Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2024

TĂNG CƯỜNG ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 

Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, hàng đầu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.

Nhận rõ những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động, thoái hóa, cơ hội chính trị, bất mãn gây ra
Nền tảng tư tưởng của Đảng là một bộ phận quan trọng cấu thành đời sống chính trị, tinh thần, nhân tố căn bản, cốt lõi tạo cơ sở, tiền đề quyết định mọi hoạt động xây dựng, sinh hoạt và lãnh đạo của Đảng. Một khi nền tảng tư tưởng của Đảng thay đổi, tất yếu dẫn tới sự thay đổi mục tiêu, lý tưởng, nguyên tắc tổ chức, phương hướng hoạt động chính trị. Do đó, các thế lực thù địch, chống cộng xác định, để thực hiện mục tiêu chống phá, vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tập trung mũi nhọn để tấn công nhằm phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, chúng luôn tận dụng tối đa các phương tiện truyền thông, internet, phát triển thêm nhiều trang mạng xã hội và blog; triệt để lợi dụng các yếu kém trong quản lý, phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ đảng viên, tâm trạng băn khoăn trong nhân dân,… để tuyên truyền, kích động chia rẽ nội bộ, nói xấu cán bộ, hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng, các thế lực thù địch cho rằng, du nhập chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa vì chủ nghĩa Mác – Lê-nin là tư tưởng ngoại lai, chỉ phù hợp với một chừng mực nào đó với trình độ, lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, không phù hợp với thế kỷ này, với truyền thống dân tộc Việt Nam. Và họ đưa ra luận điệu rằng, tại sao các nước theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin chưa thể là nước phát triển, còn tất cả các nước phát triển trên thế giới hiện nay đều không tuân theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Gần đây chúng chuyển sang luận điệu: “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa, ngay cả các cán bộ cấp cao”. Đồng thời, đưa ra các luận điệu: “đấu tranh giai cấp”, “tập trung dân chủ” là cổ vũ cho bạo lực, cho chiến tranh, cho độc quyền, độc đoán, thủ tiêu dân chủ, không phù hợp với xu thế thời đại, do đó không thể thúc đẩy xã hội phát triển.
Phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là không có cơ sở; Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc, không phù hợp với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, nên phải tách tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, cho rằng hình thái kinh tế xã hội chỉ là một lý thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng, không bao giờ thực hiện được; theo đó, sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu, Liên Xô là một tất yếu. Cho rằng, nhà tư bản bóc lột công nhân nào khi hiện nay các nhà máy, công xưởng toàn các rô bốt làm việc; rằng, chủ nghĩa xã hội đặt xã hội lên trên cá nhân chỉ là đề cao một số người đang nắm quyền trong xã hội đó.
Tấn công vào đường lối của Đảng, các thế lực thù địch cho rằng, không thể làm trái quy luật bỏ qua chế độ tư bản vì hiện nay Việt Nam đang xây dựng và phát triển chủ nghĩa tư bản, chỉ khác là dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vậy nên, cần giải quyết các vấn đề xã hội ở chừng mực nào đó, theo chủ nghĩa xã hội dân chủ là tốt nhất. Chúng rêu rao: Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường sai, không thể có chủ nghĩa xã hội. Không ít kẻ đã lớn tiếng rằng, “chủ nghĩa xã hội chính là bước quá độ từ chủ nghĩa xã hội nghèo đói tiến tới chủ nghĩa tư bản, những ước mơ của chủ nghĩa xã hội thì chính chủ nghĩa tư bản đã thực hiện rồi, rằng người ta có thể dễ dàng tìm thấy ở chủ nghĩa tư bản những lời giải đáp đầy đủ cho mọi vấn đề được đặt ra trong đời sống loài người. Tóm lại, người ta muốn nói những người Mác xít bàn về chủ nghĩa xã hội chẳng khác nào bàn về hư vô”.
Tấn công vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các thế lực thù địch đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp, đòi đa đảng. Họ tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là vào nguyên tắc tập trung dân chủ, bằng việc vu cáo Đảng Cộng sản chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “độc đoán, đảng trị”. Gần đây, chúng đưa ra luận điệu: Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, điều kiện hiện nay không còn phù hợp nữa, nên để lực lượng khác, mới đưa đất nước tiến lên.
Một số người không phủ nhận hoàn toàn tính chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội nhưng lại phê phán C. Mác về luận điểm đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, cho rằng những luận điểm này làm nghèo đi những hình thức tiến hóa của xã hội, khuyến khích thù hận, mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp liên miên. Dựa vào một số “cải cách” ở các nước tư bản và nhất là dựa vào các mô hình xã hội dân chủ Thụy Điển, Phần Lan, họ cho rằng từ chủ nghĩa tư bản tiến sang chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải thông qua cách mạng xã hội mà cứ để cho nó phát triển tự nhiên, thông qua việc mở rộng dân chủ, đấu tranh nghị trường để nhân dân tự lựa chọn chế độ chính trị mới.
Về sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân, chúng cho rằng, giai cấp công nhân chỉ là những người có học vấn thấp, những lãnh tụ của giai cấp công nhân cũng thường có trình độ văn hóa không cao, “lại được đào luyện trong một lôgíc chuyên chế bạo ngược”, cho nên giỏi lắm cũng chỉ có thể lật đổ chế độ cũ, chứ không thể lãnh đạo toàn dân xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, nhất là trong thời đại khoa học phát triển. Họ lập luận: “Nếu như giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là “người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”, xây dựng một xã hội mới thì tại sao ở những nước tư bản phát triển có lực lượng công nhân rất đông, chất lượng cao lại không thực hiện được vai trò lịch sử của mình? Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp công nhân được, vì nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến. Vì thế, nhiều cán bộ cao cấp của Đảng chỉ phấn đấu leo cao để tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Với những điều kiện như trên, giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản không thể lãnh đạo, xây dựng được chủ nghĩa xã hội đích thực ở Việt Nam”, v.v.
Góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Ban Bí thư và Bộ Chính trị, sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng, sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của các cấp ủy đảng, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị, cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng đã được tiến hành rộng khắp trên các lĩnh vực, đạt được kết quả quan trọng. Hầu hết cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang, các tầng lớp nhân dân đều có nhận thức đúng về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được giữ vững, khẳng định địa vị thống trị trong đời sống chính trị - tinh thần ở nước ta, trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Mặc dù vậy, hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có mặt chưa cao; một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân còn bị ảnh hưởng bởi những quan điểm sai trái, thù địch, dẫn đến hoài nghi, thiếu tin tưởng vào nền tảng tư tưởng của Đảng, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Trước tình hình đó, để tăng cường sự thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, tạo đồng thuận xã hội, thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, chuẩn bị thấu đáo, chất lượng, hiệu quả cho Đại hội XIII sắp tới, chúng ta cần quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị một cách hiệu quả nhất, hướng tới chủ đích là củng cố niềm tin, sao cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vững tin vào chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào sự tất thắng của sự nghiệp cách mạng, quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi tư tưởng đã thông suốt, niềm tin có cơ sở khoa học vững chắc, trở thành chất keo đặc biệt gắn kết quan hệ giữa Đảng với nhân dân, đưa tới thống nhất về hành động, làm cho cả dân tộc đồng lòng, chung sức, tạo thành lực lượng vật chất vô cùng to lớn, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Để thực hiện được, trước hết các cấp ủy đảng cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò quản lý, điều hành của chính quyền, vai trò tham mưu của cơ quan các cấp đối với công tác đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, thù địch. Tập trung xây dựng tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xác định mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh tư tưởng đúng đắn, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Lãnh đạo hoàn thiện hệ thống pháp luật, các quy chế quản lý thông tin, báo chí, xuất bản, cơ chế cung cấp thông tin, phát ngôn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính trị nội bộ, công tác tổ chức, cán bộ; phòng, chống nội gián, bảo vệ bí mật Quốc gia. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy các cấp trong phát hiện, xử lý những phần tử “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cơ hội chính trị; giải quyết triệt để các vấn đề nảy sinh, phòng ngừa, ngăn chặn sự can thiệp, móc nối của các thế lực thù địch.
Hai là, tăng cường và nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị, tư tưởng, “sức tự đề kháng” cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang và nhân dân. Để làm được điều đó, cần chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống các nhà trường; đổi mới chương trình, nội dung giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị và giảng viên các môn khoa học xã hội và nhân văn phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Tăng cường giáo dục những nguyên lý cơ bản, giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng, phát triển của Đảng. Tuyên truyền sâu rộng những giá trị văn hóa truyền thống, bài học kinh nghiệm lịch sử trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Đồng thời, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức đầy đủ, sâu sắc về đối tượng, âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay; thấy rõ đây là cuộc đấu tranh có tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp và hết sức quyết liệt. Nhận thức rõ đối tượng, đối tác trong điều kiện nước ta hội nhập hợp tác quốc tế sâu hơn, toàn diện hơn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh. Chủ động cung cấp thông tin cho cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo về hưu, văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên, v.v. Từ đó, định hướng dư luận, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch.
Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, góp phần làm rõ, bổ sung và hoàn thiện nền tảng tư tưởng; cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục nghiên cứu khẳng định và cụ thể hóa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các giá trị bền vững phù hợp với thực tiễn của Việt Nam; làm rõ các vấn đề cần bổ sung, phát triển; nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh và sự bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin của Hồ Chí Minh. Đối với những trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, cần nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ; đồng thời, chủ động nghiên cứu, phê phán bản chất phản khoa học, phản cách mạng của các quan điểm sai trái, thù địch bằng các luận cứ khoa học và minh chứng bằng thực tiễn một cách thuyết phục. Quan tâm nghiên cứu để dự báo sớm tình hình thế giới, khu vực và trong nước, những điều chỉnh chiến lược của các nước lớn; dự báo âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, xu hướng vận động của nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,… để xây dựng kế hoạch, nội dung, phương thức đấu tranh cho phù hợp, hiệu quả.
Bốn là, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chức năng, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch. Xây dựng và thực hiện tốt cơ chế, quy chế phối hợp giữa các ban, bộ, ngành của Trung ương, cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương để phát hiện kịp thời, đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Duy trì, thực hiện tốt chế độ giao ban phản ánh tình hình, trao đổi thông tin, thống nhất biện pháp phối hợp đấu tranh; không để chúng lợi dụng những yếu kém, bất cập trong quản lý, điều hành của Đảng và Nhà nước để xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đa dạng hóa các hình thức đấu tranh, kết hợp tuyên truyền, giáo dục với các biện pháp tổ chức, cán bộ, kiểm tra, giám sát; giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” làm chính. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ động, kịp thời thông tin làm rõ sự thật, định hướng tư tưởng, dư luận cho nhân dân, nhất là trước những sự kiện nhạy cảm, phức tạp, tạo sự thống nhất cao đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Xây dựng các chuyên trang, chuyên mục, chương trình, tăng thời lượng đăng tải các tin, bài đấu tranh trên các ấn phẩm, phương tiện truyền thông.
Năm là, chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt, chuyên sâu trong đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch. Đó là những cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ lý luận cao, có khả năng diễn đạt, luận chiến thuyết phục, có nhiệt huyết, dũng khí, quyết tâm đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chú trọng nâng tầm lý luận sắc sảo, kinh nghiệm đấu tranh; bảo đảm cơ sở vật chất, chính sách đãi ngộ thích đáng cho đội ngũ những nhà khoa học, cán bộ chủ trì, chủ chốt ở các viện nghiên cứu, học viện, nhà trường, cơ quan, đơn vị ở Trung ương và các địa phương, đội ngũ phóng viên, biên tập viên các cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản - lực lượng nòng cốt, tiên phong trong đấu tranh bảo vệ trận địa tư tưởng của Đảng. Chủ động áp dụng các biện pháp kỹ thuật để chặn lọc thông tin, không để các thế lực thù địch lợi dụng internet chống phá.
Đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc chiến đấu lâu dài, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, các cấp, các ngành, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, Nhà nước, bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước./.

Di chúc Bác Hồ mang giá trị lịch sử và thời đại của Việt Nam và thế giới

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử có giá trị thực tiễn và lý luận sâu sắc không chỉ đối với Việt Nam mà với cả thế giới. Nhà sử học người Anh John Callow đã đánh giá như vậy khi trả lời phỏng vấn của phóng viên nhân kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ.

Theo nhà sử học John Callow - cựu Giám đốc Trung tâm lưu trữ, Bảo tàng Thư viện Marx tại London, Di chúc không mang tính giáo điều, máy móc, mà là kim chỉ nam cho hành động và nguyên tắc chính trị, có tính chất như một cương lĩnh chính trị chứa đựng những giá trị vĩnh cửu, là hướng dẫn hành động có thể vận dụng sáng tạo trong mọi tình huống.

Đánh giá tổng thể, nhà sử học người Anh cho rằng Di chúc đi sâu vào hầu hết mọi lĩnh vực, đúc kết mọi tư tưởng, hy vọng và mơ ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như những nền tảng tư tưởng, đạo đức và phong cách của Bác, là sự tổng kết cuộc đời của một lãnh tụ khiêm nhường, gương mẫu và luôn đặt nhân dân trong tim.

Di chúc Bác Hồ mang giá trị lịch sử và thời đại của Việt Nam và thế giới

 Di chúc Bác Hồ. Ảnh tư liệu: hochiminh.vn

Là một người từng có nhiều năm nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh và là một người bạn lâu năm của Việt Nam, ông John Callow cho rằng, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện về sự tin cậy và lòng tin giữa lãnh đạo và nhân dân, ghi lại chân thực những hy vọng, ước mơ và khát vọng của Bác đối với hậu thế. Với tư tưởng nhân văn sâu sắc, Di chúc mang đến cho người dân Việt Nam tinh thần lạc quan rằng con đường phía trước, dù khó khăn đến mấy, đích đến cuối cùng sẽ là một xã hội bình đẳng, công bằng, nơi phụ nữ được coi trọng như nam giới, nơi trẻ em có thể phát huy hết tiềm năng. Theo nhà sử học, đối với Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có tính chất như bản Hiến pháp thứ hai, chứa đựng những giá trị cao quý về tư tưởng, đạo đức và phong cách của Bác.

Ông John Callow chỉ rõ Di chúc bảo vệ các quyền, hy vọng và ước mơ của người dân Việt Nam từ phụ nữ, nam giới đến trẻ em và việc tiếp bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ đã chọn và dẫn dắt.

Nhà sử học đã đặc biệt ấn tượng về giá trị nhân văn sâu sắc thể hiện trong Di chúc của Bác khi cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đau đáu nỗi đau của đồng bào, của cả dân tộc bị chiến tranh tàn phá, bởi chất độc màu da cam, bom napalm… Trên con đường đã chọn, Bác chấp nhận những khổ đau, mất mát này vì tương lai của dân tộc, với niềm tin đó là những hy sinh xứng đáng.

Nhà sử học khẳng định, chắt lọc chỉ trong vài trang giấy, Di chúc hội tụ những yếu tố cốt lõi của Tư tưởng Hồ Chí Minh, với những vần thơ lục bát bên cạnh sự tôn vinh chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là sự kết hợp giữa cái mới và cái cũ, cái bất biến, cái vĩnh cửu, đồng thời cũng là đỉnh cao của tư tưởng chính trị, khoa học và công nghệ với mục đích phục vụ nhân dân.

Theo sử gia người Anh, dù thế giới đã đổi thay, nhưng Di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mang lại nguồn sống, chứa đựng sức mạnh và truyền cảm hứng cho người dân Việt Nam cũng như tất cả những người dân tiến bộ trên thế giới.

Ông Callow nhấn mạnh trong 55 năm qua, Việt Nam đã thực hiện Di chúc theo đúng tinh thần của Bác, đồng thời tiếp thu những giá trị và tinh hoa của các nước trên thế giới.

55 năm thực hiện Di chúc Bác Hồ: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tấm gương vĩ đại trong cuộc đấu tranh chống thực dân

 Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những tấm gương vĩ đại trong cuộc đấu tranh của các dân tộc trên thế giới chống lại sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân và đế quốc vì độc lập và tự do. Đây là lời khẳng định của quyền Tổng bí thư Đảng Cộng sản Argentina, Jorge Kneyness.

Trả lời phỏng vấn phóng viên tại Buenos Aires ngày 24-8 nhân chuyến công tác tại Argentina của đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Kneyness nhấn mạnh cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một di sản toàn diện về tư tưởng, đạo đức và phong cách trên nhiều phương diện, trong đó đặc biệt là việc luôn gắn lý luận với thực tiễn, điều cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị thời đại.

Quyền Tổng bí thư Kneyness, kiêm Trưởng ban Đối ngoại Trung ương, đánh giá Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng một Đảng Cộng sản vững mạnh ở Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã dẫn dắt nhân dân đấu tranh chống lại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Ông Kneyness bày tỏ: “Chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ và tôn trọng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức ở thế giới thứ ba, trong đó có tư tưởng về quân sự. Đó là kết quả của việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn trong những điều kiện lịch sử nhất định, là sự tiếp thu vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng quân sự của dân tộc và tinh hoa quân sự nhân loại. Cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng”.

Đánh giá cao tư tưởng đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền Tổng bí thư Kneyness khẳng định, những quan điểm của Người trong công tác ngoại giao không chỉ có giá trị to lớn trong lịch sử, mà còn là kim chỉ nam soi sáng con đường bảo vệ đất nước, xây dựng, phát triển và hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam. Di sản Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại đã làm nên vị thế và vai trò vững mạnh của Việt Nam ngày hôm nay trên trường quốc tế. Đề cập tới quan hệ giữa Đảng Cộng sản Argentina và Đảng Cộng sản Việt Nam, quyền Tổng bí thư Kneyness đánh giá cao tình đoàn kết, hữu nghị và hợp tác giữa hai Đảng Cộng sản và khẳng định chuyến thăm của đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam, do đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa dẫn đầu, là minh chứng cho mối quan hệ này, qua đó góp phần củng cố mối quan hệ tốt đẹp hơn 50 năm giữa hai đất nước, hai dân tộc.

Quyền Tổng bí thư Kneyness nhấn mạnh để tăng cường trao đổi và nghiên cứu giữa hai Đảng Cộng sản, Đảng Cộng sản Argentina sẽ thành lập Trung tâm nghiên cứu về Việt Nam để tìm hiểu chủ trương, chính sách, những kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng và phát triển đất nước, cũng như quảng bá thành tựu kinh tế - xã hội và hình ảnh một đất nước Việt Nam hiện đại, hội nhập. Dự án này có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng của các dân tộc yêu chuộng hòa bình và tiến bộ. Trong bối cảnh phức tạp của thế giới hiện nay, những thành quả trong công cuộc Đổi mới tại Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, rất cần được nghiên cứu, học tập và nhân rộng.

Ông Kneyness cũng đánh giá cao sự hiện diện của đoàn đại biểu cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Uruguay tại Hội thảo mang tên “Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan hệ Việt Nam - Mỹ Latinh” được tổ chức ngày 22-8 tại Trung tâm Nghiên cứu Đào tạo Chủ nghĩa Marx (CEFMA) ở thủ đô Buenos Aires. Hội thảo do Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Đại sứ quán Việt Nam tại Argentina, phối hợp với Đảng Cộng sản Argentina tổ chức nhân kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chào mừng 79 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 (2-9-1945 / 2-9-2024), có sự tham dự của 100 đại biểu.

Ý Đảng hợp với lòng dân, phát huy sức mạnh, lập nên những kỳ tích phát triển mới

 Sự quyết tâm tiếp tục theo đường lối đổi mới trong giai đoạn tới trong dự thảo văn kiện Đại hội cũng như trong niềm tin, kỳ vọng của mỗi đại biểu sẽ tiếp thêm sức mạnh mới cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tạo nên nhiều thành tựu hơn trong công cuộc đổi mới.

Báo cáo các văn kiện trình Đại hội do đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Trưởng Tiểu ban Văn kiện trình bày, đã đánh giá đầy đủ những thành tựu đất nước đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 (kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước); xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam).

Báo cáo khẳng định, 5 năm qua, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là tác động của dịch bệnh và thiên tai liên tiếp xảy ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 5,9%. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện ba đột phá chiến lược đạt được những kết quả quan trọng. Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật. Bên cạnh thành tựu, Báo cáo nghiêm túc chỉ rõ những mặt tồn tại. Trung ương đã chỉ rõ, phân tích kỹ, không né tránh những khuyết điểm còn tồn tại trong nhiệm kỳ qua.

Để đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong thời gian tới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh 6 nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện, trong đó, nhiệm vụ đầu tiên là tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Bởi, với một đảng cách mạng chân chính, trong sạch, vững mạnh, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín lãnh đạo như Đảng ta, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, chúng ta sẽ có một sức mạnh to lớn, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, không thế lực nào ngăn cản nổi dân tộc ta đi lên, lập nên những kỳ tích mới trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Trong hai ngày thảo luận chính thức tại hội trường và tại đoàn về các văn kiện Đại hội, các đại biểu thống nhất đánh giá, các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thể hiện rõ sự thống nhất giữa “ý Đảng, lòng dân”, hòa quyện cùng quyết tâm và ý chí phát triển của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; đồng thời, thể hiện rõ nét những khát vọng phát triển đất nước của Đảng và nhân dân Việt Nam.

Trao đổi với báo chí những ấn tượng về văn kiện tại Đại hội lần này, đại biểu Trần Quốc Phương, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho hay, văn kiện là văn bản gốc và phải được mở đường. Do đó, các dự thảo văn kiện trình và được xem xét thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng lần này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc mở đường để thực hiện các mục tiêu lớn lao đã đặt ra.

Đại biểu Nguyễn Minh Tuấn, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái tin tưởng, với 6 nhiệm vụ trọng tâm mà dự thảo văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đưa ra sẽ giúp đất nước vượt qua thách thức, trở nên phồn vinh, hạnh phúc.

Một trong những vấn đề được nhân dân và các đại biểu quan tâm trong Đại hội đó là công tác chuẩn bị nhân sự. Theo đồng chí Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ Cơ sở Đảng, Ban Tổ chức Trung ương cho biết, quy trình công tác nhân sự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng được chuẩn bị rất chặt chẽ, công phu và có nhiều điểm mới so với nhiệm kỳ trước. Trong đó, số lượng cán bộ được quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương khóa mới ít hơn; trước đây, công tác nhân sự thực hiện theo quy trình 3 bước thì lần này là 5 bước (gồm chuẩn bị đề án; lấy ý kiến của cán bộ chủ chốt; qua 2 lần lấy ý kiến của Ban Chấp hành và cuối cùng là Thường vụ bỏ phiếu).

Đồng chí Hầu A Lềnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho biết, công tác nhân sự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã được Ban Chấp hành Trung ương chuẩn bị nghiêm túc, đúng quy trình. Theo đó, ngay từ đầu nhiệm kỳ khóa XII đã xác định công tác xây dựng Đảng là rất quan trọng và là nhiệm vụ then chốt, trong đó, công tác nhân sự là “then chốt của then chốt”.

Theo đồng chí Hầu A Lềnh, sau khi có phương hướng nhân sự khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận nhiều lần và tiến hành công tác nhân sự từng bước, hết sức thận trọng, chặt chẽ, đúng quy trình ở các Hội nghị XIII, XIV và XV. Các đồng chí được Ban Chấp hành Trung ương giới thiệu ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đáp ứng được tiêu chuẩn, điều kiện và có năng lực, uy tín cũng như triển vọng phát triển. Công tác nhân sự lần này được các đại biểu đánh giá chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chặt chẽ và đảm bảo được quy trình.

Theo dõi những thông tin từ Đại hội, cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước đều có chung một kỳ vọng như báo cáo tại Đại hội do đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trình bày: “Thực tiễn sinh động, phong phú, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cùng những bài học kinh nghiệm sâu sắc qua 35 năm đổi mới, nhất là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, tinh thần đoàn kết và sự thống nhất của toàn hệ thống chính trị, sự tin tưởng và ủng hộ của nhân dân là cơ sở vững chắc để Đảng ta đưa ra những thông điệp mạnh mẽ, những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Chúng ta hãy khắc sâu lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Đại hội Đảng rất quan hệ đến tương lai cách mạng của Đảng ta và của nhân dân ta. Đại hội sẽ làm cho Đảng ta đã đoàn kết càng đoàn kết hơn nữa, tư tưởng và hành động đã nhất trí, càng nhất trí hơn nữa”. Với hướng đi đúng đắn, hợp quy luật; ý Đảng hợp với lòng dân; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng vươn lên mãnh liệt và ý chí, quyết tâm chính trị cao, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhất định sẽ lập nên những kỳ tích phát triển mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên CNXH, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và ước vọng của toàn dân tộc”./.

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng là sự kế thừa bài học, kế sách “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

 

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng là sự kế thừa bài học, kế sách “giữ nước từ khi nước chưa nguy” trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Quan điểm này còn thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược, tính chủ động, sáng tạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

"Giữ nước từ khi nước chưa nguy"

Nhìn lại hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta luôn coi trọng việc bảo vệ Tổ quốc từ xa bằng rất nhiều biện pháp như tích cực hoạt động bang giao, hòa hiếu, hữu nghị với các nước láng giềng, tránh nạn binh đao; đồng thời, chăm lo xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, giữ vững vùng phên dậu quốc gia, thực hiện kế sách khoan thư sức dân...

Trong thời đại Hồ Chí Minh, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ xa tiếp tục được kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới. Sinh thời, Bác Hồ khẳng định: "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi" và căn dặn toàn dân, toàn quân Việt Nam: "Các vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước;" "Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, Việt Nam cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước."

Kế thừa quan điểm, tư tưởng, bài học kinh nghiệm quý báu ấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là bảo vệ Tổ quốc "từ sớm, từ xa," đồng thời triển khai toàn diện trên mọi lĩnh vực, phương diện của đất nước. Bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam.

Kế sách bảo vệ Tổ quốc từ xa đã được Quân đội Nhân dân Việt Nam vận dụng sáng tạo, linh hoạt. Nhiều năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã triển khai xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ở từng khu vực và trên phạm vi cả nước; thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.

Cùng với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân được xây dựng vững chắc nhằm quản lý, tập hợp và huy động sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp quốc phòng; xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng

Tư duy chiến lược về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng gồm nhiều nội dung, trong đó tập trung vào một số vấn đề cơ bản như chủ động nắm bắt, nghiên cứu, phân tích, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực, trong nước; tăng cường tiềm lực, xây dựng lực lượng, thế trận quốc phòng vững mạnh; phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa;” đẩy mạnh công tác đối ngoại, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Tư duy về phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc của Đảng được Đại hội XIII nhấn mạnh: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…”

Đây là nét đặc trưng trong truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, là quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhằm động viên, quy tụ, phát huy cao độ sức mạnh của các nhân tố chính trị-tinh thần, tư tưởng, văn hóa, quốc phòng, an ninh, kinh tế, đối ngoại; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân và cả hệ thống chính trị, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đó còn là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Đại hội XIII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát huy tối đa nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước.”

Lần đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rất rõ đối ngoại gồm ba trụ cột: Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân. Đây là ba kênh đối ngoại Trung ương - lực lượng nòng cốt đấu tranh ngoại giao, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế cả về vật chất, tinh thần trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc; nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước.

Đáng chú ý, cùng với đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, đối ngoại quốc phòng-an ninh tiếp tục khẳng định là kênh quan trọng đóng góp vào quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, góp phần trực tiếp xây dựng lòng tin chiến lược, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đại hội XIII của Đảng xác định nhiệm vụ của đối ngoại quốc phòng là, “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc.”

Hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh không ngừng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực quốc phòng, quân sự, kinh tế, khoa học và công nghệ, đồng thời phát triển cả bề rộng và chiều sâu.

Việt Nam đã có quan hệ, hợp tác về quốc phòng, an ninh với các đối tác chủ chốt, phù hợp với các quan hệ song phương theo các khuôn khổ của đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện, tập trung vào những lĩnh vực phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm.

Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ quốc phòng với hơn 80 quốc gia và tổ chức quốc tế; có 50 nước đặt tùy viên quân sự tại Việt Nam. Quân đội đã cử cán bộ, sỹ quan tham gia Phái bộ Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại Cộng hòa Trung Phi và Nam Sudan và sắp tới tiếp tục cử thêm sỹ quan thực hiện nhiệm vụ này.

Bên cạnh hợp tác quốc phòng song phương, Việt Nam còn tham gia nhiều hoạt động đối ngoại quốc phòng đa phương của ASEAN và một số diễn đàn đa phương khác, trong đó có Hội nghị thượng đỉnh an ninh châu Á, Diễn đàn Hương Sơn...

Bảo vệ Tổ quốc từ xa là kế sách lớn, là chiến lược giữ nước ngày nay. Quán triệt và thực hành tốt kế sách giữ nước trong thời bình là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt Nam./.

“MUỐN GẦN DÂN THÌ ĐỪNG XA DÂN"

Cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh dành trọn trí tuệ và sức lực để mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Cũng vì lẽ ấy mà Người luôn gần dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, tìm hiểu ý nguyện của nhân dân rồi tìm mọi cách làm cho nhân dân được ấm no, hạnh phúc

Cho đến trước lúc ra đi, trong bản Di chúc bất hủ để lại cho toàn Đảng, toàn dân và bạn bè năm châu, Người viết: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".

Trong bộn bề công việc cách mạng, nhưng Người luôn đau đáu nghĩ đến dân, thương dân. Người thương dân thật lòng, làm điều gì cũng nghĩ đến dân, đến nước. Vậy gần dân như Bác dạy chúng ta là thế nào? Gần dân là phải biết tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, không sách nhiễu dân, giải quyết mọi công việc của nhân dân theo tinh thần "phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư"... Người chính là gương sáng về phong cách gần dân như thế.

Những câu chuyện về tấm gương giản dị, gần gũi, thân thiết giữa lãnh tụ và quần chúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhân dân Việt Nam hay nhân loại tiến bộ thế giới thật hiếm có. Nhiều nhà báo quốc tế khi chứng kiến những cuộc mít-tinh lớn ở Việt Nam hay nhân dân lao động ở nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận: Thật hiếm thấy một nguyên thủ quốc gia nào gần gũi, thân thiết với người dân như Bác Hồ của Việt Nam. 

Cứ mỗi độ thu về, có con tim người Việt nào không xao xuyến bồi hồi nhớ Bác, thương Bác khi trong phút giây thiêng liêng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Người vẫn dừng lại hỏi đồng bào: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không?". Một câu hỏi thật bình dị mang trọn tấm lòng thương dân. Trái tim thương dân ấy đã được cả muôn triệu đồng bào chung một lời đáp: "Có!"

“Muốn gần dân thì đừng xa dân!”. Lời Bác Hồ dạy cán bộ ngành tư pháp khi Người đến thăm và nói chuyện với lớp đào tạo cán bộ tư pháp năm 1950 vẫn nguyên vẹn giá trị cho hiện tại và sau này. Thật hiếm có vị nguyên thủ nào lại có tác phong sâu sát, đi cơ sở nhiều như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dù tuổi đã cao, từ năm 1955-1965, tức là lúc Bác đã 65-75 tuổi, Người vẫn sắp xếp công việc thực hiện khoảng 700 lượt đi đến các địa phương, công trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội... để thăm hỏi chiến sĩ và đồng bào, nắm bắt tình hình, lắng nghe nguyện vọng, tâm tư của nhân dân cũng như kiểm tra công việc của cán bộ cơ sở.

Điều đặc biệt là những chuyến đi cơ sở, về với dân rất ít khi Người báo trước cho địa phương. Bởi, Người muốn biết người thật, việc thật, thông tin thật từ cơ sở. Học phong cách gần dân, gần cơ sở của Bác, lớp lớp cán bộ, đảng viên của Đảng kế tiếp nhằm thực hiện tinh thần yêu dân, kính dân, vì nhân dân phục vụ. 

Soi chiếu với thực tiễn hiện nay, cán bộ nào thực lòng gần dân, vì dân thì được dân tin, thì địa phương nơi đó đoàn kết, phát triển. Ngược lại, ở đâu cán bộ nhũng nhiễu, bất chấp thủ đoạn để "vinh thân phì gia", tất nơi ấy sa sút, nhân dân không ủng hộ.       

Tư tưởng trọng dân và phong cách gần dân của Bác là bài học sâu sắc cho các thế hệ cán bộ, đảng viên học tập, noi theo. Bởi, đó chính là bí quyết của mọi thắng lợi./.

St

THẮNG LỢI CỦA SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công do Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã thực hiện tốt đường lối đoàn kết toàn dân tộc, liên hiệp mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt tôn giáo, xu hướng đảng phái chính trị, giai cấp, đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất cùng đứng lên đánh đuổi đế quốc Pháp và phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị của đế quốc thực dân gần 100 năm, giành chính quyền về tay nhân dân, giành độc lập cho Tổ quốc. Đây chính là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, biết chớp thời cơ, vùng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Thế nhưng, đây đó vẫn có một số người cố tình xuyên tạc, bóp méo tính chất và ý nghĩa về vấn đề lịch sử này. 

Do không nhận thức được vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhất tề vùng lên, triệu người như một dưới sự lãnh đạo của Đảng mà một số người cho rằng, đó là hành động “bột phát, vô thức” của người dân phẫn uất do bị áp bức, bóc lột đứng lên giành chính quyền. Khi nhìn nhận về vai trò của các tầng lớp, các giai cấp trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, họ cho rằng, giai cấp nông dân Việt Nam đã nhận thức được “mệnh trời” và vai trò của mình. Từ cái nhìn hẹp hòi, thiển cận đó, theo cách nói của họ, vai trò nổi dậy của giai cấp nông dân Việt Nam mới là quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng.

Giọng điệu trên cũng không nằm ngoài mục tiêu phủ nhận giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng họ đã lầm. Cách nhìn nhận phi lý, phản khoa học, những luận điệu sai trái của họ không thể đánh lừa được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới và những người Việt Nam chân chính.

Thực tiễn đã chứng minh, dù cách thể hiện trong từng giai đoạn có khác nhau nhưng ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định rất rõ nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế quốc thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, đưa người dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước... Chính nhiệm vụ chung đó của cách mạng là sợi dây kết nối cả dân tộc Việt Nam đoàn kết lại với nhau. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn nhất quán và đặt nội dung ấy vào nhiệm vụ trung tâm của cách mạng. Không thể phủ nhận rằng, từ năm 1930 đến 1945, Việt Minh và Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bám sát tình hình thế giới và trong nước, có rất nhiều chủ trương, đường lối, giải pháp cách mạng phù hợp để lãnh đạo toàn dân kết thành một khối đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Đặc biệt, trước những chuyển biến mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn, mau lẹ của tình hình thế giới, tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh để quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết hội nghị đã chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đó, vấn đề đặt ra là phải tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng, mọi giai tầng trong xã hội vào một Mặt trận Dân tộc thống nhất. Để giải quyết vấn đề này, ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh đã ra đời. Trong tuyên bố của mình, Việt Minh đã chỉ rõ: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”. Bằng những chủ trương đúng đắn, chỉ trong thời gian ngắn dưới vai trò quy tụ, tập hợp của Mặt trận Việt Minh, mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội đã phát huy cao độ tinh thần cố kết cộng đồng, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc để góp phần vào thành công của cuộc cách mạng.

Mặt khác, đại đoàn kết đã trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam được kiểm chứng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. “Nước mất thì nhà tan”, mỗi người dân Việt Nam luôn ý thức sâu sắc điều này và tinh thần ấy luôn thường trực trong mỗi người con đất Việt. Từ thực tiễn lịch sử, nhân dân Việt Nam cũng từng tổng kết, đúc rút, chỉ có không ngừng xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì mới tập hợp phát huy được sức mạnh nội lực của đất nước, mới xây dựng, bảo vệ nước nhà được hòa bình, thịnh vượng. Chính trên nền tảng ấy mà nhân dân ta đã không cam chịu thân phận, kiếp đời nô lệ, một lòng đi theo Đảng, triệu người như một quyết vùng lên giành độc lập, tự do cho dân tộc, giành địa vị làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh cho mình. 

Có thể khẳng định, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng tuyệt vời của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng với đó cần phải khẳng định rõ rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công gắn với vai trò lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, trong đó có giai cấp nông dân. Nhưng cần phải nhớ rằng, sự nhất tề vùng lên của quần chúng nhân dân nói chung, của giai cấp nông dân nói riêng không phải là “vô thức, bột phát” vì “phẫn uất” như một số người từng xuyên tạc, mà đó là sự vùng lên có giác ngộ, có tổ chức, theo đường hướng lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta. 

Như vậy, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với vai trò trung tâm của Mặt trận Việt Minh đã góp phần quyết định vào thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thành quả, giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là rất rõ ràng. 79 năm nhìn lại, chúng ta càng hiểu hơn về sự kiện vĩ đại nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX, càng thấy rõ hơn giá trị của độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất. Thế nhưng, đâu đó vẫn có những quan điểm sai trái, những cái nhìn thiển cận, những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám, phủ nhận vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta phải có trách nhiệm kiên quyết đấu tranh phản bác để loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội./.

St                                                                                

 55 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH: VĂN KIỆN LỊCH SỬ VÔ GIÁ CỦA DÂN TỘC 

Đã 55 năm trôi qua kể từ ngày Bác kính yêu đi xa, nhưng những chỉ dạy, những lời dặn dò của Người vẫn luôn được các thế hệ người Việt Nam ghi nhớ và thực hiện, đặc biệt là Di chúc - một di sản vô giá, kết tinh tinh hoa tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người. Đến nay Di chúc của Người vẫn luôn là văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc, là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước ngày nay.

“Mấy lời để lại” 

Những năm 1960, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta ở vào giai đoạn ác liệt, song đang trên đà thắng lợi, đòi hỏi sự đoàn kết chặt chẽ, chiến đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Đế quốc Mỹ sau thất bại trong chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", tiến hành chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, đồng thời leo thang "Chiến tranh phá hoại" miền Bắc lần thứ nhất. Tháng 3/1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã hạ quyết tâm chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.

Thời điểm này, mặc dù trí tuệ còn minh mẫn, tinh thần còn sáng suốt nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh tự cảm nhận sức khỏe của mình đã có phần giảm sút so với những năm trước. Do đó, ngày 10/5/1965, Bác đã đặt bút viết một văn bản đặc biệt quan trọng mà Bác đã khiêm tốn gọi là “Mấy lời để lại”. Đó chính là bản Di chúc thiêng liêng của Người.

Trong hồi ký của mình, đồng chí Vũ Kỳ (thư ký riêng của Bác) đã viết: “Đúng 9h, Bác Hồ ngồi chăm chú viết. Vấn đề chắc đã suy ngẫm từ lâu. Phòng làm việc trên nhà sàn yên tĩnh. Gió mát dịu, thoang thoảng hương thơm của hoa vườn... Chính vào giờ phút đó Bác Hồ đặt bút viết những dòng đầu tiên vào tài liệu “Tuyệt đối bí mật” để dặn lại cho muôn đời con cháu mai sau” (1). Đó là ngày 10/5/1965, ngày đầu tiên Bác viết Di chúc. Rồi những ngày tiếp theo của tháng 5 năm ấy hay những ngày trung tuần tháng 5 của các năm sau cũng vậy, Bác viết, sửa chữa, bổ sung Di chúc ở phòng làm việc nhà sàn.

Ngày 19/5/1969 Bác xem lại Di chúc: “Đúng 9h, Bác ngồi vào bàn làm việc với bản Di chúc trước mặt. Bên ngoài nắng đã lên cao. Những chùm hoa phượng nở sớm, bắt nắng khoe màu rực rỡ. Mặt hồ lăn tăn gợn sóng, lấp lánh ánh mặt trời. Một làn gió mát rượi ùa vào khung cửa sổ làm bay bay những sợi tóc bạc của Bác. Bác ngồi đó, tựa lưng vào thành ghế thoải mái, ung dung, nét suy tư hiện lên trên vầng trán rộng...” (2). Ngày 20/5/1969, “Người xem lại tài liệu lần cuối và xếp vào phong bì cất đi”. (3)

Sau khi Bác mất, ngày 9/9/1969, trong Lễ truy điệu Người, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã xúc động công bố bản Di chúc của Người. Đó là bản Di chúc hoàn chỉnh được ghép từ các bản Di chúc mà Bác đã viết, sửa và bổ sung hoặc thay thế trước đó.

20 năm sau, năm 1989, khi điều kiện cho phép, tất cả các bản thảo Di chúc của Bác đã được Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) công bố đầy đủ. Cụ thể, ngày 19/8/1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã ký ban hành Thông báo số 151-TB/TW, thông báo đến toàn Đảng, toàn dân và toàn quân một số vấn đề liên quan đến Di chúc của Bác và ngày Bác qua đời. Theo thông báo:

“Năm 1965, Bác viết bản Di chúc gồm ba trang, do chính Bác đánh máy, ở cuối đề ngày 15/5/1965. Đây là bản Di chúc hoàn chỉnh có chữ ký của Bác và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng hồi bấy giờ.

Năm 1968, Bác viết bổ sung thêm một số đoạn, gồm sáu trang viết tay. Trong đó, Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói "về việc riêng" đã viết trong bản năm 1965, và viết thêm một số đoạn. Đó là những đoạn nói về những công việc cần làm sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như: chỉnh đốn lại Đảng, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố và làng mạc, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng, chuẩn bị thống nhất đất nước…

Ngày 10/5/1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm một trang viết tay.

Các năm 1966, 1967, Bác không có những bản viết riêng”. (4)

Như vậy, Di chúc là “tài liệu” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian và tâm huyết để viết, sửa chữa, bổ sung. Người đã cân nhắc từng ý, từng lời; nhưng mỗi ý, mỗi lời đều giản dị, chân thành như chính cuộc đời mà Người đã sống. Việc nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung và viết lại Di chúc không chỉ thể hiện Người là người rất chu đáo, cầu toàn mà còn cho thấy Người luôn trăn trở, suy nghĩ cho vận mệnh của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân, ngay cả khi đã gần đất xa trời.

Văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc 

Nội dung bản Di chúc là những lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng và sự đoàn kết trong Đảng, về đoàn viên và thanh niên, về Nhân dân lao động, về cuộc kháng chiến chống Mỹ, về phong trào cộng sản thế giới và vài dòng nói về việc riêng. Ẩn sau những lời dặn dò mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cân nhắc khi viết từng câu, từng chữ ấy chính là sự quan tâm sâu sắc của Người đối với mọi vấn đề của dân tộc, là tình yêu bao la mà Người dành cho mọi tầng lớp Nhân dân và niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ.

Đó là tâm nguyện, tình cảm, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, Nhân dân và sự nghiệp cách mạng, thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng còn dang dở: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. (5)

Đó là những chỉ dẫn về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền với những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng là: giữ gìn mối “đoàn kết trong Đảng”, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân…; và nhiệm vụ chiến lược để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng - là công tác chỉnh đốn Đảng.

Đó còn là những dặn dò, nhắc nhở về sự cần thiết phải “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Bác nhấn mạnh: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”".(6)

Trong Di chúc, Bác nghĩ cho người dân của mọi tầng lớp xã hội. Đối với Nhân dân lao động, Bác căn dặn: “Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” (7). Bác đặc biệt quan tâm đến những nhóm người yếu thế. Từ những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc: “phải tìm mọi cách cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh” (8); đến phụ nữ: “phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả việc lãnh đạo” (9); và cả những nạn nhân của xã hội cũ (như trộm cắp, cờ bạc, buôn lậu…): “phải vừa giáo dục vừa  phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những lao động lương thiện” (10). Qua đó chúng ta càng thấy rõ tấm lòng đôn hậu, bao dung, tình thương yêu con người vô bờ bến của Bác.

Bên cạnh đó, Bác còn phác thảo lý luận về sự nghiệp đổi mới ở nước ta với những chỉ dẫn quan trọng về quản lý xã hội như: đào tạo nguồn nhân lực, sửa đổi chế độ giáo dục, khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế, chính sách miễn thuế nông nghiệp cho nông dân, chính sách xã hội, công bằng xã hội...

Gọi là Di chúc, nhưng bên trong lại không có mấy lời nhắc đến những yêu cầu của bản thân người viết. Cả cuộc đời, Bác đã phấn đấu, hy sinh chỉ nhằm một mục đích “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Ngay cả trước lúc đi xa, điều Người nuối tiếc nhất vẫn là “không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” (11).

Xúc động hơn cả là Bác ra đi không đem theo gì, mà “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng” (12). Mong muốn cuối cùng của Người là “toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. (13) 

Từ những cống hiến lớn lao và kinh nghiệm phong phú trong sự nghiệp cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò tất cả những điều cần thiết, quan trọng, chính yếu cho tương lai của dân tộc. Chính vì vậy mà Lãnh tụ Cuba Fidel Castro đã viết: “Hồ Chí Minh thuộc lớp những người đặc biệt mà cái chết là mầm mống của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”.

Trải qua năm tháng, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mãi là tài sản vô giá, là những chỉ dẫn quý báu, nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hôm nay và mai sau.

TTXVN _____________

(1) Vũ Kỳ - Càng nhớ Bác Hồ, Nxb Thanh niên. Hà Nội. 1999, tr.130

(2), (3) Hồ Chí Minh- Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, 1996, tập 10, tr.351

(4) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 49 (1988-1989), tr.1081

(5) - (13) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, tr.621-624

 SỰ BỊA ĐẶT, XUYÊN TẠC SAI TRÁI VỀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ QUỐC KHÁNH 2-9

Những ngày vừa qua, trên mạng xuất hiện bài viết “Đôi dòng về cuộc Cách mạng Tháng 8 và ngày 2-9” với nhiều nội dung bịa đặt, xuyên tạc sai trái. Bài viết phủ nhận công lao, đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam trong Cách mạng Tháng Tám, theo kiểu: Việc lật đổ sự đô hộ của Pháp, việc xóa bỏ chế độ phong kiến quân chủ không có công của Việt Minh và “Không thể nói Việt Minh đập tan ách phát xít Nhật”. Tác giả bài viết còn cố tình vu khống sự thật tình hình đất nước Việt Nam: “Đến ngày hôm nay, nhân dân Việt Nam vẫn chẳng có một chút quyền gì, nhân dân Việt Nam không được bầu cử một cách thực sự, không được sở hữu đất đai, không được có quyền phúc quyết hiến pháp và những vấn đề hệ trọng của đất nước. Tất cả những quyền căn bản đó không có, những điều khác chỉ là hão huyền”. Và tác giả bài viết trên đưa ra đánh giá võ đoán, sai trái: “cuộc cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân đó, 70 năm qua vẫn chưa xong”.

Nhưng thực tế lịch sử đã bác bỏ những thông tin sai trái, chống phá trên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: Trong suốt quá trình 80 năm Việt Nam bị thực dân Pháp xâm chiếm, đô hộ, nhân dân Việt Nam từ Nam đến Bắc đã nhiều lần nổi dậy chống giặc ngoại xâm, nhưng đều thất bại. Đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công “đã thức tỉnh các dân tộc bị áp bức, dạy cho họ cách tổ chức, đấu tranh và giành thắng lợi” và nhờ vậy mà đất nước ta “có Đảng tiên phong, có Mặt trận Dân tộc thống nhất, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân, kiên quyết đấu tranh cho độc lập, tự do, làm Cách mạng Tháng Tám thắng lợi”.

Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối, chủ trương, giải pháp cách mạng đúng đắn, đoàn kết, tập hợp và phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân, kiên quyết, kiên trì, chớp thời cơ cách mạng, tranh đấu, hy sinh giành thắng lợi cho cách mạng. Thực tế đã có nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân dũng cảm quên mình vì cách mạng (chỉ tính riêng giai đoạn 1930-1945, đã có 14 đồng chí cán bộ cấp Trung ương của Đảng, trong đó có 4 đồng chí Tổng Bí thư của Đảng anh dũng hy sinh), đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra: Nhờ sức hy sinh phấn đấu của toàn quốc đồng bào ngót 80 năm nay mà chúng ta đã xây đắp được nên tự do, độc lập. Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2-9-1945 đã khẳng định: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 1.000 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”. 

Dư luận trong nước và quốc tế luôn khẳng định, đánh giá cao những nguyên nhân thắng lợi, bài học thành công, ý nghĩa to lớn của sự kiện lịch sử Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực tiễn ở Việt Nam đã chứng tỏ nhờ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng Mác - Lênin mà cách mạng đã thu được thắng lợi vẻ vang. Người cũng đánh giá: “Lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân ta đã được hoàn toàn giải phóng: Đã phá tan cái xiềng xích nô lệ thực dân, đã đập đổ cái chế độ thối nát của vua quan phong kiến, đã lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó dân ta làm chủ nước ta”. Mới đây, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cũng chỉ rõ: Với đường lối chính trị đúng đắn, trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, gắn bó máu thịt với nhân dân và tinh thần quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng đã quy tụ, đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các phong trào đấu tranh cách mạng to lớn và rộng khắp, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.

Một tờ báo nổi tiếng của Pháp đã từng viết: “Cụ Hồ Chí Minh là người buộc Pháp phải bỏ thuộc địa quan trọng nhất là Đông Dương… Cụ là một trong những nhân vật nổi tiếng nhất và làm cho chúng ta kinh ngạc nhất của thế kỷ chúng ta”. Còn nhà báo, nhà sử học nổi tiếng người Nga E. Cô-bê-lép khẳng định rất rõ ràng rằng: “Cách mạng Tháng Tám có quyền đi vào lịch sử của phong trào cách mạng thế giới như một trong những mẫu mực tuyệt vời về nghệ thuật cách mạng và sáng tạo cách mạng của quần chúng nhân dân do Đảng Mác-xit Lê-nin-nít lãnh đạo”. Nhiều nước trên thế giới đến nay vẫn tiếp tục đánh giá cao Cách mạng Tháng Tám của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam. Tiêu biểu như ở Algeria, vào dịp kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 (năm 2020), nhiều tờ báo, trang mạng lớn, có uy tín ở Algeria đã có những bài viết ca ngợi ý nghĩa to lớn của Cách mạng Tháng Tám, đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời đánh giá thành công của Cách mạng Tháng Tám vừa đánh bại chủ nghĩa thực dân và tàn dư chế độ phong kiến ở Việt Nam, giành chính quyền về tay nhân dân, tạo bước ngoặt vĩ đại cho dân tộc Việt Nam, vừa có tác dụng cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân thống trị, áp bức, trong đó có Algeria. 

Sau Cách mạng Tháng Tám với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục phát triển, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chúng ta đã kháng chiến toàn quốc thành công, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ đổi mới vừa qua, chúng ta đã giành được những thắng lợi to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử, đúng như Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện”, trong đó: “Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. 

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn khởi, tự hào, thêm tin tưởng, quyết tâm đoàn kết thống nhất, vững bước tiến lên dưới sự lãnh đạo của Đảng xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như nguyện ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại./.

   CÔNG MINH

Củng cố trận tuyến chống mua bán người

Từ đầu năm đến nay, lực lượng chức năng trên cả nước đã phát hiện, điều tra 98 vụ, 234 đối tượng liên quan đến hành vi mua bán người (MBN), xác định 247 nạn nhân, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm 2023. Trước tình hình tội phạm MBN ở nước ta ngày càng diễn biến phức tạp, đòi hỏi cần có nhiều giải pháp, nỗ lực hơn nữa trong công tác đấu tranh với loại tội phạm này.

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật, chương trình, kế hoạch, triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp về phòng, chống tội phạm MBN. Theo đó, công tác phòng ngừa, nhất là công tác tuyên truyền, truyền thông về phòng, chống MBN được đặc biệt chú trọng, triển khai tích cực với nhiều hình thức, nội dung phong phú, đa dạng, hướng về cơ sở và các đối tượng có nguy cơ cao bị mua bán. Việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án MBN được lực lượng chức năng tích cực triển khai thực hiện, nhiều đường dây MBN ra nước ngoài, trong nội địa được triệt phá và đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật. Công tác tiếp nhận hồi hương, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, hợp tác quốc tế được triển khai đồng bộ, quyết liệt...

Tiêu biểu như Cục Cảnh sát hình sự, Bộ Công an và Cục Phòng chống ma túy và tội phạm, Bộ Tư lệnh BĐBP đã triển khai phối hợp toàn diện, thực chất công tác đấu tranh phòng chống tội phạm MBN trên các tuyến, địa bàn trọng điểm; phối hợp xác lập, đấu tranh, triệt phá nhiều chuyên án, vụ án MBN liên tỉnh, xuyên quốc gia; xác minh, giải cứu nhiều nạn nhân bị mua bán. Từ năm 2023 đến nay, hai lực lượng đã trao đổi trên 400 thông tin liên quan đến tội phạm MBN; chỉ đạo nghiệp vụ phối hợp điều tra xử lý 29 vụ với 59 đối tượng, 56 nạn nhân.

Tại các địa phương, các đơn vị đã tiếp nhận 239 vụ với 4.488 công dân, phát hiện ngăn chặn 818 vụ với 3.774 công dân xuất, nhập cảnh trái phép qua biên giới các nước Lào, Campuchia và Trung Quốc. Qua công tác phân loại, sàng lọc, phát hiện 115 người bị nghi mua bán; khởi tố 106 vụ252 đối tượng phạm tội MBN...

Tuy đã đạt nhiều kết quả tích cực, song tội phạm MBN vẫn diễn biến hết sức phức tạp trên khắp cả nước, nhất là tại các tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia, Việt Nam - Trung Quốc và Việt Nam - Lào.

Theo các chuyên gia, thủ đoạn tội phạm trong các vụ án MBN không mới, nhưng phương thức đã có sự thay đổi. Ngoài hình thức gặp gỡ, tiếp xúc, làm quen trực tiếp với nạn nhân, tội phạm MBN thường lợi dụng mạng xã hội, kết nối, tương tác để tiếp cận, dụ dỗ, lừa gạt nạn nhân qua Facebook, Zalo, Viber. Đồng thời, hứa hẹn “việc nhẹ lương cao”, dụ dỗ yêu đương, tuyển lao động đi xuất khẩu... sau đó bán nạn nhân ra nước ngoài làm việc bất hợp pháp, bán dâm, cưỡng bức lao động, đòi tiền chuộc với số tiền lớn. Ngoài ra, các đối tượng tiếp tục lợi dụng hoạt động tư vấn, môi giới hôn nhân với người nước ngoài, cho nhận con nuôi, du lịch, thăm thân,... để tuyển chọn, dụ dỗ, lôi kéo sau đó lừa bán nạn nhân.

Để ngăn ngừa tình trạng này cần tăng cường năng lực phòng chống tội phạm MBN trong toàn xã hội. Trong đó, chú trọng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục làm cho người dân trong xã hội nhận biết được những dấu hiệu, nhận biết được những cạm bẫy, những phương thức, những hình thức rồi biết được những nguy cơ có thể xảy ra, để tăng cường năng lực, tự bảo vệ mình, bảo vệ người thân, bảo vệ người mình quen biết trong xã hội rất quan trọng. Cùng với đó, cần phát huy năng lực phòng, chống tội phạm trong toàn xã hội và kết hợp phòng, chống tội phạm xã hội với phòng, chống trong nghiệp vụ thì sẽ tăng cường thực tạo thêm sức mạnh.

Dự án Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) đã tiếp thu, giải trình những ý kiến đóng góp của các đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 và dự kiến sẽ trình Quốc hội thông qua vào Kỳ họp thứ 8 tới đây được kỳ vọng là một trong những giải pháp hữu hiệu khắc phục những hạn chế, khó khăn hiện nay, bảo đảm đáp ứng tốt hơn yêu cầu đẩy mạnh phòng, chống MBN trong tình hình mới. 

Giảm mức phạt, không giảm tính răn đe

 Dự thảo Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông trong lĩnh vực giao thông đường bộ; trừ điểm, phục hồi điểm giấy phép lái xe đang được lấy ý kiến và nhận được nhiều sự quan tâm của dư luận xã hội.

Trong đó, đáng chú ý, Bộ Công an đề xuất hạ thấp mức phạt tiền so với Nghị định số 100/2019/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 123/2021/NĐ-CP) đối với hành vi vi phạm về nồng độ cồn chưa vượt quá 50 miligam/100 mililit máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở, để phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi vi phạm.

Cụ thể, phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ, xe chở hàng bốn bánh có gắn động cơ điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở (hiện phạt từ 6 - 8 triệu đồng; tước giấy phép lái xe 10 - 12 tháng).

Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở (hiện phạt tiền từ 2 - 3 triệu đồng; tước giấy phép lái xe 10 - 12 tháng).

Đồng tình với đề xuất trên, nhiều đại biểu Quốc hội và người dân cho rằng quy định trên mang tính nhân văn, phù hợp với thực tiễn cuộc sống, phong tục tập quán và điều kiện kinh tế của đại đa số người dân lao động. Đặc biệt, ở vùng nông thôn, vùng núi, nơi có một bộ phận người dân ít hiểu biết, cộng thêm văn hóa làng xóm, phong tục tập quán hay tụ tập, liên hoan dễ vi phạm nồng độ cồn nhưng ở mức thấp, trong khi khu vực này lại hiếm có các phương tiện công cộng, xe dịch vụ, khiến nhiều trường hợp uống rượu nhưng vẫn phải đi xe máy.

Theo chuyên gia y tế, việc sử dụng rượu bia sẽ ảnh hưởng đến khả năng điều khiển xe và nồng độ cồn càng cao sẽ càng có nguy cơ gây tai nạn giao thông. Thực tế, nhóm người vi phạm nồng độ cồn ở mức thấp (nồng độ cồn trong máu dưới 0,05 miligam/1 lít khí thở), thì nguy cơ gây tai nạn rất thấp. Do đó, mức xử phạt ở nhóm này giảm là hợp lý.

Song nhiều ý kiến cho rằng, khi ý thức chấp hành giao thông của một số người dân còn chưa cao, đường sá chưa hoàn toàn đạt tiêu chuẩn, việc có nồng độ cồn trong máu cũng làm tăng nguy cơ gây tai nạn giao thông. Thế nên, với mong muốn bảo vệ sức khỏe tối đa người dân, việc cấm tuyệt đối rượu bia khi tham gia giao thông là phù hợp.

Giải trình vấn đề này, cơ quan soạn thảo khẳng định, đề xuất giảm mức phạt tiền với mức vi phạm nồng độ cồn thấp nhất là hợp lý, phù hợp với thực tiễn hiện nay. Mặt khác, đề xuất giảm nhẹ mức xử phạt không gây mâu thuẫn với quy định cấm tuyệt đối nồng độ cồn trước đó. Bởi mục đích cuối cùng của việc xử phạt là nâng cao ý thức, thói quen tuân thủ pháp luật, hướng đến sự an toàn khi tham gia giao thông của người dân, cũng như đảm bảo tài sản, tính mạng của họ.

Tuy nhiên, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh tuyên truyền để người dân hiểu việc thay đổi hình thức phạt không có nghĩa nương nhẹ cho người sử dụng rượu bia điều khiển phương tiện tham gia giao thông. Tai nạn giao thông sẽ được kiềm chế đến mức thấp nhất khi người dân luôn có ý thức tuân thủ chấp hành Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ, hình thành văn hóa “đã uống rượu, bia thì không lái xe”.

Bởi cơ quan quản lý có rất nhiều hình thức phạt bổ trợ, kết hợp nhằm đảm bảo quy định nồng độ cồn bằng 0 khi tham gia giao thông được thực thi một cách nghiêm túc. Đề xuất mới thay đổi mức phạt tiền, bổ sung hình thức trừ điểm trên giấy phép lái xe cũng là biện pháp xử phạt thích đáng.

Triệt phá thành công nhiều vụ vận chuyển ngoại tệ, tiền, vàng qua biên giới

Theo đánh giá của cơ quan chức năng, thời gian gần đây, tại tỉnh An Giang, tình hình hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới không có diễn biến phức tạp, không phát sinh điểm nóng. Tuy nhiên, lại tiềm ẩn rủi ro cao về buôn lậu, vận chuyển trái phép vàng, tiền tệ qua biên giới. Nhiều vụ vi phạm pháp luật trên biên giới An Giang đã bị Công an, Biên phòng và Hải quan phát hiện, bắt giữ...

Phát hiện, ngăn chặn nhiều vụ vận chuyển tiền, ngoại tệ qua biên giới

Ngày 18/7, lãnh đạo Chi cục Hải quan cửa khẩu Khánh Bình (Cục Hải quan An Giang) cho biết, đã khởi tố hình sự vụ vận chuyển trái phép tiền và ngoại tệ xảy ra tại cửa khẩu Khánh Bình. Trước đó, ngày 25/4, tại khóm Tân Khánh, thị trấn Long Bình, huyện An Phú, tỉnh An Giang, Chi cục Hải quan cửa khẩu Khánh Bình chủ trì, phối hợp với Đồn Biên phòng cửa khẩu Long Bình, BĐBP An Giang phát hiện Đặng Thị Út điều khiển xe máy từ hướng Campuchia về Việt Nam, có nhiều biểu hiện nghi vấn.

Tiến hành kiểm tra, lực lượng chức năng phát hiện trong túi xách của Út có gần 280 triệu đồng, 830 USD, 49.000 riel. Toàn bộ số tiền này Út không khai báo Hải quan theo quy định khi làm thủ tục nhập cảnh. Sau hơn 2 tháng xác minh, xác định vụ việc có dấu hiệu hình sự về tội vận chuyển tiền tệ trái phép qua biên giới nên Chi cục Hải quan cửa khẩu Khánh Bình đã ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự.

Ngoài vụ việc nêu trên, thêm một vụ vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới cũng đã bị khởi tố. Trước đó, ngày 18/2, tại Trạm Kiểm soát liên hợp cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên, Chi cục Hải quan cửa khẩu Tịnh Biên (Cục Hải quan An Giang) chủ trì, phối hợp với Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên phát hiện Hồng Tấn Quý mang 350 triệu đồng, không khai báo Hải quan khi làm thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam. Qua điều tra xác minh, lãnh đạo Chi cục Hải quan cửa khẩu Tịnh Biên đã tiến hành khởi tố vụ án hình sự về tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới và bàn giao hồ sơ, vật chứng vụ án sang cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thị xã Tịnh Biên để tiếp tục điều tra theo thẩm quyền.

Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 2/4, tại khu vực khóm Vĩnh Chánh 3, phường Vĩnh Nguơn, thành phố Châu Đốc, các cơ quan chức năng Công an tỉnh An Giang phát hiện Nguyễn Thành Phi điều khiển xe máy chạy từ biên giới sang Campuchia, chở một bọc ni lông đen có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện bên trong bọc ni lông trên xe của Phi có chứa 150.000 USD nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan công an, bước đầu, Phi khai nhận, số USD nêu trên Phi được một người phụ nữ thuê vận chuyển từ Việt Nam qua Campuchia để nhận tiền công.

Tích cực, chủ động ngăn chặn các vụ vi phạm trên biên giới

Với gần 100km đường biên giáp Campuchia, có nhiều cửa khẩu và nhiều đường mòn, lối mở, tỉnh An Giang là một trong những điểm nóng của tuyến Tây Nam về hoạt động buôn lậu, trong đó, có nhiều vụ vận chuyển, buôn lậu vàng, ngoại tệ qua biên giới. Theo Ban Chỉ đạo 389 tỉnh An Giang, thời gian qua, tình hình buôn lậu, vận chuyển tiền, vàng qua biên giới diễn biến khá phức tạp.

Các đối tượng lợi dụng chính sách đối với cư dân biên giới và các đường mòn, lối mở, sông nước, kênh rạch, đêm tối để vận chuyển, buôn bán tiền, vàng với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi. Địa bàn vi phạm chủ yếu là khu vực cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên, cửa khẩu Long Bình và thành phố Châu Đốc. Sau khi đưa vàng lậu trót lọt qua biên giới, đối tượng chia thành nhiều công đoạn để vận chuyển về các tiệm vàng, các cơ sở sản xuất, chế tác trang sức mỹ nghệ tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh để tiêu thụ.

Trước đó, khoảng 19 giờ, ngày 25/7/2023, các cơ quan chức năng Công an tỉnh An Giang chủ trì, phối hợp với Đồn Biên phòng cửa khẩu Long Bình, Chi cục Hải quan cửa khẩu Khánh Bình và Công an huyện An Phú bắt giữ một vụ vận chuyển vàng. Theo đó, trong lúc mật phục tại khu vực sông Bình Di, thị trấn Long Bình, huyện An Phú, lực lượng chức năng phát hiện Nguyễn Tấn Phong (sinh năm 1978) điều khiển xuồng máy từ hướng Campuchia về Việt Nam nên tiến hành truy đuổi và tạm giữ tang vật trên xuồng máy (gồm một bao ni lông màu đen, bên trong có khoảng 19kg vàng, tổng trị giá hơn 10 tỷ đồng). Riêng Phong lợi dụng đêm tối đã nhảy xuống sông trốn qua Campuchia, nhưng sau đó đã quay về Việt Nam đầu thú.

Cùng thời điểm đó, một tổ mật phục trên bộ đã khống chế, bắt được 2 đối tượng canh đường là Hồ Văn Sơn, sinh năm 1963 và Nguyễn Hoài Tâm, sinh năm 2001 (cả Phong, Sơn và Tâm đều trú tại thị trấn Long Bình, huyện An Phú, tỉnh An Giang).

Tại cơ quan công an, Sơn và Tâm khai nhận, được một số chủ tiệm vàng ở thành phố Châu Đốc thuê vận chuyển trái phép vàng thỏi và vàng nữ trang qua lại biên giới Việt Nam - Campuchia. Từ lời lời khai của các đối tượng và tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh An Giang đã khám xét khẩn cấp chỗ ở và nơi làm việc của Nguyễn Xuân Kiếm, sinh năm 1981, chủ tiệm vàng Kim Yến Trà và Lý Thị Huệ, sinh năm 1976, chủ tiệm vàng Kim Yến Huệ (cùng trú tại thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang), tạm giữ thêm nhiều thỏi kim loại và đồ nữ trang, tổng trọng lượng khoảng 14kg vàng.

Ngày 18/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh An Giang cho biết, đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và lệnh tạm giam đối với Hồ Văn Sơn, Nguyễn Tấn Phong, Nguyễn Hoài Tâm, Nguyễn Xuân Kiếm và Lý Thị Huệ để điều tra về hành vi "vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới".