của đất nước, do vậy, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa mong muốn và đề nghị tỉnh Đồng Nai tiếp tục quán triệt các quan điểm, chủ trương về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Huy động các nguồn lực chăm lo cho người có hoàn cảnh khó khăn gắn với phương châm "cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau". Khơi dậy lòng yêu nước, tự lực, tự cường trong mỗi cá nhân, gia đình để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, đóng góp vào sự phát triển của địa phương.

Quan tâm làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục, để nhân dân đồng thuận, chấp hành các quy định của nhà nước. Phát huy vai trò tự quản của nhân dân trong xây dựng khu dân cư đoàn kết do Mặt trận các cấp phát động. Thực hiện tốt phương châm dân biết, dân bàn, dân kiểm tra…

Riêng với người dân ấp Tân Bắc cần tiếp tục đề cao tinh thần đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Thực hiện tốt dân chủ cơ sở, không để các thế lực xấu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc…  

ĐẸP LẮM MÀU XANH ÁO LÍNH

 Các anh đẹp lắm biết không?

Màu xanh ở giữa mênh mông đất trời
Ngôi sao trên mũ rạng ngời
Nụ cười bình dị tuyệt vời biết bao.
Mưa bão Miền Trung lao đao
Nhà trôi, đường ngập thương nào kể cho
Đêm tối lũ đến lần mò
Người than, kẻ khóc nỗi lo rập rình
Trong đau khổ sáng chữ tình
Các anh có mặt như bình minh lên
Dẹp riêng tư ở một bên
Cùng dân chống lũ như trên một nhà
Nước ngập hết lối vào ra
Chẳng quản thân cõng người già, trẻ thơ
Người dân thất vọng mong chờ
Chính các anh đó vô bờ niềm tin
Không màng danh lợi cho xin
Các anh luôn quyết giữ gìn màu xanh
Nhỏ nhoi nhưng chẳng mong manh
Chiến công tô thắm vang danh lẫy lừng
Màu xanh áo lính sáng bừng
Giữa bão tố vẫn chẳng ngừng yêu thương
Các anh đi giữa quê hương
Hiên ngang mà lại khiêm nhường làm sao
Dân tin, dân yêu biết bao
Trăm lời ca tụng sánh nào công anh
Thương nhiều áo lính màu xanh
Là màu dân tộc dệt thành áo anh.
St

HÀNH TRÌNH THEO CHÂN BÁC HỒ

 Ngày 13 tháng 11

“Học càng nhiều, biết càng nhiều càng tốt”.
Cách đây 98 năm, ngày 13-11-1926, từ Quảng Châu (Trung Quốc) Nguyễn Ái Quốc đăng bài đầu tiên trong loạt bài “Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi” gửi về cho tờ L’Annam ở trong nước.
Đây là tờ báo ra bằng tiếng Pháp tại Sài Gòn do Luật sư Phan Văn Trường, một người cùng hoạt động với Nguyễn Ái Quốc khi ở Pháp, chủ trương. Tuy nội dung chỉ đề cập tới tình hình Trung Quốc nhưng nó tác động tích cực vào đời sống chính trị trong nước cũng đang biến chuyển mạnh mẽ.
Ngày 13-11-1942, trong nhà ngục Nam Ninh (Trung Quốc), Bác làm bài thơ “Tảo tình” (Nắng Sớm), theo bản dịch của Huệ Chi: “Nắng sớm xuyên qua nơi ngục thất/ Đốt tan khói đặc với sương dày/ Đất trời phút chốc tràn sinh khí/ Tù phạm cười tươi nở mặt mày”.
Ngày 13-11-1945, tại cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, Bác phát biểu về công tác thanh tra: “Các bộ trưởng có thể chia nhau mỗi người đi thanh tra một khu gần Hà Nội, Bộ Nội vụ sẽ khảo cứu và lập một chương trình về việc này. Có nhiều việc thụt két ở một vài công sở. Mỗi bộ có trách nhiệm điều tra và đề nghị với Chính phủ nghiêm trị những người làm bậy”.
Ngày 13-11-1947, trong “Thư gửi đồng bào xã Duyên Trang, huyện Tiên Hưng, Thái Bình” khen ngợi về thành tích toàn dân trong xã từ 8 tuổi trở lên đều thoát nạn mù chữ, Bác căn dặn: “Học hành là vô cùng. Học càng nhiều biết càng nhiều càng tốt... Đồng bào trong xã gắng học thêm thường thức như làm tính, lịch sử, địa dư, chính trị, vệ sinh. Đồng thời cố gắng tăng gia sản xuất, ủng hộ kháng chiến”.
Ngày 13-11-1948, trong lá thư gửi cụ Hoàng Hữu Kiệt và các cụ trong Tỉnh hội Cứu quốc Quảng Trị, Bác Hồ biểu dương: “Các cụ đã tuổi cao tóc bạc, mà vẫn hăng hái tham gia kháng chiến. Thật xứng đáng với bô lão đời nhà Trần. Thật là lão đương ích tráng. Một dân tộc mà già trẻ một lòng, kiên quyết như dân ta thì kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất và độc lập nhất định thành công...”.
Ngày 13-11-1962, đến với bộ đội Hải quân tại căn cứ Vạn Hoa (Quảng Ninh), sau khi kể chuyện danh tướng Trần Khánh Dư dùng mưu đánh chiếm đoàn quân lương của nhà Nguyên, Bác căn dặn: “Là chiến sĩ hải quân, các chú phải biết yêu đảo như nhà mình, chịu khó cải tạo xây dựng thành những mảnh đất vừa giàu, vừa đẹp, vừa có ích lợi cho mình, vừa có ích lợi cho đất nước”.
Cũng trong khoảng thời gian này, Bác dự họp Bộ Chính trị bàn về tình hình Nam bộ và Khu V và đưa ra quan điểm: “Ta lấy yếu đánh mạnh. Mỹ mạnh hơn ta về vật chất... Ta phải khôn khéo, mềm dẻo, kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự. Chưa nên đặt vấn đề đánh công kiên, trận địa chiến. Phải phát triển du kích thật rộng rãi, đâu đâu cũng có, làm cho địch không tập trung được chỗ nào... Bây giờ không như hồi kháng chiến (chống Pháp). Bây giờ không có khu nào an toàn. Vẫn cứ phải linh động hết sức gọn nhẹ”./.
St

CÔ GIÁO TẬN TUỴ GIÚP NHIỀU TRẺ VỊ THÀNH NIÊN NGỖ NGƯỢC THAY ĐỔI NHẬN THỨC, SỐNG HƯỚNG THIỆN

 Đại úy Lê Thị Hồng Lụa là giáo viên của những đứa trẻ từng có quá khứ lỡ lầm.

Năm 2012, sau khi tốt nghiệp đại học sư phạm, cô Lụa vào công tác tại Đội giáo viên văn hóa Trường Giáo dưỡng số 2 với nhiệm vụ chính là giảng dạy văn hóa cho học viên.
Thường bỏ học lâu ngày, nhiều em thiếu kiến thức cơ bản, không có động cơ, mục đích học tập. Có em còn tái mù chữ.
Vào dạy học, cô Lụa cũng làm quen việc đối diện với những học viên tay chân đầy xăm trổ, lầm lỳ.
Nỗ lực của cô Lụa được đền đáp khi cô chứng kiến những đứa trẻ ngày đầu thậm chí phải cầm tay nắn từng nét chữ, nay đã biết đọc, biết viết, thành thạo các kỹ năng cộng, trừ, nhân, chia. Nhiều học viên bày tỏ mong muốn ra trường có việc làm tử tế, sống có ích./.
St

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “CỐT TINH, KHÔNG CỐT ĐÔNG” TRONG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

 Từ thực tiễn xây dựng quân đội và kinh nghiệm tổ chức kháng chiến, các nhà nước quân chủ trong lịch sử Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học giữ nước, trong đó có quan điểm xây dựng quân đội thường trực của quốc gia “cốt tinh, không cốt đông”, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc nền độc lập và vẹn toàn cương vực quốc gia. Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng xây dựng quân đội của các triều đại quân chủ trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh” hiện nay là việc làm cần thiết, có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.

Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Ngoài việc kiên định nguyên tắc quản lý, lãnh đạo, coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tinh thần; gắn với đổi mới công tác huấn luyện-đào tạo; tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực dự bị chất lượng cao... thì một trong những vấn đề quan trọng là phải gắn xây dựng lực lượng tinh nhuệ với điều chỉnh và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, biên chế LLVT phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh lịch sử cụ thể.
Để tiến hành thắng lợi khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm có tư tưởng xây dựng LLVT có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu nhiều thứ quân, trong đó quân triều đình quản lý giữ vai trò quyết định. LLVT triều Lý, Trần bao gồm quân chủ lực của triều đình, quân của quý tộc (vương hầu, tôn thất), quân của các lộ, phủ, châu (quân địa phương) và dân binh làng, xã, động, bản. Quân chủ lực của triều đình do nhà nước trực tiếp quản lý, chỉ huy, gồm các thành phần cấm quân và sương quân. Cấm quân là công cụ bạo lực chủ yếu, chỗ dựa quan trọng nhất của chính quyền quân chủ, là trụ cột của quốc phòng, an ninh và là lực lượng chủ lực trong các cuộc chiến tranh giữ nước.
Đến triều Vua Lê Thánh Tông, cùng với việc cải cách hành chính, chia cả nước thành 13 đạo, tổ chức quân đội cũng được cải tổ một cách toàn diện tạo sự thống nhất với hệ thống tổ chức chặt chẽ, quy củ. Lực lượng quân đội được chia thành hai bộ phận: Quân triều đình và quân các địa phương. Quân triều đình gồm cấm binh (còn gọi là cấm vệ quân) và quân ngũ phủ. Cấm binh được chia thành vệ, sở, vẫn làm nhiệm vụ bảo vệ vua, hoàng cung và kinh thành. Quân ngũ phủ được nhà nước xác định rõ là bộ phận quan trọng của quân đội do triều đình trực tiếp quản lý, thường trực đóng giữ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước.
Để phù hợp với cách tác chiến (nhanh, mạnh, thần tốc), kể từ khi trở thành Bắc Bình vương, Nguyễn Huệ quyết định biên chế quân đội thành hệ thống gồm đội, cơ, đạo và doanh. Trong những trường hợp cần thiết, quân đội Tây Sơn còn được tổ chức thành các đơn vị quy mô lớn gọi là đại quân gồm 2-3 doanh do một đại đô đốc chỉ huy. Để tạo nên sức mạnh tổng hợp, tượng binh, kỵ binh, pháo binh và thủy binh được Vua Quang Trung quan tâm chú trọng phát triển và ngày càng hoàn thiện theo hướng gọn, tinh nhuệ, là lực lượng nòng cốt trong củng cố quốc phòng và bảo vệ nền độc lập...
Tiếp thu truyền thống quân sự dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo trên bình diện tư tưởng, lý luận cũng như trong thực tiễn xây dựng LLVT. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng LLVT ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Tháng 3-1947, lực lượng dân quân du kích được thống nhất về tổ chức, xây dựng thành một bộ phận đông đảo của LLVT nhân dân, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội với quy mô phổ biến là tiểu đội, trung đội, đại đội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu ngay tại địa phương bằng các thứ vũ khí có trong tay với hình thức tác chiến linh hoạt, sáng tạo.
Tháng 4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương có quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, được cấp ủy đảng lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương chỉ huy; có khả năng tác chiến độc lập, làm nòng cốt phát triển chiến tranh nhân dân địa phương. Cùng với việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, Đảng ta rất chú trọng tới việc xây dựng các đơn vị chủ lực và chuẩn bị các điều kiện tiến tới xây dựng các đơn vị cơ động cấp đại đoàn. Trong giai đoạn 1949-1952, các đại đoàn bộ binh chủ lực (Đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325) và Đại đoàn Công pháo 351 lần lượt được thành lập.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện chủ trương của Đảng, Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không-Không quân, các binh chủng: Thông tin liên lạc, Đặc công... được thành lập và nhanh chóng trưởng thành. Đặc biệt, các đơn vị chủ lực của bộ binh có bước phát triển mạnh về tổ chức với quy mô từ cấp sư đoàn phát triển thành quân đoàn binh chủng hợp thành (Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232) vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Đây là lực lượng cơ động chiến lược hoạt động trên địa bàn cả nước, hoặc trên từng chiến trường theo yêu cầu, nhiệm vụ để tiến hành tác chiến tập trung, thực hành các trận quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi quyết định trong chiến tranh cách mạng.
Phương thức tổ chức ba thứ quân thể hiện đậm nét tính nhân dân của LLVT do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, lãnh đạo. Thành công trong việc xây dựng LLVT ba thứ quân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, là cơ sở quan trọng để Đảng phát huy thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh. Thế trận đó cho phép chúng ta thực hiện chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực kết hợp chặt chẽ với các hoạt động tác chiến của lực lượng tại chỗ thuộc bộ đội địa phương và dân quân du kích, với chiến tranh nhân dân địa phương, phong trào toàn dân đánh giặc và phong trào đấu tranh chính trị của đông đảo quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thực tiễn, do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu xây dựng Quân đội đặt ra trong từng thời kỳ, Đảng ta đã nhiều lần điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ. Đặc biệt, hiện nay, trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ đặt ra ngày càng cao; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động tới tất cả lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh ngày càng sâu sắc thì việc kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan, đơn vị nói riêng, điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội nói chung là vấn đề khách quan, cấp thiết, góp phần xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng BVTQ.
Từng cấp cần chủ động làm tốt việc rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm trang bị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Trước hết, triển khai thực hiện có hiệu quả đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian và quân số phục vụ, bảo đảm; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để tăng cường quân số cho các đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.
Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức theo hướng tăng cường sức mạnh chiến đấu, khả năng cơ động. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sản xuất quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường Quân đội phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế, trang bị của Quân đội, với cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới./.
St

VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI

 Trong giai đoạn hiện tại, không một quốc gia nào có thể bỏ qua vấn đề nhân quyền mà có thể thiết lập quan hệ tốt đẹp với nước khác và không gặp phải sự phản kháng của nhân dân. Vì thế, quay trở lại với các tư tưởng chính trực, đúng đắn và nhân văn được thực tế và lịch sử thừa nhận về quyền con người (QCN) của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính tất yếu khách quan. Tuy nhiên, thời đại ngày nay đã khác với những năm 50, 60 của thế kỷ XX nên những vấn đề mà người dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam phải đối mặt trong lĩnh vực phát triển kinh tế nhằm bảo đảm QCN cũng có nhiều vấn đề mới, cần nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo và khoa học và phù hợp.

1. Trong lĩnh vực kinh tế, QCN được Hồ Chí Minh giải thích một cách giản dị, đó là làm cho dân được ấm no và giàu có. Để nhân dân Việt Nam được no cơm, ấm áo, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: phải phát triển sản xuất. Người nói: “Muốn xã hội giàu thì mỗi cá nhân, mỗi gia đình cho đến cả nước phải tăng gia sản xuất”. Muốn phát triển sản xuất, phải tiết kiệm để tích lũy vốn cho đầu tư phát triển, phải nắm vững và tích cực cải tiến công nghệ, phải áp dụng các hình thức tổ chức sản xuất tối ưu.
Dù theo chủ nghĩa nào thì phát triển kinh tế cũng là điều kiện vật chất để công dân cải thiện cuộc sống và vị thế trong xã hội. Thực tế cho thấy, ở các nước có chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa, khi thu nhập đầu người khá cao, vượt qua nhiều mức thu nhập thỏa mãn nhu cầu tất yếu, chính phủ có thể tăng thu thuế để cung cấp nhiều loại phúc lợi xã hội cho dân cư, tức bảo đảm QCN một cách phổ biến. Một chính phủ không có nguồn lực tài chính thì khó có thể duy trì bộ máy quyền lực của mình, nói gì đến hỗ trợ công dân bằng phúc lợi xã hội. Chính vì thế, ưu tiên phát triển kinh tế, với tư cách điều kiện và nội dung quan trọng bảo đảm QCN, một trong những tư tưởng kiên định của Hồ Chí Minh cần được phát huy.
Trong giai đoạn đến 2030 và 2045, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao năng suất lao động để đạt được thu nhập cao trên cơ sở ứng dụng thành quả cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu giúp Việt Nam tăng trưởng nhanh, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội, bảo đảm QCN. Đây là nhiệm vụ không hề dễ dàng, nhưng không phải bất khả thi. Trên thế giới đã có nhiều nước hoàn thành quá trình này trong 25-30 năm. Năm 2020 Việt Nam đã lỡ hẹn với mục tiêu hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên cần tính toán các kế hoạch khả thi.
L Một trong những điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ này là đội ngũ lao động đáp ứng yêu cầu và quản lý nhà nước nhằm tạo môi trường thích ứng. Trong điều kiện đó, tư tưởng người lao động phải tự giác, tự chủ hoàn thành nhiệm vụ của mình, không dựa dẫm, ỷ lại vào xã hội, nhà nước và yêu cầu đối với cán bộ mà Hồ Chí Minh đề ra là vừa hồng,vừa chuyên phải được vận dụng thực chất và phù hợp với tình hình mới.
Phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập vào thị trường thế giới trong đó quyền chi phối còn nằm trong tay các nước tư bản lớn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mọi công dân phải linh hoạt ứng biến, một mặt, giống như khẳng định của Hồ Chí Minh, phải kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa, bởi chỉ có xã hội chủ nghĩa mới cho phép quảng đại người lao động có điều kiện vật chất và tinh thần làm chủ xã hội, làm chủ chính mình. Tuy nhiên, phải thoát khỏi tư tưởng nóng vội cho rằng có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp hành chính.
Phát triển kinh tế phải tuân theo quy luật là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do đó, phải phát huy mọi nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho từng người dân tự chủ quyết định trong điều kiện kinh tế thị trường bằng cách thừa nhận và đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, trong đó lấy cạnh tranh lành mạnh làm thuốc thử loại bỏ thành phần kinh tế có hiệu quả hoạt động thấp hơn các thành phần kinh tế khác. Không nên áp đặt cho thành phần nào đó vai trò kiểm soát nền kinh tế.
Mặt khác, cần tuân thủ pháp luật quốc tế, vì đó là điều kiện đầu tiên để Việt Nam có thể hội nhập, từ đó tăng khả năng, cơ hội và nguồn lực cho phát triển nhanh, bền vững, dù rằng pháp luật quốc tế chưa phải công bằng do sự kiểm soát của các nước tư bản chủ nghĩa. Ở đây nguyên tắc mà Hồ Chí Minh đưa ra vẫn có giá trị định hướng, soi sáng cho chúng ta. Đó là, Việt Nam sẽ thiết lập quan hệ với tất cả các nước tôn trọng và đối xử thành thật với chúng ta. Mọi vấn đề lợi ích phải dựa trên nguyên tắc cùng có lợi và chủ quyền quốc gia.
2. Các tư tưởng về tự do, độc lập, bình đẳng giữa các dân tộc, trên cơ sở đó thiết lập thể chế để người dân lao động được quyền tự chủ trong các quyết định liên quan đến họ của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, nhất là đối với Việt Nam trong giai đoạn đến 2030 và 2045. Tuy nhiên, vận dụng các tư tưởng đó vào thực tiễn cần phù hợp với thời đại và đặc thù Việt Nam thể hiện qua một số quan điểm sau đây:
Một là, Việt Nam ngày nay đã khác xa thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay Việt Nam không chỉ độc lập, thống nhất, mà còn trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế cũng như có quan hệ kinh tế với nhiều nước trên thế giới. Vì thế, cách hiểu về độc lập, nhất là độc lập về kinh tế đã khác những năm 50-60 của thế kỷ XX. Độc lập kinh tế không phải là không phụ thuộc vào đầu tư, thương mại với nước khác. Độc lập về kinh tế thể hiện ở khía cạnh Việt Nam có tiếng nói trong xây dựng pháp luật quốc tế cũng như có cơ cấu kinh tế tiến bộ hiện đại, định vị vững vàng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Hai là, mặc dù xu hướng toàn cầu hóa đã định hình rõ nét, chi phối đời sống kinh tế của các nước trên thế giới, nhưng mâu thuẫn lợi ích giữa các nước theo nguyên tắc cạnh tranh vẫn tồn tại dai dẳng có thể dẫn đến các xung đột, chiến tranh. Việt Nam cần hòa bình để phát triển kinh tế nên chính sách đối ngoại phải hết sức tinh nhạy, mềm dẻo nhằm theo tinh thần của Hồ Chí Minh là: hợp tác với tất cả các nước tôn trọng độc lập và quan hệ trung thực với Việt Nam, nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng suất lao động và thu nhập cho dân cư.
Ba là, đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, vận động, cung cấp tri thức, kỹ năng để công dân Việt Nam có thể làm chủ theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Nếu Việt Nam có đội ngũ lao động có kỹ năng, tri thức, thái độ lao động vượt trội so với các nước khác, có các doanh nghiệp được tổ chức tốt, có môi trường đáp ứng yêu cầu chi phí thấp cho đầu tư thì có thể hoàn thành công nghiệp hóa trong thời gian ngắn và tăng nhanh thu nhập cho dân cư, tăng thu ngân sách nhà nước và trụ vững trên thị trường thế giới.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế theo tinh thần của Hồ Chí Minh, đó là những người tận trung với nước, tận hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đi cùng với chính sách đãi ngộ thỏa đáng để họ tập trung cho công việc. Hơn nữa cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ cán bộ của Đảng và Nhà nước cũng như thiết lập cơ chế giám sát của dân cư để bảo đảm cán bộ quản lý kinh tế phải là những tấm gương trong tạo điều kiện cho nhân dân và bản thân họ làm chủ xã hội theo tinh thần xã hội chủ nghĩa.
3. Để có thể vận dụng hiệu quả và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế tạo tiền đề vật chất bảo đảm QCN định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, thiết nghĩ, Đảng, Chính phủ và mọi công dân cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, nghiên cứu sâu sắc, chắt lọc các tư tưởng tinh túy còn giá trị đến ngày nay của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực phát triển kinh tế tạo tiền đề vật chất bảo đảm QCN. Những tư tưởng sau đây của Hồ Chí Minh cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng: (i) QCN chỉ có thể được thực hiện khi dân tộc có quyền độc lập, tự quyết và quyền này phải được các nước tôn trọng. Muốn vậy phải trở thành một nước giàu, mạnh; (ii) phải phát triển kinh tế toàn diện cả công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trên cơ sở cải tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất; (iii) mỗi người, cả nông dân, công nhân, trí thức, công thương… đều phải nỗ lực tự chủ phát triển kinh tế trên cương vị người làm chủ, không thể trông chờ, chây ì dựa vào nhà nước, người khác, nước khác; (iv) Đảng, Nhà nước thông qua cán bộ quản lý kinh tế phải tạo điều kiện cho công dân làm chủ thông qua chế độ quản lý dân chủ, chế độ dân phê bình cán bộ, cán bộ đi sâu đi sát nhân dân.
Thứ hai, sau khi đã xác định rõ các tư tưởng cốt lõi, cần xây dựng kế hoạch, phương thức tuyên truyền, vận động thực chất, phù hợp với từng ngành nghề, từng đối tượng như Hồ Chí Minh đã làm, như đối với công nhân, đối với nông dân, người làm dịch vụ, đối với các dân tộc ít người, thanh niên, phụ nữ... Điều quyết định là gây dựng ở mỗi công dân ý chí tự lực, tự cường, có ý chí vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội. Đồng thời cũng xác định rõ những nghĩa vụ, yêu cầu, nhiệm vụ mà mỗi công dân phải hoàn thành trên cương vị của mình theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hạn chế khai thác khía cạnh thần thánh hóa Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ ba, muốn phát triển kinh tế, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần kỹ thuật, thái độ làm việc tích cực, sáng tạo của người lao động, thái độ tận tâm, phong cách dân chủ của cán bộ quản lý. Muốn vận dụng các tư tưởng này vào thực tiễn Việt Nam hiện nay cần cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu đào tạo được đội ngũ lao động chuyên nghiệp, thành thạo nghề và có năng lực sáng tạo để làm chủ quá trình sản xuất. Cần chọn lọc, bồi dưỡng, quản lý, đãi ngộ, kiểm soát để có đội ngũ cán bộ quản lý vừa hồng, vừa chuyên.
Thứ tư, thực hiện QCN cần những con người nhận thức được quyền của mình và xã hội hỗ trợ họ thể chế thực hiện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy, ngoài việc đề cao giáo dục tuyên truyền trong các trường phổ thông, trường dạy nghề về QCN, cần xây dựng thể chế hỗ trợ công dân thực hiện QCN. Trong kinh tế là các thể chế hỗ trợ bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Trong quan hệ xã hội là các thể chế hỗ trợ người yếu thế, người thuộc các dân tộc ít người. Cần thừa nhận và hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ đại diện cho lợi ích của các nhóm dân cư trong giải quyết các quan hệ kinh tế với Nhà nước.
Thứ năm, tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế đi đôi với chính sách thuế và phúc lợi xã hội hợp lý để phân phối của cải xã hội công bằng giữa những nhóm người có điều kiện khách quan khác nhau, nhưng có nhu cầu giống nhau.
Hồ Chí Minh là tấm gương của đạo đức cách mạng, là người suốt đời phấn đấu vì dân, vì nước. Những tư tưởng của người về phát triển kinh tế tạo điều kiện bảo đảm QCN vẫn còn nguyên giá trị định hướng Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Thực hiện nghiêm chỉnh, thực chất những tư tưởng định hướng đó Việt Nam nhất định sẽ đạt được các mục tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII đặt ra cho giai đoạn đến 2030 và 2045./.
St

KHẮC GHI NHỮNG ĐIỀU TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG GỬI GẮM

 Vô cùng xúc động khi biết tập 3 và tập 4 bộ sách "Vững bước trên con đường đổi mới" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được xuất bản. Vậy là cả bốn tập của bộ sách, gồm các bài viết, phát biểu, trả lời phỏng vấn,… đăng trên Báo Nhân Dân trong gần ba nhiệm kỳ đồng chí làm Tổng Bí thư đã đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đọc các bài viết trong đó mà như thấy ông vừa đi xa trở về, trò chuyện thân tình, gửi gắm niềm tin yêu để chúng ta tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới.

Tập 3 và tập 4 của bộ sách ra mắt bạn đọc lần này, gồm những bài viết, bài phát biểu, bài nói, trả lời phỏng vấn, thư, điện, lời kêu gọi... (gọi chung là bài viết) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đăng trên Báo Nhân Dân từ năm 2017 đến năm 2024, do Báo Nhân Dân và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật thực hiện. Là tài liệu quý cả trong nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, nội dung hai tập này thể hiện rõ quan điểm, tinh thần trách nhiệm người lãnh đạo đặc biệt xuất sắc của Đảng ta đối với tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Tư duy vượt trội mang tầm chiến lược
Mỗi bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bối cảnh, mục đích riêng, nhưng đều thể hiện phương pháp tư duy vượt trội, mang tầm chiến lược, được truyền tải một cách dễ hiểu, gần gũi mà sâu sắc như chính con người ông ngoài đời. Điều ấy làm nên sức cuốn hút và sự lan tỏa của các bài viết. Chính vì thế, sau khi tập 1 và tập 2, gồm các bài viết viết từ năm 2011 đến 2017 đăng trên Báo Nhân Dân được phát hành, nhằm đáp ứng yêu cầu của bạn đọc đồng thời phục vụ công tác nghiên cứu và thực tiễn, Báo Nhân Dân và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp hoàn thành tập 3 và tập 4.
Nội dung hai tập sau tập trung vào việc tổ chức, triển khai thực hiện các Nghị quyết Đại hội XII và XIII của Đảng; trong đó, trọng tâm là nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững đất nước; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,...
Với cả bốn tập, các bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện rõ bước phát triển tư duy lý luận của Đảng ta trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế, trong đó rõ nhất là bài Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, công bố ngày 15/5/2021 (trang 133, tập 4). Dư luận trong nước và quốc tế đặc biệt quan tâm, đánh giá cao giá trị lý luận, thực tiễn của tác phẩm nổi tiếng này. Đây không phải là vấn đề mới và đã có hàng trăm công trình nghiên cứu, bài viết. Nhưng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đưa ra cách nhìn toàn diện hơn, đầy đủ hơn, khách quan và sâu sắc hơn về chủ nghĩa tư bản, nhất là về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta với tầm nhìn xa hơn. Tác giả đã lý giải, trả lời một cách thấu đáo các vấn đề: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì? Qua đó, tác giả đưa ra một thông điệp mạnh mẽ, khẳng định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới,...
Không chỉ với các bài nghiên cứu mà cả những bài phát biểu, chỉ đạo thực tiễn tại các hội nghị của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đều mang tính lý luận và tổng kết thực tiễn sâu sắc. Đó là kết quả lao động sáng tạo không ngừng suốt hơn nửa thế kỷ của một nhà lý luận; là quá trình trải nghiệm thực tiễn sinh động qua các cương vị công tác mà tác giả đảm nhiệm; là ý chí, tình cảm, nhiệt huyết cách mạng thôi thúc bởi một cán bộ có lối sống trong sáng, liêm chính, mẫu mực, trọn đời vì nước vì dân. Các đức tính ấy góp phần làm nên sức cuốn hút và giá trị các bài viết của tác giả.
Đúc rút kinh nghiệm, truyền cảm hứng mạnh mẽ qua mỗi bài viết
Các bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ có sức lan tỏa bởi giá trị nội dung tư tưởng, mà còn có sức mạnh truyền cảm hứng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng đối với từng lĩnh vực, nhiệm vụ cụ thể. Qua các bài viết trong hai tập lần này, người đọc, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu, một lần nữa lại có dịp tự soi mình bởi những điều tác giả suy ngẫm, chia sẻ về đạo đức, lối sống, tác phong công tác; về trách nhiệm của bản thân trước Đảng, trước nhân dân, để tự hoàn thiện mình. Đọc lại bài phát biểu của đồng chí tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 24/11/2021, để thấm thía và suy ngẫm về câu nói: "Hạnh phúc của con người không phải chỉ ở chỗ nhiều tiền, lắm của, ăn ngon, mặc đẹp, mà còn ở sự phong phú về tâm hồn, được sống giữa tình thương và lòng nhân ái, lẽ phải và công bằng". Một dịp khác, ông lại bộc bạch, tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất!
Trong nhiều bài viết, tác giả nói đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống như những lời tâm sự, bộc bạch với bạn bè, đồng nghiệp nhưng vô cùng sâu sắc. Chính bằng cách chia sẻ ấy, những điều trăn trở của người viết đã thấm sâu vào ý thức, hành động của bạn đọc, nhất là cán bộ, đảng viên; từ đó góp phần chuyển biến thật sự trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Trong nhiệm kỳ khóa XIII, việc đổi mới hình thức tổ chức quán triệt, thực hiện Nghị quyết Đại hội của Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ khóa XV và từng khối hay lĩnh vực, như xây dựng Đảng, Nội chính, Mặt trận Tổ quốc, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đã tạo khí thế "Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt". Những bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại các hội nghị này đều được in trong tập 4, không chỉ là định hướng hành động mà còn là căn cứ để các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương, các ngành đánh giá, tổng kết, chuẩn bị xây dựng văn kiện đại hội cho nhiệm kỳ tới; là những vấn đề gợi mở để đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng xác định phương hướng cho nhiệm kỳ tới và tầm nhìn đến năm 2045.
Trong những bài viết của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nâng tầm tư duy chiến lược, truyền cảm hứng cho người đọc đối với nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề, như phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và phát triển đất nước; tạo bước phát triển mới trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy; xây dựng và phát triển nền ngoại giao toàn diện trong thời đại mới,…
Một trong những dấu ấn mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nghiêm minh và rất nhân văn; kỷ luật một vài người để cứu muôn người. Từ khi Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng Bí thư làm Trưởng ban được thành lập (sau này là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, theo Quy định số 32 ngày 16/9/2021 của Bộ Chính trị), công tác này chuyển biến tích cực từng ngày. Là người trực tiếp chỉ đạo, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm qua hoạt động thực tiễn, như làm đến đâu chắc đến đó, không có vùng cấm, "không có ngoại lệ". Phát biểu tổng kết 10 năm thành lập Ban Chỉ đạo, ngày 30/6/2022, đồng chí chỉ ra rằng, "Phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để "không thể tham nhũng"; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để "không dám tham nhũng"; và một cơ chế bảo đảm để "không cần tham nhũng". Việc đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn có ý nghĩa rất lớn cho công tác này. Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải tiến hành từ sớm từ xa; không chỉ phòng, chống tham nhũng mà phải cả phòng, chống tiêu cực với trọng tâm là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong phạm vi cả nước. Những bài viết như thế được in trong hai tập lần này là tài liệu quý cho nhiều người, nhất là cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không còn nữa, nhưng hình ảnh một nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, nhà lý luận có tư duy vượt trội vẫn mãi mãi đồng hành cùng đất nước trên con đường đổi mới./.
St

Nhận diện, phản bác các luận điệu xuyên tạc trên không gian mạng về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự

 Tòng quân - Nhập ngũ - Thực hiện nghĩa vụ quân sự là truyền thống, nét đẹp văn hóa của các thế hệ thanh niên Việt Nam. Đó không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc mà còn là sự thể hiện tình yêu quê hương đất nước; là mong muốn được rèn luyện, trưởng thành trong môi trường quân ngũ của thế hệ trẻ. 

Tuy nhiên, trước ngày hội tòng quân hàng năm, trên không gian mạng thường xuất hiện các thông tin sai trái, xuyên tạc nhằm bôi nhọ hình ảnh, truyền thống của Quân đội, tạo dư luận xấu, gây tâm lý hoang mang đối với giới trẻ, gieo rắc tâm lý tiêu cực, thoái thác trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc. Vì vậy, phòng, chống các luận điệu xuyên tạc về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là vấn đề thường xuyên và cấp bách hiện nay.

CÔNG DÂN PHẢI THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ VÀ THAM GIA XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN

Tham gia nghĩa vụ quân sự là quyền và trách nhiệm của mỗi công dân. Điều này không chỉ đúng ở Việt Nam mà còn là quy định trong luật pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Chẳng hạn như, tại Thụy Sĩ, tất cả nam thanh niên từ 19 - 26 tuổi đều phải đăng ký nhập ngũ và phục vụ trong quân đội ít nhất 260 ngày, trong đó có 18 tuần huấn luyện và 7 lần gọi tái nhập ngũ, mỗi lần kéo dài 3 tuần trong suốt 10 năm tiếp theo. Tại Hàn Quốc, nam công dân tuổi đời từ 18 - 35 đều thực hiện nghĩa vụ quân sự trong khoảng thời gian 21 tháng và không được phép có ngoại lệ. Theo đó, những ai đủ tiêu chuẩn mà từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự sẽ bị phạt tù. Singapore cũng quy định mọi công dân nam đều bắt buộc thực hiện nghĩa vụ quân sự quốc gia khi đủ 18 tuổi, những người vi phạm đều phải đối mặt án phạt tiền lên tới 10.000 đô la, án tù lên tới ba năm hoặc bị áp dụng cả hai hình phạt nói trên...

Tại Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân”; “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân... Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”.

Thể chế hóa Hiến pháp, Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 quy định: “1. Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân. Thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân; 2. Công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định...”.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”.

Chính sách và chiến lược quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC

Một sự thật hiển nhiên là, tùy vào tình hình chính trị, quân sự của mỗi quốc gia trên thế giới, chế độ nghĩa vụ quân sự được thực hiện theo những cách khác nhau chứ không phải như những luận điệu xuyên tạc cho rằng, chỉ có Việt Nam mới đưa ra quy định nghĩa vụ quân sự để “o ép người dân”.

Lợi dụng không gian mạng, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn đã tìm mọi cách kích động người dân chống đối việc thực hiện nghĩa vụ quân sự. Cùng với đó, một số kẻ xấu còn “vẽ đường bày mưu” hướng dẫn thủ đoạn “lách luật” khi khám tuyển cho những thanh niên thiếu ý thức, như: tạo “vấn đề” về sức khỏe, lấy lí do đi làm ăn xa, đút lót hối lộ... để trốn thực hiện nghĩa vụ, gây khó khăn cho công tác tuyển quân, tạo nên những nguy cơ bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thậm chí chúng còn lôi kéo, xúi giục quân nhân đang thực hiện nghĩa vụ quân sự đào ngũ, gây áp lực cho tổ chức, hoặc đưa ra những đòi hỏi, yêu cầu vô lý với chính quyền cơ sở.

Thông qua một số trang web, chúng cắt ghép, đăng tải các cảnh bạo lực trong quân đội nước ngoài, cảnh quân đội tham chiến ở một số khu vực trên thế giới rồi lồng ghép lời bình xuyên tạc là “chuyện ở trong quân ngũ Việt Nam”. Những hình ảnh, video, lời bình mà chúng tung lên mạng thường lập lờ, võ đoán, không rõ địa chỉ cơ quan, đơn vị cụ thể; lời lẽ miệt thị, kích động, vu khống... làm cho không ít thanh niên và gia đình “bán tín bán nghi” dẫn đến “tự diễn biến”, đắn đo, do dự khi nhận thông báo khám tuyển và lệnh gọi nhập ngũ.

Trong nhiều trường hợp, chúng cổ xúy cho suy nghĩ và lối sống cá nhân vị kỷ, kích động tâm lý so bì, toan tính thiệt hơn khi nhập ngũ … Nguy hiểm hơn, nhằm xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, cứ trước mỗi mùa tuyển quân, chúng lại sử dụng, cắt ghép hình ảnh rồi tung mạng một số vụ việc cũ, hy hữu để kích động, xuyên tạc. Cùng với đó, chúng thường xuyên đưa ra các luồng tin đồn thất thiệt với những hình ảnh, clip video có sự can thiệp của công nghệ, có nội dung thông tin chưa được kiểm chứng, trong đó chủ yếu là nội dung về cảnh bạo lực, quân phiệt hay “cái chết oan ức” trong quân đội... Sau đó, chúng đặt các câu nghi vấn, bình luận lập lờ để reo rắc hoài nghi và kích động “cư dân mạng” nhất là giới trẻ. Đây thực chất là chiêu bài tâm lý để lừa bịp, “đánh” vào những người nhẹ dạ, cả tin, gây hoang mang dư luận xã hội, nghi ngờ, mất niềm tin trong nhân dân, làm cản trở, gây khó khăn trong thực hiện công tác tuyển quân tại các địa phương.

Cần phải khẳng định lại, những nội dung thông tin mà các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu tung lên mạng xã hội hầu hết có nội dung hoàn toàn bịa bặt hoặc chỉ phản ánh một phần của vấn đề - một vài hiện tượng cá biệt, hy hữu chứ không phải là bản chất của Quân đội. Điều nguy hại là không ít “cư dân mạng” vô tâm, vô ý thức chỉ vì muốn “câu view” “câu like” nên đã “hồn nhiên” đăng tải lại, chia sẻ, phát tán những nội dung xuyên tạc, phản động, không đúng bản chất... Điều này đã vô tình tiếp tay cho những dụng ý đen tối và dã tâm của các thế lực, phần tử xấu. Vì vậy, đi cùng với nhận diện đúng để kiên quyết đấu tranh với những toan tính thâm độc, cũng cần phê phán, lên án mạnh mẽ với những hành vi “tiếp tay” - dù là không có chủ ý - của những cá nhân thiếu ý thức.

NHẬN THỨC ĐÚNG VẤN ĐỀ ĐỂ CÓ CÁI NHÌN CHÍNH XÁC

Thực tế ở Việt Nam cho thấy, tham gia vào môi trường quân ngũ, thanh niên được rèn luyện mọi mặt cả về thể chất, tri thức và tinh thần. Họ được học tập, tiếp thu những kiến thức về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ; được rèn luyện tính kỷ luật và tác phong chính quy.

Môi trường Quân đội giúp thanh niên rèn luyện sức khỏe dẻo dai, thể lực bền bỉ; có tác phong chững chạc; có tinh thần, trách nhiệm cao hơn với công việc; có ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh; giải quyết các mối quan hệ xã hội, giao tiếp, ứng xử đúng chuẩn mực, có văn hóa.

Dù mang tính đặc thù của hoạt động quân sự, song trong môi trường quân ngũ, thanh niên vẫn được khẳng định bản thân, ngày càng trưởng thành hơn, sẵn sàng đối mặt với thử thách và vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Môi trường quân ngũ còn tôi luyện cho thanh niên ý thức tự giác, ý chí vươn lên, tinh thần trách nhiệm với tập thể, biết lắng nghe quan tâm, chia sẻ với mọi người. Thời gian học tập, rèn luyện trong môi trường quân ngũ là cơ sở, tiền đề quan trọng, vững chắc để thanh niên trưởng thành hơn sau khi ra xã hội lập thân, lập nghiệp, cống hiến cho sự phát triển của địa phương, đất nước.

KHÔNG NGỪNG TUYÊN TRUYỀN, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG ÂM MƯU CHỐNG PHÁ VÀ CÁC LUẬN XUYÊN TẠC

Tiếp tục xây dựng và giữ gìn, phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”

Trước sự vận động, phát triển không ngừng của yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, truyền thống vẻ vang của Quân đội, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn luôn được giữ gìn, phát huy. Đại đa số cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã tích cực tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững và phát huy những chuẩn mực văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”. Tuy nhiên, do sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, chiến sĩ chưa nhận thức đầy đủ, chưa nêu cao trách nhiệm trong giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; thiếu tự giác, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện. Một số sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, dao động trước diễn biến phức tạp của tình hình, phát ngôn thiếu tính xây dựng...

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, truyền bá tư tưởng “phi chính trị hóa” quân đội; xuyên tạc truyền thống Quân đội; xuyên tạc hình ảnh, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”… với mưu đồ thâm độc là làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, niềm tin vào Đảng, chế độ trong mỗi cán bộ, chiến sĩ; xóa nhòa phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, tách rời Quân đội với Đảng và nhân dân…

Vì vậy, trong tình hình mới, việc giữ gìn, phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” vừa là yêu cầu khách quan, vừa là trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ. Theo đó, phải thường xuyên làm tốt công tác giáo dục góp phần thấm nhuần tư tưởng “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1). Cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm tăng cường công tác lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ. Chú trọng đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phù hợp với từng nhóm đối tượng; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao trách nhiệm, cổ vũ gương “người tốt, việc tốt” trong giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới” gắn với đẩy mạnh việc học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh...

Thực hiện nghĩa vụ quân sự không chỉ là chấp hành pháp luật của Nhà nước, mà còn là nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của công dân đối với dân tộc, với Tổ quốc. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong lên đường chiến đấu, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất. Ngày nay, trong thời bình, ổn định và hợp tác quốc tế, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” lại càng sống động hơn khi sát cánh cùng nhân dân vượt qua thiên tai, dịch bệnh; luôn sẵn sàng bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; đồng hành cùng đồng bào biên giới, miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới...

Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến để nhân dân nhận thức đúng đắn và thực hiện nghiêm Luật nghĩa vụ quân sự.

Chú trọng thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tích cực tuyên truyền Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015, làm cho mọi tầng lớp nhân dân nhận thức đúng: Luật Nghĩa vụ quân sự là cơ sở để thanh niên thực hiện quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc - nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân đã được ghi nhận tại Hiến pháp 2013. Công dân đến tuổi quy định phải có bổn phận, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ quân sự đối với Tổ quốc, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp; việc cố tình không chấp hành sẽ bị xử lý nghiêm theo pháp luật.

Vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp, cách thức tuyên truyền giáo dục khác nhau làm cho mọi người dân đều hiểu và thực hiện tốt nhiệm vụ này. Trong đó cần kết hợp tuyên truyền thường xuyên với tổ chức các đợt tuyên truyền cao điểm trong “mùa tuyển quân”; kết hợp giáo dục, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng với lồng ghép phổ biến luật trong hoạt động của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội. Tuyên truyền tập trung làm rõ nội dung cơ bản về thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự, giúp công dân hiểu rõ nghĩa vụ thiêng liêng cũng như các chế độ, chính sách mà quân nhân, gia đình quân nhân được hưởng trong thời gian tại ngũ, khi xuất ngũ.

Cấp ủy, chính quyền địa phương, nhất là cấp huyện, cấp xã thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ công tác tuyển quân của địa phương mình; xét tuyển đảm bảo công bằng, công khai, đúng luật. Đối với các trường hợp thuộc diện tạm miễn, tạm hoãn phải được niêm yết ở trụ sở UBND cấp xã, nhà văn hóa thôn…, thông báo trên hệ thống truyền thanh của địa phương để nhân dân theo dõi, giám sát; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động; phổ biến đầy đủ những chế độ, tiêu chuẩn được hưởng của chiến sĩ nghĩa vụ. Đồng thời, xử lý nghiêm các hành vi trốn tránh, cản trở, chống đối trong công tác khám, tuyển quân; kịp thời biểu dương, động viên những gia đình, địa phương làm tốt công tác này; quan tâm, tổ chức thăm hỏi, tặng quà, động viên thanh niên và gia đình trước ngày lên đường nhập ngũ, tạo khí thế sôi nổi, trang nghiêm, ý nghĩa trong ngày giao nhận quân.

Gia đình cần động viên, giáo dục, khuyến khích con em nhận thức đúng trách nhiệm đối với đất nước, tích cực tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi quy định. Đoàn viên thanh niên nêu cao ý thức hành động theo khẩu hiệu: “Tuổi trẻ Việt Nam xây hoài bão lớn, rèn đức, luyện tài, đoàn kết, sáng tạo, xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Đa dạng các hình thức tuyên truyền về đời sống quân ngũ để nhân dân, nhất là giới trẻ có cái nhìn khách quan, đúng đắn.

Tăng cường các chương trình truyền hình thực tế về môi trường quân ngũ, đăng tải rộng rãi trên các phương tiện truyền thông; tổ chức thường xuyên hơn mô hình học kì quân đội cho học sinh, sinh viên, tổ chức huấn luyện quốc phòng an ninh cho đối tượng học sinh THPT tại các đơn vị bộ đội phù hợp... Đối với tân binh, Quân đội và đơn vị cần có nhiều hơn những biện pháp, cách thức liên lạc giữa gia đình với đơn vị, để gia đình có thể nắm được tình hình huấn luyện và sự trưởng thành của con em; tổ chức những buổi gặp gỡ giữa các chiến sĩ với tân binh và những đối tượng trong độ tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự để họ được tìm hiểu kĩ hơn về môi trường quân ngũ; lan toả mạnh mẽ và rộng rãi những hình ảnh đẹp trong môi trường quân đội trên các phương tiện truyền thông để mọi người dân cảm nhận được sự ưu việt của môi trường này, từ đó yên tâm động viên con em tham gia nghĩa vụ quân sự.

Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh không khoan nhượng với các hoạt động chống phá trên không gian mạng về khám tuyển nghĩa vụ quân sự.

Phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong kiểm soát các nguồn thông tin đăng tải, nhất là những luồng thông tin phi chính thống có liên quan đến các cá nhân và tổ chức phản động. Kịp thời ngăn chặn và xử lý các thông tin xấu độc, ngăn chặn, hạn chế việc chia sẻ các luồng tin sai trái, xuyên tạc. Khi đã xác minh được vấn đề cần có biện pháp xử lý nghiêm minh với những cá nhân, tổ chức có biểu hiện chống phá.

Để nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nhận biết rõ về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và kẻ xấu về công tác tuyển quân, mỗi công dân khi tham gia mạng xã hội cần phải chấp hành nghiêm Luật An ninh mạng; tỉnh táo khi tiếp nhận, chia sẻ thông tin để hạn chế thấp nhất những vi phạm có thể mắc phải, không để mắc mưu các thế lực thù địch. Trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên, hội viên đoàn thể chính trị - xã hội cần gương mẫu, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người thân, hàng xóm không tham gia chia sẻ, bình luận theo kiểu “a dua” “vào hùa” trước những luận điệu xấu trên không gian mạng về công tác tuyển quân. Mặt khác, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thanh niên sẵn sàng nhập ngũ, thực hiện nghĩa vụ, hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với quê hương, đất nước. Mỗi người dân, mỗi gia đình tuyệt đối không nghe theo, làm theo thông tin sai sự thật, sự kích động lan truyền trên mạng xã hội do các thế lực thù địch phát tán.

Mặt khác, cần xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm luật nghĩa vụ quân sự, lên án những hành vi, việc làm thiếu ý thức, trách nhiệm của một người công dân với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.../.