Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

 

Định hướng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang địa phương

ThS. Trần Văn Duy
NCS, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Đấu tranh phn bác quan đim sai trái, thù địch trên không gian mng là tng th các ch trương, ni dung, hình thc, bin pháp ca các tổ chức, lc lượng nhm phn bác, vch trn bn cht phn khoa hc, phđộng ca các quan đim sai trái, thù địch trên không gian mng, bo v nn tng tư tưởng cĐảng. Cơ quan chính trị – quân sự địa phương là cơ quan tham mưu, giúp việc của đảng ủy quân sự địa phương, đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang địa phương, do đó, việc phát huy vai trò tham mưu, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, lực lượng vũ trang địa phương trên không gian mạng của cơ quan chính trị là hết sức cần thiết.

Từ khóa: Đấu tranh trên không gian mạng; cơ quan chính trị – quân sự địa phương; vai trò tham mưu; lực lượng vũ trang địa phương.

1. Đặt vấn đề

Ngày nay, với sự bùng nổ của internet, không gian mạng đã trở thành một xã hội hiện hữu, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng trở thành chiến trường mới, hết sức gay go, phức tạp, là mặt trận nóng bỏng hàng đầu tác động trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ, sự ổn định, phát triển của đất nước và của từng địa phương.

Nhận thức rõ điều đó, với vai trò là cơ quan tham mưu, đề xuất của đảng ủy quân sự địa phương, trực tiếp hướng dẫn các cơ quan, đơn vị trong lực lượng vũ trang địa phương tiến hành hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong công tác quân sự quốc phòng địa phương, trong đó có hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng ở địa phương, cơ quan chính trị – quân sự địa phương thường xuyên tham mưu cho đảng ủy quân sự địa phương, cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương thuộc quyền tích cực đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng, trong đó đặc biệt quan tâm phát huy vai trò của các cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị địa phương. 

2. Hoạt động đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng của cơ quan chính trị – quân sự địa phương

Những năm qua, các cơ quan chính trị – quân sự thường xuyên quán triệt, triển khai nghiêm túc các chủ trương, quan điểm, nghị quyết của Đảng, của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, hướng dẫn của Tổng Cục Chính trị và các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, chính quyền địa phương; thường xuyên có kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện, trong đó trọng tâm là: Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; Hướng dẫn số 01-HD/BCĐ ngày 25/6/2019 của Ban Chỉ đạo 35, Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh, huyện và tương đương về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”; Kết luận số 53-KL/TW ngày 04/6/2019 của Ban Bí thư về việc chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ, triệt phá tin giả, thông tin sai sự thật, xấu độc trên Internet, mạng xã hội; Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 09/10/2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030; Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; Hướng dẫn số 1047/HD-TTCĐ ngày 15/4/2016 của Cục Tuyên huấn hướng dẫn thực hiện Chỉ thị của Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị về tổ chức lực lượng đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị trên không gian mạng trong quân đội…; theo đó, phát huy có hiệu quả vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân viên cơ quan chính trị trong đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng; góp phần quan trọng làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch; giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan trong sạch vững mạnh, cơ quan vững mạnh toàn diện, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường; những thách thức mới về “an ninh phi truyền thống”; âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận trên không gian mạng; cơ quan chính trị – quân sự đã nâng cao chất lượng hoạt động đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng, bảo đảm luôn là lực lượng nòng cốt xung kích, đi đầu trong đấu tranh tư tưởng, lý luận góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội, giữ vững sự ổn định chính trị của đất nước và trên từng địa phương nơi đóng quân. Tiêu biểu như Bộ Chỉ huy quân sự thành phố Hải phòng đã đăng tải hơn 12.000 tin bài, chia sẻ gần 1 triệu lượt tin, bài; bình luận, đấu tranh gần 4 triệu lượt tương tác với các quan điểm sai trái trên không gian mạng (tại phụ lục kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ năm 2021, kèm theo Nghị quyết số 496-NQ/ĐUQS ngày 07/12/2021 của Đảng ủy Quân sự thành phố Hải phòng). 

Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, cùng với sự bùng nổ của mạng xã hội toàn cầu như: facebook, zalo, youtube, instagram, Tiktok, Telegram, google… tạo ra nhiều lợi ích đối với các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng chính là môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội, chống đối chính trị, các “nhóm lợi ích” tạo kênh thông tin để tiến hành các thủ đoạn nhằm thực hiện mục tiêu “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam và thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.

Các quan điểm sai trái, thù địch được phát tán với nhiều thủ đoạn tinh vi khác nhau và thủ đoạn được ghi nhận nhiều nhất vẫn là trên không gian mạng, bằng việc thành lập các kênh đăng tải thông tin sai trái, thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng và của cách mạng Việt Nam, xuyên tạc tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam, phủ nhận những thành tựu của sự nghiệp đổi mới; xuyên tạc lịch sử của dân tộc… đã được cơ quan chính trị – quân sự coi đây là những nhiệm vụ quan trọng để đẩy mạnh.

Ngoài ra, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan đơn vị lực lượng vũ trang địa phương thuộc quyền thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng của một số cơ quan chính trị – quân sự địa phương còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, như: chậm đổi mới phương thức hoạt động đấu tranh; việc xác định chương trình, kế hoạch hoạt động chưa khoa học; xác định phương hướng, nội dung đấu tranh còn hạn chế, tính “lý luận” khoa học chưa cao; chưa phát huy hết các nguồn lực trong đấu tranh; việc bảo đảm vật chất, trang bị cho thực hiện nhiệm vụ còn nhiều tồn tại; chất lượng thực hiện nhiệm vụ đấu tranh ở một số đơn vị lực lượng vũ trang thuộc quyền có sự chuyển biến chưa rõ nét, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chung của các cơ quan chính trị.

3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng

Thứ nhất, chủ động tham mưu với cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan cơ quan quân sự địa phương thường xuyên giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị. Hướng dẫn, quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. 

Thông qua đó, làm cho mọi tổ chức, lực lượng trong lực lượng vũ trang địa phương thấm nhuần những quan điểm chỉ đạo của Đảng và những quy định pháp luật liên quan đến hoạt động đấu tranh trên không gian mạng, bảo đảm cho các tổ chức, lực lượng xác định đúng mục tiêu, trách nhiệm, chấp hành đúng các quy định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; nhận thức đúng vai trò của hoạt động đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; nhận thức đúng vai trò của hoạt động lãnh đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong thực hiện nhiệm vụ, trực tiếp là vai trò của cơ quan chính trị – quân sự địa phương trong thực hiện nhiệm vụ.

Thứ hai, chủ động hướng dẫn cơ quan, đơn vị thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, bồi dưỡng niềm tin cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúngĐây là giải pháp hết sức quan trọng bảo đảm việc nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang địa phương được thực hiện hiệu quả, thực chất và có chiều sâu.

Theo đó, cơ quan chính trị – quân sự địa phương cần đề cao trách nhiệm trong hướng dẫn tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt cho cán bộ, đảng viên và quần chúng về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, truyền thống dân tộc, nhiệm vụ của quân đội, của địa phương, đơn vị… Đồng thời, các cơ quan chính trị – quân sự địa phương cần thường xuyên bám sát sự chỉ đạo, định hướng của cấp trên, nghiên cứu, nắm chắc nghị quyết của cấp ủy đảng các cấp, chỉ thị, hướng dẫn của chính ủy, chủ nhiệm chính trị, của cơ quan chính trị cấp trên và thực tiễn công tác giáo dục chính trị trong lực lượng vũ trang địa phương, kịp thời tham mưu cho đảng ủy, chỉ huy về nội dung, chương trình, thời gian, kế hoạch giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật; nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá mới của các thế lực thù địch, những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội…

Thứ ba, phát huy vai trò đầu tàu, gương mẫu của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị trong cơ quan quân sự địa phương trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Cơ quan chính trị là cơ quan “đầu tàu” của sự gương mẫu và đoàn kết, trong đó mỗi cán bộ chính trị phải là tấm gương mẫu mực, là chỗ dựa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ. Cơ quan chính trị – quân sự địa phương cần phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống thông tin truyền thông, báo chí, phát thanh, truyền hình, hệ thống truyền thanh nội bộ, các thiết chế văn hóa và thông qua mạng xã hội, internet để phổ biến, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ tư, hướng dẫn, kiểm tra việc xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong sạch vững mạnh, xây dựng đội ngũ đảng viên tiền phong gương mẫu, có năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu cao, đoàn kết, thống nhất, giữ nghiêm kỷ luật Đảng. Cơ quan chính trị – quân sự địa phương cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn các quan điểm, chủ trương của Đảng, nhất là trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; tích cực tham gia tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng.

Thứ năm, phát huy tốt vai trò tham mưu, đề xuất, củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo 35 của cấp ủy địa phương và Lực lượng 47 của cơ quan quân sự. Trong đó, cơ quan chính trị – quân dự các cấp cần nắm chắc tình hình, bám sát sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên, kịp thời tham mưu, đề xuất các nội dung, hình thức, biện pháp đấu tranh, tập trung chỉ đạo phát triển các trang, nhóm; nâng cao chất lượng các trang nhóm hiện có; thành lập tổ viết bài chuyên sâu, phân công và định hướng viết tin, bài hằng tuần, tháng đăng tải trên các báo, tạp chí và tham gia đấu tranh trên không gian mạng. Làm tốt việc đánh giá, rút kinh nghiệm chất lượng hoạt động của Lực lượng 47, tập trung đẩy mạnh việc lan tỏa, chia sẻ tin bài, thu hút đông đảo các tầng lớp xã hội tham gia, tạo sức mạnh tổng hợp trong tuyên truyền và đấu tranh trên không gian mạng. Quan tâm bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ, năng lực, phân công cụ thể người kiểm duyệt tin, bài, không để lộ lọt thông tin thuộc bí mật quân sự, thông tin tạo sơ hở để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Tham mưu, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tăng cường tương tác chéo; tích cực tham gia các trang, nhóm trong và ngoài quân đội; đặc biệt tham gia và kết nạp thành viên các trang, nhóm của cựu chiến binh, cựu quân nhân, các tổ chức đoàn thể địa phương, để lan tỏa sâu rộng thông tin tích cực đến mọi tầng lớp nhân dân.

Thứ sáu, chủ động hướng dẫn, kiểm tra cơ quan, đơn vị làm tốt công tác bảo vệ, an ninh; xây dựng đơn vị trong sạch về chính trị, an toàn về mọi mặt, xây dựng đơn vị an toàn gắn với xây dựng địa bàn an toàn. Nắm chắc tình hình chính trị, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ và đơn vị, có biện pháp hướng dẫn phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời, không để thông tin xấu độc của các thế lực thù địch thâm nhập phá hoại nội bộ, mua chuộc, lôi kéo cán bộ, đảng viên, quần chúng trong lực lượng vũ trang địa phương. Chủ động hướng dẫn, phối hợp giữa các lực lượng, nắm chắc tình hình, phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu hành động chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; nhất là thủ đoạn thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” quân đội.

Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay, được xác định là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, lâu dài, khó khăn và quyết liệt. Do vậy, cơ quan chính trị – quân sự địa phương là cơ quan trung tâm, cơ quan hiệp đồng, cần chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong tham mưu, đề xuất và triển khai đồng bộ có trọng tâm, trọng điểm các giải pháp cơ bản trong đấu tranh phản bác hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng hiện nay. 

4. Kết luận

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng là một bộ phận của cuộc đấu tranh ý thức hệ, đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Thực hiện nhiệm vụ này là trách nhiệm chính trị của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Cơ quan chính trị địa phương với vai trò là cơ quan tham mưu, giúp việc của đảng ủy quân sự địa phương cần phát huy hơn nữa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang địa phương thuộc quyền đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên không gian mạng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn ở từng địa phương trong tình hình mới.

  ĐỘC LẬP DÂN TỘC PHẢI GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam luôn là một trong những chủ đề thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước quan tâm. Vấn đề này một lần nữa được đề cập và phân tích sâu sắc, đầy sức thuyết phục trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 

 

🌿 Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nào? Vì sao Việt Nam lại lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội?

 

Trên cơ sở tổng kết lịch sử phát triển của nhân loại, và từ bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa, C. Mác cho rằng: chủ nghĩa tư bản là chế độ áp lức bóc lột, tất yếu sẽ bị lịch sử vượt qua, thay thế nó bằng chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, C. Mác, Ph. Ănghen, và sau này là V.I. Lênin đã chỉ rõ quy luật ra đời của chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Vậy, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nào? Vì sao Việt Nam lại lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội? Về vấn đề này, trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn sai đường, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?”.

 

Xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là chế độ nữa phong kiến, nữa thuộc địa, đã thối nát và lạc hậu. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc hết sức sâu sắc, không thể điều hòa, điều kiện cho một cuộc cách mạng xã hội đang đến gần. Trong bối cảnh đó, đã có rất nhiều phong trào yêu nước chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi khắp Bắc, Trung, Nam. Từ phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo dài đến đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng có xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, phong trào có xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh, đến cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học. Các phong trào này đều sáng ngời tinh thần yêu nước theo những ý thức hệ khác nhau, từ những phong trào theo hệ tư tưởng phong kiến, theo lập trường nông dân, hoặc theo hệ tư tưởng tư sản, đều đã được lịch sử kiểm nghiệm, song tất cả đều lâm vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Thực tiễn đó cho thấy, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải tìm con đường khác, phù hợp với thực tiễn dân tộc và xu thế phát triển khách quan của thời đại.

 

Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911), theo tiếng gọi của ngọn cờ “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản, với mong muốn sang các nước tư bản phát triển để học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây để về giúp đồng bào thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Vì vậy, Người đã đến các nước tư bản phát triển như: Pháp, Anh, Mỹ và nhiều nước thuộc địa của các nước đế quốc, quan sát và tìm hiểu chủ nghĩa tư bản, tìm hiểu cuộc sống của người dân ở chính quốc và các nước thuộc địa. Từ đó, Người nhận ra rằng, các cuộc cách mạng dân chủ tư sản là không triệt để, vì cách mạng thành công nhưng chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số giai cấp tư sản, còn đông đảo quần chúng lao động vẫn chịu cảnh áp bức bóc lột. Vì vậy, nếu đi theo con đường dân chủ tư sản cùng lắm chỉ giải phóng được dân tộc. Điều đó không đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

 

Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã mở ra thời đại mới - quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Chính từ “tiếng vang” của Cách mạng tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Sau này như Người nói: giống như một mặt trời chói lọi, cách mạng Nga đã chiếu rọi khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính vì vậy, chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đến với Cách mạng tháng Mười, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó Người tin rằng: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Trong bối cảnh lịch sử đó, khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, thì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được cả dân tộc đón nhận như là hệ quả tất yếu. Bởi vì, “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.

 

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Trong đó, có nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là, trong cải tổ, Ðảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ðó là đường lối xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin của một số nhân vật lãnh đạo đảng. Chủ nghĩa đế quốc đã lợi dụng những khó khăn và sai lầm về đường lối của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu, chúng đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình”, “không đánh mà thắng”.” cực kỳ thâm độc, can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa.  Dĩ nhiên, chúng không thể làm được điều này, nếu cải tổ có đường lối đúng đắn, nếu hơn 20 triệu đảng viên cộng sản Liên Xô có tinh thần cảnh giác cách mạng và sức chiến đấu cao, không để nội bộ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” khiến cho bọn cơ hội, xét lại và phản bội thao túng cơ quan lãnh đạo của Ðảng, nếu có sự cố kết chặt chẽ giữa Ðảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô.

Trước hiện thực đó, Đảng ta chỉ rõ, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đó là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, chứ không phải là sự lạc hậu hay sụp đổ của một học thuyết khoa học và cách mạng, của chủ nghĩa xã hội khoa học. Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), trước những khó khăn và phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế, Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định con đường cách mạng của nước ta là “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đây cũng là lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta phác thảo ra mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đã đưa ra quan niệm, cách thức, biện pháp, bước đi phù hợp với điều kiện cụ thể đất nước. Để từ đó, chúng ta định hướng con đường, để không mắc phải những sai lầm, đồng thời khẳng định Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

 

🌿 Một vấn đề rất quan trọng được đề cập trong cuốn sách là, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào cho đúng và đầy đủ?

 

 Như V.I.Lênin từng nhắc nhở: các dân tộc sẽ tùy vào điều kiện cụ thể sẽ có những hình thức và bước đi khác nhau, song sớm hay muộn tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nếu chủ nghĩa xã hội trước Mác nó chỉ là mơ ước, khó trở thành hiện thực, thì chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ ra con đường, lực lượng, biện pháp, cách thức, bước đi để thực hiện được mục tiêu. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải nhận thức đúng bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình vận dụng và phát triển sáng tạo vào điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, những hạn chế, khó khăn của quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta không phải là bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà là do cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực không tuân theo những nguyên lý chỉ dẫn của chủ nghĩa xã hội khoa học và sự nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ. Vì vậy, “trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự  tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...”.

 

Từ quá trình đổi mới đất nước cho thấy, bên cạnh những thành tựu đạt được, thì còn có nhiều khó khăn, thách thức. “Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”. Chính điều đó, Đảng ta đã đưa ra đường lối lãnh đạo đúng đắn, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, “nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài…Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”. Những thành tựu đạt được đó đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Chủ nghĩa tư bản hiện có điểm chung là sự phát triển không đều và không phải cứ quốc gia nào đi theo chủ nghĩa tư bản thì đều phát triển, mà phần lớn là đói nghèo, xã hội bất ổn. Chính chủ nghĩa tư bản đang tạo ra khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc, dựa trên bóc lột người lao động, đó là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù, “từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức “tự điều chỉnh”, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó… Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: Đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế…Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ…”. Vì thế, chủ nghĩa tư bản không phải là mục tiêu của nhân loại, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải quyết được những tồn tại, bất công mà chủ nghĩa tư bản đã và đang tạo ra, đưa xã hội loài người đến dân chủ, công bằng, văn minh.

 

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, chỉ bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, hay nói cách khác là bỏ qua việc xác lập thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa, còn những thành tựu nhân loại đạt được dưới chủ nghĩa tư bản chúng ta phải kế thừa để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhất là những thành tựu về kinh tế, khoa học và công nghệ. Do đó, chúng ta bỏ qua mà không bỏ qua, chỉ bỏ qua chế độ chính trị áp bức bóc lột. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện.

 

Đặc biệt, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng… Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

 

Dù thời thế có đổi thay, nhưng mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta là không bao giờ thay đổi. Độc lập dân tộc là điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội, ngược lại chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc. Vì đây là mục tiêu đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đương nhiên, vấn đề không chỉ là mục tiêu, lý tưởng, mà điều không kém phần quan trọng là phải tìm ra giải pháp, bước đi, cách làm khoa học, sáng tạo nhằm thực hiện cho bằng được mục tiêu, lý tưởng đã xác định. Chủ nghĩa xã hội của chúng ta xây dựng là chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa xã hội đổi mới đúng đắn trên tinh thần phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn đất nước. Với những đặc trưng và phương hướng, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có giá trị khoa học và thực tiễn rất to lớn, là định hướng chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Mỗi cán bộ, đảng viên cần quán triệt, tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân, để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động, phát huy sức mạng tổng hợp trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

 

 

 

 VIỆT NAM KIÊN ĐỊNH CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG "BỐN KHÔNG" TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ

 

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 đã nêu rõ, chủ trương của Việt Nam là không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

 

Quan điểm và chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam nhằm mục đích hòa bình, tự vệ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay, đã xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng, chính sách “bốn không” của Việt Nam đã không phù hợp, thực hiện chính sách “bốn không”, Việt Nam sẽ bị cô lập trong cộng đồng quốc tế.

 

Những liên minh quân sự có thể làm gia tăng sức mạnh quân sự, quốc phòng của các nước thành viên; tạo sự chuyển hóa về thế trận và lực lượng quân sự trên chiến trường; tạo thêm uy tín, vị thế và sức mạnh cho quốc gia tham gia liên minh trong những thời điểm nhất định. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ tồn tại các liên minh quân sự trên, tình hình khu vực, thế giới luôn căng thẳng, bởi các liên minh này đối đầu nhau, nhất là khi giữa họ có những mâu thuẫn về lợi ích. Họ công khai hoặc ngầm chạy đua vũ trang, tăng cường sự hiện diện quân sự, đẩy mạnh hoạt động khiêu khích, lôi kéo các quốc gia, khu vực đến gần hiểm họa chiến tranh. Mà Việt Nam chúng ta cũng là nạn nhân của cuộc chiến tranh nóng đó vào những năm 60 – 70 của thế kỷ trước.

 

Trong chính sách quốc phòng Việt Nam, chúng ta chủ trương không liên minh quân sự bởi đó là giải pháp hiệu quả để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cũng như lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam không thể dựa vào bất kỳ liên minh quân sự nào, hiệp ước quân sự nào, càng không thể trông chờ, ỷ lại vào nước ngoài, mà phải bằng chính bản lĩnh, trí tuệ, thực lực, bằng đoàn kết đồng lòng của triệu triệu con người Việt Nam dù sống ở bất cứ đâu trên trái đất này.

 

Trên thế giới chưa bao giờ có nước nào có thể hy sinh lợi ích của dân tộc mình chỉ vì lợi ích của một dân tộc khác. Chính vì vậy, trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, dù là thời bình hay thời chiến, không thể ảo tưởng trông chờ sự trợ giúp của nước ngoài, không tham gia liên minh quân sự với nước khác. Quan điểm xuyên suốt của Việt Nam là mở rộng quan hệ quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy của bạn bè quốc tế, đồng thời phải tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, xây dựng thực lực sức mạnh tổng hợp quốc gia, kết hợp với sức mạnh của thời đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè và cộng đồng quốc tế. Việt Nam không chọn bên, không đi theo một cường quốc nào, không dựa hẳn vào một cường quốc nào để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc mình. Chính vì vậy, chúng ta không hề mâu thuẫn khi một mặt mở rộng quan hệ quốc tế, mặt khác chúng ta không tham gia liên minh quân sự, không liên kết nước này để chống nước kia.

 

Chính sách quốc phòng “4 không” của Việt Nam không phải bất biến, cứng nhắc mà luôn có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn. Hiện tại, chúng ta hoàn toàn đủ khả năng để kiểm soát được tình hình an ninh, không để nảy sinh xung đột và xảy ra chiến tranh. Tuy nhiên, khi đất nước xảy ra nguy cơ chiến tranh thì Đảng, Nhà nước ta sẽ hoạch định những chiến lược, chính sách quốc phòng phù hợp.

 

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 chỉ rất rõ rằng: “Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, chúng ta sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Hiện nay quan hệ ngoại giao nhà nước Việt Nam “phủ sóng” tới 189 trong tổng số 200 quốc gia trên toàn thế giới. Quan hệ đối ngoại quốc phòng của ta ngày càng rộng mở, chúng ta có quan hệ quốc phòng với trên 80 quốc gia thuộc cả 5 châu lục, đặc biệt chúng ta có quan hệ quốc phòng với tất cả 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là những quốc gia có vai trò, có ảnh hưởng chủ chốt trong duy trì hòa bình và an ninh thế giới.

 

Đây là điều chưa từng có từ trước tới nay. Điều đó chứng tỏ chúng ta chẳng bị ai cô lập, trái lại, còn mở rộng không ngừng quan hệ đối ngoại. Điều đó là cơ hội thuận lợi để chúng ta ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh, duy trì hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.

 

Lịch sử dân tộc ta trải qua mấy nghìn năm, công cuộc dựng nước luôn đi đôi với giữ nước. Chính sách quốc phòng "bốn không" được đúc kết từ truyền thống giữ nước đó và ngày càng chứng minh sự đúng đắn, phù hợp với Việt Nam.

 

 

 LẬT TẨY CHIÊU BÀI “YÊU NƯỚC” CỦA CÁC PHẦN TỬ PHẢN ĐỘNG, THÙ ĐỊCH.

 

Âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch là xuyên tạc, bóp méo các sự kiện chính trị, lợi dụng các vụ việc phức tạp, nhạy cảm, các sự kiện chính trị quan trọng liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác cứu trợ bão lụt, công tác phòng chống COVID-19. Chúng tung tin thất thiệt trên các trang mạng xã hội gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp. Một trong những thủ đoạn của chúng là sử dụng chiêu bài “Yêu nước” để xúi dục lôi kéo những phần tử chống đối, manh động, những quần chúng thiếu tỉnh táo nhằm phục vụ cho mục đích phá hoại của chúng.

Trên mặt trận Chính trị ngoại giao:

Quan điểm đường lối của Đảng rõ ràng, đối tượng, đối tác chiến lược của ta công khai minh bạch. Vị thế đất nước ta ngày càng được đánh giá cao trên trường quốc tế, vì sao các thế lực chống đối sao không sử dụng các phương tiện thông tin và mạng lưới của họ để tuyên tuyền chủ trương đường lối của Đảng đến với bạn bè quốc tế mà lại thường xuyên, xuyên tạc bóp méo sự thật, phá hoại đường lối ngoại giao đúng đắn của đảng và nhà nước, hành động đó là “Yêu nước” hay “Phá hoại đất nước”?.

Về vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông:

Chủ trương đường lối của Đảng về độc lập dân tộc, về Quốc phòng an ninh rất đầy đủ và nhất quán. Kết quả cho thấy độc lập dân tộc được khẳng định và giữ vững, thông qua đối thoại hòa bình và công ước quốc tế về luật biển năm 1982 chúng ta kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với những hành động xâm phạm quyền tài phán, và an ninh quốc gia trên biển, vùng đặc quyền kinh tế, các điểm đảo chúng ta đang quản lý đều được bảo vệ toàn vẹn. Trong khi đó các thế lực thù địch lại lợi dụng những hình ảnh về vũ khí trang bị hiện đại trên mạng, để phóng đại tiềm lực quân sự Việt Nam, dùng những lời lẽ kích động, những tuyên bố trái với chủ trương hòa bình, xúi dục giải quyết tranh chấp bằng vũ lực. Nếu một cuộc chiến tranh bằng vũ lực nổ ra, những ai là người chịu sự tác động nặng nề nhất do chiến tranh mang lại? Đối tượng vẫn rêu rao là “Yêu nước” lúc này ở đâu?. Và sẽ làm gì để kết thúc chiến tranh, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ?. Xúi dục, mong muốn cho đất nước có chiến tranh phải chăng là “Yêu nước”?.

Thời gian qua và hiện tại toàn đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị của ta đang vào cuộc thực hiện công tác phòng chống COVID-19; Trong khi đó chúng đứng ngoài công kích phá hoại; chúng lợi dụng những khó khăn trước mắt của những người dân vùng dịch, những sai sót không đáng có của một số ít cán bộ làm nhiệm vụ chống dịch để đả phá chủ trương biện pháp chống dịch của nhà nước, xúi dục nhân dân vùng dịch bất tuân chính sách …. Chúng bỏ ra một chút ít vật chất gọi là “hỗ trợ đồng bào khó khăn” nhằm tranh thủ lôi kéo sự ủng hộ, mở mang lực lượng; Thử hỏi với số tiền ủng hộ cỏn con ấy liệu có giúp ích gì cho công cuộc chống dịch như chống giặc của nhân dân ta?. Xúi dục chống phá đường lối, kích động gây mất ổn địch phải chăng là “Yêu nước”?. Giả sử có bạo động biểu tình nổ ra, lợi ích sẽ thuộc về nhân dân lao động, về đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước hay thuộc về những kẻ ném đá giấu tay, những kẻ đi ngược lại quyền và lợi ích chính đáng của dân tộc?.

Qua một số minh chứng rõ ràng trên, chúng ta cần hết sức tỉnh táo, đấu tranh không khoan nhượng và cảnh giác với ngôn từ “Yêu nước”? của kẻ thù, tránh sập bẫy, mắc mưu tiếp tay cho chúng để phá hoại đất nước./.

 

 PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỂM SAI TRÁI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, dù là nước lớn hay bé, phát triển hay đang phát triển, đều xây dựng cho mình những chủ thuyết, bao gồm hệ thống các quan điểm, nhận thức, tư tưởng mang tính lý thuyết nhằm định hướng cho sự phát triển của quốc gia. Hệ thống tư tưởng định hướng này được cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương, chính sách, sách lược, chiến lược… nhằm hiện thực hóa những mục tiêu phát triển của các quốc gia, dân tộc trong thực tế. Chính nhờ được trang bị hệ thống lý luận khoa học, con tàu cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi đến đài vinh quang, sánh vai cùng bạn bè trên thế giới, đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay…”[1].

Trong phạm vi hội thảo, tác giả tập trung phê phán các luận điệu, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch phủ nhận thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận quan điểm có tính nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; bác bỏ quan điểm của các thế lực thù địch về yêu cầu xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo học thuyết tam quyền phân lập:

Thứ nhất, kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch phủ nhận thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Năm 1994, lần đầu tiên quan điểm, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII giữa nhiệm kỳ. Đây là quá trình mở đầu từ đúc kết, kế thừa có chọn lọc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại và quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm dụng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự thống nhất của Trung ương”[2].

Trong quá trình đổi mới và cải cách đó, chúng ta nhận rõ một sự thăng hoa rõ rệt của nhận thức lý luận của Đảng ta trong vấn đề Nhà nước pháp quyền. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đưa yêu cầu đó lên thành quy tắc hiến định (Điều 2 Hiến pháp 1992 được sửa đổi năm 2001 và nay tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013) thể hiện sự thừa nhận và sự kết hợp tính phổ biến của một giá trị lịch sử nhân loại với những nét đặc trưng, những giá trị độc đáo của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đánh giá về thành tựu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[3]. Những thành tựu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được thực tiễn kiểm nghiệm, hoàn toàn bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch cho rằng, nhà nước pháp quyền chỉ có thể thành công ở mô hình tư bản chủ nghĩa, gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Thứ hai, bác bỏ luận điệu sai trái, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là nguyên tắc Hiến định mang tính giai cấp sâu sắc, nguyên tắc bảo đảm sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp cách mạng xã hội của nước ta là sự nghiệp cách mạng của toàn dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận hợp thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời là lực lượng lãnh đạo hệ thống đó. Vì vậy, Nhà nước là một thành viên trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa tất yếu phải do Đảng lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng. Mọi hoạt động của Nhà nước, cũng như việc tổ chức xây dựng và phát huy vai trò hiệu lực của Nhà nước trong điều hành quản lý xã hội đều phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, ngoài ra không lực lượng nào có quyền nắm và lãnh đạo Nhà nước. Đây là vấn đề thuộc về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, đồng thời cũng là một nguyên tắc hiến định, đã được ghi trong Hiến pháp năm 1992 và nay là Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện: Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ thể và lãnh đạo tổ chức nhân dân thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách; lãnh đạo Nhà nước tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức; Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước làm tham mưu cho Đảng; phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước và bảo vệ Nhà nước.

Hiện nay, các thế lực thù địch đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu hòng bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội. Chúng lên tiếng cho rằng, ở Việt Nam không có “pháp trị”, chỉ có “đảng trị”. Đây là thủ đoạn nham hiểm của các lực lượng chống đối Đảng Cộng sản lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu những năm 80 của thế kỷ trước, tiếc rằng có một số người vẫn cổ xúy cho thủ đoạn trên, mà không biết những hậu quả khôn lường đối với đất nước, đối với xã hội, đối với người dân khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị đặt ngoài Hiến pháp. Những người có lương tri trên thế giới không thể không nhớ đến sự kiện Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã năm 1991, những người dân chủ cấp tiến hả hê khi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản bị đặt ngoài Hiến pháp, khi Điều 6 Hiến pháp Liên Xô năm 1977 (sửa đổi, bổ sung năm 1988) bị phá bỏ. Trên đất nước đó, sau những biến cố thăng trầm, chính Tổng thống Nga V. Putin trong cuộc gặp các đảng phái chính trị của Nga tại Điện Kremlin ngày 23/9/2016 cho rằng,Liên Xô sụp đổ là thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ XX, sự kiện Liên Xô sụp đổ không chỉ là thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ XX mà rất có thể là cả trong lịch sử chính trị thế giới, để lại những hậu quả có tính toàn cầu về tư tưởng, văn hóa, chính trị, kinh tế – xã hội và an ninh.

Những ai đó nếu còn phản bác, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp, trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thiết tưởng cần nhớ Điều 6, Hiến pháp Liên Xô năm 1977 (sửa đổi, bổ sung năm 1988) quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị phá vỡ, để lại những hậu quả nặng nề trong không gian hậu Xô viết cho đến ngày nay.

Thứ ba, tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; không áp dụng học thuyết tam quyền phân lập trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Đặc trưng cơ bản, chung nhất của Nhà nước pháp quyền là quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong từng nước khi giải quyết các vấn đề tổ chức quyền lực của nhà nước cũng đều xuất phát từ đặc điểm thực tiễn riêng của mỗi nhà nước khác nhau. Ở một số nhà nước trên thế giới, do xuất phát từ thể chế chính trị, đặc điểm lịch sử hình thành… có tổ chức nhà nước theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”, tức là phân lập các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với những hình thức và mức độ khác nhau. Về bản chất, dưới khoa học chính trị học, đây thực chất là sự phân chia quyền lực giữa các đảng phái. Tuy vậy, trên thực tế cũng chưa có một nước tư bản nào thực hiện đúng nguyên tắc tam quyền phân lập, mà đều áp dụng linh hoạt phù hợp với tình hình của từng nước.

Ở nước ta, khi thảo luận vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng có ý kiến cho rằng cần phải xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở nguyên tắc tam quyền phân lập dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, Đại hội IX của Đảng đã dứt khoát khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[4]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[5]. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản trong tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước tư sản, là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà tổ chức quyền lực theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất”, không thể “phân quyền” theo lối phân chia, cắt khúc, đối chọi lẫn nhau giữa các quyền, mà chỉ có sự phân công trên cơ sở thống nhất và tập trung quyền lực cao nhất ở Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Các quan điểm chủ đạo của Đảng ta về xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã gắn chặt với sắc thái truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, cùng với các giá trị dân chủ, nhân đạo, nhân văn, nhân ái của nhân loại. Mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng phù hợp với các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc vận dụng một cách sáng tạo và có chọn lọc những kinh nghiệm khác nhau của các dân tộc về cách thức tổ chức Nhà nước pháp quyền, ưu tiên những giá trị có tính phổ biến, kết hợp hài hoà với các giá trị truyền thống, những đặc điểm phát triển và lịch sử phát triển đất nước. Mọi yêu cầu, đòi hỏi hay đề nghị, kiến nghị Việt Nam phải “tam quyền phân lập” chỉ là thủ đoạn, âm mưu phá hoại, biến đất nước thành nơi hoang tàn, đổ nát.

Bên cạnh đó, cũng cần phải nói, không phải chỉ tổ chức bộ máy nhà nước theo “tam quyền phân lập” mới kiểm soát được quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng, nhưng cũng rất phức tạp. Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả sẽ là điều kiện để thực hiện được những mục đích đã đề ra, mang lại hạnh phúc và nhiều lợi ích nhất cho nhân dân, đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình nắm giữ, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thường tiềm ẩn rất nhiều những nguy cơ khác nhau như tham nhũng, lãng phí, lạm quyền… Vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng trong quản lý nhà nước trên thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng, đây cũng chính là ước vọng hàng nghìn năm của nhân loại tiến bộ. Ở nước ta, thuật ngữ “kiểm soát” lần đầu tiên được hiện diện trong văn kiện của Đảng và thể chế hóa quan điểm đó, tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta không cần phải áp dụng cơ chế tam quyền phân lập, bởi các nhánh quyền lực của nhà nước ta không phải “nhánh quyền lực của phe nhóm này chống lại phe nhóm kia, vốn là gốc rễ của cơ chế tam quyền phân lập”.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định “là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Chúng ta tin tưởng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo – chính đảng được trang bị hệ thống lý luận sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết bác bỏ những luận điệu xuyên tạc phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phủ nhận nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của Nhà nước ta.

Đại tá, TS NGUYỄN HỮU PHÚC

Chủ nhiệm Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.85-86.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.71.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131-132.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.85.

Có thể là hình ảnh về 1 người

 

HOA ĐẸP MIỀN ĐÔNG

Gửi tin nhắn

3232

2 bình luận

5 lượt chia sẻ

Thích

Bình luận

Chia sẻ