Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945
thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo “Tuyên ngôn Độc lập”, và ngày
mùng 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, trước cuộc mít tinh của
hàng chục vạn người đủ các tầng lớp ở cả trong nước và nước ngoài, Chủ tịch Hồ
Chí Minh kính yêu thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập,
tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời,
- nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch
sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Với hệ thống lập luận ngắn gọn, chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, chứa
đựng những nội dung bất hủ, một cơ sở pháp lý vững chắc không chỉ có giá trị lịch
sử, khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế
giới, mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên
con đường phát triển.
Tuyên ngôn Độc lập cũng là áng văn
chính luận giàu chất trí tuệ, chứa đựng những tư tưởng cao đẹp, giàu giá trị
nhân bản. Không khô khan, lý trí mà giàu cảm hứng, không bi lụy, cảm thương, mà
có giọng điệu hùng tráng quyết đoán, uyển chuyển, thuyết phục.
Bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam được hưởng tự do, độc lập
mà tự mình giành lại từ tay Nhật: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của
Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã dũng cảm đứng về phía Đồng minh chống phát
xít Nhật; dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập.... Và sự thật
đã thành một nước tự do độc lập”.
Không phải ngẫu nhiên Chủ tịch Hồ Chí
Minh mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của mình bằng những lý lẽ bất hủ của tổ tiên người
Mỹ và người Pháp được trích dẫn trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của họ. “Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Người lại viện dẫn từ bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Cách lập luận này vừa khéo léo lại vừa cương quyết. Khéo léo vì Bác cho người đọc
thấy rõ sự tôn trọng của mình đối với bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước
Mỹ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791.
Bản Tuyên ngôn chính thức chỉ ra một
chính quyền cách mạng mới của nhân dân Việt Nam được xây dựng và trưởng thành
theo đúng ý nguyện của mọi tầng lớp nhân dân và cả dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập khẳng định ý chí sắt
đá không gì lay chuyển nổi và đồng thời là triết lý nhân sinh vĩnh hằng của dân
tộc Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, khẳng định: “Không có gì quý
hơn độc lập tự do”.
Tuyên ngôn Độc lập là sản phẩm của sự
kết hợp các giá trị của truyền thống anh hùng, bất khuất và ý chí độc lập dân tộc
của Việt Nam với sứ mệnh cao cả của giai cấp vô sản được đề cập trong Tuyên
ngôn Đảng Cộng sản (năm 1848). Nó thể hiện rõ nét cách mạng Việt Nam là một bộ
phận hữu cơ của cách mạng thế giới và giai cấp vô sản Việt Nam là một bộ phận
không thể tách rời của giai cấp vô sản thế giới có sứ mệnh lịch sử cao cả và vĩ
đại là giải phóng dân tộc và nhân loại.
Bản Tuyên ngôn Độc lập là thể hiện
lòng trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác -Lênin của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bản Tuyên ngôn còn cho thấy Chủ tịch
Hồ Chí Minh có tầm nhìn chiến lược về sự phát triển của đất nước, có những dự
báo thiên tài về tương lai của cách mạng cũng như quá trình hội nhập sâu rộng của
Việt Nam vào phong trào cách mạng thế giới.
Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam), do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo và công bố trước toàn thể
nhân dân Việt Nam và thế giới cho thấy trí tuệ sắc sảo và lỗi lạc của Người.
Đây là kết quả của một quá trình tư duy khoa học độc đáo và thiên tài của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Điều đó càng khẳng định rõ ràng và nhất
quán một chân lý hết sức giản dị nhưng có tầm khái quát cao là: Tư tưởng và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh cũng như trí tuệ sắc sảo của Người mãi mãi soi sáng
đường chúng ta đi.
76 năm đã trôi qua, tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 đã trở thành sức mạnh
to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời
thề thiêng liêng trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất
cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế
giới và khu vực còn nhiều diễn biến rất phức tạp, khó lường, tác động trực tiếp
đến nước ta, tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng nặng
nề đến phát triển kinh tế xã hội. Toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực thực hiện
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh; bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét