Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2025
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN PHẢI DŨNG CẢM HY SINH ĐỂ ĐẤT NƯỚC PHÁT TRIỂN!
SỰ XUYÊN TẠC, KÍCH ĐỘNG THÂM HIỂM VỀ NHIỆM VỤ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRÊN BIỂN!
PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN “MỘT CUỘC CÁCH MẠNG CHỈ CÓ GIÁ TRỊ KHI NÓ BIẾT TỰ VỆ”!
Tài thao lược xuất chúng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 gắn liền với tài thao lược của Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nhìn lại những hoạt động chỉ đạo, chỉ huy trong toàn bộ chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, từ khi nhận nhiệm vụ của Bác Hồ và Trung ương Đảng giao cho mở một chiến dịch tiến công quyết định, nhằm đập tan ý chí xâm lược của bọn thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tạo bước ngoặt lịch sử cho cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam và của hai nước anh em Lào và Cam-pu-chia, chúng ta thấy nổi bật tài năng của Đại tướng trong chỉ đạo chiến lược và chiến dịch. Đó là tinh thần quyết chiến, quyết thắng, sự kiên định về mục tiêu chiến lược; thực hiện dân chủ quân sự trong mọi công tác, trên tuyến chiến đấu cũng như ở các tuyến phục vụ chiến đấu, nhằm phát huy được cao độ sáng kiến của đông đảo cán bộ, chiến sĩ ở các cấp, khắc phục kịp thời những khó khăn mọi mặt diễn ra trong chiến đấu và khơi dậy tính năng động trong tổ chức thực hiện của các cấp.
Tư duy chỉ đạo hết sức năng động, sáng tạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp thể hiện qua những đặc tính cơ bản, đó là: Trình độ nghiên cứu và phân tích rất sâu về tình hình địch, xem xét thật khách quan những chỗ mạnh và chỗ yếu của chúng, từ binh sĩ cho đến người chỉ huy cao nhất của chúng. Đối chiếu với những chỗ mạnh, yếu thực chất của những đơn vị của ta tham chiến ở Điện Biên Phủ, lấy đó làm cơ sở để tính toán thật cụ thể kế hoạch tấn công tiêu diệt quân địch. Chủ động nghiên cứu thật kỹ mọi tình huống, kể cả những tình huống có lợi cũng như khó khăn, không chủ quan, không ảo tưởng để không bị bất ngờ trước những biến chuyển của thực tế. Nghệ thuật dẫn dắt tư duy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát triển biện chứng, bám sát diễn biến của tình hình và tình huống tác chiến của chiến dịch, nhưng rất kiên định mục tiêu và những chủ trương lớn đã được quyết định là "trận này phải thắng", "chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh". Tất cả những điều đó được dựa trên một lòng tự tin và phong độ điềm đạm vốn có của đồng chí Tổng tư lệnh, cộng với một lòng tin tưởng vững vàng vào khả năng của quần chúng cách mạng, của cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp và của đông đảo chiến sĩ đang cùng ông gánh vác sứ mệnh lịch sử trước dân tộc, trước Đảng và Bác Hồ. Từ đó, trong quá trình tổ chức thực hiện mọi chủ trương tác chiến, sự chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có sức thuyết phục rất cao và cũng biết khơi dậy ở mọi người sự sáng tạo đặc biệt khi đã đi sâu vào cuộc chiến đấu quyết thắng.
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: LÁ CỜ ĐỎ SAO VÀNG, HƠN CẢ MỘT BIỂU TƯỢNG!
Phản bác quan điểm sai trái “ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả hệ thống chính trị vào cuộc thực thi quyền lực nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời luôn thống nhất trong lãnh đạo tổ chức thực hiện, nhằm góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Chủ trương đó không phải là khẩu hiệu suông, càng không phải là việc “đấu đá, triệt hạ phe cánh” như những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trước mỗi kỳ đại hội Đảng, các đối tượng chống phá lại đơm đặt, dựng chuyện và xuyên tạc rằng: “Ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”. Sự thật lịch sử và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam đã bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, chống phá đó.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, thiết lập nên những thiết chế căn bản đầu tiên của một nhà nước dân chủ nhân dân-khởi đầu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Điều 1 của Hiến pháp năm 1946 khẳng định tính chất của Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Trong suốt quá trình cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân tổ chức, xây dựng hệ thống quyền lực ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh và thực hành tư tưởng: “Nước ta là nước dân chủ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/ Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra/ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên/ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Như vậy, có thể thấy, từ những văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước và người đứng đầu Nhà nước ta đã xác nhận, hệ thống chính trị XHCN nước ta luôn khẳng định chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của Nhà nước và của tất cả quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều này có nghĩa rằng, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân và cho dù bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ thì quyền lực nhà nước cũng đều có nguồn gốc từ sự ủy quyền của nhân dân. Không có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền của nhân dân.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và quyền lực nhà nước, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng hiện thực hóa chủ trương “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội. Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai tầng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, để thông qua Nhà nước hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của các giai tầng xã hội. Trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo thực hiện lĩnh vực này. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Hiến pháp năm 2013 hiến định: “1) Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2) Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Về hình thức: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Để bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.
Những năm qua, trong đời sống chính trị-pháp lý ở Việt Nam, việc kiểm soát quyền lực nhà nước đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và của các cơ quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội được quan tâm tăng cường; công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước trong bộ máy hành pháp đã được đẩy mạnh, góp phần không chỉ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước mà còn trực tiếp đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và nhất là vai trò, quyền làm chủ của nhân dân đã được bảo đảm thực thi thực chất, đầy đủ theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng”. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng đã được kết hợp chặt chẽ với việc thực thi các cơ chế thanh tra, kiểm soát bằng pháp luật. Công tác phòng, chống tham nhũng, chống tha hóa quyền lực được tiến hành đồng bộ, bài bản, ngày càng hiệu quả. Việc xử lý các hành vi, đối tượng tham nhũng bảo đảm nghiêm khắc nhưng cũng nhân văn, có lý, có tình, kết hợp “xây” và “chống”, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, làm gì; không còn tư tưởng “hạ cánh an toàn”, làm bước nào chắc bước đó, vi phạm đến đâu, xử lý đến đó, kỷ luật Đảng trước, kỷ luật hành chính, hình sự sau; bảo đảm phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là kết quả thực hành tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa sáng suốt và rõ ràng, được định hướng bởi lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt, được Nhà nước Việt Nam hiện thực hóa trong các chính sách và luật pháp; được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thực thi hiệu lực và hiệu quả; được nhân dân và các đoàn thể chính trị-xã hội trực tiếp giám sát, tham gia, quản lý bằng những cơ chế, chính sách phù hợp.
Như vậy, cả lịch sử hình thành nhà nước, xây dựng, hiến định những tư tưởng pháp quyền XHCN đầu tiên đến quá trình tổ chức hiện thực hóa, thực thi trong đời sống chính trị, xã hội và pháp lý; cùng với sự bổ sung, phát triển ở những giai đoạn tiếp theo cho thấy, ở Việt Nam quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự tiếp nối mà còn là một sự bổ sung, phát triển và khẳng định sự kiên định nhất về chủ trương, đường lối thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân, hoàn toàn không có sự xa rời và đối nghịch với tư tưởng pháp quyền XHCN mà Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đã đề ra, đó là xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Những quan điểm, thái độ và hành động chính trị phản động, thù địch đó tất yếu sẽ bị thất bại, không chỉ bởi tất cả quyền lực của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay đã thuộc về nhân dân, mà còn bởi sự nhận thức chính trị của nhân dân Việt Nam hiện nay đã phát triển hơn hẳn những giai đoạn trước; đồng thời nhờ vào chính những thành quả cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới.
Thứ Sáu, 3 tháng 1, 2025
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BỘ NỘI VỤ THÔNG TIN VỀ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TIỀN THƯỞNG!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THAM GIA NGHĨA VỤ QUÂN SỰ LÀ NGHĨA VỤ VẺ VANG CỦA MỌI CÔNG DÂN!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BỘ QUỐC PHÒNG TRẢ LỜI KIẾN NGHỊ TRẦN QUÂN HÀM SĨ QUAN TRỢ LÝ CẤP HUYỆN LÀ TRUNG TÁ!
CUỘC XÂM LĂNG TĨNH LẶNG!
Ảnh: Các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam thả hoa tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ quê hương, tại khu vực đảo Gạc Ma.
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THÔNG CÁO BÁO CHÍ CHƯƠNG TRÌNH PHIÊN HỌP THỨ 41 CỦA UBTV QUỐC HỘI!
GIÁO DỤC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG, TẠO SỨC ĐỀ KHÁNG CHO HỌC SINH
Gần đây báo chí phản ánh tình trạng một số học sinh ở Quảng Nam mua búp bê Kumanthong về thờ cúng, mua bánh kẹo “cho ăn” để cầu may mắn và học giỏi. Đây là hoạt động mê tín dị đoan hết sức nguy hiểm, gây tâm lý hoang mang, lo sợ, tạo hệ lụy xấu cho học sinh, gia đình và xã hội. Chúng tôi có cuộc trao đổi với PGS.TS. BÙI HOÀI SƠN, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục xung quanh vấn đề này.
Ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và hành vi của học sinh
- Hiện tượng thờ cúng búp bê Kumanthong tại Việt Nam từng xảy ra cách đây nhiều năm và đã được cảnh báo cũng như xử lý. Thế nhưng gần đây nó xuất hiện trở lại, tại một số trường học. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này?
- Tôi cho rằng việc thờ cúng Kumanthong xuất hiện trở lại trong một số trường học là một vấn đề đáng báo động, cả về góc độ văn hóa lẫn tâm lý giáo dục. Đây không chỉ là sự lặp lại của một hiện tượng từng xảy ra, mà còn cho thấy những khoảng trống trong giáo dục và quản lý môi trường học đường.
Kumanthong, khi được du nhập từ Thái Lan vào Việt Nam, đã bị hiểu sai và biến tướng thành một hình thức mê tín dị đoan. Điều này không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức của giới trẻ, mà còn tiềm ẩn nguy cơ tạo ra sự bất ổn tâm lý ở lứa tuổi học sinh - vốn đang trong quá trình hình thành tư duy và giá trị sống.
Vì vậy, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ hơn từ phía nhà trường, phụ huynh và các cơ quan quản lý.
- Theo ông, việc học sinh thờ cúng Kumanthong có thể gây ra những hệ lụy gì?
- Dưới góc độ xã hội, trước hết, đây là một biểu hiện của mê tín dị đoan, ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và hành vi của học sinh. Thay vì nỗ lực học tập, học sinh có thể lệ thuộc vào niềm tin siêu nhiên để đạt được thành công, điều này dễ tạo ra tâm lý lười biếng, thiếu tự chủ. Thêm vào đó, việc lan truyền các thực hành mê tín trong môi trường học đường có thể dẫn đến xung đột, bất hòa giữa học sinh và thậm chí cả phụ huynh.
Dưới góc độ văn hóa, sự du nhập và biến tướng của Kumanthong trong đời sống học đường là một tín hiệu đáng lo ngại về sự thiếu hiểu biết và trân trọng giá trị văn hóa bản địa. Học sinh, với nhận thức chưa đầy đủ, có thể vô tình cổ súy cho những hành vi đi ngược lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đồng thời làm suy giảm sự tự hào về bản sắc văn hóa Việt Nam. Việc thờ cúng Kumanthong cũng có nguy cơ khuyến khích sự phổ biến của các hiện tượng văn hóa nước ngoài thiếu kiểm soát, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường giáo dục và sự phát triển văn hóa lành mạnh.
Tôi cho rằng, cả ở góc độ xã hội lẫn văn hóa, hiện tượng này cần được xử lý một cách nghiêm túc và toàn diện. Chú trọng giáo dục học sinh về giá trị của tư duy khoa học, cũng như tổ chức các hoạt động văn hóa lành mạnh, để giúp các em hiểu đúng về tín ngưỡng và tích cực gìn giữ những giá trị văn hóa dân tộc.
Cần chiến lược toàn diện và chặt chẽ
- Từ hiện tượng thờ cúng Kumanthong, để ngăn chặn sự xâm nhập tiêu cực của văn hóa nước ngoài, cần làm gì, thưa ông?
- Phải có một chiến lược toàn diện và chặt chẽ, từ giáo dục, tuyên truyền đến quản lý xã hội. Trước hết, tăng cường giáo dục văn hóa trong trường học. Nhà trường cần tích hợp sâu sắc các giá trị văn hóa truyền thống, tín ngưỡng dân tộc vào hoạt động giảng dạy, giúp học sinh hiểu rõ và trân trọng những giá trị này. Cùng với đó, phát triển tư duy phản biện và khoa học sẽ giúp học sinh nhận diện, phân biệt được giữa văn hóa truyền thống và các yếu tố mê tín dị đoan từ bên ngoài. Đây sẽ là sức đề kháng cho học sinh trong quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế.
Bên cạnh giáo dục trong nhà trường, gia đình đóng vai trò vô cùng quan trọng. Phụ huynh cần được nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc giáo dục con cái về những giá trị văn hóa đúng đắn, đồng thời cảnh giác với những yếu tố văn hóa nước ngoài có thể ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của con em mình. Tôi cho rằng, các chương trình hướng dẫn cho phụ huynh sẽ là một công cụ hữu ích trong việc xây dựng nhận thức văn hóa bền vững trong gia đình.
Công tác tuyên truyền cũng là một yếu tố không thể thiếu. Chính phủ và các cơ quan chức năng cần triển khai các chiến dịch tuyên truyền mạnh mẽ về tác hại của mê tín dị đoan và khuyến khích các hoạt động văn hóa lành mạnh. Các phương tiện truyền thông cần tích cực lan tỏa những thông điệp bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống và từ chối những ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài.
Các cơ quan chức năng cần xử lý nghiêm minh các hành vi thờ cúng Kumanthong hay các hình thức mê tín dị đoan khác trong cộng đồng, đặc biệt là trong môi trường học đường. Việc xử lý kịp thời và công khai sẽ cảnh tỉnh xã hội, đồng thời thể hiện quyết tâm bảo vệ giá trị văn hóa dân tộc.
Cuối cùng, cần khuyến khích phát triển các hoạt động văn hóa truyền thống, tạo ra môi trường văn hóa phong phú và lành mạnh, giúp học sinh và cộng đồng có nền tảng văn hóa vững chắc, để mỗi cá nhân có thể tự bảo vệ và gìn giữ giá trị văn hóa của dân tộc.
- Hiện pháp luật Việt Nam đã có quy định điều chỉnh các hành vi như thờ cúng Kumanthong chưa, thưa ông?
- Theo pháp luật Việt Nam, hoạt động sản xuất, buôn bán hay thờ cúng búp bê Kumanthong có thể nằm trong phạm vi điều chỉnh của các quy định về mê tín dị đoan, an ninh trật tự, hay bảo vệ trẻ em, nhưng hiện chưa có văn bản pháp luật quy định chi tiết về xử lý các hành vi này như một tội danh hay hành vi phạm pháp riêng biệt. Trong khi đó, việc sản xuất, thờ cúng, và buôn bán búp bê Kumanthong có thể được xem là hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ đạo đức xã hội và bảo vệ sức khỏe tâm lý của trẻ em nếu nó dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực.
Trong bối cảnh hiện nay, tôi nghĩ rằng, cần thiết có các quy định pháp lý rõ ràng về việc xử lý hành vi sản xuất và buôn bán các sản phẩm liên quan đến mê tín dị đoan, như búp bê Kumanthong. Đồng thời, cơ quan chức năng cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn trong giám sát và kiểm soát các hoạt động này, từ đó bảo vệ sự phát triển tâm lý và văn hóa lành mạnh cho cộng đồng. Cũng cần lưu ý rằng, việc xây dựng pháp luật phải dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của người dân, nhưng cũng phải bảo đảm ngăn ngừa các hành vi có thể gây tác hại cho xã hội./.
St
Xuyên tạc công cuộc cải cách, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
Những năm gần đây, chủ trương tinh giản biên chế và sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước triển khai đồng bộ, mạnh mẽ, đạt nhiều kết quả tích cực.
Với quan điểm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư Tô Lâm, của Bộ Chính trị đã tạo thống nhất trong nhận thức và hành động, nhận được sự đồng tình ủng hộ cao của cả hệ thống thống chính trị và toàn xã hội. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng tình hình để xuyên tạc, phủ nhận chủ trương cũng như kết quả của công cuộc cải cách này.
Mặc dù chủ trương tinh giản biên chế, sắp xếp lại bộ máy được Đảng và Nhà nước ta triển khai với mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giảm chi phí nuôi bộ máy, dành nguồn lực cho phát triển đất nước, phục vụ nhân dân nhưng một số đối tượng chống đối vẫn tiếp tục xuyên tạc, bóp méo sự thật, lợi dụng sự thay đổi này để tung tin bịa đặt, thổi phồng khuyết điểm hòng đánh tráo mục tiêu, gây hoang mang dư luận. Các đối tượng bịa đặt rằng, việc tinh giản biên chế ở Việt Nam “chỉ là hình thức, mị dân”, không đem lại hiệu quả thực tế mà chỉ là gây tốn kém tiền bạc, ngân sách. Họ cho rằng, cơ cấu bộ máy nhà nước nói là tinh gọn nhưng không thay đổi mà chỉ chuyển người từ chỗ này sang chỗ khác, chỉ gây tốn kém, phức tạp.
Một số đối tượng bịa đặt rằng, việc sáp nhập các đơn vị, hợp nhất bộ máy chỉ nhằm mục đích chia ghế và “chạy chọt”, gây tốn kém ngân sách. Thậm chí, các thế lực thù địch xuyên tạc tinh giản biên chế là “đấu đá quyền lực, phe nhóm”, nhằm cắt giảm quyền lực của người này để tăng quyền lực cho người kia, là cách để “hạ bệ” hoặc “gia cố” quyền lực. Từ đó họ nguỵ biện rằng, Việt Nam không có tinh giản biên chế, không có tinh gọn bộ máy mà đây chỉ là “miếng bánh phân chia quyền lực”, chuyện của “các phe phái”... Đây là những luận điệu vu cáo, cố tình bóp méo sự thật nhằm làm nhiễu thông tin, “tung hoả mù” gây hoang mang dư luận, tạo cớ chỉ trích, miệt thị lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Ngày 5/11, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết “Tinh-gọn-mạnh-hiệu năng-hiệu lực-hiệu quả”, nêu rõ: Qua nhiều kỳ đại hội, nhất là trong các đại hội gần đây, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, XII, XIII đều nhấn mạnh các nhiệm vụ cụ thể về tinh gọn tổ chức bộ máy hoặc nghiên cứu xây dựng mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta liên tục ban hành nhiều nghị quyết, kết luận để lãnh đạo thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Những đổi mới về thể chế, trọng tâm là đổi mới công tác tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là một trong những điều kiện cơ bản, quyết định đạt được những thành tựu vĩ đại sau 40 năm đổi mới đất nước.
Cải cách bộ máy hành chính là một trong những yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan nhà nước, đồng thời giảm thiểu các chi phí hành chính không cần thiết. Trong thời gian qua, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác cải cách bộ máy hành chính. Đặc biệt, việc tinh giản biên chế và giảm bớt các đầu mối hành chính đã đem lại hiệu quả rõ rệt.
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng chỉ rõ những tồn tại, hạn chế trong vấn đề này. Đó là nhận thức và hành động của một số cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, quyết tâm chưa cao, hành động chưa quyết liệt, việc sắp xếp tổ chức bộ máy chưa đồng bộ, tổng thể, chưa gắn tinh giản biên chế với cơ cấu lại... Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin - cho, dễ nảy sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Chính vì vậy, cho đến nay tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, quan hệ công tác giữa nhiều cơ quan, bộ phận chưa thật rõ ràng, còn trùng lắp, chồng chéo; phân định trách nhiệm, phân cấp, phân quyền chưa đồng bộ, hợp lý, có chỗ bao biện làm thay, có nơi bỏ sót hoặc không đầu tư thích đáng… Tổ chức bộ máy của một số cấp, ngành đến nay cơ bản vẫn giữ nguyên về số lượng, việc sắp xếp chưa gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả, xác định vị trí việc làm, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ. Bộ máy trong bộ, cơ quan ngang bộ còn nhiều tầng nấc, có cấp không rõ địa vị pháp lý; đơn vị trực thuộc có tư cách pháp nhân tăng, gia tăng tình trạng "Bộ trong bộ". Tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ. Những tồn tại, hạn chế, sự chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng.
Bộ máy cồng kềnh gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống hoặc một số chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức trên thực tế. Một trong những lý do chính để tiến hành cải cách bộ máy hành chính là giảm bớt gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Theo số liệu từ Bộ Tài chính, chi cho bộ máy hành chính chiếm khoảng 70% tổng ngân sách chi tiêu thường xuyên của Nhà nước. Để giảm thiểu tình trạng lãng phí, việc tinh giản bộ máy đã và đang là một trong những giải pháp quan trọng, giúp tiết kiệm ngân sách và tái phân bổ các nguồn lực cho các lĩnh vực phát triển kinh tế, xã hội.
Ngoài ra, việc tinh giản bộ máy còn là một yếu tố then chốt trong việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và cải thiện công tác quản lý nhà nước. Một bộ máy hành chính tinh gọn và chuyên nghiệp sẽ giúp các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ hơn trong công tác phòng, chống tham nhũng, xử lý các vi phạm pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. Cũng nhờ vào sự cải cách này, quy trình cung cấp dịch vụ công đã được đơn giản hóa, rút ngắn thời gian chờ đợi, giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các dịch vụ của Nhà nước.
Rõ ràng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước ta, với mục đích rõ ràng, hoàn toàn không có chuyện “làm cho có”, “chỉ là hình thức”, “tranh giành quyền lực” hay “đấu đá nội bộ” như các thế lực thù địch xuyên tạc, rêu rao. Cần thấy rằng, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là việc làm không hề dễ dàng, không đơn giản, không phải làm một sớm, một chiều, làm một lần là xong do liên quan nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Do đó đòi hỏi sự chặt chẽ, khoa học, với quyết tâm chính trị cao, thống nhất trong nhận thức và hành động. Để cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị bảo đảm thắng lợi, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Thời điểm 100 năm đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và 100 năm thành lập nước không còn xa, để đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường, những cố gắng vượt bậc, mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi”.
st