Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

 Nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, giảng viên trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng

In-tơ-nét và mạng xã hội đang mang lại nhiều giá trị tích cực, cho phép người dùng tìm kiếm thông tin, thể hiện bản thân và trải nghiệm cuộc sống; giao lưu, gắn kết cộng đồng, chia sẻ tình cảm; tìm kiếm việc làm, kinh doanh, đem lại hiệu quả cho nền kinh tế, thúc đẩy các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. In-tơ-nét và mạng xã hội như “người bạn đồng hành” của nhiều người. Việt Nam là một đất nước dân chủ, công dân có quyền được tự do ngôn luận và tự do báo chí. Nhà nước luôn hỗ trợ, tạo điều kiện để công dân Việt Nam được phát huy dân chủ. Tuy nhiên, bên cạnh số đông người tham gia, sử dụng mạng xã hội một cách có ý thức, trách nhiệm, vẫn xuất hiện những phát ngôn lệch chuẩn, đi ngược đạo lý và truyền thống dân tộc, thậm chí có ý kiến trái ngược với quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước; không ít những cá nhân - phần vì kém hiểu biết, phần vì chưa nắm rõ nguồn tin đã vô tình chia sẻ những phát ngôn, bài viết với thông tin sai trái, chống đối Đảng và Nhà nước. Do vậy, đẩy mạnh công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng vừa là vấn đề có tính cấp thiết, vừa là nhiệm vụ thường xuyên, cơ bản, lâu dài, đòi hỏi mỗi cán bộ, giảng viên phải nâng cao ý thức, trách nhiệm, góp phần ngăn chặn những thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng.

Nhận diện một số hình thức chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng

Theo báo cáo mới nhất của tổ chức Weare Social, số người sử dụng mạng xã hội tại Việt Nam rất cao, đứng thứ 7 thế giới với khoảng 58 triệu người, thời lượng sử dụng mạng xã hội trong một ngày của giới trẻ Việt Nam trung bình là 7 giờ, khá cao so với khu vực và thế giới. Trên nền tảng truyền thông mạng xã hội như Youtube, Twitter, Facebook, Zalo, Tiktok… thông tin được truyền tải nhanh chóng. Với thế mạnh là có tính lan toả rộng, nhanh và khó kiểm soát, mạng xã hội trở thành một trong những yếu tố tiềm năng nhất trong lan truyền quan điểm sai trái, thù địch. Việc sử dụng hình thức này của các thế lực thù địch nhằm gây khó khăn cho sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội.

Để tuyên truyền những quan điểm sai trái, các thế lực thù địch đã sử dụng rất nhiều thủ đoạn, phương thức khác nhau, ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nguy hiểm hơn, có tác động đến các tầng lớp trong xã hội. Thủ đoạn tấn công, đả kích trực diện nền tảng tư tưởng của Đảng, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, mục tiêu, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giả danh mác-xít, “giả khoa học” để tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phủ nhận những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam. Lợi dụng, cường điệu hóa những hạn chế, khuyết điểm của Đảng và hệ thống chính trị trong lãnh đạo, quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội để quy kết cho rằng việc Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng chính là nguyên nhân gốc rễ của những hạn chế, khiếm khuyết đó. Bôi nhọ lãnh tụ, xuyên tạc lý lịch, thân thế sự nghiệp các lãnh tụ, các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước để đi đến phủ nhận con người, phủ nhận hệ tư tưởng mác-xít và vai trò lãnh đạo của Đảng. Thúc đẩy và làm sâu sắc hơn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân để thông qua đối tượng này trực tiếp phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào mục tiêu, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lợi dụng các sự kiện chính trị - xã hội “nhạy cảm”, việc bắt, xử lý số cán bộ cao cấp về tội tham nhũng; xét xử số đối tượng chống đối vi phạm pháp luật để lôi kéo, kích động người dân tập trung đông người gây rối an ninh, trật tự, biểu tình, bạo loạn, lật đổ; tuyên truyền kích động các hoạt động ly khai, tự trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Móc nối, lôi kéo các đối tượng cơ hội chính trị có cả cán bộ đương chức, có tướng lĩnh đã nghỉ hưu và thành phần chống đối trong trí thức, văn nghệ sĩ tăng cường chống Đảng, cổ xúy cho “dân chủ tư sản”, “xã hội dân sự”, “xã hội dân chủ”.

Chúng ra sức đăng tải các bài viết, blog, hình ảnh, clip, thực hiện livestream (phát trực tiếp) nhằm kêu gọi tập hợp lực lượng những người thiếu hiểu biết, tạo dư luận về các vấn đề kinh tế, xã hội từ đó đẩy lên thành các vấn đề chính trị, gây nhiễu loạn thông tin; tổng hợp tin tức từ các báo chính thống để tạo ra sự khách quan, sau đó cài dần các thông tin xấu độc, theo tỷ lệ tăng dần cả về số lượng và mức độ bịa đặt, bóp méo sự thật, luận điệu sai trái. Các đối tượng thường núp dưới vỏ bọc các tổ chức “xã hội dân sự”, “diễn đàn dân chủ”... để tuyên truyền, xuyên tạc cương lĩnh, nền tảng tư tưởng của Đảng, đường lối, quan điểm, nhất là những vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”. Lợi dụng một số cá nhân thoái hóa, biến chất về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, thành lập các hội, fanpage... phát tán rộng rãi các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung xấu độc, phản động, từ đó kích động hình thành các hoạt động như tuần hành, biểu tình, tụ tập kêu gọi chống đối gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống phá chính quyền, chia rẽ khối đoàn kết giữa Đảng và Nhân dân.

Một chiêu trò khác là thông qua các phần mềm gián điệp, phát tán các mã độc, đánh cắp thông tin cá nhân, thông tin nội bộ, các thế lực thù địch bịa đặt thông tin, tạo kịch bản hoàn hảo, phát tán “thông tin giả”, tung hỏa mù nhằm bôi nhọ, xuyên tạc lịch sử, nói xấu Đảng, Nhà nước và những cán bộ lãnh đạo, tạo tâm lý hoài nghi, bi quan, khủng hoảng niềm tin, phân vân trong xác định mục tiêu lý tưởng. Thông qua những buổi hội thảo trực tuyến bất hợp pháp núp dưới danh nghĩa “lớp học làm giàu”, “những cách làm giàu nhanh chóng”,… của những tổ chức phi chính phủ, ca ngợi thành tựu của chủ nghĩa tư bản, xuyên tạc bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam làm cho một bộ phận người dân có nhận thức sai lệch. Từ đó mất niềm tin trong cuộc sống, trở nên vị kỷ, chạy theo lối sống thực dụng, buông thả mà quên đi những đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Đối tượng tác động của hoạt động tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, phản động chủ yếu là trí thức, văn nghệ sĩ; cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ hưu trí, cán bộ, đảng viên có biểu hiện bất mãn, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa; thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên; người lao động…

Quan điểm, đường lối của Đảng trong đấu tranh phòng, chống hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng

Đảng ta đã xác định, cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch thực chất là cuộc đấu tranh giữa hai ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, ngày càng diễn ra quyết liệt. Trong các văn kiện đại hội Đảng ở thời kỳ đổi mới, Đảng đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, đấu tranh bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) của Đảng đã xác định “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một trong bốn nguy cơ. Đại hội VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ “phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch”. Đại hội IX của Đảng khẳng định phải “Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch”. Với tinh thần đó, Đại hội X của Đảng đã yêu cầu “chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản động, góp phần làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến hòa bình,” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch”.

Đến Đại hội XI, Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”. Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị khoá XII ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Như vậy, có thể thấy, đấu tranh trên không gian mạng hiện nay là rất gay gắt trên mặt trận tư tưởng lý luận. Giữ vững trận địa tư tưởng, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng là nhiệm vụ quan trọng và hết sức cấp thiết.

Tuy nhiên, việc đấu tranh phản bác các thông tin giả, xấu độc, sai sự thật trên không gian mạng ở một số cán bộ, giảng viên cơ sở chưa thật sự chủ động, chưa thường xuyên, còn lơ là, thiếu sót, thiếu tính tự giác dễ dẫn đến bị kẻ xấu lợi dụng, kích động nhưng chưa được đấu tranh, ngăn chặn kịp thời; kinh nghiệm, kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin chưa thành thạo, nhiều cán bộ, giảng viên chưa biết cách vào các trang mạng xã hội để bình luận (comment) phản bác những luận điệu xuyên tạc… nên chưa tạo được sự chú ý rộng rãi và sức lan tỏa đối với cộng đồng.

Một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, giảng viên trong đấu tranh phòng, chống hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng

Giải pháp chung

Một là, các cơ quan truyền thông tăng cường phối hợp tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân về phương thức, thủ đoạn và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước trên không gian mạng; kịp thời cập nhật, cung cấp thông tin chính thống về các vấn đề, vụ việc mà dư luận xã hội quan tâm để cho người dân dễ dàng tiếp cận, đối chiếu, kiểm chứng thông tin trên mạng xã hội.

Hai là, các cơ quan đảng, nhà nước tăng cường các biện pháp công tác quản lý đảng viên, quản lý cán bộ, thường xuyên thực hiện giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên, công nhân, viên chức, người lao động; quán triệt và thực hiện nghiêm các quy định về sử dụng mạng xã hội của cán bộ, đảng viên, chủ động trong công tác cập nhật, tiếp cận, xử lý thông tin.

Ba là, thông qua các hình thức đa dạng như các hội thi tìm hiểu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, các hoạt động vì cộng đồng để giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, giáo dục lối sống cao đẹp, gương mẫu chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bốn là, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội cần phát huy vai trò của mình cùng với Nhà nước chăm lo đời sống cho nhân dân, bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào công cuộc đổi mới đất nước, vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Tuyên truyền, vận động các hội viên, đoàn viên của tổ chức mình tuân thủ và chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Không tin, không nghe, không làm theo những luận điểm xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi tư tưởng, hành động làm nguy hại đến an ninh quốc gia, ảnh hưởng đến môi trường hòa bình ổn định của đất nước.

Năm là, duy trì thường xuyên và có hiệu quả hoạt động thông tin tuyên truyền trong quần chúng nhân dân. Cần phát huy hiệu quả lợi thế từ công tác tuyên truyền, với phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”; chủ động thông tin chính thống, chính xác, đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính định hướng nhằm giải quyết hiệu quả các đơn, thư khiếu nại, tố cáo, nhất là trước những sự kiện nhạy cảm, phức tạp, tạo sự đồng thuận cao trong cơ quan, đơn vị, Nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Thường xuyên nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội trong quần chúng nhân dân; định hướng thông tin chính xác, kịp thời nhằm tạo khả năng “miễn dịch”, “tự đề kháng” trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ địch để chủ động tiến công, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với âm mưu “Diễn biến hòa bình”, đẩy lùi những luận điệu xuyên tạc, kích động, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Giải pháp riêng đối với cán bộ, giảng viên

Hơn ai hết mỗi cán bộ, giảng viên cần ra sức nêu gương trong đời sống xã hội cũng như trên mạng xã hội. Khi tham gia mạng xã hội, mọi cán bộ, giảng viên cần cẩn trọng, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi phát ngôn, chia sẻ thông tin. Đó cũng là cách thiết thực để phát huy vai trò, trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân.

Luôn chủ động nâng cao kiến thức xã hội về mọi mặt, nhằm xây dựng cho mình nhận thức chính trị đúng đắn để xem xét, tiếp cận thông tin một cách khách quan, đầy đủ, chính xác từ những nguồn thông tin chính thống, tránh tiếp cận thông tin phiến diện, một chiều hùa theo luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Đây là hiện tượng cần được lên án, phê phán, thậm chí xử lý nghiêm khắc.

Thường xuyên cập nhật và nắm vững quan điểm thông tin tuyên truyền của Đảng và Nhà nước, mà trước hết và quan trọng nhất là hiểu rõ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngoài nhận thức những quan điểm sai trái được đưa trên các nền tảng mạng xã hội; mỗi cán bộ, công chức cần nhìn rõ các âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch mà chúng đã sử dụng thời gian vừa qua để cảnh giác và từ đó có những phản bác hiệu quả.

Chia sẻ, lan tỏa những thông tin, hình ảnh tốt đẹp về các hoạt động xã hội, hoạt động vì cộng đồng, phê phán những cái xấu, biểu hiện lệch lạc, hướng tới thông điệp nhân văn. Đồng thời, cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, không sử dụng ngôn ngữ lai căng, tục tĩu, cá biệt, có tính bạo lực; chỉ đăng, phát thông tin rõ nguồn gốc, đã được kiểm chứng. Đặc biệt, không được lập nhóm, hội để nói xấu, công kích lẫn nhau; không đăng tải, chia sẻ thông tin có thể gây xúc phạm, làm mất uy tín, danh dự cá nhân; không "vào hùa" theo đám đông khi chưa hiểu rõ về vụ việc đó, hoặc không có căn cứ, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội...

Mỗi cán bộ, giảng viên hãy tích cực chia sẻ những thông tin chính thống để cùng tuyên truyền vận động cộng đồng hiểu và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp; phải tỉnh táo, sáng suốt nhận biết thông tin nào là đúng, chính xác, thông tin nào là giả, bịa đặt, xuyên tạc nhằm tránh bị các thế lực thù địch, cơ hội chính trị sử dụng để lôi kéo, kích động người dân hướng theo ý đồ xấu độc của chúng; không tham gia các hoạt động vi phạm pháp luật, nhằm tạo thành chuỗi dòng chảy thông tin tích cực lan tỏa trong cộng đồng, góp phần định hướng nhận thức, tạo sức đề kháng trước những thông tin xấu độc trên in-tơ-nét, mạng xã hội hiện nay. Tích cực đấu tranh, phản bác có hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

 

Đấu tranh phản bác những thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch trên không gian mạng, giữ vững trận địa tư tưởng, lý luận của Đảng trong bối cảnh mới

TS. Lê Hải
Tạp chí Cộng sản
00:14, ngày 15-12-2021

TCCS - Việc ngăn chặn, đẩy lùi những thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng trong tổng thể công tác đấu tranh tư tưởng. Với lực lượng, phương thức, thủ đoạn, phương tiện, công nghệ chống phá liên tục thay đổi, ngày càng tinh vi, xảo quyệt, các thế lực thù địch tấn công trực tiếp vào những vấn đề lý luận cốt lõi thuộc nền tảng tư tưởng của Đảng ta, đích cuối nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa các trào lưu tư tưởng phi vô sản thâm nhập vào đời sống xã hội. Điều đó đòi hỏi công tác đấu tranh tư tưởng cần có những điều chỉnh kịp thời, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong ngăn chặn, đẩy lùi những thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng.

Trong kỷ nguyên số, không gian mạng ngày càng trở thành mặt trận chính trong cuộc đấu tranh ý thức hệ. Với những ưu thế nổi trội so với các phương tiện truyền thông truyền thống, nhất là tính siêu kết nối, tính mở, khó kiểm soát, tính nặc danh…, các phương tiện truyền thông mới bị các thế lực thù địch triệt để lợi dụng để phát tán các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch trên không gian mạng, biến thành công cụ đắc lực chống phá Đảng, Nhà nước ta. Với lượng người dùng internet cao của nước ta (tính đến tháng 1-2021, số lượng người dùng internet và các phương tiện truyền thông xã hội ở Việt Nam lần lượt chiếm 70,3% và 73,7% tổng dân số)(1)những thông tin xấu độc có ảnh hưởng, tác động tiêu cực rất lớn tới xã hội. Hằng ngày, có hàng nghìn tin, bài chống phá được các thế lực thù địch tung lên không gian mạng, gây nhiễu loạn thông tin, hướng lái công chúng truyền thông hiểu sai lệch, gia tăng sự bất đồng thuận, kích động những tư tưởng bất mãn, phản kháng, chống đối với Đảng, Nhà nước. Nếu chủ quan, lơ là, mất cảnh giác hoặc thiếu những giải pháp đấu tranh hữu hiệu, để những thông tin xấu độc tràn lan trên không gian mạng sẽ gây nên những hệ lụy khôn lường.

Với vị trí, vai trò là cơ quan lý luận chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tạp chí Cộng sản là ngọn cờ đầu trên mặt trận tư tưởng của Đảng ta (Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng và các đồng chí lãnh đạo tại lễ ra mắt Tạp chí Cộng sản điện tử phiên bản mới, năm 2019) _Ảnh: Tư liệu

Trong các thông tin xấu độc trên không gian mạng, những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch tấn công trực diện vào những vấn đề lý luận cốt lõi thuộc nền tảng tư tưởng của Đảng ta đặc biệt nguy hiểm. Hiện nay, sự chống phá này không chỉ ở diện rộng bằng những bài viết dung tục, thù hận, cực đoan một chiều như trước đây, các thế lực thù địch đầu tư xây dựng và sử dụng ngày càng nhiều bài viết đa tầng thông tin, đa quan điểm, với nhiều chiêu trò đánh tráo khái niệm, ngụy tuyên truyền hết sức tinh vi, khiến công tác đấu tranh của ta càng thêm khó khăn, phức tạp.

Nội dung thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch hết sức đa dạng, phức tạp, trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, xây dựng Đảng, kinh tế, văn hóa, xã hội…, trong đó tập trung tấn công vào một số nội dung cốt lõi thuộc hệ tư tưởng, đường lối của Đảng ta:

(1) Các thế lực thù địch đòi Đảng ta từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Chúng bài bác chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tập trung tấn công vào những vấn đề nguyên tắc then chốt, luận điểm cơ bản nhất, như phê phán quy luật giá trị thặng dư; bác bỏ chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà nền tảng là bác bỏ bản chất cách mạng và khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội; phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta; phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội và xuyên tạc mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta… Chúng công kích, xuyên tạc nhằm “hạ bệ” tư tưởng Hồ Chí Minh bằng phủ nhận nội dung, giá trị tư tưởng của Người; cắt rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin; tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận gián tiếp tư tưởng của Người, cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao tính dân tộc của Đảng. Nói xấu, bôi nhọ đời tư, hình ảnh lãnh tụ cộng sản, lãnh tụ Đảng ta.

(2) Chống phá, xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện nay, nhất là đường lối đổi mới của Đảng ta. Chúng đồng nhất đổi mới chính trị với thay đổi chế độ chính trị. Phủ nhận, bôi đen những thành tựu; cường điệu, thổi phồng, khoét sâu vào những tiêu cực, khuyết tật, tạo cái nhìn đen tối, bi quan về tình hình đất nước.

(3) Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi xóa bỏ sở hữu toàn dân, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân đồng nhất với tư nhân hóa nền kinh tế, xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Cổ xúy phi chính trị hóa lực lượng vũ trang; phủ nhận bản chất cách mạng và nhân dân của lực lượng vũ trang; chia rẽ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Tán dương nền tự do báo chí tư sản, vai trò “quyền lực thứ tư” của báo chí, nhân danh tự do sáng tạo để tách sự lãnh đạo của Đảng khỏi hoạt động báo chí, văn học, nghệ thuật. Thúc đẩy hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” trá hình, từ đó cho ra đời các tổ chức đối lập chính trị ở Việt Nam. Tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá…

Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa thăm, chúc mừng Thông tấn xã Việt Nam nhân kỷ niệm 96 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21-6-1925 - 21-6-2021) _Ảnh: TTXVN

Các thế lực thù địch phát tán dầy đặc và với tần suất lớn những thông tin xấu, độc trên không gian mạng, thực hiện thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu”, “tâm lý chiến” hết sức thâm độc. Mặt khác, chúng đan cài, trộn lẫn tinh vi thông tin thật - giả để dẫn dụ độc giả lạc vào ma trận thông tin, từ đó bị hướng lái theo luồng thông tin sai lệch; khoác áo “khách quan khoa học”, núp bóng “phản biện độc lập”, ngụy tạo sự khách quan để xuyên tạc nhiều vấn đề lý luận chính trị, từ “giả khoa học” chuyển hóa thành “giả chính trị” hết sức phức tạp, tinh vi. Chọn thời điểm có những sự kiện chính trị lớn của Đảng, của đất nước, những vấn đề dư luận xã hội quan tâm, những “điểm nóng” về an ninh, trật tự xã hội trong nước; những biến động lớn của thế giới, nhất là những vấn đề tại các nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, có đảng cánh tả cầm quyền để thực hiện các “chiến dịch” cao điểm công kích, chống phá ta ở quy mô lớn. Có sự cấu kết chặt chẽ giữa các đối tượng phản động lưu vong, số đối tượng chống đối bên ngoài với những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị trong nước, được hậu thuẫn, “hà hơi tiếp sức” bằng nhiều nguồn lực bởi các tổ chức phản động, khủng bố, tổ chức phi chính phủ, chính phủ một số nước phương Tây…, hình thành mạng lưới chống đối rộng khắp, “nội công ngoại kích”tạo thành nhiều mũi tấn công, trên nhiều lĩnh vực.

Các thế lực thù địch sử dụng, khuếch trương các phương tiện, kênh truyền thông phản động ngoài nước, đồng thời với công kích, phê phán hệ thống báo chí chính thống của ta. Hệ thống các phương tiện truyền thông phản động ngoài nước đa dạng, số lượng nhiều, một số là những tập đoàn truyền thông quy mô, có số lượng khán - thính - độc giả cao, diện bao phủ thông tin rộng, đa quốc gia, kết nối với các phương tiện truyền thông xã hội, nên sức chống phá lớn. Đa phần các kênh truyền thông phản động trên đều có máy chủ, trụ sở đặt ở nước ngoài nên công tác đấu tranh của ta gặp nhiều khó khăn. Cùng với việc phát triển các kênh truyền thông phản động, các thế lực thù địch ra sức đả kích, hạ thấp uy tín hệ thống báo chí chính thống trong nước của ta, với những luận điệu xuyên tạc về bản chất nền báo chí cách mạng Việt Nam, về sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, các chức năng xã hội của báo chí, về tự do báo chí… Chúng cung cấp tiền, o bế một số “ngọn cờ”, “cây bút” có lượng người theo dõi lớn, ít nhiều có khả năng chi phối, dẫn dắt dư luận xã hội; sử dụng ngày càng nhiều các bài bình luận, chuyên luận phân tích sâu, luận điệu giả trá lắt léo, tinh vi…

Do tầm quan trọng đặc biệt của công tác đấu tranh tư tưởng và những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, phức tạp, nên Đảng, Nhà nước ta luôn coi trọng, tập trung chỉ đạo và triển khai công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt, sau khi có Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, công tác đấu tranh được triển khai ngày càng bài bản, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, quyết liệt, đi vào chiều sâu và đạt được những kết quả quan trọng, tạo sự chuyển biến rõ rệt. Tuy nhiên, nhìn nhận khách quan, công tác đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là trên không gian mạng, vẫn còn bộc lộ không ít hạn chế.

Đại hội XIII của Đảng đề cập trực tiếp và nhấn mạnh việc quản lý và phát triển thông tin trên không gian mạng, trong đó có việc đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch: “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”(2).

Thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục chĩa mũi nhọn tấn công vào những vấn đề tư tưởng, lý luận, đồng thời sử dụng không gian mạng là một mặt trận chính để chống phá ta, do đó công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch trên không gian mạng có vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng.

Thứ nhất, công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta cần được xác định là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, khó khăn, quyết liệt, nên tuyêt đối tránh tư tưởng xem nhẹ, lơ là, buông lỏng, mất cảnh giác. Cần lấy chính các phương tiện truyền thông mới và không gian mạng là phương tiện và nền tảng chủ đạo để khắc chế thủ đoạn dùng không gian mạng chống phá ta của các thế lực thù địch, theo phương châm “lấy độc trị độc”, tận dụng chính những ưu thế của các phương tiện truyền thông mới để phản tuyên truyền lại những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, thay vì phiến diện chỉ thấy các yếu tố tiêu cực, mặt trái của nó.

Thứ hai, làm loãng thông tin xấu, độc bằng xây dựng tuyến, luồng bài viết có thông tin tích cực hoặc trực diện phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch để liên tục phủ lên và tiến tới chiếm thế thượng phong trên không gian mạng, không gian các phương tiện truyền thông mới, truyền thông xã hội. Kết hợp hài hòa giữa lan tỏa phổ rộng thông tin với ngày càng coi trọng chiều sâu thông tin, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng hệ bài chuyên luận chuyên sâu bẻ gãy từ gốc những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch bằng lý luận, có hệ thống luận cứ, luận chứng chặt chẽ, tính thuyết phục cao, giúp độc giả hiểu sâu, thấy rõ bản chất vấn đề, từ đó có niềm tin khoa học vững chắc vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là phương thức đấu tranh có chiều sâu, căn cơ, kịp thời và chủ động ngăn chặn thủ đoạn chuyển hướng chống phá của các thế lực thù địch nhằm vào những vấn đề cốt lõi thuộc hệ tư tưởng và nền tảng lý luận của Đảng ta.

Diễn tập giám sát và ứng phó sự cố an ninh mạng _Ảnh: ictnews.vietnamnet.vn

Thứ ba, giữ vững vai trò nòng cốt, chủ lực của hệ thống cơ quan chuyên trách đấu tranh tư tưởng, các cơ quan tuyên giáo, báo chí của Đảng, đồng thời mở rộng các kênh, lực lượng thông tin rộng khắp, làm chủ không gian thông tin trong nước và không gian mạng; xây dựng cơ chế chỉ đạo thông tin thống nhất, hiệp đồng thông tin đồng bộ, tác chiến thường trực, đa dạng, đa tuyến. Kết hợp thông tin phản bác của các cơ quan báo chí chính thống với các kênh truyền thông khác, theo phương thức lấy thông tin chủ đạo từ các cơ quan báo chí làm thông tin nguồn để lan tỏa trên không gian mạng từ tận dụng tính năng siêu kết nối xã hội của các phương tiện truyền thông mới, truyền thông xã hội; tích hợp tính năng chia sẻ thông tin của các báo, tạp chí điện tử đến một số ứng dụng truyền thông xã hội lớn; mở các kênh truyền thông xã hội riêng như “cánh tay” nối dài của các báo, tạp chí, nếu phù hợp…

Coi trọng công tác dự báo khoa học về những xu hướng truyền thông mới, tác động trực tiếp tới sự thay đổi về thủ đoạn, cách thức, phương tiện chống phá kiểu mới của các thế lực thù địch, trực tiếp phục vụ cho việc lãnh đạo, chỉ đạo sát trúng, có tầm nhìn dài hạn, chủ động trong mọi tình huống. Kết hợp các giải pháp về nội dung với các giải pháp kỹ thuật, các biện pháp nghiệp vụ an ninh bao gồm việc chặn lọc, vô hiệu hóa, đấu tranh với các nhà cung cấp các phương tiện truyền thông xã hội nước ngoài gỡ bỏ thông tin xấu độc; răn đe; xử lý hình sự…, để tạo hiệu quả đấu tranh tổng lực.

Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác tổng kết thực tiễn - nghiên cứu lý luận, xây dựng hệ thống luận cứ, luận chứng khoa học - thực tiễn nền tảng cho công tác đấu tranh phản bác các thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch; gắn chặt nghiên cứu lý luận với đấu tranh lý luận, nhất là việc tổng kết 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới40 năm tiến hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) trong thời gian tới./.

ĐOÀN KẾT LÀ THEN CHỐT CỦA THÀNH CÔNG

Đảng ta luôn khẳng định, đoàn kết là giá trị cốt lõi, đường lối chiến lược, cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Song, các thế lực thù địch lại cho rằng, Đảng Cộng sản đang phân biệt, đối xử, kỳ thị các giai tầng trong xã hội, không quan tâm để có chính sách phát triển các dân tộc thiểu số. Thực tế, các thế lực thù địch đang cố tình xuyên tạc chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

Kế thừa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống của ông cha: Nước lấy dân làm gốc, chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đoàn kết là lực lượng mạnh nhất, là sức mạnh vô địch, là then chốt của thành công. Đoàn kết càng rộng rãi, chặt chẽ thì việc gì khó đến mấy làm cũng xong, thắng lợi càng lớn, càng vẻ vang. Và Người đã truyền đi thông điệp mạnh mẽ, mà ai trong mỗi chúng ta cũng đều thuộc: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Theo Người, đại đoàn kết phải dựa trên nguyên tắc tin dân, dựa vào dân. Vì, Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Đoàn kết được nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh vô cùng to lớn. Đoàn kết là vấn đề sống còn, không đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà. Trong Di chúc (1969), Người viết: Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi trong mắt mình.

Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là chủ trương, đường lối chiến lược, sách lược có ý nghĩa sống còn, là cội nguồn sức mạnh quyết định sự thành bại của cách mạng; sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối chiến lược cách mạng của Đảng ta; biểu trưng sinh động của tư tưởng đoàn kết, thống nhất toàn dân tộc. Vì vậy, cần tăng cường phát huy dân chủ, tinh thần thân ái, trao đổi, bàn bạc, bảo đảm sự bình đẳng, tôn trọng, thông cảm lẫn nhau; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần, giai cấp; chấp nhận những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của dân tộc để đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội, đóng góp trí tuệ, công sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Nhà nước thực hiện chính sách về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số. Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là sự nghiệp chung của nhân dân cả nước, của nhân dân các dân tộc không phân biệt là dân tộc đa số hay thiểu số. Vì lợi ích trực tiếp của nhân dân các dân tộc thiểu số, đồng thời vì lợi ích chung của cả nước, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Chính sách dân tộc thể hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Thực hiện chính sách dân tộc là trách nhiệm chính trị cả hệ thống chính trị, toàn xã hội. Vì vậy, phải tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc; có những chính sách đặc thù giải quyết khó khăn cho đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt đại đoàn kết toàn dân tộc.

Việc các thế lực thù địch bôi nhọ, vu cáo, trắng trợn, xuyên tạc vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, là đi ngược lại chủ trương, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước, Hiến pháp và lợi ích nguyện vọng, chính đáng của nhân dân ta. Do đó, chúng ta cần kiên quyết đấu tranh vạch rõ bộ mặt xảo trá của chúng để nhân dân hiểu rõ và cảnh giác./.

KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CẦN ƯU TIÊN

Một là, quan điểm về chính sách xã hội

Phát triển xã hội mang tính bền vững là hướng đến vì hạnh phúc con người, nhằm mục tiêu vì con người. Cho nên, văn hóa chính là mục tiêu của các chính sách xã hội. Chính sách xã hội hướng đến mục tiêu văn hóa, nhưng khi các vấn đề xã hội được giải quyết tốt, khi đó, vai trò văn hóa với tư cách là động lực sẽ bồi dưỡng nguồn lực con người, cải tạo và xây dựng một xã hội phát triển. Do vậy, mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phải mở đường cho văn hóa phát triển, phải tạo ra những điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc vun đắp những giá trị tinh thần tốt đẹp trong nhân dân, vì nhân dân.

Thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội là mục tiêu xây dựng đất nước. Nói đến công bằng xã hội là nói đến sự ngang bằng giữa người với người về phương diện xã hội, như giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Điều này khẳng định tầm quan trọng và vai trò của công bằng xã hội trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Để đạt được mục tiêu công bằng xã hội, chủ thể quản lý cần kiên quyết đấu tranh phòng chống căn bệnh tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Thực hiện sự đồng bộ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển, đảm bảo an sinh xã hội, để Việt Nam thật sự đạt đến mục tiêu phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; chính sách xã hội toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển.

Hai là, cần tiếp tục đổi mới tư duy về chính sách xã hội

Ban hành và thực hiện các chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, bảo đảm tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, đảm bảo quyền con người. Đầu tư cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội là đầu tư cho sự ổn định và phát triển kinh tế, với vai trò nguồn lực nhà nước là chủ đạo, cùng các nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp, xã hội, đóng góp của người dân thông qua các chính sách kinh tế. Từng bước cần nghiên cứu có sự điều tiết vĩ mô chính sách kinh tế gắn với quyền và nghĩa vụ của người dân trong việc thực hiện các chính sách xã hội, cũng như trách nhiệm chính quyền các cấp trong việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội; đồng thời, thực hiện các chính sách xã hội góp phần đảm bảo cân đối dân cư giữa các vùng, miền trên phạm vi cả nước.

Ba là, kết hợp hài hòa giữa chính sách xã hội với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế- xã hội

Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc vì sự phát triển bền vững, theo đó Việt Nam đang nỗ lực để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững với 17 Mục tiêu nhằm giải quyết những thách thức phát triển lớn mà người dân Việt Nam, trong đó có các chính sách gắn với chính sách xã hội, như: (1) Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; (2) Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; (3) Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi; (4) Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; (5) Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái; (6) Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người; (7) Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người; ( Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người; (9) Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới; (10) Giảm bất bình đẳng trong xã hội; (11) Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn, phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng; (12) Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững; (13) Ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai; (14) Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững; (15) Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất; (16) Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh vì sự phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp; (17) Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững.

Bốn là, đảm bảo sự gắn kết thực hiện chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội, coi quản lý phát triển xã hội là một bộ phận cấu thành hệ thống các chính sách xã hội

Thực hiện mục tiêu đến năm 2030, nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; tầm nhìn Việt nam đến 2045 là trở thành quốc gia phát triển, thuộc nhóm các nước có thu nhập cao, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 nêu về phát triển các chính sách xã hội: “quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số”; “Phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới hải đảo và các đối tượng chính sách”; “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo”, theo đó cần tập trung vào quản lý phát triển xã hội đòi hỏi cần nghiên cứu ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển chính sách xã hội gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ; cần đổi mới cơ chế phân công, phân cấp trong huy động, phân bổ, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về thực hiện các chính sách xã hội và nghiên cứu đổi mới bộ máy tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong quản lý phát triển xã hội cho phù hợp giai đoạn phát triển mới. Ngoài ra, cần có cơ chế chủ động nghiên cứu, nắm bắt và dự báo được những vấn đề chính sách xã hội sẽ nảy sinh, dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội cũng chính sách huy động nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện chính sách xã hội.

Năm là, phát triển phúc lợi xã hội bao trùm cần ưu tiên hướng đến trong các chính sách xã hội

Phúc lợi xã hội bao trùm gắn kết chặt chẽ nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là bảo đảm các nhu cầu cơ bản, thiết yếu về giáo dục, y tế, văn hóa, nhà ở xã hội, giao thông công cộng, phúc lợi cho người lao động. Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, việc tăng cường phúc lợi xã hội đã trở nên cần thiết để nhà nước có thể đáp ứng những nhu cầu của người dân. Cần tập trung vào những vấn đề thiết yếu nhất của người dân lao động, bảo đảm các thành phần kinh tế được công bằng và khuyến khích người dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển nước nhà. Giáo dục là nội dung quan trọng hàng đầu của phúc lợi xã hội, bảo đảm nguồn nhân lực có chất lượng và hạ tầng xã hội cho phát triển đất nước, thúc đẩy công bằng về cơ hội phát triển đối với mọi thành viên xã hội.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh tính hiệu quả khi tăng mức đầu tư cho giáo dục, tức xác định chi ngân sách cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, tăng chi là cần thiết nhưng phải bảo đảm chi đúng đối tượng, đúng hạng mục chuyên môn, thay vì chi dựa trên tổng biên chế của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị mà không phân khai rõ hiệu quả của đối tượng thụ hưởng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ, cần thực hiện xã hội hóa giáo dục đúng hướng, mà vấn đề lớn là phân loại rõ đâu là hoạt động giáo dục theo yêu cầu của cá nhân người học cùng khả năng chi trả tài chính tương ứng, đâu là hoạt động giáo dục phi lợi nhuận gắn với cơ chế, chính sách tương ứng của Nhà nước. Đối với hoạt động giáo dục phi lợi nhuận, cần sự hỗ trợ của Nhà nước không chỉ chính sách, mà cả nguồn lực, như mặt bằng đất đai mở trường, miễn thuế cho những trường hợp sử dụng thu nhập cá nhân hoặc tài sản thừa kế để đầu tư cho phát triển giáo dục... Giáo dục mầm non có vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm phúc lợi xã hội, có lúc, có nơi đã từng thả nổi cho thị trường, dẫn tới những hệ lụy đáng tiếc, như giáo viên bạo hành trẻ nhỏ, chế độ nuôi dưỡng không bảo đảm dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn thực phẩm, thiếu phương pháp, phương tiện phù hợp với đặc điểm “giáo dục sớm”... Trong cơ chế thị trường, cần khuyến khích khu vực ngoài công lập đầu tư phát triển các trường đáp ứng yêu cầu những gia đình có khả năng chi trả tài chính gắn với những điều kiện tốt về cơ sở vật chất trường lớp, thiết bị giáo dục, đưa đón học sinh, chế độ bữa ăn,... nhưng các tiêu chuẩn cơ bản (chất lượng giáo viên, tài liệu học tập, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, điều kiện nuôi dạy...) thì không thể có sự phân biệt giữa khu vực công và khu vực tư.. Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe bảo đảm phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả, đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho người dân mà không làm “nghèo hóa” người có thu nhập thấp, nhờ bảo hiểm y tế toàn dân và giá dịch vụ y tế được kiểm soát bởi vai trò Nhà nước thể hiện tính chất phúc lợi xã hội tiến bộ, hiệu quả và nhân văn. Phúc lợi văn hóa được bảo đảm bằng phát triển các thiết chế văn hóa mang tính chất dịch vụ công cộng mà người thụ hưởng được miễn phí hoặc phí sử dụng thấp; được hưởng thụ các giá trị văn hóa cộng đồng, như công viên, lễ hội, tham quan các di tích, tín ngưỡng, tôn giáo do cộng đồng tự quản; được tiếp cận các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể thao miễn phí qua các kênh truyền thông công cộng. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân... Đây là những vấn đề rất lớn về phúc lợi xã hội cần chăm lo phát triển vì con người thông qua phát triển hạ tầng xã hội. Phát triển phúc lợi nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống và hạnh phúc của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./.

MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ CỦA CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HIỆN NAY

Thực hiện chính sách xã hội trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống các chính sách xã hội cơ bản đảm bảo công bằng, toàn diện, bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo cơ bản quyền an sinh của người dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song, chính sách xã hội hiện nay vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, như: chính sách bảo hiểm xã hội tỷ lệ bao phủ còn rất thấp; chưa có sự tương trợ, kết nối của các trụ cột chính sách trong tổ chức thực hiện; chênh lệnh mức sống giữa vùng miền, đối tượng còn cao; kết quả giảm nghèo chưa đồng đều, tái nghèo vẫn cao; thiếu liên kết giữa các chính sách trong tổ chức thực hiện. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em chậm được cải thiện; chất lượng dịch vụ y tế chưa tương xứng với tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt khu vực nông thôn, miền núi và công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu... Chất lượng dịch vụ xã hội còn hạn chế, hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, chăm sóc xã hội còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Hệ thống cơ sở dữ liệu, phân công, phân cấp quản lý nhà nước trong quản lý phát triển các chính sách xã hội từ Trung ương đến địa phương còn phân tán, thiếu đồng bộ. Nguồn lực thực hiện chính sách xã hội còn trông chờ nhà nước, chưa có cơ chế kinh tế để huy đông, phân bổ hiệu quả nguồn lực cho phát triển chính sách xã hội...

MỘT SỐ THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

 

Từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 1990, đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3.900 USD, gấp 39 lần. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để đảm bảo an sinh xã hội, an ninh con người và phát triển con người. Chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào nỗ lực phát triển vượt bậc con người Việt Nam, chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,703 vào năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo, từ chỗ hơn 60% dân số nghèo đói (1990) đến năm 2022 tỉ lệ hộ nghèo chỉ còn 2,23%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm khoảng 1,2%; Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4- 5%/năm. Chính sách bảo hiểm xã hội trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội. Đến hết năm 2022 có 17,5 triệu người tham gia, chiếm tỷ lệ 38,08% lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ 8,27 triệu người năm 2012 lên gần 14,3 triệu người năm 2022, chiếm 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi.

Công tác trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từng bước chuyển từ quan điểm nhân đạo sang hướng tiếp cận dựa trên quyền được hưởng an sinh của người dân. Các chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi, chiếm 3,5% dân số và 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên hàng tháng; trẻ em được bảo vệ và chăm sóc, được thực hiện đầy đủ quyền trẻ em và có môi trường sống an toàn; chăm sóc và phát huy tốt hơn vai trò người cao tuổi; người khuyết tật được trợ giúp phục hồi chức năng, đào tạo nghề và tạo việc làm góp phần cải thiện đời sống. Bảo hiểm y tế đã tạo đột phá về tỷ lệ bao phủ./.

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

Từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 1990, đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3.900 USD, gấp 39 lần. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để đảm bảo an sinh xã hội, an ninh con người và phát triển con người. 

Đổi mới tư duy về chính sách xã hội được thể hiện rõ qua các chủ trương của mỗi kỳ đại hội. Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, gia đình, quan hệ giai cấp, dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” và “Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Các kỳ đại hội tiếp theo, vấn đề chính sách xã hội luôn được khẳng định “Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển”. Mục tiêu cơ bản của chính sách xã hội là bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển, hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Chính sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống con người, như: điều kiện lao động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe… và luôn gắn chặt, phụ thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Hội nghị Trung ương 5 khoá XI ngày 1/6/2012 ban hành Nghị quyết một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 xác định “chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ”.

Bên cạnh đó, nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng tiếp tục được ban hành nhằm cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về chính sách xã hội, như: Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020, xác định bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và phát triển kinh tế-xã hội. Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bổ sung thêm quan điểm coi việc tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động là nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các thị trường; đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất; huy động sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng xã hội thực hiện chính sách an sinh xã hội; khuyến khích người dân tự nguyện tham gia bảo đảm an sinh xã hội. Nghị quyết 28-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành yêu cầu thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân, bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ...

TRÁCH NHIỆM CỦA CHI BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, PHẢN ĐỘNG

Ngày nay chúng ta không thể phủ nhận các lợi ích to lớn mà internet và mạng xã hội (MXH) mang lại, nhưng những tác động tiêu cực của nó cũng không hề nhỏ đối với đời sống xã hội. Thực tế cho thấy không gian mạng không phải lúc nào cũng đóng vai trò tích cực hoàn toàn như sự kỳ vọng chung của xã hội. Không gian mạng xã hội “như con dao hai lưỡi”, lằn ranh giữa tác động tích cực và tiêu cực rất “mong manh”; nguy cơ về sự “tha hóa con người” từ không gian mạng xã hội ngày càng hiện hữu. Vì vậy đã có các cá nhân, nhóm xã hội và đặc biệt là các thế lực thù địch lợi dụng không gian mạng xã hội để hiện thực ý đồ xấu hay mưu đồ chính trị. Trong thời gian qua, đã có trường hợp đảng viên khi tham gia MXH đã bày tỏ quan điểm cá nhân, chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng, sai trái, độc hại, thậm chí đi ngược lại chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Và cá biệt có đảng viên tham gia cổ xúy cho cái xấu, cái sai, bất chấp hậu quả tiêu cực đối với đạo đức và chính trị xã hội. Có đảng viên khi vào MXH không đọc hết, xem hết nội dung thông tin, không nhạy cảm với các vấn đề chính trị xã hội đã vội vã chia sẻ bài viết khi người đăng cố tình lồng ghép vào những nội dung xấu độc, thậm chí xuyên tạc, điều này vô tình làm cho chúng ta là người tiếp tay, lan truyền thông tin xấu độc trên MXH. Thông tin trên không gian mạng hiện nay là rất rộng và vô cùng phức tạp. 

Nếu đảng viên không nắm rõ đúng sai, hay dở mà đã vội vàng dẫn lại, phát tán… thì đó là một thái độ thiếu trách nhiệm. Cá biệt đã có đảng viên bị kỷ luật do sử dụng mạng xã hội đăng tải những thông tin xấu độc, sai sự thật, vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước và pháp luật. Đây thực sự là những lời cảnh báo, những bài học cảnh tỉnh cho những ai có nhận thức lệch lạc, sai lầm khi dùng mạng xã hội để đăng tải các thông tin, bài viết không đúng quy định của pháp luật và vi phạm kỷ luật của Đảng.

Mạng internet nói chung và MXH nói riêng hiện nay có nhiều thông tin giả, thông tin bịa đặt, thông tin xấu độc, thông tin chống phá Đảng và Nhà nước ta. Người tham gia MXH, đặc biệt là đảng viên, phải tỉnh táo, phân tích, kiểm chứng để xác định tính chính xác của thông tin. Nếu không kiểm chứng tính đúng đắn, chân thực mà đã vội chia sẻ, bình luận không đúng thì dễ dẫn đến tiếp tay cho các phần tử phản động, cơ hội chính trị và dẫn đến vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Vẫn biết rằng trong quá trình tham gia MXH, mọi người có quyền viết, chia sẻ những gì pháp luật không cấm, qua đó cũng là thể hiện quyền tự do của cá nhân. Tuy nhiên, đối với đảng viên, khi tham gia MXH ngoài việc chấp hành các quy định pháp luật thì nhất thiết phải chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết, Chỉ thị và những quy định của Đảng. Khi nói, viết cần bám sát, dựa trên các quan điểm đường lối của Đảng đồng thời phải có ý thức trách nhiệm của mình trong việc sử dụng Internet, mạng xã hội. Không đăng tải những thông tin không chính thống lên mạng xã hội, không like, share, comment cho những nội dung của các trang phản động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Trong điều kiện vẫn còn nhiều người trong số đảng viên chúng ta chưa được trang bị tốt kỹ năng và thẩm thấu trách nhiệm xã hội khi tham gia mạng xã hội thì chúng ta càng cần phải thận trọng và đề cao cảnh giác với những thông tin xấu độc không để các thế lực thù địch lôi kéo, kích động, xúi giục, móc nối, tác động tiêu cực tới tư tưởng, ý chí và bản lĩnh của mình.

Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có ý nghĩa quan trọng, góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, qua đó góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong tình hình hiện nay. Mỗi đảng viên khi tham gia mạng xã hội cần biến trang mạng xã hội của mình thành một kênh thông tin, thường xuyên tuyên truyền về chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước về những nét nổi bật trong phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội, quốc phòng-an ninh của địa phương, đất nước. 

Đồng thời, chủ động bình luận, chia sẻ các bài viết về những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những mô hình mới, cách làm hay trong các phong trào thi đua yêu nước, trong học tập và làm theo tư tưởng phong cách đạo đức Hồ Chí Minh.

Cùng với đó phải kiên quyết và sẵn sàng đấu tranh ngăn chặn kẻ xấu kích động việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; chịu trách nhiệm về toàn bộ nội dung thông tin mà mình cung cấp hoặc tán phát trên trang cá nhân của mình. Sử dụng không gian mạng một cách hiệu quả và có trách nhiệm chính là góp phần thiết thực bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ. Nếu tất cả cán bộ đảng viên sử dụng không gian mạng không tin theo, không phát tán, không tùy tiện chia sẻ và thường xuyên thực hiện việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái trong điều kiện và khả năng của mình thì nhất định các thông tin xấu độc, thông tin sai trái sẽ không còn môi trường để tồn tại. 

Đây cũng là một trong những giải pháp hữu hiệu góp phần vào công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng, từng bước làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch chống phá Đảng ta trên mặt trận tư tưởng. 

Quá trình thực hiện tốt Nghị quyết 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” sẽ giúp cho từng đảng viên nâng cao nhận thức trong nhận diện và đấu tranh với các quan điểm sai trái, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Cụ thể hơn, khi tham gia mạng xã hội đảng viên cần thận trọng trong sử dụng thông tin. Nếu nhận thấy có thông tin sai sự thật, thông tin thiếu kiểm chứng về nguồn gốc, thông tin có nội dung xuyên tạc, đả kích nền tảng tư tưởng của Đảng, nói xấu Đảng, Nhà nước và chế độ... thì phải kiên quyết đấu tranh, phản bác một cách sắc bén, không thờ ơ im lặng, cho qua. Đồng thời trong cuộc sống hằng ngày, mỗi đảng viên phải thực sư gương mẫu, là hạt nhân của sự đoàn kết ở địa phương, đơn vị… 

Thực tiễn cho thấy, không phải các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị muốn làm gì thì đều làm được, nếu một khi các tổ chức Đảng và mỗi đảng viên nêu cao tinh thần cảnh giác và tích cực đấu tranh với các quan điểm sai trái, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. 

Nếu mỗi cấp ủy chi bộ có sự theo dõi, quan tâm sát sao, phát huy tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nghiêm túc trong quản lý, rèn luyện đánh giá chất lượng đảng viên, thì “mầm mống” nảy sinh quan điểm sai trái trong đảng viên rất khó xảy ra. Chính vì vậy mà cấp ủy chi bộ phải thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của đảng viên. Quản lý chặt chẽ đảng viên trong cả lời nói và việc làm, cũng như khi tham gia mạng xã hội; đặt ra các yêu cầu đối với đảng viên trong việc “nói, viết, phát ngôn”. Kịp thời ngăn chặn, xử lý khi đảng viên có những biểu hiện sai trái, lệch lạc. 

Trên thực tế, do nhận thức, trình độ, góc nhìn, bản lĩnh mà không phải đảng viên nào cũng có thể có “bộ lọc” hữu hiệu khi tiếp nhận các thông tin trên mạng xã hội. Vì vậy trước các thông tin, các vấn đề xã hội phức tạp; chi bộ, cấp uỷ phải kịp thời cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng cho đảng viên. 

Trong sinh hoạt hằng ngày, khi tiếp xúc với mọi người, mọi thành phần trong xã hội chúng ta không thể không nghe được những lời khen về những việc làm tốt hay những tiếng chê về công tác quản lý, điều hành xã hội của các cấp chính quyền ở nơi này nơi kia. Là đảng viên, chúng ta cần nhìn cho đúng bản chất của từng sự việc để tham gia góp ý trên tinh thần xây dựng; đồng thời kiên quyết đấu tranh với những “tham gia góp ý” với dụng ý xấu, không mang tính xây dưng. 

Đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có ý nghĩa quan trọng, góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; qua đó góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động./.

 

NGHĨA TÍCH CỰC CỦA CỤM TỪ “TỪ SỚM, TỪ XA”

 Có nhiều từ, cụm từ vốn ban đầu được sử dụng trong phạm vi, môi trường, lĩnh vực quân sự, quốc phòng như: ra quân, chiến dịch, phương án,... nhưng sau đó lan sang lĩnh vực khác và dần trở thành những từ, cụm từ được sử dụng rộng rãi trong xã hội. Thời gian gần đây, cụm từ “từ sớm, từ xa” cũng đang trở nên quen thuộc với nhiều ngành, nhiều người vì ý nghĩa tích cực của nó.

Cụm từ “từ sớm, từ xa” vốn chủ yếu sử dụng trong lĩnh quốc phòng, quân sự. “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” được hiểu là bảo vệ Tổ quốc từ bên ngoài lãnh thổ và bảo vệ, phòng ngừa từ trước, chủ động chuẩn bị các điều kiện để bảo vệ Tổ quốc ngay trong thời bình, lấy việc phòng ngừa từ sớm, chuẩn bị từ trước làm chủ yếu, theo phương châm không phải sử dụng chiến tranh. “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa” được hiểu là kịp thời nhận diện, phát hiện và xử lý những nhân tố bất lợi từ “trong trứng nước” và dập tắt ngay những mầm mống yếu tố có thể gây đột biến làm phương hại đến toàn vẹn lãnh thổ, độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia.

Cụm từ “bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” có cội nguồn sâu xa từ lịch sử. Cách nay gần 6 thế kỷ, vào mùa xuân Nhâm Tý năm 1432, sau khi dẹp cuộc nổi loạn của Đèo Cát Hãn - do tù trưởng Mường Lễ, châu Ninh Viễn (nay là tỉnh Lai Châu) cấu kết với Kha Lại (người Ai Lao) làm phản ở biên giới phía Tây Bắc - trên đường hồi Kinh, vua Lê Thái Tổ đã sáng tác hai bài thơ. Một bài được khắc trên vách núi đá tỉnh Lai Châu, một bài khắc trên vách núi đá tỉnh Hòa Bình. Trong đó, bài thơ lưu lại tại núi đá tỉnh Hòa Bình có câu: “Biên phòng hảo vị trù phương lược/ Xã tắc ưng tu kế cửu an” (dịch nghĩa là: Biên phòng phải lo sẵn phương lược/ Giữ nước cần tính kế lâu dài). Lời khẳng định của vua Lê Thái Tổ thể hiện tầm nhìn chiến lược về sự nghiệp giữ nước nói chung, kế sách bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia nói riêng.

Khởi nguồn từ hai cụm từ “lo sẵn phương lược”, “tính kế lâu dài” trong di sản văn hóa giữ nước của ông cha ta, các nhà nghiên cứu quân sự thời hiện đại đã chuyển hóa thành phương châm “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” để vừa khẳng định sự tiếp nối truyền thống lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, vừa nhấn mạnh tinh thần chủ động, tích cực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời bình. Thực chất của phương châm “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” là ý chí cách mạng tiến công, tư thế chủ động, tinh thần nhất quán “Lo giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Đó chính là chủ động chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cả về kế hoạch, phương án, lực lượng, thế trận và vật chất chất hậu cần - kỹ thuật để bảo vệ đất nước ngay trong thời bình, khi chưa xảy ra chiến tranh và không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Với ý nghĩa đó, thời gian gần đây, cụm từ “từ sớm, từ xa” đã lan sang các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh, đối ngoại... Ví như: Công tác xây dựng pháp luật cần chuẩn bị từ sớm, từ xa; Quốc hội chuẩn bị từ sớm, từ xa cho hoạt động giám sát năm 2023; Chuẩn bị từ sớm, từ xa để thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2023; Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của cán bộ, đảng viên từ sớm, từ xa; Phòng ngừa tội phạm từ sớm, từ xa; Chiến lược quảng bá văn hóa cần chuẩn bị từ sớm, từ xa; Phòng ngừa bệnh tật từ sớm, từ xa; Hiệu quả hoạt động đối ngoại phụ thuộc vào công tác chuẩn bị từ sớm, từ xa...

Thời gian gần đây, trên các phương tiện truyền thông đại chúng và trong nhiều hội thảo, hội nghị, diễn đàn, tọa đàm, cuộc họp, nhiều người thường sử dụng cụm từ chuẩn bị “từ sớm, từ xa” với hàm ý tích cực là động viên, khích lệ, thúc giục, đôn đốc, nhắc nhở các tổ chức, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức phải luôn có tinh thần tự giác, chủ động trong mọi hoạt động, công tác.

Theo tâm lý học giải thích, chủ động là một thói quen mà mỗi người bằng ý chí của mình có thể rèn luyện được từ những điều nhỏ nhất trong cuộc sống, học tập, lao động, công tác. Từ góc độ cá nhân, tính chủ động không chỉ giúp con người suy nghĩ linh hoạt hơn, thái độ sống tích cực hơn, hành động nhiều hơn để đạt được kết quả tốt đẹp hơn; mà còn giúp mỗi người tự tin hơn, dễ tìm thấy và nắm bắt được nhiều cơ hội hơn, được đánh giá cao hơn, trách nhiệm hơn, lường trước được nhiều rủi ro hơn. Từ phương diện tổ chức, tính chủ động sẽ góp phần gắn kết các cá nhân và tạo động lực thúc đẩy tập thể làm việc, hoạt động, công tác đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.

Khi tính chủ động được thể hiện ở tư duy mẫn cảm, tầm nhìn xa trông rộng, nhận đúng diễn biến tình tình, dự đoán/tiên lượng những tình huống có thể xảy ra để tìm cách ứng phó hiệu quả, phòng ngừa những bất trắc, đẩy lùi những nguy cơ, đó chính là bản chất của kế sách, mưu lược, phương châm “Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”. Nhìn rộng ra ở các lĩnh vực khác, khi các tổ chức, cơ quan, đơn vị đều chú trọng quan tâm xây dựng mọi kế hoạch, phương án hoạt động, công tác bảo đảm chặt chẽ, chu đáo, khả thi thì đó chính là thể hiện tinh thần, tư duy chuẩn bị “từ sớm, từ xa” để hướng tới giải quyết, xử lý mọi công việc được suôn sẻ, hanh thông và là tiền đề, cơ sở để có thể giành kết quả cao nhất, hiệu quả tốt nhất./.

CHẾ ĐỘ MỘT ĐẢNG CẦM QUYỀN KHÔNG PHẢI NGUYÊN NHÂN CỦA THAM NHŨNG

Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) tại Việt Nam những năm gần đây đã đạt kết quả quan trọng, tạo cơ sở, nền tảng vững chắc trong xây dựng hệ thống chính trị, môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh, củng cố được niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ, được quốc tế đánh giá cao.

Tuy nhiên, thế lực thù địch, phản động thời gian qua vẫn cố gieo rắc quan điểm sai trái cho rằng: Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tham nhũng; tham nhũng là thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chỉ khi nào ở Việt Nam bỏ chế độ độc đảng lãnh đạo, thực hiện chế độ đa đảng thì nạn tham nhũng mới được dẹp bỏ.

Vậy tại sao có thể khẳng định quan điểm nói trên là sai trái?

Chế độ đa đảng không phải là phép màu để chống tham nhũng

Trước hết, tham nhũng là căn bệnh do quyền lực nhà nước bị thao túng, tha hóa gây ra. Có nhà nước là có nguy cơ sinh ra căn bệnh tham nhũng, không phân biệt nhà nước đó là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, đi theo thể chế chính trị đa đảng hay một đảng. Chỉ khi quyền lực được kiểm soát chặt chẽ với cơ chế quản lý, phòng ngừa đồng bộ, ngày càng hoàn thiện thì quyền lực sẽ không thể bị lạm dụng, tình trạng tham nhũng sẽ được kiểm soát và hạn chế tối đa. Như vậy, chế độ một đảng lãnh đạo cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng và cũng không phải là không thể chống được tham nhũng.

Thực tế là, ở các quốc gia thực hiện chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn cứ hoành hành. Báo cáo Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2022, do Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) vừa công bố đầu năm 2023 cho thấy, trên thế giới không có quốc gia nào không có tham nhũng, không nhà nước nào là hoàn toàn minh bạch, trong sạch. TI sử dụng thang điểm từ 0 đến 100 để phản ánh quan điểm của các chuyên gia và giới kinh doanh đánh giá về tình trạng minh bạch và hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng của mỗi quốc gia, trong đó điểm số 0 là rất tham nhũng và điểm số 100 là rất trong sạch. Quốc gia có điểm số cao nhất thế giới trong bảng xếp hạng này là Đan Mạch với số điểm 90, Phần Lan và New Zealand cùng đứng thứ hai với số điểm 87. Cũng trong bảng xếp hạng này, Nhật Bản và Vương quốc Anh cùng xếp thứ 18 với số điểm là 73, Hoa Kỳ xếp thứ 24 với số điểm là 69, Hàn Quốc xếp thứ 31 với số điểm là 63. Như vậy, từ báo cáo trên thì các quốc gia đứng đầu bảng xếp hạng về phòng, chống tham nhũng vẫn không hoàn toàn trong sạch và minh bạch. Những quốc gia luôn tự đề cao như một hình mẫu về dân chủ và tinh thần chống tham nhũng thì vẫn có chỉ số chống tham nhũng khá khiêm tốn.

Nếu ai đó cho rằng, thực hiện chế độ đa đảng sẽ tạo ra phép màu để triệt tiêu được tham nhũng là hoàn toàn sai lầm. Việt Nam chúng ta đứng thứ 80 trong bảng xếp hạng 180 quốc gia, vùng lãnh thổ về chỉ số CPI. Như thế, có 100 quốc gia, vùng lãnh thổ xếp dưới chúng ta trong bảng xếp hạng này. Mà trong đó, đại đa số quốc gia này theo chế độ đa đảng. Vậy tại sao các quốc gia, vùng lãnh thổ có hệ thống chính trị đa đảng phái vẫn có hiệu quả phòng, chống tham nhũng kém Việt Nam?

Như thế có thể thấy hiệu quả phòng, chống tham nhũng không phụ thuộc vào chế độ một đảng lãnh đạo hay chế độ đa đảng mà phụ thuộc vào chất lượng của hệ thống pháp luật, năng lực quản trị của Nhà nước và phẩm chất của cán bộ, công chức. Sẽ thật ngây thơ khi ai đó tin rằng, cứ có đa đảng thì sẽ có sự kiểm soát quyền lực tốt hơn, dẫn tới triệt tiêu tham nhũng. Tại những quốc gia đa đảng phái thì vẫn luôn có sự thỏa thuận quyền lực của các đảng phái đại diện cho giai cấp thống trị xã hội. Dù có bao nhiêu cuộc bầu cử thì quyền lực nhà nước vẫn không thoát khỏi sự thống trị của các đảng phái này. Vì thế, tại các quốc gia đó, nguy cơ và thực tế tham nhũng vẫn luôn là thách thức hiện hữu.

Đảng ta đủ năng lực lãnh đạo để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Thế còn tại Việt Nam, một quốc gia do một đảng lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam thì sao? Thực tế cho thấy, bản chất cách mạng, tính tiền phong và năng lực lãnh đạo, tổ chức thực tiễn là nhân tố cơ bản quyết định, bảo đảm Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ khả năng để chống tham nhũng hiệu quả.

Theo báo cáo của TI, trong lúc tình hình không được cải thiện hoặc tồi tệ hơn ở 86% các quốc gia trong bảng xếp hạng thì chỉ số CPI của Việt Nam liên tục được cải thiện. Việt Nam là một trong những quốc gia có tiến bộ nổi trội, với 42 điểm, tăng tới 9 điểm kể từ năm 2018.

Đó là kết quả của cả một quá trình PCTNTC rất quyết liệt do Đảng ta lãnh đạo. Với nhận thức, tham nhũng là nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, Đảng ta xác định đấu tranh PCTNTC là một việc làm cần thết, tất yếu, hợp lòng dân và xu thế phát triển của nhân loại. Vì vậy, tiếp nối kết quả từ những nhiệm kỳ trước, Đại hội XIII của Đảng đề ra phương châm: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn”. 

Dấu ấn nổi bật là việc Bộ Chính trị quyết định bổ sung, mở rộng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng để chỉ đạo cả công tác phòng, chống tiêu cực. Từ đây, cuộc đấu tranh PCTNTC bước sang giai đoạn mới, đi vào chiều sâu, gắn kết chặt chẽ hơn giữa “xây” và “chống”, giữa PCTNTC với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ngay sau đó, Ban chỉ đạo đã quyết định đưa một số vụ việc tiêu cực vào diện theo dõi, chỉ đạo, qua đó, các cơ quan chức năng đã làm rõ, xử lý nghiêm hành vi tiêu cực của nhiều cán bộ, đảng viên.

Công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh. Các cơ quan chức năng đã chủ động phát hiện, quyết liệt đấu tranh, khởi tố, điều tra, xử lý nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, xảy ra trên diện rộng, trong các lĩnh vực chuyên môn sâu, hoạt động khép kín, vi phạm có tính hệ thống, có tổ chức, cả trong khu vực nhà nước và ngoài nhà nước. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, các cơ quan tiến hành tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra hơn 7.800 vụ án, hơn 15.200 bị can về tội tham nhũng, chức vụ, kinh tế. Vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á đến nay đã khởi tố 30 vụ án, 109 bị can (trong đó 25 địa phương đã khởi tố 28 vụ án, 71 bị can); vụ án xảy ra trong lĩnh vực đăng kiểm đã khởi tố 80 vụ án, 613 bị can tại Cục Đăng kiểm Việt Nam, 98 trung tâm và chi cục đăng kiểm; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) đã khởi tố 54 bị can... 

Qua xử lý các sai phạm liên quan đến tham nhũng, tiêu cực đã xử lý trách nhiệm chính trị của người đứng đầu trong việc để xảy ra vi phạm, khuyết điểm trong lĩnh vực được phân công quản lý, phụ trách theo đúng nguyên tắc “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xem xét, cho thôi giữ chức vụ, cho nghỉ công tác, nghỉ hưu, bố trí công tác khác đối với 14 cán bộ diện Trung ương quản lý. Các địa phương đã bố trí công tác và thực hiện chính sách đối với 22 trường hợp cán bộ sau khi bị kỷ luật. Đảng ta đã “nói đi đôi với làm”, chống tham nhũng, tiêu cực đã “tắm từ trên đầu xuống”, không phải chỉ “tắm từ vai xuống” như có ý kiến băn khoăn, lo lắng thời gian trước.

Trước đây, trong một số vụ án tham nhũng, tiêu cực, việc điều tra, xử lý gặp khó khăn, vướng mắc, chậm tiến độ do có một số đối tượng liên quan bỏ trốn. Tuy nhiên, vừa qua, các cơ quan chức năng đã điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt, tuyên án xử phạt tù đối với cả những đối tượng đang bỏ trốn, như trong vụ án “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai, Công ty Cổ phần Tiến bộ quốc tế (AIC). Điều này sẽ tạo tiền đề để xử lý nhiều đối tượng bỏ trốn ở một số vụ án khác, là hồi chuông cảnh tỉnh, răn đe, dù có trốn ra nước ngoài cũng không thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật.

Tham nhũng chính sách là vấn đề nan giải với mọi quốc gia. Thời gian qua, Đảng ta đã chỉ đạo việc quan tâm phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngay từ khâu tham mưu, ban hành chính sách. Ban chỉ đạo Trung ương về PCTNTC đã chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành quy định về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, cục bộ trong công tác xây dựng pháp luật.

Việc kiểm soát quyền lực, PCTNTC trong hoạt động của chính các cơ quan có chức năng PCTNTC được đẩy mạnh. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, các cơ quan chức năng đã xử lý kỷ luật hơn 300 cán bộ, công chức trong các cơ quan PCTNTC có sai phạm; nhiều trường hợp trong số đó bị xử lý hình sự. Cơ quan điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã khởi tố, điều tra hơn 40 vụ án tham nhũng, chức vụ, tiêu cực xảy ra trong hoạt động tư pháp. Đặc biệt là, đã xử lý kỷ luật đối với 3 lãnh đạo, nguyên lãnh đạo thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước. Từ đầu năm 2023 đến nay, đã khởi tố, điều tra 2 thiếu tướng công an, 15 cán bộ thanh tra, giám sát của các cơ quan: Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, chánh thanh tra tỉnh...

Cùng với đó, để khắc phục tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, sự ra đời của ban chỉ đạo cấp tỉnh về PCTNTC chính là nhân tố mới giúp công tác PCTNTC ở địa phương, cơ sở có sự chuyển biến tích cực. 

Như thế, có thể khẳng định luận điểm cho rằng “tham nhũng là căn bệnh kinh niên của chế độ xã hội chủ nghĩa, của chế độ một đảng cầm quyền” và “chế độ một đảng không chống được tham nhũng” là hoàn toàn sai cả về lý luận và thực tiễn. Tham nhũng gắn với cá nhân có quyền lực và tham nhũng tồn tại ở mọi chế độ có nhà nước vì nó luôn gắn với nhà nước và quyền lực. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nên xét về bản chất, không có cơ sở sinh ra tham nhũng. Tham nhũng, tiêu cực về bản chất là tàn dư của chế độ cũ, xã hội cũ, con người cũ. Chỉ những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, nhưng thiếu tu dưỡng, rèn luyện mới sa vào chủ nghĩa cá nhân, thoái hóa, biến chất, rồi việc thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát của tổ chức, của nhân dân mới dễ làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực. Hiệu quả của việc PCTNTC đến đâu là do sức đề kháng của chế độ xã hội mới-xã hội chủ nghĩa, do năng lực của Đảng cầm quyền, do chất lượng hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt phụ thuộc vào phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên./.