Tình trạng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để viết, gửi đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật đã và đang gây ra nhiều hệ lụy. Mục đích của việc làm này không phải nhằm góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, tổ chức tốt đẹp hơn mà để bôi nhọ, hạ thấp uy tín lãnh đạo, gây mất đoàn kết nội bộ, gây rối tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Hệ lụy của đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật rất nặng nề, làm xáo trộn tư tưởng, gây dư luận xấu trong xã hội, tiến tới bôi nhọ, phá hoại Đảng, chống đối chính quyền...
Thực chất của đơn thư nặc danh khi tố cáo
Điều 22 Luật Tố cáo quy định: Việc tố cáo sẽ được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tại khoản 1, Điều 23 Luật Tố cáo cũng nêu rõ nguyên tắc tố cáo bằng đơn thư như sau: Trường hợp tố cáo mà được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo sẽ phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ tên, địa chỉ của người tố cáo, cách thức để liên hệ với người tố cáo; hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo; người bị tố cáo và các thông tin khác có liên quan. Trường hợp có nhiều người cùng thực hiện tố cáo về cùng một nội dung thì trong đơn tố cáo còn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, cách thức liên hệ với từng người tố cáo; họ tên của người đại diện cho những người tố cáo.
Khái niệm đơn thư nặc danh là để dùng chung cho các loại đơn thư không xác định được người tố cáo. Mục đích thường là để tố cáo một hành vi vi phạm pháp luật hoặc một vấn đề nào đó mà người gửi muốn “đưa ra ánh sáng”, nhưng lại không muốn công khai danh tính của mình. Đơn thư nặc danh, mạo danh gồm: Đơn thư không có tên người tố cáo hoặc có tên nhưng đó là tên giả, không có thật, chỉ mang tên người khác và mạo danh; hoặc đơn thư có tên nhưng không có địa chỉ cụ thể hoặc địa chỉ không rõ ràng, chính xác.
Ảnh minh họa: thanhnien.vn
Nguyên nhân chủ yếu của người viết đơn thư nặc danh: Người tố cáo lo sợ việc mình tố cáo có thể bị trả thù, trù dập nên mặc dù rất muốn thông tin cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi mà họ cho là vi phạm pháp luật để cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn và xử lý nhưng họ buộc phải giấu tên. Người gửi đơn thư nặc danh, tố cáo có thể muốn bảo vệ người khác mà không muốn người đó bị liên lụy. Nhưng đặc biệt nguy hiểm là trường hợp người tố cáo với dụng ý không tốt, muốn đưa tin thất thiệt hay thậm chí bịa ra những bằng chứng giả mạo để vu cáo, vu khống người khác, có thể do thù hận cá nhân mà triệt hạ người khác, cũng có thể vì mục đích tư lợi-những hành vi này được xác định là tố cáo sai sự thật.
Đối với đảng viên, được quy định rõ trong Điều 6 Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm: “Tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt; cùng người khác viết, ký tên trong đơn tố cáo; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên”.
Những hậu quả khôn lường
Thực tế cho thấy, tình trạng lợi dụng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật khá phổ biến, nhằm vu khống, hãm hại người khác và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả của đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân; gây mất đoàn kết nội bộ, mất ổn định trong các tổ chức, cơ quan; gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong giải quyết công việc. Ngoài ra, tình trạng này còn gây phức tạp trong xã hội và ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nghiêm trọng hơn, khi đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật nhằm vào cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị làm hạ thấp uy tín, mất niềm tin.
Các hình thức khiếu nại, tố cáo không chỉ đơn thuần là gửi đơn thư nặc danh mà còn lợi dụng nhiều chiêu trò kết hợp như cắt ghép hình ảnh, dàn dựng video clip, ghi âm giọng nói giả... Nếu không kiên quyết, kịp thời, xử lý nghiêm minh tình trạng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật thì tình hình chính trị, tư tưởng, mất đoàn kết nội bộ sẽ ngày càng nghiêm trọng, kéo dài, gây nên những hậu quả khó lường. Rõ ràng, viết đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật, hạ uy tín lãnh đạo, tổ chức là hành vi gây rối, nhằm phá hoại Đảng, Nhà nước và nhân dân, phá hoại tổ chức, cần kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh, thích đáng.
Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật
Hệ thống pháp luật của Việt Nam có chế tài xử lý hành vi vu khống, đơn thư mạo danh, nặc danh, tố cáo sai sự thật đã đủ sức răn đe đối với các công dân có hành vi này. Tuy nhiên, một số cơ quan, địa phương, đơn vị trong thời gian qua còn lúng túng, chậm xử lý đơn thư nặc danh, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân. Vì vậy, để kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật hiện nay cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, nghiêm minh.
Các cơ quan, tổ chức cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về Luật Tố cáo; Luật Khiếu nại; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan; đặc biệt là quy định về tố cáo trong Đảng, Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Bằng nhiều kênh, hình thức thông tin khác nhau để tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về quyền khiếu nại, tố cáo, trình tự thực hiện quyền này trên cơ sở thượng tôn pháp luật. Từ đó thúc đẩy cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, viết đơn thư nặc danh, mạo danh.
Song song với đó, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có biểu hiện hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật, kích động, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài trợ, kích động hoạt động khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vượt cấp.
Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn, xung đột, khiếu kiện phức tạp về an ninh trật tự ngay tại cơ sở, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Cấp ủy các cấp cần tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên; phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong tham gia ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng viết đơn thư nặc danh, mạo danh, khiếu nại, tố cáo sai sự thật của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Không ngừng chăm lo, xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn dân; phát huy vai trò của các đoàn thể, chính quyền trong gắn bó với quần chúng nhân dân, đi sâu, đi sát với nhân dân, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; giải quyết hiệu quả những khó khăn, vướng mắc của người dân.
Đối với cá nhân, cán bộ, đảng viên, cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tác hại của hành vi gửi đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật, vu khống; không tùy tiện tin vào những thông tin từ đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật. Tìm hiểu kỹ thông tin trước khi đưa ra nhận xét, đánh giá.
Nếu bị vu khống, cần tích cực thu thập bằng chứng để bảo vệ quyền lợi của bản thân; báo cáo sự việc ra cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để xử lý, giải quyết. Tuyệt đối chấp hành và thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu, đi đầu trong đấu tranh, phê phán những hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật; bảo vệ danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức, cơ quan, đơn vị./.
Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là cuộc cách mạng số và đòi hỏi phải có quá trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số làm xuất hiện phương thức sản xuất số. Công dân số là một bộ phận và là nguồn nhân lực cơ bản, quan trọng làm thành lực lượng sản xuất số, cần có các đặc trưng: tư duy số, văn hóa số, kỹ năng số, khát vọng số. Công dân số phải đi đầu tham gia vào quá trình chuyển đổi số.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham quan dây truyền sản xuất, lắp ráp ô tô Hyundai Thành Công. (Ảnh: TTXVN)
PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT SỐ
Xét trên phương diện canh tác và cách thức sản xuất,nhân loại đã từng biết đến và trải qua các phương thức sản xuất khác nhau. Thích hợp và tương ứng với giai đoạn phát triển của nhân loại trước khi có cuộc cách mạng công nghiệp là phương thức sản xuất nông nghiệp. Phương thức sản xuất nông nghiệp được thể hiện ra thông qua việc lựa chọn mô hình phát triển dựa trên lợi thế so sánh, tức là áp dụng mô hình phát triển đất nước dựa trên sự ưu trội chủ yếu của sức lực cơ bắp và nguồn tài nguyên sẵn có.
Tương ứng với giai đoạn phát triển của nhân loại bắt đầu từ khi có cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và kéo dài đến cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ ba là phương thức sản xuất công nghiệp. Phương thức sản xuất công nghiệp được thể hiện ra thông qua việc xác định và tạo lập mô hình phát triển dựa trên lợi thế so sánh và kỹ thuật, tức là triển khai mô hình phát triển đất nước vẫn dựa trên sự ưu trội của sức lực cơ bắp, nguồn tài nguyên sẵn có và có sự ứng dụng mạnh mẽ kỹ thuật - công nghệ vào quá trình sản xuất.
Phương thức sản xuất số là phương thức sản xuất tương thích và được hình thành bắt đầu từ khi có cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng 4.0). Phương thức sản xuất số được thể hiện thông qua việc kiến tạo mô hình phát triển mới cho xã hội - mô hình phát triển dựa trên lợi thế kinh tế tri thức, tức là thực thi mô hình phát triển đất nước dựa trên sự tích hợp của trí tuệ nhân tạo, khoa học - công nghệ, công nghệ số hóa vào quá trình sản xuất.
Cách mạng 4.0 là cuộc cách mạng tạo ra đột phát và sáng tạo. Trong cuộc cách mạng này, các tri thức, ý tưởng và công nghệ mới luôn được xuất hiện và thực hiện. Rõ ràng, bản chất của cuộc Cách mạng 4.0 là cuộc cách mạng số, tức là được triển khai dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ đang và sẽ có tác động lớn nhất như công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy... và là hệ quả tất yếu của cuộc cách mạng số, đòi hỏi phải có quá trình chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực và các quá trình hoạt động trong xã hội.
Trên cơ sở tổng kết tiến trình cách mạng XHCN và kinh nghiệm rút ra từ những thành công và hạn chế của quá trình xây dựng CNXH, nhất là quá trình đổi mới đất nước gần 40 năm qua, nhân kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2/9/2024), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong bài viết Chuyển đổi số - động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới đã chỉ ra: “Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số”.
Trong bài viết, Tổng Bí thư, Chủ Tịch nước Tô Lâm cũng khẳng định việc thực thi phương thức sản xuất số “cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy sức mạnh của lực lượng sản xuất hiện đại, vừa đảm bảo bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời đại mới”. Đồng thời, yêu cầu phải tạo dựng lực lượng sản xuất số, theo đó, “Phát triển công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau”.
Như vậy, công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam trong thời đại số - cách mạng số cũng đang đòi hỏi phải xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất số, mà công dân số là một bộ phận và là nguồn nhân lực cơ bản, quan trọng làm thành lực lượng sản xuất số trong phương thức sản xuất số ở Việt Nam giai đoạn tới.
Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đặt mục tiêu quy mô doanh thu công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam giai đoạn 2024-2030 đạt trên 25 tỷ USD/năm. (Ảnh minh họa)
CÔNG DÂN SỐ
Để trở thành nguồn nhân lực số cho lực lượng sản xuất số, công dân số cần có những yếu tố gì? Theo chúng tôi, cần hội đủ ít nhất các yếu tố sau:
Một là, tư duy số.
Tư duy số phải được tạo dựng và vận hành dựa trên sự hoạt động song trùng giữa trí tuệ con người và trí tuệ nhân tạo. Trước đây, mô thức tư duy của chúng ta cơ bản là hoạt động theo số lượng, theo tuần tự, theo thứ bậc, dẫn đến phương thức hoạt động theo hình thức, theo quán tính là chủ yếu thì quá trình tư duy trong bối cảnh cũ thường là theo kinh nghiệm, thói quen, thậm chí là theo cảm tính, tức là theo tính thường biến của tư duy. Còn trong thời đại Cách mạng 4.0 đã mang lại bản chất đột phá cho mọi sự phát triển đòi hỏi các hoạt động của con người đều phải phi truyền thống, không tuần tự, không thứ bậc và phải đột biến theo chất lượng; đặc biệt phải tìm cách sử dụng khả năng sáng tạo để vượt qua mọi giới hạn. Có thể nói, tư duy sáng tạo là cốt lõi cho sự phát triển của xã hội thời đại Cách mạng 4.0. Tư duy sáng tạo là khả năng tư duy đột biến nhằm tìm ra những phương án, cách tiếp cận mới cho vấn đề đang đặt ra. Tư duy sáng tạo giúp xã hội có khả năng đẩy ranh giới ra khỏi sự bình thường mà mọi người quen nghĩ để tìm ra cái mới, điều mới chưa từng có trước đó. Và trong thời đại hiện nay, bất kỳ ngành nghề nào từ chính trị, xã hội, kinh tế đến nghệ thuật, kỹ thuật... đều cần đến tư duy sáng tạo.
Hai là, văn hóa số.
Về cơ bản, hệ giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam được tạo lập và định hình trên cơ sở của văn minh nông nghiệp gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước. Trong giá trị văn hóa truyền thống, lòng yêu nước được xem là cốt lõi, cơ bản, phổ biến và cao nhất. Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lao động cần cù, thương người, lối sống tình nghĩa thủy chung là những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt ưu điểm, trong hệ giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống cũng có những hạn chế của một nền văn hóa được xây dựng trên cơ sở xã hội nông nghiệp và luôn luôn phải tiến hành chiến tranh chống ngoại xâm. Trong hệ giá trị văn hóa truyền thống, phẩm chất chiến đấu “chống giặc cứu nước” được đề cao; song lại ít đề cập đến những phẩm chất lao động sáng tạo, xây dựng làm giàu và phát triển đất nước. Thêm vào đó, các giá trị văn hóa cộng đồng được đề cao, nhưng các giá trị văn hóa cá nhân lại mờ nhạt.
Hơn lúc nào hết, chúng ta cần phải thấu hiểu hơn, biết vận dụng và biến hệ giá trị văn hóa mới thành hành động thiết thực, cụ thể trong mọi mặt của đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội.Thiết nghĩ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và tri thức hóa về mọi phương diện và mang tính phạm vi toàn thế giới như hiện nay, Cách mạng 4.0 là chìa khóa quyết định cho mọi sự phát triển hiện nay và trong tương lai của đất nước, tạo ra hệ giá trị văn hóa mới để đưa Việt Nam phát triển và bước vào thế giới văn minh - văn hóa số.
Như vậy, văn hóa số chính là hành trình tìm kiếm những giá trị hướng đến sự thay đổi và phát triển. Theo đó, văn hóa số của thanh niên số phải giúp cho việc biết thay đổi và phát triển toàn diện về mọi phương diện cơ bản, từ tư duy, nhận thức, thái độ, thói quen, đến lối sống, các quan hệ, sự ứng xử cũng như những hành vi và hoạt động.Cần chống thái độ bảo thủ, đề cao quá mức truyền thống mà coi nhẹ hoặc phủ nhận những giá trị của đổi mới và phát triển.
(Ảnh minh họa)
Ba là, kỹ năng số.
Kỹ năng số của công dân số cần phải được nhận biết trên hai phương diện cơ bản: Kỹ năng số cứng, là “khả năng tìm kiếm, đánh giá, sử dụng, chia sẻ và tạo nội dung bằng công nghệ thông tin và Internet”. Bất cứ điều gì từ khả năng mỗi cá nhân tìm ra thông tin của mình hoặc của ai đó trên internet cho đến việc tự tạo một trang web đều được coi là một kỹ năng số. Kỹ năng số mềm, bao gồm những kiến thức và kỹ năng làm việc với con người (kể cả chính bản thân mình). Đây là kỹ năng giúp cho mỗi cá nhân làm việc hiệu quả hơn với những người xung quanh, bao gồm kỹ năng giao tiếp hiệu quả và thuyết phục; khả năng tự nhận thức và phát triển bản thân; kỹ năng hợp tác và kết nối; kỹ năng quản lý mâu thuẫn; kỹ năng quản lý stress và sống lành mạnh.
Với sự kết hợp giữa kỹ năng số cứng và kỹ năng số mềm sẽ giúp cho mỗi công dân càng nhận thức rõ bản thân thì càng tự tin và sáng tạo. Đồng thời, mỗi công dân sẽ ra những quyết định sáng suốt hơn, có những mối quan hệ vững mạnh hơn và giao tiếp rõ ràng hơn. Từ đó, ngày càng hoàn thiện mình, biết tương tác, làm việc và hoạt động chủ động, sáng tạo trong môi trường số và biết đưa mình trở thành lực lượng sản xuất số trong phương thức sản xuất số.
Bốn là, khát vọng số.
Khát vọng phát triển là động lực to lớn tạo sức đẩy phát triển cho tất cả các quốc gia. Nhận thức rõ về động lực khát vọng phát triển đất nước trong thời đại mới - thời đại số, Đại hội XIII của Đảng xác định phải “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc;... tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”.
Thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã cho thấy khát vọng của một dân tộc là một sức mạnh to lớn; khẳng định sự sinh tồn và phát triển mạnh mẽ, tạo nên sức mạnh thần kỳ để một nước nghèo, kinh tế kém phát triển trở thành một quốc gia có vị thế như ngày nay.
Mỗi thời đại đều có sự định hình và yêu cầu khác nhau về khát vọng phát triển cho tương hợp. Thời đại số phải có khát vọng số. Khát vọng số của một dân tộc là sự cộng hưởng khát vọng vươn lên của cộng đồng, của con người cùng quốc gia - dân tộc, của từng công dân, của chủ thể lao động, sản xuất tạo thành nguồn năng lượng nội lực to lớn, tiềm tàng, có sức mạnh vô song và đột phá cho toàn bộ công cuộc phát triển. Đó chính là động lực trung tâm của một quốc gia - dân tộc trên con đường đi tới tương lai trong thời đại số.
Năm là, công dân số phải tích cực, chủ động tham gia vào quá trình chuyển đổi số.
Trong giai đoạn tới đây, khi sự nghiệp xây dựng CNXH của nước ta bắt kịp và hòa nhập với cuộc Cách mạng 4.0, với tư cách là bộ phận cơ bản, quan trọng để tham gia làm thành và phát triển lực lượng sản xuất số, công dân số phải tích cực, chủ động tiếp cận với công cuộc chuyển đổi số quốc gia. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra: “Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”. Muốn vậy, phải “đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”. Đồng thời và tiếp theo đó, phải tham gia quyết liệt vào các dự thảo Chiến lược phát triển đã được Chính phủ soạn thảo và dự thảo của các Chiến lược này đã được đưa ra tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XV (tháng 6/2024).
Theo đó, trong Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2030 sẽ tiếp tục thực hiện quyết liệt đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo;thực hiện tự chủ giáo dục đại học; nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Trong Chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ; thúc đẩy mạnh mẽ hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia; Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia và tăng cường liên kết mạng lưới đổi mới sáng tạo; Xây dựng cơ chế trọng dụng nhà khoa học và thí điểm chính sách ưu đãi đặc thù. Trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, Đề án Phát triển nguồn nhân lực bán dẫn, phấn đấu đến năm 2030 có 50 - 100 nghìn nhân lực chất lượng cao cho ngành sản xuất chíp bán dẫn.
Hơn lúc nào hết, sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam đã bước vào giai đoạn cách mạng có tính bước ngoặt. Đây vừa thời cơ, vận hội đồng thời đặt ra những thách thức. “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại”. Đây là sự định hướng và cũng là trách nhiệm của công dân số để tham gia vào việc hiện thực hóa và triển khai vận hành phương thức sản xuất số ở Việt Nam./.
Với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới - Sáng tạo - Phát triển”, Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2024 - 2029 đã đánh giá toàn diện tình hình, kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024, đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong nhiệm kỳ mới. Những nhiệm vụ đó của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam góp phần phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đại biểu dự đại hội, ngày 16/10/2024. (Ảnh: TTXVN)
Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2024 - 2029, diễn ra vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang quyết tâm hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ năm 2024 và tiếp tục phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; lập thành tích hướng tới chào mừng kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 80 năm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 95 năm thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam - Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
VỀ TÌNH HÌNH CHUNG CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ CÔNG TÁC MẶT TRẬN TRONG NHIỆM KỲ ĐẠI HỘI IX CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Nhiệm kỳ qua, trong bối cảnh thế giới và khu vực đầy biến động, phức tạp, khó lường, cạnh tranh nước lớn gay gắt, xung đột Nga - Ukraine, đại dịch COVID-19 bùng phát, gây hậu quả nặng nề, nhưng với đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, hòa quyện với niềm tin, sức mạnh của lòng dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp, để đất nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Chúng ta chung sức, đồng lòng khống chế thành công đại dịch COVID-19; quyết liệt triển khai nhiều giải pháp chưa có tiền lệ, phục hồi, phát triển kinh tế, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, để đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay.
Cùng với việc lãnh đạo đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện trên các lĩnh vực, Đảng và cả hệ thống chính trị tiếp tục dành sự quan tâm đặc biệt đối với công tác mặt trận. Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng được nâng cao và được đặt lên một tầm mức mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, để ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023 về "Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Cuốn sách “Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc” của Giáo sư, Tiến sĩ, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, người chiến sĩ cộng sản kiên trung, tấm gương sáng ngời về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đã được xuất bản, thể hiện tầm cao trí tuệ về nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thể hiện nhất quán, xuyên suốt chủ trương của Đảng về vai trò của nhân dân, về thực hành dân chủ, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và Nhà nước; về truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Kế tục sự nghiệp vẻ vang của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong bài viết “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Giáo sư, Tiến sĩ, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tiếp tục khẳng định: “Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân”, “Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu...”.
Đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, hòa quyện với niềm tin, sức mạnh của lòng dân là cơ sở rất quan trọng để Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp nhiệm kỳ này xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đột phá, khả thi nhằm phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc lên một tầm cao mới, tiếp tục góp phần xứng đáng vào thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến tham quan các gian hàng trưng bày tại Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thanh Hoá. (Ảnh: TTXVN)
VỀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM LẦN THỨ IX, NHIỆM KỲ 2019 - 2024
Có thể khẳng định, 5 năm qua, trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức so với dự báo, song hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã nỗ lực thực hiện hoàn thành các nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX, nhiệm kỳ 2019 - 2024 và các nhiệm vụ đột xuất, phát sinh trong thực tế. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên luôn bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, sự phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan nhà nước, các cấp chính quyền và hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã tham mưu với Đảng ban hành nhiều chủ trương, đường lối về đại đoàn kết toàn dân tộc, về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Những kết quả đó được thể hiện thông qua việc triển khai hiệu quả 5 chương trình hành động do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xác định:
Thứ nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã có nhiều nỗ lực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân, góp phần giải quyết nhiều vấn đề thiết thực và các vấn đề phức tạp phát sinh trong quá trình phát triển; đa dạng hóa hình thức hoạt động, sâu sát hơn với cơ sở.
Hoạt động Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư ngày càng nền nếp và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Từ thực tiễn sinh động ở hơn 10 vạn khu dân cư trên cả nước, có thể khẳng định, ngày hội đã đem lại giá trị tinh thần, làm giàu thêm ý chí cách mạng, tôn vinh sức mạnh cộng đồng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở từng buôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, cụm dân cư... trong cả nước.
Thứ hai, với phương châm “lấy sức dân để chăm lo cho đời sống nhân dân”, trong nhiệm kỳ 2019 - 2024, các cuộc vận động, phong trào thi đua được triển khai có trọng tâm, trọng điểm, khơi dậy tinh thần thi đua, lao động sáng tạo và sự chung sức của cả cộng đồng, mang lại hiệu quả thiết thực góp phần phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững.
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” tiếp tục giữ vai trò nòng cốt, ngày càng trở thành cuộc vận động mang tính toàn dân, toàn diện, sâu rộng trong cộng đồng, góp phần làm thay đổi diện mạo đô thị, nông thôn, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Đến thời điểm này, cả nước có 78% xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 284 đơn vị cấp huyện thuộc 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 3 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Hưởng ứng phong trào “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ Trung ương đến địa phương đã cùng các cấp, các ngành triển khai đồng bộ giải pháp nhằm xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Việc tổ chức triển khai Đề án vận động làm nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo của tỉnh Điện Biên là hoạt động tiêu biểu, nổi bật trong việc đổi mới phương thức triển khai hoạt động hỗ trợ người nghèo, an sinh xã hội; thể hiện vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Chỉ sau 9 tháng từ ngày phát động, với sự chung tay của hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, Đề án đã hoàn thành 5.000 căn nhà cho hộ nghèo của tỉnh Điện Biên, 500 căn nhà cho hộ nghèo của các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Hòa Bình, Yên Bái. Chương trình này đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và được dư luận xã hội đánh giá cao, phù hợp với thực tiễn, có tính nhân văn sâu sắc.
Tiếp nối kết quả đó, Lễ phát động Phong trào thi đua cả nước chung tay “Xóa nhà tạm, nhà dột nát” trong năm 2025 được Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương phối hợp với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức. Chương trình nhằm huy động sự chung tay góp sức, đồng lòng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, người dân, thiết thực lập thành tích, chào mừng kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; hướng đến Đại hội XIV của Đảng và phấn đấu với quyết tâm chính trị rất cao, tiến tới xóa toàn bộ nhà tạm, nhà dột nát cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn trên phạm vi toàn quốc trong năm 2025.
Với phương châm tiếp tục huy động nguồn lực để hiện thực hóa mục tiêu đặt ra, ngày 5/10 vừa qua, Chương trình phát động hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước với chủ đề “Mái ấm cho đồng bào tôi” đã được tổ chức, đã tiếp nhận được hàng nghìn tỷ đồng đăng ký ủng hộ từ cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân, nhà hảo tâm ở trong và ngoài nước.
Trong thời kỳ diễn ra đại dịch COVID-19, với tinh thần trách nhiệm, sự chủ động, nỗ lực, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, bộ, ban, ngành trung ương, các tổ chức thành viên và địa phương phát động, kêu gọi, vận động các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, đồng bào các dân tộc, tôn giáo chung sức, đồng lòng tham gia phòng, chống dịch, góp phần cùng cả nước khống chế thành công đại dịch; nhanh chóng khắc phục hậu quả của đại dịch COVID-19, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.
Tiếp đó, trước thiệt hại nặng nề mà cơn bão số 3 mang tên Yagi gây ra, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã kịp thời ra Lời kêu gọi về vận động ủng hộ đồng bào khắc phục thiệt hại do cơn bão số 3 gây ra, kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, nhà hảo tâm ở trong và ngoài nước, người nước ngoài đang sinh sống, làm việc ở Việt Nam chia sẻ, giúp đỡ về tinh thần, vật chất, góp phần cùng với Đảng, Nhà nước nhanh chóng khắc phục hậu quả bão, lũ, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.
Đến nay, thông qua tài khoản tiếp nhận của Ban Vận động cứu trợ Trung ương, đã tiếp nhận số tiền ủng hộ lên tới trên hai nghìn tỷ đồng. Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chỉ đạo kịp thời việc sao kê, công khai, minh bạch nguồn ủng hộ và phân bổ kịp thời tới địa phương chịu ảnh hưởng, thiệt hại nặng nề về người và tài sản; qua đó, đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ, khen ngợi của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, nhân lên gấp bội tình đồng chí, nghĩa đồng bào, thảo thơm, ấm áp sẻ chia trong hoạn nạn.
Thứ ba, nhiệm kỳ qua, hệ thống mặt trận tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong việc phát huy dân chủ, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thực hiện giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền. Ở nhiều địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã làm tốt vai trò đề xuất với cấp ủy, phối hợp với chính quyền tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân, qua đó kịp thời tháo gỡ khó khăn, giải tỏa bức xúc, tạo đồng thuận xã hội, làm cơ sở, động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cũng đã tiến hành đầy đủ, chặt chẽ các bước theo quy trình hiệp thương để lựa chọn, giới thiệu người có đủ tiêu chuẩn ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Đặc biệt, trong điều kiện cách ly phòng, chống dịch bệnh COVID-19, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp đã phối hợp tuyên truyền, vận động được 99,6% cử tri cả nước tham gia bỏ phiếu. Đây là cuộc bầu cử có số lượng cử tri lớn nhất từ trước đến nay với gần 70 triệu lá phiếu tại 84.767 khu vực bỏ phiếu. Ngày bầu cử 23/5/2021 đã thực sự trở thành Ngày hội lớn của toàn dân. Điều đó một lần nữa khẳng định tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, niềm tin của cử tri và nhân dân đối với chế độ, với Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.
Công tác giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước tiếp tục được tăng cường và đạt được nhiều kết quả nổi bật, góp phần quan trọng thực hiện vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là “cầu nối” quan trọng của Đảng, chính quyền với nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thể hiện tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; bước đầu triển khai hoạt động giám sát cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu và đảng viên trong rèn luyện đạo đức, lối sống, thực thi công vụ. Qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều ý kiến phản biện xã hội đã được cơ quan có thẩm quyền tiếp thu, đánh giá cao, giúp Đảng, Nhà nước xem xét ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.
Thứ tư, hoạt động đối ngoại nhân dân có nhiều kết quả tích cực, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên đã đẩy mạnh các hoạt động đoàn kết, hữu nghị, hòa bình, bảo vệ, giữ gìn đường biên, mốc giới và hỗ trợ lẫn nhau trong xóa đói, giảm nghèo, chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức nhiều hoạt động trao đổi, giao lưu, duy trì trao đổi đoàn cấp cao; tăng cường hỗ trợ, tập huấn, trao đổi kinh nghiệm công tác với Chính hiệp Trung Quốc, Mặt trận Lào xây dựng đất nước, Mặt trận Đoàn kết Phát triển Tổ quốc Campuchia, Ủy ban Bảo vệ Cách mạng Cuba; duy trì và phát triển quan hệ thường xuyên với các tổ chức nhân dân của các nước, như Hội đồng Kinh tế - Xã hội Môi trường Pháp, Hiệp hội nhân dân Singapore, Hội đồng Kinh tế, Xã hội và Lao động Hàn Quốc... Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là thành viên, đóng góp tích cực cho hoạt động của Hiệp hội quốc tế các Hội đồng Kinh tế - Xã hội và các định chế tương tự (AICESIS).
Thứ năm, công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với cơ quan nhà nước ngày càng chặt chẽ và hiệu quả, góp phần thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc triển khai các nhiệm vụ, đặc biệt là trong triển khai chương trình giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Việc phối hợp thống nhất hành động giữa các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được đổi mới, thể hiện rõ hơn vai trò chủ trì, tính chất liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và phát huy đặc thù, thế mạnh của các tổ chức thành viên.
Có thể khẳng định, đạt được kết quả quan trọng nêu trên là nhờ có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của Đảng, nhất là việc kịp thời ban hành chủ trương đối với công tác mặt trận; sự phối hợp ngày càng chặt chẽ, hiệu quả của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan nhà nước và các cấp chính quyền; sự chủ động, sáng tạo và tích cực của các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; xác định đúng trọng tâm, trọng điểm trong triển khai nhiệm vụ của ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp; sự nỗ lực, tâm huyết của đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận các cấp, đặc biệt là sự ủng hộ của nhân dân ở trong và ngoài nước, cộng đồng doanh nghiệp; kết quả của hội nhập quốc tế, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục có xu hướng phục hồi tích cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực. Hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đồng hành cùng Nhà nước, chính quyền các cấp tập trung làm tốt công tác bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống người dân. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng thiết thực, gắn với lợi ích trực tiếp của nhân dân, nhận được sự quan tâm và hưởng ứng của toàn xã hội.
Điệu xòe Thái thể hiện tình đoàn kết và sức mạnh của cộng đồng. (Nguồn: Tư liệu)
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM LẦN THỨ X, NHIỆM KỲ 2024-2029
Trong thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường, sẽ tác động đến tình hình nước ta; thuận lợi đan xen với khó khăn, có mặt khó khăn nhiều hơn thuận lợi, có thể sẽ xuất hiện một số yếu tố bất lợi, tác động đến tâm tư, tình cảm của các tầng lớp nhân dân; đòi hỏi Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phát huy ưu điểm, thẳng thắn nhìn nhận hạn chế, bất cập, xác định rõ nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, đề cao tinh thần tự lực, tự cường, khơi dậy mạnh mẽ niềm tin, khát vọng, sức sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu đạt được kết quả toàn diện, to lớn hơn nữa.
Để đạt được mục tiêu đó, hệ thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tập trung triển khai thực hiện tốt hơn nữa một số nội dung sau:
Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc nội dung Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023 về "Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Triển khai đồng bộ, hiệu quả 7 nhóm giải pháp đã được xác định trong Nghị quyết, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương. Tập hợp rộng rãi các giai cấp, giai tầng xã hội, tăng cường đoàn kết, đồng thuận trở thành sức mạnh nội sinh, quyết tâm: Đã nói là làm, đã bàn là thông, đã quyết thì tất cả một lòng.
Hai là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, bám cơ sở, bám sát cuộc sống của nhân dân, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thích ứng với xã hội số để tuyên truyền, vận động nhân dân theo hướng toàn dân, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sát với thực tiễn của địa phương. Khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần chủ động, sáng tạo, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Ba là, thấm nhuần sâu sắc hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Triển khai thực hiện hiệu quả Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện thật tốt phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng.Huy động chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, người có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tâm huyết tham gia các hội đồng tư vấn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; nâng cao thực chất công tác giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước. Tập trung vào nội dung liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân. Kịp thời kiến nghị với cấp ủy, chính quyền, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giải quyết kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
Nâng cao thực chất các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, tích cực, sáng tạo triển khai thực hiện thật tốt Phong trào thi đua “Cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát” và nội dung chương trình hành động thứ tư: “Phát huy vai trò làm chủ, tinh thần tự quản của nhân dân, xây dựng khu dân cư đoàn kết, ấm no, hạnh phúc”, làm sao để nhân dân đồng tình, ủng hộ việc tốt, phê phán việc xấu, xây dựng từng khu dân cư bình yên, là cơ sở quan trọng để địa phương ổn định và phát triển.
Bốn là, để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Namlần thứ X đề ra thì cán bộ là nhân tố quyết định. Do vậy, nhiệm kỳ này, cần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận từ Trung ương đến cơ sở theo phương châm: Tận tụy để dân mến/ Trách nhiệm để dân thương/ Kỷ cương để dân trọng/ Năng động để dân được nhờ; chân thành lắng nghe ý kiến của nhân dân, thật lòng giải quyết kiến nghị chính đáng của người dân, lấy ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu của công tác mặt trận.
Năm là, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng phải làm “cầu nối” vững chắc để giữ vững mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; giữ vững sự đoàn kết của các thành phần, các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; đoàn kết đồng bào dân tộc đa số với đồng bào dân tộc thiểu số, giữa đồng bào theo đạo và đồng bào không theo đạo, giữa đồng bào ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài... Khơi dậy mạnh mẽ niềm tin, khát vọng cống hiến, sức sáng tạo của mọi người dân, nỗ lực cao nhất phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sắp tới là Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng.
Với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới - Sáng tạo - Phát triển”, Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2024-2029, tiếp tục phát huy mạnh mẽ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; nêu cao ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, sáng tạo, vượt qua khó khăn, thách thức; lấy mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; chung lo vận mệnh của đất nước, bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phấn đấu thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2021-2030), hoàn thành các mục tiêu chiến lược hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với tinh thần đó, toàn Đảng, toàn dân tộc cần tiếp tục khắc ghi và thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công./.